Tải bản đầy đủ (.pdf) (156 trang)

Vai trò của nhà nước đối với việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.96 MB, 156 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=====================

TRƢƠNG THỊ THANH QUÝ

VAI TRÕ CỦA NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI VIỆC
CHĂM SÓC SỨC KHỎE CỘNG ĐỒNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=====================

TRƢƠNG THỊ THANH QUÝ

VAI TRÕ CỦA NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI VIỆC
CHĂM SÓC SỨC KHỎE CỘNG ĐỒNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số: 62.22.03.02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS,TS. Trần Phúc Thăng

Hà Nội - 2016




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu trong luận án là trung thực,
có nguồn gốc rõ ràng. Các kết luận trong luận án chưa
từng được công bố trên bất cứ một công trình nào khác.

Tác giả luận án

Trƣơng Thị Thanh Quý


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................5
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................... 5
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án ......................................................... 7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 7
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ............................................... 8
5. Đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận án .............................................. 8
6. Kết cấu tổng quát của luận án: ................................................................ 9
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI .....................................................................................................................10
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến sức khỏe cộng đồng và
những yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng ...................................... 10
1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận và thực trạng vai trò
của nhà nước đối với việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng ........................... 17
1.3. Những công trình nghiên cứu đề cập đến các giải pháp nâng cao vai trò
của nhà nước đối với việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng ........................... 26
Chƣơng 2: VAI TRÕ CỦA NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI VIỆC CHĂM SÓC SỨC

KHỎE CỘNG ĐỒNG - MỘT SỐ VẦN ĐỀ LÝ LUẬN ......................................37
2.1. Sức khỏe và chăm sóc sức khỏe cộng đồng ......................................... 37
2.1.1. Khái niệm sức khỏe .......................................................................................37
2.1.2. Sức khỏe cộng đồng và chăm sóc sức khỏe cộng đồng ..............................44
2.2. Vai trò của nhà nước đối với việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng ........ 48
2.2.1. Tính tất yếu của việc nhà nước thực hiện vai trò chăm sóc sức khỏe
cộng đồng ............................................................................................ 48
2.2.2. Nội dung và phương thức thực hiện vai trò của nhà nước đối với việc
chăm sóc sức khỏe cộng đồng ................................................................................53
2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của nhà nước đối với việc chăm sóc
sức khỏe cộng đồng .................................................................................. 61
2.3.1. Những yếu tố khách quan .............................................................................61
2.3.2. Những yếu tố chủ quan .................................................................................65
1


Chƣơng 3: VAI TRÕ CỦA NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI VIỆC CHĂM SÓC SỨC
KHỎE CỘNG ĐỒNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG, NGUYÊN
NHÂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ...............................................................70
3.1. Thành tựu và nguyên nhân những thành tựu của Nhà nước trong việc
thực hiện vai trò chăm sóc sức khỏe cộng đồng ......................................... 70
3.1.1. Thành tựu .................................................................................. 70
3.1.2. Nguyên nhân của những thành tựu ..............................................................88
3.2. Hạn chế và nguyên nhân những hạn chế của Nhà nước trong việc thực
hiện vai trò chăm sóc sức khỏe cộng đồng ................................................. 95
3.2.1. Hạn chế ..........................................................................................................95
3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế ...............................................................107
3.3. Những vấn đề đặt ra với Nhà nước trong việc thực hiện vai trò chăm sóc sức
khỏe cộng đồng ở nước ta hiện nay ............................................................................112
Chƣơng 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÕ CỦA

NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI VIỆC CHĂM SÓC SỨC KHỎE CỘNG ĐỒNG Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY................................................................................ 119
4.1. Những quan điểm cơ bản .................................................................. 119
4.2. Một số giải pháp chủ yếu ................................................................. 123
KẾT LUẬN ............................................................................................................143
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN ...............................................................................................................145
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................146

2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

CNH

Công nghiệp hóa,

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CTQG

Chính trị Quốc gia

GDP

Tổng sản phẩm nội địa


HĐH

Hiện đại hóa

KTTT

Kinh tế thị trường

Nxb

Nhà xuất bản

Tr

Trang

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

WHO

Tổ chức Y tế thế giới

WTO

Tổ chức Thương mại thế giới

3



DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Hình 3.1: Tổng chi công cho y tế tính theo % tổng chi ngân sách nhà nước và theo
GDP quốc gia ............................................................................................................76
Hình 3.2. Tài chính y tế tính theo đầu người ............................................................77
Hình 3.3: Bao phủ bảo hiểm y tế từ 1993 đến 2013 .................................................78
Hình 3.4: Thay đổi về nhân lực y tế từ 1985 đến 2012 .............................................80
Hình 3.5: Tỷ lệ bác sĩ và dược sĩ có trình độ đại học trở lên trên một vạn dân ........81
Hình 3.6: Tỷ lệ trạm y tế có bác sĩ sản nhi hoặc hộ sinh .........................................81
Hình 3.7: Chi công và tư cho y tế từ 1995 đến 2012 ................................................99
Hình 3.8: Tỷ lệ chi tiền túi của hộ gia đình cho y tế ...............................................100
Hình 3.9: Chi y tế trung bình của hộ gia đình 2002 đến 2010 ................................100

4


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bước vào thế kỉ XXI, con người trở thành mục tiêu quan trọng của sự phát
triển xã hội. Do vậy, vấn đề con người, tâm lý con người, tiềm năng con người và
sức khỏe con người, nguồn lực con người lại nổi lên mạnh mẽ. Hầu hết các quốc gia
trên thế giới đều đặt con người vào vị trí trung tâm, thậm chí coi phát triển con
người là cốt lõi của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội. Cộng đồng quốc tế và công
ước quốc tế đều cho sức khỏe là một trong những “nhu cầu cơ bản bậc nhất” của
cuộc sống con người, và cao hơn nữa sức khỏe được xem là một trong những quyền
con người, có nghĩa là sức khỏe của mỗi người được tôn trọng, mỗi cá nhân và nhà
nước phải có trách nhiệm thực hiện quyền này. Chính phủ các nước đã xây dựng
chính sách trong cung ứng dịch vụ y tế bằng việc tạo lập các cơ hội bình đẳng, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong nền kinh tế và khuyến khích
cạnh tranh lành mạnh trong việc cung ứng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe đã góp

phần nâng cao hiệu quả, cải thiện chất lượng dịch vụ y tế và đảm bảo sự bình đẳng
trong tiếp cận các nguồn lực và tạo thêm nhiều cơ hội lựa chọn và tiếp cận các dịch
vụ y tế của người dân.
Khẳng định con người, sức khỏe con người luôn là vấn đề trọng tâm, nóng
bỏng của hiện thực xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “… con người là chủ
thể, nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển”[42, tr.30]. Xuất phát từ quan
điểm đó, sức khỏe con người, sức khỏe cộng đồng luôn được hết sức chú trọng. Đại
hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nhấn mạnh: “phát triển mạnh sự
nghiệp y tế, nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân”[42, tr.128].
Coi công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng là nhiệm vụ và trách nhiệm của Nhà
nước và các tổ chức xã hội, trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, quyết định nhất.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường (KTTT) ở nước ta hiện nay, việc xây
dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách cũng như tổ chức thực hiện trong ứng dịch
vụ chăm sóc sức khỏe thích ứng với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa có ảnh hưởng rất lớn tới mọi mặt của đời sống xã hội, góp phần nâng cao
chất lượng cuộc sống và sức khỏe của nhân dân.
5


Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước Việt Nam đã
đạt được những kết quả đáng ghi nhận trong công tác chăm sóc sức khỏe cộng
đồng. Tuy nhiên, trước nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân ngày càng cao và
đa dạng, vai trò của Nhà nước trong chăm sóc sức khỏe nhân dân còn bộc lộ nhiều
hạn chế: Hệ thống chính sách và cơ chế cung ứng dịch vụ y tế ở Việt Nam hiện nay
còn rất nhiều vấn đề bất cập, nguồn lực đầu tư lớn nhưng hiệu quả sử dụng nguồn
lực này để cung ứng dịch vụ chăm sóc sức khỏe chưa đáp ứng được yêu cầu thực
tiễn đặt ra. Ngành y tế Việt Nam chưa đáp ứng đủ cả về số lượng và chất lượng dịch
vụ chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng. Khả năng tiếp cận của người dân đối với dịch
vụ y tế là rất khó khăn, nhất là người nghèo, cận nghèo và dân cư vùng sâu, vùng
xa. Sự bất bình đẳng trong việc cung ứng và thụ hưởng các dịch vụ y tế có xu

hướng gia tăng. Sự thay đổi mô hình và cơ cấu bệnh tật theo hướng gia tăng các
bệnh không lây nhiễm và tai nạn thương tích, trong khi tỷ lệ mắc một số bệnh
truyền nhiễm vẫn còn cao. Cơ chế chính sách trong quản lý điều hành lĩnh vực y tế
còn nhiều bất cập. Hệ thống thông tin quản lý về y tế còn thiếu đồng bộ, trùng chéo.
Hệ thống quản lý chất lượng dịch vụ y tế cũng như thanh tra chất lượng dịch vụ y tế
ở cả khu vực nhà nước và tư nhân còn yếu. Công tác quản lý giá thuốc tại các bệnh
viện còn nhiều bất cập đẩy giá thành thuốc tăng cao tạo áp lực về phí bệnh viện cho
người bệnh…
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng kể trên. Ngoài những nguyên
nhân quan trọng bắt nguồn từ nguồn gốc lịch sử phát triển của hệ thống y tế, trình
độ non yếu về cơ sở vật chất và chuyên môn của đội ngũ cán bộ y tế, một nguyên
nhân không kém phần quan trọng đó là chính sách, cơ chế cung ứng và việc tổ chức
thực hiện các cơ chế chính sách để nhân dân tiếp cận dịch vụ y tế ở Việt Nam hiện
nay còn nhiều bất cập.
Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là Nhà nước phải phát huy vai trò chủ đạo của
mình như thế nào để bảo đảm quyền được chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của nhân dân.
Trong những năm qua, ở nước ta và trên thế giới đã có nhiều công trình, đề tài
nghiên cứu về sức khỏe cộng đồng dưới nhiều góc độ khác nhau và có những giá trị

6


đáng kể. Tuy nhiên, dưới góc độ triết học, nghiên cứu về vai trò của Nhà nước đối
với việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng nhằm phục vụ sự nghiệp chăm sóc sức khỏe
con người Việt Nam chưa có nhiều và đang là vấn đề có tính cấp thiết cần được
quan tâm nghiên cứu. Đây là vấn đề cơ bản cần được nhận thức và giải quyết trên
cả phương diện lý luận và thực tiễn.
Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Vai trò của Nhà nƣớc đối với
việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án Tiến
sĩ Triết học của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1- Mục đích
Trên cơ sở lý luận về sức khỏe cộng đồng, vai trò của nhà nước và thực trạng
vai trò của Nhà nước Việt Nam trong việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng, luận án đề
xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc
chăm sóc sức khỏe cộng đồng ở Việt Nam hiện nay.
2.2- Nhiệm vụ
Để đạt mục đích nêu trên, từ góc độ triết học, luận án có những nhiệm vụ chủ
yếu sau:
Một là, làm rõ một số vấn đề lý luận về sức khỏe cộng đồng và vai trò của nhà
nước trong việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Hai là, phân tích thực trạng vai trò của Nhà nước trong việc chăm sóc sức
khỏe cộng đồng ở Việt Nam hiện nay và một số vấn đề đặt ra.
Ba là, đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò
của Nhà nước trong việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1- Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu vai trò của nhà nước đối với việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng
ở Việt Nam hiện nay từ góc độ triết học.
3.2- Phạm vi nghiên cứu
Chăm sóc sức khỏe cộng đồng bao quát rất nhiều phương diện khác nhau, từ
đời sống vật chất đến đời sống tinh thần, từ điều kiện ăn, mặc ở đến môi trường
7


sống… Trong giới hạn của đề tài, luận án không có điều kiện nghiên cứu tất cả
những phương diện trên mà chỉ tập trung nghiên cứu vai trò của Nhà nước trong
việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng trên phương diện y tế, thông qua việc ban hành
khung khổ pháp lý, xây dựng mạng lưới y tế, đầu tư ngân sách, xây dựng và sử dụng
nguồn nhân lực, kiểm tra, giám sát xử lí vi phạm, tuyên truyền, vận động, cũng như

huy động các nguồn lực trong và ngoài nước vào công tác chăm sóc sức khỏe cộng
đồng trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1- Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chăm sóc sức khỏe
cộng đồng, đồng thời luận án cũng kế thừa các công trình nghiên cứu về những vấn
đề liên quan đến đề tài ở những góc độ khác nhau đặc biệt là triết học, y tế , xã hội
học và một số văn bản quốc tế có liên quan…
4.2- Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp của khoa học chung như: phân tích, tổng
hợp, diễn dịch - quy nạp, trừu tượng hóa, cụ thể hóa, khái quát hóa, so sánh ... nhằm
thực hiện mục đích và nhiệm vụ mà luận án đặt ra.
5. Đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa của luận án
5.1- Đóng góp mới về khoa học
- Luận án góp phần làm rõ quan điểm mác xít về vai trò của nhà nước đối với
việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng trong điều kiện KTTT định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN) ở Việt Nam.
- Luận án góp phần làm rõ một số ưu điểm và hạn chế trong việc chăm sóc sức
khỏe cộng đồng của Nhà nước Việt Nam hiện nay và một số vấn đề đang đặt ra.
- Luận án luận chứng, đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao
vai trò của Nhà nước đối với việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng trong điều kiện
phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
8


5.2- Ý nghĩa lý luận và thực tiễn cuả luận án
- Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần làm rõ thêm chức năng xã hội của nhà nước trong điều kiện

phát triển KTTT định hướng XHCN.
- Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình giảng dạy
vấn đề nhà nước trong triết học; triết học trong các trường y, dược; một số chuyên
đề của chủ nghĩa xã hội khoa học trong chương trình Những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác-Lênin dành cho các trường cao đẳng, đại học ở nước ta và góp phần
làm cơ sở lý luận cho việc xác định một số nhiệm vụ của ngành y tế Việt Nam.
6. Kết cấu tổng quát của luận án:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4
chương, 12 tiết.

9


Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Ở nước ta, trong thời kỳ đổi mới, phát triển KTTT định hướng XHCN, Đảng
hết sức chú trọng nhiệm vụ xây dựng, kiện toàn Nhà nước và khẳng định rõ chủ
trương: “Tiếp tục đẩy mạnh và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm
Nhà nước ta thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”[42,
tr.246]. Trong thực tiễn đổi mới, chúng ta nhận thức rằng phát triển xã hội và quản
lý xã hội đều vì hạnh phúc con người, phục vụ con người. Trong quá trình ấy, Nhà
nước có vai trò nòng cốt, là người xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách, pháp
luật, chiến lược và các chương trình quốc gia về việc huy động, quản lý và phân
phối các nguồn lực vật chất, nâng cao chất lượng các dịch vụ giáo dục, y tế và tạo
điều kiện để toàn xã hội, đặc biệt là các đối tượng chính sách, người nghèo được
hưởng các thành quả đó, cũng như được chăm sóc sức khỏe một cách tốt nhất.
Trước yêu cầu đó, việc đẩy mạnh nghiên cứu lý luận về chăm sóc sức khỏe
cộng đồng và đặc biệt là vai trò của nhà nước đối với chăm sóc sức khỏe cộng
đồng đang được đặt ra cấp thiết. Trong những năm qua, có khá nhiều tác giả với

nhiều công trình nghiên cứu đã đưa ra những quan điểm lý luận ở các góc độ tiếp
cận khác nhau về chăm sóc sức khỏe cộng đồng và chức năng của nhà nước đối với
lĩnh vực y tế. Đã có nhiều đề tài khoa học, sách, tạp chí khoa học, kỷ yếu khoa học,
luận án, luận văn và bài viết cả trong và ngoài nước đề cập tới vấn đề này.
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến sức khỏe cộng đồng và
những yếu tố ảnh hƣởng đến sức khỏe cộng đồng
Có khá nhiều tác giả nghiên cứu những vấn đề liên quan đến sức khỏe cộng
đồng và các yếu tố tác động đến sức khỏe cộng đồng, trong số đó là:
Bài viết “Cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu khía cạnh xã hội của sức
khỏe, bệnh tật và y tế để đổi mới công tác chăm sóc sức khỏe, nâng cao chất lượng
cuộc sống dân cư”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 2/2003, trang 67-72 của tác giả
Trần Văn Thụy không chỉ đề cập đến quan niệm sức khỏe mà còn phân tích mối
quan hệ giữa sức khỏe và bệnh tật của con người trên cơ sở tư tưởng triết học Trung

10


Hoa cổ đại, Ấn Độ cổ đại, triết học Phương Tây từ thế kỉ XVII đến thể kỉ XIX. Tác
giả phân tích quan điểm của Ăngghen, coi bệnh tật là biểu hiện, là hậu quả trực tiếp
của việc chạy theo lợi nhuận bất chấp cả an toàn công nghiệp và chất lượng sản
phẩm. Bài viết phân tích định nghĩa sức khỏe của Tổ chức Y tế thế giới, từ đó
khẳng định sức khỏe, bệnh tật liên quan đến các yếu tố thể chất, tinh thần và xã hội,
tác giả phân tích thực trạng và những thách thức của nền y tế Việt Nam. Tác giả
khẳng định: “Mục tiêu nghiên cứu khía cạnh xã hội của sức khỏe, bệnh tật và y tế
nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách và quản lý ngành y tế soạn ra được những
biện pháp ngăn chặn những ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe công dân, xây dựng
hệ thống y tế phù hợp nhằm bảo vệ và tăng cường sức khỏe, kéo dài tuổi thọ và khả
năng sáng tạo của mỗi thành viên trong xã hội”[96, tr.71].
Bài “Vấn đề môi trường và sức khỏe cộng đồng trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Lý luận chính trị(2), tr.77-80, năm 2007 của tác giả Đỗ

Văn Thống cho rằng, quá trình công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH), nhất
là ở nông thôn cùng với việc xuất hiện nhiều làng nghề, một mặt đã cải thiện đáng
kể đời sống vật chất của người dân. Mặt khác, việc khai thác, tiêu hủy các cánh
rừng tự nhiên, chất thải độc hại không được xử lý, ô nhiễm môi trường đã tác động
rất lớn đến đời sống và sức khỏe của nhân dân. Từ việc khảo sát thực trạng sức khỏe
người dân từ các làng nghề ở nông thôn Việt Nam, tác giả đưa ra những dẫn chứng
và khẳng định, sức khỏe cộng đồng ở những làng nghề rất đáng lo ngại, họ thường
gặp một số bệnh dị ứng, bệnh liên quan đến hô hấp, mắt, cơ khớp, xương…. “Kết
quả nghiên cứu cho biết hiện nay môi trường không khí ở các khu vực đô thị và các
khu công nghiệp đang bị ô nhiễm nặng ảnh hưởng lớn tới sức khỏe con người”[94,
tr.79]. Những thách thức về môi trường và sự phát triển bền vững là không nhỏ
trong giai đoạn phát triển mới của Việt Nam. Nhà nước có trách nhiệm giải quyết
vấn đề này nhằm bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Cuốn sách “Sức khỏe toàn cầu” Nxb Y học, năm 2008 do Nguyễn Thị Kim
Chúc(dịch), đã phân tích các khái niệm sức khỏe và các yếu tố kinh tế-xã hội ảnh
hưởng và tác động rất lớn đến tình trạng sức khỏe của người dân ở mỗi quốc gia:

11


thu nhập, công bằng, về hỗ trợ giáo dục, văn hóa, dân tộc, thực phẩm, điều kiện vệ
sinh, các yếu tố môi trường, hành vi và đặc biệt là dịch vụ y tế. Tác giả của cuốn
sách khẳng định muốn nâng cao sức khỏe cộng đồng cần tác động vào nhiều yếu tố
trên. Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ ra rằng không phải cứ chi tiêu nhiều thuốc có nghĩa
là sẽ dẫn đến sức khỏe cộng đồng tốt, “Nhật Bản chi 6,5% GDP cho chăm sóc sức
khỏe, trong khi Mỹ chi tiêu nhiều gấp đôi. Nhưng người Mỹ vẫn có tuổi thọ trung
bình thấp hơn người Nhật”[23, tr.311] và khẳng định “có nhiều bằng chứng về
phương thức tốt nhất sử dụng tiền và nguồn lực trong lĩnh vực y tế hơn là phương
thức phân phối nguồn lực tối ưu nhất cho y tế”[23, tr.312]. Trên cơ sở phân tích các
yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe, tác giả cho rằng, việc chi nhiều cho y tế không

đồng nghĩa với việc sẽ đem lại sức khỏe tốt nhất cho cộng đồng, mà cần phải tác
động một cách đồng thời vào các yếu tố trên, hơn nữa là cần phải sử dụng nguồn
lực ấy như thế nào, tức là phân phối nguồn lực ấy một cách tốt nhất, hợp lý nhất
mới có thể đem lại hiệu quả cao nhất. Quan trọng hơn là phải xây dựng một chính
sách hợp lý cho việc xây dựng hệ thống y tế của mỗi nước.
Cuốn sách “Chi phí y tế và đói nghèo ở Việt Nam”, Nxb Lao động, năm 2012
của tập thể tác giả do Đào Văn Dũng (chủ biên) đã nêu các yếu tố ảnh hưởng đến
chi phí y tế của cộng đồng: chính sách, cung ứng dịch vụ y tế…; thực trạng chăm
sóc sức khỏe người nghèo trên thế giới và ở Việt Nam. Đồng thời, nêu lên sự
khác biệt giữa chi phí y tế với các dịch vụ khác, việc không được “mặc cả”, tâm
lý “còn nước còn tát” khi bị bệnh, chi phí y tế cao làm cho những người nghèo
càng nghèo hơn, người cận nghèo rơi xuống nghèo đói. Trong khi nguồn lực cho
y tế còn hạn hẹp thì việc nghiên cứu chi phí y tế có ý nghĩa quan trọng, vừa góp
phần nâng cao hiệu quả công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, vừa góp phần
củng cố, nâng cao chất lượng, hiệu quả của hệ thống y tế. Từ đó, tác giả phân
tích một số giải pháp nhằm hạn chế tác động của chi phí y tế lên tình trạng nghèo
hóa: hỗ trợ người dân phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo; hỗ trợ tài chính
trực tiếp cho người sử dụng dịch vụ y tế; tăng cường củng cố cả về cơ sở vật
chất, trang thiết bị, cán bộ y tế cho các cơ sở y tế đặc biệt ở tuyến xã để người
dân tiếp cận dễ dàng với các dịch vụ y tế….
12


Cuốn sách “Công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe nhân dân”, NXB
CTQG, Hà Nội, năm 2012 của tác giả Đào Văn Dũng nêu khái niệm sức khỏe, yếu
tố tác động tới sức khỏe, khái niệm chăm sóc sức khỏe. Tác giả không phân tích
một cách trực diện vai trò của Nhà nước đối với việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng
mà tiếp cận ở một góc độ khác tới vấn đề này. Có thể nói chăm sóc sức khỏe nhân
dân chỉ được coi là hoàn thiện khi quốc gia đó tạo điều kiện cho đông đảo người
dân tiếp cận được với các dịch vụ y tế. Tác giả chỉ ra sự khác biệt của công tác xã

hội trong chăm sóc sức khỏe là hoạt động cung cấp dịch vụ trong chăm sóc sức
khỏe cho người bệnh, nhóm người bệnh, gia đình người bệnh, cộng đồng dân cư là
những đối tượng bị tổn thương về mặt thể chất, tâm lý, xã hội. Những đối tượng này
gặp vấn đề với các cơ sở y tế, và họ không tự hòa nhập được với cộng đồng trong
chăm sóc sức khỏe. Với phương thức hoạt động như vậy, có thể nói công tác xã hội
trong chăm sóc sức khỏe đang chia sẻ trách nhiệm của Nhà nước đối với nhân dân
trong lĩnh vực y tế.
Cuốn sách “Y xã hội học và xã hội học về sức khỏe”, Nxb CTQG, Hà Nội,
năm 2013 của tác giả Đào Văn Dũng và Đỗ Văn Dung (đồng chủ biên), trên cơ sở
phân tích khái niệm sức khỏe bằng cách tiếp cận khái niệm này dưới nhiều góc độ:
Triết học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, tư tưởng Hồ Chí Minh,
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), các tác giả nêu khái niệm sức khỏe cộng đồng và
khẳng định có 3 nhóm cơ bản: yếu tố sinh học, yếu tố thiên nhiên khí hậu và các
yếu tố kinh tế-xã hội quyết định đến sức khỏe cộng đồng. Từ đó, đi đến phân tích
bối cảnh tác động đến chăm sóc sức khỏe cộng đồng trong điều kiện KTTT định
hướng XHCN ở nước ta hiện nay, phân tích những thời cơ, thuận lợi: Đảng và Nhà
nước đặc biệt quan tâm đến chăm sóc sức khỏe nhân dân; kinh tế phát triển, có điều
kiện đầu tư cho chăm sóc sức khỏe; giáo dục và đào tạo góp phần nâng cao dân trí,
tăng cường hiểu biết về chăm sóc sức khỏe trong nhân dân, đội ngũ cán bộ y tế ngày
càng đông đảo với trình độ ngày càng cao; mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực y
tế…cũng như những thách thức, khó khăn đối với chăm sóc sức khỏe cộng đồng:
lúng túng và thiếu triệt để trong thực hiện các chính sách trong lĩnh vực y tế; phân
hóa giàu nghèo; cơ cấu bệnh tật có nhiều thay đổi; nhu cầu và chi phí chăm sóc sức
13


khỏe tăng trong khi tỷ lệ chi tiêu công cho y tế còn hạn chế; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm
y tế thấp… Bên cạnh đó, cuốn sách chỉ ra khái niệm những nội dung của chăm sóc
sức khỏe nhân dân, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến tiêu chí công bằng trong chăm
sóc sức khỏe, công bằng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân ở Việt Nam và trên thế

giới; mối quan hệ và ảnh hưởng của chi phí y tế và đói nghèo. Từ đó, các tác giả đã
phân tích tác động của các chính sách nhằm hỗ trợ người nghèo trong khám chữa
bệnh và đưa ra các giải pháp đảm bảo công bằng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Luận án Triết học “Khía cạnh triết học-xã hội của vấn đề sức khỏe và chăm
sóc sức khỏe ở Việt Nam hiện nay”, Viện Triết học, Hà Nội, năm 1996 của tác giả
Nguyễn Hiền Lương đã làm sáng tỏ khía cạnh triết học xã hội của vấn đề sức khỏe
và lĩnh vực chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam hiện nay cả từ góc độ tiếp cận lẫn giải
pháp. Tác giả đã phân tích những quan niệm khác nhau trong lịch sử về sức khỏe và
những thay đổi bệnh tật trong tiến trình lịch sử, những yếu tố ảnh hưởng đến sức
khỏe và những giải pháp nhằm chăm sóc sức khỏe con người ở Việt Nam.
Luận án Tiến sĩ triết học “Ảnh hưởng của yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội
đến sức khỏe con người và vấn đề nâng cao sức khỏe con người ở Việt Nam hiện
nay” (2013), Đại học Quốc gia Hà Nội của Trần Quang Tuynh đã phân tích rất sâu
yếu tố tự nhiên, yếu tố xã hội và vai trò của hai yếu tố này đối với sức khỏe con
người, đặc biệt, khẳng định yếu tố xã hội: hệ thống y tế, chính sách y tế và nhân lực
y tế là những nhân tố quan trọng tác động rất lớn đến sức khỏe cộng đồng. Từ góc
độ triết học, tác giả khẳng định, muốn nâng cao sức khỏe con người Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay, cần sử dụng đồng bộ nhiều giải pháp: tổ chức tốt mạng lưới y tế
theo chức năng, nhiệm vụ mới; đổi mới cơ chế hoạt động, nhất là cơ chế tài chính
của các cơ sở y tế theo hướng tự chủ, công khai, minh bạch; đổi mới và tăng cường
vai trò của Nhà nước đối với hệ thống y tế; hoàn thiện hệ thống chính sách y tế;
chú trọng tới đội ngũ cán bộ y tế về số lượng và chất lượng….
Không chỉ ở Việt Nam, nhiều tác giả trên thế giới đã sớm bàn đến lý luận về
sức khỏe và những nhân tố tác động đối với chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Trong
tác phẩm “On the structural constrains to state Intervention in Health”,
Internationnal Journal of Health services, năm 1975 của Renaud đã giải thích việc
14


chăm sóc và chữa bệnh trong xã hội Phương Tây như là một bộ phận của phương

thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Rằng phương thức hành động của y học cận đại là
hợp pháp hóa nó trong mục đích là tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế. Với
ngành y học, việc chăm sóc sức khỏe đã lớn mạnh thành một ngành công nghiệp
đóng góp cho việc duy trì tính hợp pháp của trật tự xã hội, cũng như góp phần tạo ra
một lĩnh vực sản xuất mới[115, tr.546]. Theo tác giả, bệnh tật và cả những cách
chữa trị của nó, vốn là những hành động chính trị. Bởi vì, mỗi giai đoạn trong sự
phát triển của nền kinh tế lại tạo ra những điều kiện cho sự phát triển những bệnh tật
đặc thù và cũng đưa ra một cách chữa bệnh đặc thù.
Cuốn “Sociology”, Nxb New York năm 1987 của tác giả Ian Robeetson cho
rằng, giữa thế kỉ XIX, thuyết Vi trùng học của Louis Pasteur thực sự là một cuộc
cách mạng trong lĩnh vực y học. Nó chấm dứt cách nhìn siêu thực về bệnh tật, mở
ra một khả năng nghiên cứu về sức khỏe không phải chỉ từ phía các bác sĩ, mà từ cả
các nhà tâm lý học, tâm thần học, nhân chủng học và các nhà văn hóa[114, tr.432].
Thuyết Vi trùng học là cơ sở khoa học cho việc xem xét bệnh tật và sức khỏe trong
mối quan hệ với các nhân tố xã hội và văn hóa trong nhiều thập kỉ giữa thế kỷ XIX.
Tiếp đó, tác giả cũng đưa ra thuyết xung đột về y học và sức khỏe, trong đó nhấn
mạnh rằng, sự không bình đẳng trong xã hội ảnh hưởng rất lớn đến mô hình bệnh
tật và chăm sóc sức khỏe. Sự mất cân đối, không bình đẳng về sức khỏe chính là
hậu quả của phân tầng xã hội, sự phân biệt chủng tộc và giai cấp. Sức khỏe cũng là
một nguồn giá trị như mọi nguồn giá trị khác, còn hệ thống chăm sóc sức khỏe thì
được hình thành trên cơ sở sự chạy đua của con người để dành lấy sức khỏe tốt. Hệ
thống này có thể là giảm bớt hoặc giữ nguyên, hoặc làm tăng lên những bất bình
đẳng về sức khỏe vốn đã có trong xã hội [114, tr.493-450]. Dựa trên quan điểm này,
các nhà dịch tễ học ở Phương Tây thời kì đó đã kết luận rằng các loại bệnh của
người da đen ở Mỹ đều bắt nguồn từ sự định kiến và tệ phân biệt chủng tộc. Quan
điểm xung đột về y tế, về sức khỏe và bệnh tật cho đến nay vẫn còn được sử dụng
rộng rãi ở Mỹ và một số nước Tây Âu.
“The solid facts; Social determinants of health” của tác giả Richard Wilkison
và Micheal Marmot, năm 1998 đã phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe.
15



Trong công trình nghiên cứu của mình, tác giả cho rằng, để tăng cường sức khỏe,
ngoài việc đảm bảo mọi điều kiện cuộc sống, sinh hoạt xã hội như: đô thị, trường
học, chỗ làm, cộng đồng nhà ở… thì các chính sách và giải pháp về sức khỏe phải
được xây dựng theo hướng tác động đến các yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe nhằm
giải quyết những nguyên nhân gây bệnh trước khi xảy ra vấn đề. Cần có những
chính sách hỗ trợ thu nhập, chính sách can thiệp của y tế công cộng nhằm loại bỏ
những rào cản tiếp cận dịch vụ y tế…Đây là một nhiệm vụ khó khăn cho cơ quan
các cấp, các tổ chức y tế công cộng.
Cuốn sách “Social and cultural contribution to health, diference and
inequality”, Social Medicine Reader Vol 2, pp.4-26, 2005 của tác giả Sue E. Estroff
và Gail E. Henderson đã phân tích và khẳng định văn hóa, sức khỏe và bệnh tật có
mối quan hệ với nhau. Mối quan hệ này đã tạo ra và sẽ tiếp tục tạo ra những thách
thức đòi hỏi các thầy thuốc cần phải có kiến thức sâu rộng cũng như các nhà quản
lý, những nhà hoạch định chính sách phải có cái nhìn tổng thể, đa ngành, đa chiều
nhằm tiếp tục cải thiện sức khỏe cá nhân và cộng đồng.
Từ các góc độ khác, còn có nhiều bài viết bàn đến vấn đề sức khỏe, hướng
tiếp cận những yếu tố ảnh hưởng đến chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam: “Nhân học y
tế- hướng tiếp cận nghiên cứu về chăm sóc sức khỏe cộng đồng ở các vùng dân tộc
người thiểu số Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa”của tác giả Nguyễn Thị
Thanh Vân trong Kỷ yếu Tọa đàm khoa học “Nhân học trong bối cảnh toàn cầu
hóa” năm 2013 tổ chức tại Trường Đại học KHXH&NV, Thành phố Hồ Chí Minh.
“Cơ sở lý luận quan điểm sức khỏe là vốn quý”, Tạp chí Công tác Khoa giáo, số 5
năm 2003. “Mấy vấn đề công bằng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe ở nước ta hiện
nay”, Tạp chí Triết học, số 8/2003, tr48-52 của tác giả Lê Hồng Khánh, “Nghiên
cứu tình trạng sức khỏe và các nhu cầu tác động đến sức khỏe của người cao tuổi
tại huyện An Hải, Hải Phòng” Luận án Tiến sĩ Y học, Đại học Y Hà Nội, năm 2005
của Đặng Xuân Tín, “Toàn cầu hóa và một số ảnh hưởng đến chăm sóc sức khỏe
người lao động”, Nxb Y học, Hà Nội, năm 2005 của tác giả Nguyễn Thị Hồng Tú

…đã đi sâu vào nghiên cứu vấn đề sức khỏe ở nhiều khía cạnh khác nhau.

16


1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận và thực trạng
vai trò của nhà nƣớc đối với việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng
Trên thế giới, đối với cả những nước phát triển và đang phát triển, vấn đề
chức năng xã hội của nhà nước được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau: kinh tế,
pháp luật, chính trị, văn hóa…. Không chỉ dừng lại ở đó, ngày nay, chức năng xã
hội của nhà nước còn thể hiện ở nhiều phương diện khác, phong phú và đa dạng
hơn: thiết lập hệ thống bảo hiểm, an sinh, phúc lợi xã hội, giải quyết việc làm, giảm
thất nghiệp…đặc biệt, trong lĩnh vực y tế nhằm bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho
nhân dân. Đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này:
Trong cuốn sách “Vai trò của Nhà nước trong cung ứng dịch vụ công-nhận
thức, thực trạng và giải pháp”, Nxb Văn hóa-Thông tin, Hà Nội, năm 2002 của tập
thể tác giả do Nguyễn Ngọc Hiến chủ biên gồm nhiều bài viết bàn về dịch vụ công,
đã luận giải vai trò của nhà nước trong cung ứng các dịch vụ công như: giáo dục; y
tế… xuất phát từ chức năng của nhà nước. Trong công trình này, có nhiều bài viết
của các nhà khoa học có liên quan đến đề tài luận án:
Bài viết “Dịch vụ công và vai trò của Nhà nước trong cung ứng dịch vụ
công” (trang 9-20) của tác giả Nguyễn Ngọc Hiến khẳng định, xuất phát từ chức
năng phục vụ, Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm cung ứng cho nhân dân những
dịch vụ công cộng, thiết yếu, tối cần thiết của cả cộng đồng: y tế, giáo dục…bởi
những dịch vụ này tư nhân không muốn cung ứng vì không có lợi nhuận hoặc
không đủ quyền lực và vốn liếng để tổ chức cung ứng (tiêm chủng, cứu hỏa, an
ninh…). Tác giả nhấn mạnh: “Cũng có những loại dịch vụ mà tư nhân có thể cung
cấp, nhưng cung cấp không đầy đủ, hoặc thị trường tư nhân tạo ra sự bất bình đẳng,
gây ra tình trạng độc quyền, đẩy giá lên cao, làm ảnh hưởng tới lợi ích người tiêu
dùng như: dịch vụ y tế, giáo dục, điện nước, sinh hoạt…Khi đó, Nhà nước phải có

trách nhiệm cung ứng, hoặc điều tiết, kiểm soát thị trường tư nhân”[52, tr.13]. Ngay
cả khi Nhà nước chuyển giao cho tư nhân cung ứng, thì Nhà nước vẫn có vai trò
điều tiết đặc biệt đảm bảo sự công bằng trong phân phối các dịch vụ công, nhằm
khắc phục các khiếm khuyết của thị trường.

17


Bài viết “Vai trò của Nhà nước trong cung ứng dịch vụ chăm sóc sức
khỏe”(trang 154) của Dương Huy Liệu và Nguyễn Quang Cừ cho rằng, nếu coi việc
chăm sóc sức khỏe là quyền được hưởng của mỗi người giống như quyền sống của
mỗi dân tộc, thì nhà nước phải có trách nhiệm chính trị đối với việc chăm sóc sức
khỏe cho công dân của mình. Nền tảng của trách nhiệm đó là chủ nghĩa nhân đạo, là
triết lý công bằng xã hội: “Bất cứ một quốc gia nào trên thế giới cũng chỉ có nguồn
tài chính và nhân lực nhất định cho chăm sóc sức khỏe. Mọi ước muốn và nhu cầu
của con người về vấn đề này không thể thỏa mãn hết được”[52, tr.155]. Vì vậy, mỗi
quốc gia phải quyết định một chiến lược để khai thác, phân bổ nguồn lực và dịch vụ
ấy theo mục tiêu: công bằng và hiệu quả, nâng cao được sức khỏe nhân dân. Trên
cơ sở khảo sát kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới (các nước đã phát triển, các
nền kinh tế đang chuyển đổi, các nước đang phát triển), các tác giả đề xuất một số
định hướng cung ứng dịch vụ công trong chăm sóc sức khỏe: Nhà nước phải có vai
trò quyết định thông qua đường lối, chiến lược, kế hoạch phát triển và quản lý hệ
thống y tế quốc gia, trong đó có cả công và tư; Nhà nước cần đầu tư để củng cố,
nâng cao chất lượng y tế huyện, xã, đặc biệt ở những vùng khó khăn để người
nghèo có thể tiếp cận được với các dich vụ chăm sóc sức khỏe; Nhà nước cần sớm
có chính sách lương cho cán bộ y tế một cách hợp lý, coi chính sách thu hút cán bộ
y tế vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa cũng chính là chính sách khuyến khích
nhằm nâng cao điều kiện tiếp cận, sự bao phủ và chất lượng dịch vụ chăm sóc sức
khỏe cho nhân dân; Tăng đầu tư y tế ở các tuyến; phát triển y tế tư nhân; phát triển
bảo hiểm y tế; tăng hợp tác quốc tế…

Bài viết “Đẩy mạnh xã hội hóa các dịch vụ y tế, giáo dục, khoa học”(trang
279) của Hà Quang Ngọc khẳng định Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Vì vậy, Nhà nước có trách nhiệm chăm
lo cho đời sống của nhân dân, đặc biệt là trong lĩnh vực y tế…Nhu cầu của nhân
dân ngày càng tăng, trong khi ngân sách nhà nước thì có hạn, do đó, giải pháp tháo
gỡ mâu thuẫn này đòi hỏi phải xã hội hóa, nhằm chia sẻ gánh nặng về tài chính:
“Việc đẩy mạnh và mở rộng xã hội hóa các hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, y tế,

18


giáo dục, khoa học có ý nghĩa quan trọng. Nó không chỉ làm giảm gánh nặng đối
với hoạt động của Nhà nước mà còn góp phần xây dựng và phát triển kinh tế- xã
hội, trực tiếp tham gia vào quá trình cải cách hành chính, xây dựng Nhà nước vững
mạnh”[52, tr.289]. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt đồng thời động viên mỗi người
dân, mỗi tổ chức doanh nghiệp và các tổ chức nước ngoài cùng tham gia vào giải
quyết các vấn đề xã hội. Tuy nhiên, sau một thời gian triển khai xã hội hóa trong
lĩnh vực y tế đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế, nguyên nhân không phải xuất phát từ
chủ trương mà do quá trình thực hiện. Từ đó, tác giả đề xuất những giải pháp tháo
gỡ những bất cập trên nhằm thúc đẩy dịch vụ y tế phát triển theo đúng chủ trương,
đường lối của Đảng và Nhà nước.
Bài “Đảm bảo tính công bằng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân” , Tạp chí
Cộng sản, số 31/2002, tr.10 của tác giả Phạm Mạnh Hùng cho rằng, để đảm bảo
được tính công bằng trong chăm sóc sức khỏe, hệ thống tài chính cần có hai yếu tố
cơ bản: Một là: Ngân sách nhà nước phải là nguồn kinh phí chính dành cho y tế;
Hai là: Nhà nước phải có chính sách và biện pháp hữu hiệu để tổ chức cho nhân
dân chi trả phần còn lại. Từ khảo sát thực trạng, tác giả chỉ rõ: chi tiêu công cho y tế
ở nước ta còn thấp, trong khi đó, việc tổ chức cho nhân dân chi trả phần còn lại
chưa được thực hiện tốt. Người dân chủ yếu chi trả thông qua viện phí trực tiếp cho
các cơ sở khám chữa bệnh. Tỷ lệ người dân có bảo hiểm y tế còn thấp. Do đó, hệ

thống tài chính y tế của nước ta hiện nay chưa đảm bảo được tính công bằng trong
chăm sóc sức khỏe. Đòi hỏi, Nhà nước cần từng bước tăng chi tiêu công cho y tế,
bên cạnh đó tổ chức tốt để người dân tự chi trả các phần còn lại (bằng hình thức bảo
hiểm y tế, quỹ khám chữa bệnh…) đồng thời quản lý tốt hệ thống y tế tư nhân và có
các giải pháp để giảm chi tiêu không cần thiết, chi tiêu bất hợp lý của người dân.
Theo tác giả: “Thực hiện tốt những định hướng này, hệ thống tài chính y tế Việt
Nam sẽ mang tính công bằng hơn, góp phần thực hiện mục tiêu: “công bằng”, “chất
lượng” và “hiệu quả”[56, tr.13] trong chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Bài viết “20 năm đổi mới của y tế Việt Nam”, của tác giả Phạm Mạnh Hùng.
Tạp chí Công tác Khoa giáo, số 1/2006, tr.38 nhấn mạnh quan điểm xuyên suốt và

19


nhất quan về chăm sóc sức khỏe nhân dân của Đảng và Nhà nước ta, đó là phấn đấu
xây dựng một nền y tế sao cho mọi người dân, không phân biệt giàu, nghèo, dân tộc
thiểu số hay đa số, nông thôn hay thành thị đều được tiếp cận với các dịch vụ chăm
sóc sức khỏe, kể cả trong phòng bệnh hay trị bệnh lẫn phục hồi chức năng. Tác giả
cũng khẳng định, để thực hiện được quan điểm đó, Nhà nước đã có những bước đột
phá trong đổi mới và quản lý y tế: coi trọng y tế cơ sở, từng bước hoàn thiện mạng
lưới y tế (coi y tế cơ sở là xương sống của y tế Việt Nam- bởi y tế thôn, bản, xã,
phường, huyện là tuyến y tế trực tiếp nhất, đảm bảo cho mọi người dân được chăm
sóc sức khỏe cơ bản với chi phí thấp nhất) góp phần thực hiện công bằng xã hội,
xóa đói giảm nghèo tạo niềm tin của nhân dân vào chế độ XHCN. Đối với nguồn
nhân lực, Nhà nước đã đẩy mạnh đào tạo nhân lực y tế; đề cao khoa học- công
nghệ, thông qua bước phát triển hệ thống nhà trường Y- Dược, chỉ đạo Bộ Y tế đưa
bác sĩ về công tác tại tuyến xã đã có những chuyển biến tích cực, tác động đến việc
đào tạo bác sĩ theo hướng cộng đồng. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng quan tâm đến
đổi mới cơ chế đầu tư tài chính cho y tế, từng bước hình thành bảo hiểm y tế và mở
rộng diện bao phủ qua mỗi năm, giải pháp viện phí đã tháo gỡ nhiều khó khăn cho

chi tiêu các dịch vụ y tế, nhất là khám chữa bệnh tại các bệnh viện….Bên cạnh
những kết quả đạt được, tác giả cũng chỉ ra những yếu kém và hạn chế: Chất lượng
dịch vụ y tế còn chưa đáp ứng với nhu cầu của nhân dân; hệ thống y tế chậm đổi
mới, chưa thích ứng với cơ chế thị trường định hướng XHCN và sự thay đổi của cơ
cấu bệnh tật; năng lực sản xuất và cung ứng thuốc thiết yếu còn thấp; công tác y tế
dự phòng còn nhiều bất cập; một bộ phận cán bộ y tế còn vi phạm đạo đức nghề
nghiệp, làm phai mờ lòng tin của nhân dân đối với ngành y tế….Theo tác giả,
nguyên nhân của thực trạng trên là do: quản lý Nhà nước trong lĩnh vực y tế còn
nhiều bất cập, chưa có hệ thống chính sách tài chính y tế đồng bộ; Đầu tư ngân sách
nhà nước cho y tế còn thấp, đặc biệt sử dụng kém hiệu quả; chưa thực sự huy động
được các nguồn lực từ cộng đồng; đội ngũ cán bộ y tế còn thiếu và yếu, chế độ đãi
ngộ chưa thỏa đáng; ngay cả lãnh đạo các cấp vẫn còn chưa có nhận thức đúng đắn
về sức khỏe và sự nghiệp chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

20


Luận án Chính trị học “Vai trò của Nhà nước đối với việc thực hiện công
bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta hiện nay”, Học viện Chính trị- Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm
2011 của Võ Thị Hoa phân tích cho chúng ta khái niệm công bằng xã hội, ở đó, Nhà
nước có vai trò đảm bảo công bằng xã hội cho mọi người dân về cơ hội và những
điều kiện để nắm bắt và tranh thủ cơ hội, biến cơ hội thành hiện thực để phát triển.
Từ đó, chỉ ra những thành tựu mà Nhà nước đã đạt được trong việc thực hiện công
bằng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân: các chính sách khám chữa bệnh miễn phí
cho người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, chính sách hỗ trợ viện phí, hỗ trợ bảo hiểm xã
hội cho hộ nghèo…được thực hiện khá tốt đem lại niềm tin cho nhân dân vào chế
độ. Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra những hạn chế trong vai trò của Nhà nước đối
với việc thực hiện công bằng xã hội trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe: Chính sách
phát triển y tế chưa đồng bộ, chưa thực sự chú ý hơn đến vùng sâu, vùng xa, vùng

đặc biệt khó khăn, quản lý, giám sát y tế tư nhân còn nhiều lúng túng, chế tài xử
phạt các sai phạm chưa cụ thể…gây thiệt hại cho người dân.
Bài viết “Củng cố và hoàn thiện y tế công, phát triển y tế tư trong các dịch
vụ chăm sóc sức khỏe, Tạp chí Tuyên giáo, số 7, năm 2012 của tác giả Phạm Mạnh
Hùng đã khảo sát thực trạng của của y tế công và y tế tư. Từ đó, đi đến khẳng định,
mặt được của y tế công là bảo đảm tính công bằng trong chăm sóc sức khỏe vì phân
bổ nguồn lực và tài chính nằm trong tay Nhà nước nên vùng nghèo bao giờ cũng
được quan tâm hơn. Cũng nhờ đó mà mạng lưới y tế cơ sở được hoàn thiện và củng
cố tạo điều kiện để các dịch vụ chăm sóc sức khỏe đến tới các vùng sâu, vùng xa,
vùng dân tộc thiểu số, vùng kinh tế khó khăn… Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới,
do việc chậm xác định rõ ràng một cơ chế tài chính trong y tế công nên chúng ta
lúng túng về nguồn thu bảo hiểm y tế, dẫn đến hiệu quả trong chăm sóc sức khỏe
cộng đồng còn hạn chế. Theo tác giả, để nâng cao vai trò của y tế công cần: Xác
định cơ cấu nguồn ngân sách nhà nước cho chăm sóc sức khỏe sao cho ngân sách
nhà nước chiếm ít nhất là trên 50% tổng chi xã hội cho y tế; Phân bổ ngân sách nhà
nước theo nhu cầu chăm sóc sức khỏe của từng vùng, miền; Thực hiện các chính

21


sách chăm sóc sức khỏe cho người nghèo, người có công với cách mạng…; Giải
quyết mối quan hệ giữa giá thành và giá; Giải quyết mối quan hệ giữa tự chủ về tài
chính và nhân lực tại các cơ sở y tế công lập trong việc quản lý chặt chẽ của Nhà
nước và sự minh bạch, công khai về tài chính; Tăng thu nhập cho cán bộ y tế, phát
triển bảo hiểm y tế toàn dân. Để phát huy tác dụng của y tế tư nhân, cần tránh:
khuynh hướng lệch lạc mà y tế tư nhân dễ vấp phải khi thực hiện cơ chế KTTT (lạm
dụng thuốc, kỹ thuật…gây lãng phí); ít quan tâm đến các vấn đề công bằng trong
chăm sóc sức khỏe. Cuối cùng, tác giả cho rằng xác định mối quan hệ giữa y tế
công và y tế tư là một nội dung cần thiết cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Luận án triết học “Vấn đề thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước Việt

Nam trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường hiện nay”, Học viện Chính trịHành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2012 của Dương Thị Thục Anh đã
luận giải chức năng xã hội của Nhà nước. Trên cơ sở phân tích quan điểm của Chủ
nghĩa Mác- Lênin, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về chức năng xã hội của
Nhà nước Việt Nam, Luận án đã đi vào khảo sát thực trạng việc thực hiện chức
năng xã hội của Nhà nước trong chính sách y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân và
chỉ ra một số thành tựu: hoạt động của Nhà nước trong công tác y tế có nhiều tiến
bộ, tạo điều kiện cho người dân được chăm sóc sức khỏe, có nhiều chính sách ưu
tiên đối với các đối tượng, đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa, người nghèo, người
thuộc diện chính sách, chỉ số sức khỏe cộng đồng được nâng lên…đồng thời cũng
chỉ ra những hạn chế của Nhà nước trong chăm sóc sức khỏe nhân dân: hệ thống y
tế chậm đổi mới; chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng nhu cầu của người dân; điều
kiện chăm sóc sức khỏe cho người nghèo, vùng sâu, vùng xa còn nhiều hạn chế; đầu
tư nhà nước và huy động nguồn lực xã hội cho phát triển y tế chưa hiệu quả; chính
sách sử dụng và đào tạo cán bộ y tế còn nhiều bất cập….Từ đó tác giả Luận án đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện
chức năng xã hội.
Bài viết “Hướng tới công bằng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân”, Tạp chí
Tuyên giáo, số 6 năm 2013, trang 68-70 của tác giả Đào Văn Dũng, Phạm Gia

22


×