Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Kinh tế nhật bản giai đoạn phát triển thần kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.57 KB, 12 trang )

Kinh tế Nhật Bản giai đoạn phát triển thần kỳ
NiLeHaiHUT November 20, 2015 Câu chuyện Nhật Bản, Lịch sử Nhật Bản Leave a comment 13,825 Views




Nhật Bản là một quốc đảo có diện tích 372.313km2. Năm 2005 Nhật Bản có số dân là
127.760.000 người và GDP/người là 37.800USD, có thủ đô là Tokyo. Nhật bản là một nước phát
triển và hiện nay là một siêu cường quốc về kinh tế, là một trong ba trung tâm tài chính lớn của
thế giới. Sự thành cơng của Nhật Bản trong q trình phát triển là vấn đề được nhiều người quan
tâm, bởi vì so với các nước khác Nhật bản bước vào xây dựng đất nước với những điều kiện
không thuận lợ: Nghèo tài nguyên, dân số đông, bước vào con đường tư bản chủ nghĩa muộn hơn
so với các nước Tây Âu và Hoa Kì, bị bại trận, đất nước bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh thế
giới thứ hai. Nhưng chỉ sau mấy thập niên đã phát triển, trở thành nước giàu có. Từ cuối thập 90
trở lại đây nền kinh tế liên tục bị suy giảm bởi nhiều lí do khác nhau ở trong và ngồi nước. Tuy
vậy, Nhật Bản vẫn là cường quốc thứ hai trên thế giới và là thành viên của nhóm G8. Q trình
phát triển nền kinh tế của Nhật Bản trãi qua nhiều giai đoạn khác nhau trong đó có giai đoạn phát
triển “thần kì”1951-1973 là quan trọng nhất là vì ở giai đoạn này nền kinh tế Nhật Bản đã phát
Triển với tốc độ cao, đời sống nhân dân được cải thiện… Dựa vào những lí do trên nên em đã
chọn đề tài “giai đoạn phát triển kinh tế “thần kì” 1951—1973 của Nhật Bản”. Để hiểu rõ hơn
chúng ta đi vào phần sau.


Muốn tìm hiểu nền kinh tế của một quốc gia, ngồi việc ta phải tìm hiểu điều kiện tự nhiên và
các vấn đề xã hội ta cịn phải tìm hiểu quá trình phát triển của nền kinh tế của quốc gia đó.
1. Sơ lược giai đoạn khơi phục kinh tế sau chiến tranh thế giới thứ hai (1946-1951).
Sau khi chiến tranh kết thúc, nền kinh tế bị lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng: năng
lượng thiếu, lạm phát nặng nề, 13,1 triệu người khơng có việc làm. Đất nước Nhật Bản bị quân
đội Mỹ chiếm đóng.
Ngay trong những năm đầu sau chiến tranh, dưới sự kiểm soát của quân đội Mỹ, một số cải cách
lớn về kinh tế-xã hội ở Nhật Bản được thực hiện:


-Giải thể các nhóm Zaibatsu nhằm tiêu diệt sức mạnh quân sự của Nhật Bản, xóa bỏ quyền kiểm
sốt của một số cơng ty lớn đối với nền kinh tế Nhật Bản. Cải tổ các cơng ty theo hướng phi tập
trung hóa. Biện pháp này tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ trong tất cả các ngành công nghiệp và
thúc đẩy cơ chế thị trường hoạt động mạnh, tự do hóa nền kinh tế.
-Cải cách ruộng đất, quy định địa chủ chỉ được giữ lại một phần ruộng đất nhất định, tối đa là 5
ha, sau giảm xuống còn 1 ha. Số còn lại Nhà nước sẽ mua lại và chuyển nhượng cho những nông
dân khơng có ruộng đất.
-Giải quyết vấn đề việc làm, cải thiện điều kiện làm việc, tăng lương cho công nhân. Để thực
hiện dân chủ hóa lao động, trong khoảng thời gian từ 1945-1947 có ba đạo luật được ban hành:


Luật cơng đồn (22/12/1945), Luật tiêu ch̉n lao động (7/4/10947) và Luật điều chỉnh các quan
hệ lao động.
Những cải cách trên đây tạo điều kiện cho Nhật Bản khôi phục kinh tế và chuyển hướng từ Nhà
nước quân sự sang Nhà nước hướng phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, trước năm 1948, việc khôi phục kinh tế diễn ra chậm chạp và khó khăn. Một mặt vì
nền kinh tế bị tàn phá nặng nề, thiếu vốn, nguyên liệu…, mặt khác, người Mỹ đã thực thi một
chính sách cứng rắn đối với Nhật Bản. Song từ tháng 10/1948, lập trường của người Mỹ đối với
Nhật Bản đã có sự thay đởi căn bản. Nhật Bản đã được Mỹ nâng đỡ để trở thành đờng minh đắc
lực trong chính sách xâm lược của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương. Kể từ tháng 10/1948 trở đi,
công cuộc khôi phục kinh tế của Nhật Bản diễn ra ngày càng thuận lợi. Đặc biệt, với đường lối
kinh tế học thị trường của Joseph Dodge (chủ tịch ngân hàng Detroit của Mỹ được cử sang Nhật
Bản với tư cách Bộ trưởng), việc ký Hiệp ước an ninh Nhật-Mỹ (1951), Hiệp ước thương mại và
đầu tư (1953)… kế hoạch 5 năm khôi phục kinh tế (1948-1952) của Nhật Bản đã thành công.
Đến năm 1951, các chỉ tiêu kinh tế cơ bản của Nhật Bản như tổng sản phẩm quốc dân thực tế,
sản xuất công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu thực tế đã bằng và vượt mức trước chiến tranh.
2. Giai đoạn phát triển kinh tế “thần kỳ” của Nhật Bản (1951-1973).
a.) Thành tựu:
Trong khoảng 20 năm sau chiến tranh (1951-1973), nền kinh tế Nhật Bản phát triển với nhịp độ
rất nhanh chóng. Nhiều nhà kinh tế thế giới coi đây là giai đoạn phát triển “thần kỳ” của nền kinh

tế Nhật Bản. Từ một nước đứng dậy từ trong đóng tro tàn của chiến tranh, Nhật Bản đã trở thành
cường quốc kinh tế thứ hai trong thế giới tư bản sau Mỹ. Từ 1952-1973, tốc độ tăng tổng sản
phẩm quốc dân thực tế của Nhậ Bản thường ở mức cao nhất trong các nước tư bản. So với năm
1950, năm 1973 giá trị tổng sản phẩm trong nước tăng hơn 20 lần, từ 20 tỷ USD lên 402 tỷ USD,
vượt Anh, Pháp, CHLB Đức.
Tốc độ phát triển công nghiệp hằng năm thời kỳ 1950-1960 là 15,9%; từ 1960-1969 là 13,5%.
Giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng từ 4,1 tỷ USD năm 1950 lên 56,4 tỷ USD năm 1969.
Đúng một trăm năm sau cải cách Minh Trị (1868-1968), Nhật Bản đã dẫn đầu các nước tư bản về
tàu biển, xe máy, máy khâu, máy ảnh, ti vi; đứng thứ hai về sản lượng thép, ô tô, xi măng, sản
phẩm hóa chất, hàng dệt…
Một số ngành cơng nghiệp then chốt đã tăng lên với nhịp độ rất nhanh. Mặc dù Nhật Bản hầu
như khơng có mỏ dầu nhưng đã đứng đầu các nước tư bản về nhập và chế biến dầu thô, riêng
năm 1971 đã nhập tới 186 triệu tấn dầu thô; công nghiệp sản xuất thép năm 1950 là 4,8 triệu tấn;
1973: 117 triệu tấn. Năm 1960, công nghiệp ơ tơ Nhật Bản cịn đứng hàng thứ sáu trong thế giới


tư bản, đến năm 1967 vươn lên hàng thứ hai sau Mỹ. Năm 1968, Nhật Bản sản xuất được 2 triệu
ơ tơ. Cơng nghiệp đóng tàu đến những năm 70 chiếm trên 50% tởng số tàu biển và có sáu trong
mười nhà máy đóng tàu lớn nhất thế giới tư bản. Sự phát triển nhanh một số ngành kinh tế đã
làm thay đổi nhanh cơ cấu ngành sản xuất của Nhật Bản. Tỷ trọng các ngành nông, lâm, ngư
nghiệp giảm đi đáng kể, các ngành công nghiệp, dịch vụ tăng nhanh.
Ngành nông nghiệp tuy tỷ trọng trong tổng sản phẩm quốc dân giảm, nhưng sản lượng và năng
suất lao động lại tăng nhanh. Lao động nông nghiệp giảm từ 14,5 triệu năm 1960 xuống cịn 8,9
triệu năm 1969. Tởng giá trị sản lượng nông, lâm, ngư nghiệp năm 1969 là 9 tỷ USD.
Giao thông vận tải, nhất là phương tiện vận chuyển tăng nhanh. Đến đầu thập kỷ 70, Nhật Bản
đứng đầu các nước tư bản về vận tải đường biển.
Ngoại thương được coi là nhịp thở của nền kinh tế Nhật Bản. Từ năm 1950 đến năm 1971 kim
ngạch ngoại thương tăng 25 lần từ 1,7 tỷ USD lên 43,6 tỷ USD. Trong đó, xuất khẩu tăng 30 lần,
nhập khẩu tăng 21 lần.
b.) Nguyên nhân:

Sự phát triển thần kỳ của nền kinh tế Nhật Bản trong giai đoạn 1952-1973 bắt nguồn từ một số
nguyên nhân cơ bản sau:
– Thứ nhất, phát huy vai trò nhân tố con người
Trước hết, phải nói rằng chế độ giáo dục ở Nhật Bản khá phát triển và hoàn thiện. Kế thừa nền
giáo dục của thời kỳ trước, từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã phổ cập giáo dục hệ
9 năm. Trên cơ sở trình độ văn hóa chung khá cao đó, người Nhật Bản rất chú trọng đào tạo đội
ngũ cơng nhân lành nghề, có đủ khả năng nắm bắt và sử dụng những kỹ thuật, công nghệ mới.
Công nhân được đào tạo không chỉ trong các trường dạy nghề mà có thể đào tạo ngay tại các xí
nghiệp.
Đội ngũ cán bộ khoa học-kỹ thuật của Nhật Bản khá đơng đảo, có chất lượng cao đã góp phần
đắc lực vào bước phát triển nhảy vọt về kỹ thuật và công nghệ của đất nước. Giới quản lý và
kinh doanh của Nhật Bản được đánh giá là những người sắc xảo, nhạy bén trong việc nắm bắt thị
trường, đổi mới phương pháp kinh doanh, đem lại thắng lợi cho các công ty Nhật Bản trên thị
trường quốc tế.
Từ lâu, người Nhật được giáo dục theo những luân lý của đạo Khởng. Trong thời kỳ hiện đại,
những đức tính cần kiệm, kiên trì, lịng trung thành, tính phục tùng… vẫn được đề cao. Những
tinh hoa văn hóa của quá khứ được tôn trọng và kế thừa là nền tảng để người Nhật nắm bắt


những tri thức mới của thời đại. Do đó, giới quản lý đã đặc biệt thành công trong việc củng cố kỷ
luật lao động, lợi dụng và khai thác sự tận tụy và trung thành của người lao động. Các công ty
của Nhật Bản thường được bao trùm bởi một bầu khơng khí thấm đậm tình “gia tộc”, “gia đình”.
Khơng ít nhà nghiên cứu phương Tây cho rằng sự thành công trong phát triển kinh tế của Nhật
Bản là kết quả của sự kết hợp khéo léo giữa “công nghệ phương Tây” và “tính cách Nhật Bản”.
– Thứ hai, duy trì mức tích lũy cao thường xun, sử dung vốn đầu tư có hiệu quả cao
+Tích lũy vốn:
Nhật Bản thời kỳ này được coi là một nước có tỷ lệ tích lũy vốn cao nhất trong các nước tư bản
phát triển. Tỷ lệ tích lũy vốn thường xuyên của thời kỳ 1952-1973 vào khoảng từ 30 đến 35%
thu nhập quốc dân, gấp hơn hai lần so với Mỹ, Anh. Trong đó, tỷ lệ đầu tư vào tư bản cố định
trong tổng sản phẩm xã hội của Nhật Bản cao hơn tất cả. Năm 1966, tổng số vốn đầu tư vào tư

bản cố định của Nhật Bản là 30,6 tỷ USD. Đây là một trong những nhân tố quyết định nhất, bảo
đảm cho nền kinh tế Nhật Bản phát triển với tốc độ cao.
Những giải pháp duy trì mức tích lũy cao của Nhật Bản là:
¯ Tận dụng triệt để nguồn lao động trong nước, áp dụng chế độ tiền lương thấp.
Tiền lương công nhân Nhật Bản những năm 50, 60 rất thấp so với các nước tư bản phát triển.
Trong các xí nghiệp lớn của ngành cơng nghiệp chế biến ở Nhật Bản, tiền lương công nhân chỉ
bằng 1/3 tiền lương của công nhân Anh và 1/7 tiền lương công nhân Mỹ. Tư bản độc quyền Nhật
Bản một mặt lợi dụng mức sống thấp của nhân dân và tình trạng thất nghiệp sau chiến tranh, mặt
khác tuyên truyền cho “lối sống cổ truyền”. Bằng phương pháp quản lý tinh vi, chế độ thuê
mướn suốt đời kết hợp với các hình thức khác, các ông chủ đã buộc công nhân phải tận tâm,
trung thành với xí nghiệp, vì quyền lợi của xí nghiệp. Chế độ tiền lương thấp là nhân tố quan
trọng nhất để đạt mức tích lũy vốn cao và hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị
trường nước ngoài.
¯ Để tạo vốn cho phát triển kinh tế, Nhật Bản đã chú ý khai thác và sử dụng tốt nguồn tiết kiệm
cá nhân. Từ 1961-1967, tỷ lệ gửi tiết kiệm trong thu nhập quốc dân là 18,6% cao gấp hơn hai lần
của Mỹ (6,2%) và Anh (7,7%). Năm 1968-1969, tổng số tiền tiết kiệm lên tới 157,5 tỷ USD.
Tính trung bình mỡi người dân Nhật có số tiền tiết kiệm là 1.550 USD.
Ngồi ra, mức tích lũy cao ở Nhật Bản còn là kết quả của việc giảm chi phí qn sự xuống mức
dưới 1% tởng sản phẩm quốc dân (ở Mỹ là 9-10%). Do nhu cầu của phát triển kinh tế thời kỳ này
Chính phủ Nhật Bản đã hạn chế các khoản chi tiêu cho phúc lợi xã hội, y tế, nhà ở… Bộ máy
hành chính cũng được chú ý giảm tới mức tối thiểu, số người phục vụ trong các cơ quan Nhà


nước và quân đội chỉ khoảng 1,3 triệu. Trong khi đó ở Pháp, dân số chỉ bằng một nửa Nhật Bản
nhưng con số này là 3 triệu người.
Có thể khẳng định rằng người Nhật Bản đã rất thành công trong việc huy động nguồn vốn nội bộ
cho phát triển kinh tế thời kỳ sau chiến tranh.
Tuy vậy, nguồn vốn từ bên ngồi cũng đóng vai trị khá quan trọng đối với nền kinh tế Nhật, nhất
là nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) chủ yếu được dành cho việc cải tạo, hiện đại hóa
cơ sở hạ tầng và phát triển công nghiệp nặng. Trong thời kỳ từ 1944 đến 1955, số vốn của bên

ngoài vào Nhật Bản là 230 triệu USD và đã tăng lên rất nhanh trong thời kỳ 1956-1973 với 24 tỷ
USD, trong đó vay trực tiếp và tiếp nhận đầu tư cở phiếu nước ngồi chiếm 89%. Trong các
ng̀n tín dụng của nước ngồi, tín dụng Mỹ giữ vai trị quan trọng thơng qua các tở chức như
Ngân hàng Xuất-Nhập khẩu Mỹ, Ngân hàng Phát triển Quốc tế, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)…
Có thể nói rằng trong thời kỳ sau chiến tranh, Nhật Bản không phụ thuộc nhiều vào ng̀n vốn
bên ngồi. Chính phủ giao cho cho Bộ Tài chính quản lý và kiểm sốt rất chặt chẽ việc sử dụng
các ng̀n vốn đó. Đầu tư trực tiếp chỉ được khuyến khích cho mục tiêu tìm kiếm cơng nghệ và
bí quyết sản xuất.
+ Sử dụng vốn
Nhật Bản được coi là một nước sử dụng vốn một cách táo bạo và có hiệu quả.
Ở Nhật Bản nhiều ngân hàng thương mại chấp nhận cho vay tới 95% tổng số vốn. Biện pháp
mạo hiểm này đã tạo điều kiện tăng nhanh số vốn chuyển vào sản xuất kinh doanh.
Trong sử dụng vốn, Nhật Bản trước hết tập trung vào những ngành sản xuất lớn, hiện đại và có
hiệu quả cao. Q trình tích tụ và tập trung sản xuất diễn ra rất nhanh chóng, đạt trình độ và quy
mơ quốc tế. Năm 1969, ở Nhật Bản có hơn 10 công ty độc quyền với doanh số trên 1 tỷ USD,
một số cơng ty như Mitsubisi, Mitsui… có doanh số khoảng 10 tỷ USD. Do đó, Nhật Bản đã có
thêm những điều kiện thuận lợi để nhanh chóng áp dụng khoa học-kỹ thuật hiện đại, hợp lý hóa
quy trình sản xuất, nâng cao hiệu quả của tư bản đầu tư.
Về đầu tư trong nước, phần lớn số vốn được tập trung vào các ngành then chốt như luyện kim,
đóng tàu, chế tạo máy, hóa chất, điện tử và vi điện tử… Vốn đầu tư cũng được tập trung vào đổi
mới thiết bị sản xuất. Sau hơn 20 năm, Nhật Bản hầu như đã đởi mới tồn bộ tư bản cố định.
Trong một số ngành như chế tạo máy, luyện kim, đóng tàu biển, điện tử… trình độ trang bị kỹ
thuật vào loại cao nhất thế giới.


Ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, một số công ty của Nhật Bản đã chú ý tới
việc đầu tư ra nước ngoài. Tuy nhiên, trong thập kỷ 50 và nửa đầu thập kỷ 60, hoạt động đầu tư
nước ngồi cịn chậm vì thiếu ngoại tệ và ít có ng̀n tư bản dài hạn nước ngồi. Ở giai đoạn đầu
này, Nhật Bản chủ yếu đầu tư ở khu vực Đông Nam Á với những kỹ nghệ sử dụng nhiều lao
động, thích hợp với trình độ của các nước này. Từ nửa cuối thập kỷ 60, Nhật Bản đã chú ý nhiều

hơn vào đầu tư khai thác tài ngun, đờng thời đa dạng hóa khu vực đầu tư. Tởng số vốn đầu tư
nước ngồi tăng nhanh qua các năm. Nếu vào thời kỳ 1955-1957, mức bình quân là 50 triệu USD
thì đến thời kỳ 1963-1965 lên 130 triệu USD và năm 1970 lên tới 900 triệu USD.
Cho đến năm 1973, tổng số vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản đạt khoảng 19,3 tỷ
USD. Mặt khác, cơ cấu đầu tư theo khu vực cũng thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng đầu tư vào
Mỹ và châu Âu, giảm tỷ trọng đầu tư vào Trung và Nam Mỹ (Mỹ: 26,4%, châu Âu: 26,1%, châu
Á: 23%, Trung Nam Mỹ: 13%).
Có thể nói đầu tư nước ngồi là một yếu tố góp phần vào sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế
trong nước, tăng vị thế và sức cạnh tranh của các công ty của Nhật Bản trong nền kinh tế thế
giới.
Nhật Bản đã nhanh chóng xây dựng nên các ngành kinh tế mũi nhọn dựa trên kỹ thuật công nghệ
hiện đại. Tới đầu thập kỷ 70, sức cạnh tranh và vị thế của các công ty của Nhật Bản đã tăng lên
nhanh chóng. Nhật Bản đã đ̉i kịp trình độ phát triển kinh tế của các nước tư bản phát triển
phương Tây.
– Thứ ba, tiếp cận và ứng dụng nhanh chóng những tiến bộ khoa học-kỹ thuật
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Nhật Bản là một nước lạc hậu so với các nước tư bản
khác. Nhưng cũng ngay trong những năm tháng khó khăn đó, Nhật Bản đã giành một số vốn lớn
cho việc nghiên cứu, phát triển khoa học-kỹ thuật.
Chi phí nghiên cứu phát triển của Nhật Bản năm 1955 còn ở mức 40,1 tỷ yên (0,84% thu nhập
quốc dân) đã tăng lên nhanh chóng đạt gần 1.200 tỷ yên (1,96% thu nhập quốc dân) vào năm
1970. Năm 1955, ở Nhật Bản chỉ có 1.445 phịng thí nghiệm tham gia nghiên cứu khoa học-kỹ
thuật thì năm 1970 đã tăng lên đến 12.594, gấp 9 lần trong 15 năm. Ngối ra, các cơng ty, các
trường đại học cũng tham gia tích cực vào việc nghiên cứu và đào tạo cán bộ khoa học-kỹ thuật.
Nhật Ba3b đã phát huy được sức mạnh của cả khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân trong lĩnh
vực nghiên cứu và đào tạo khoa học-kỹ thuật. Năm 1970, ở Nhật Bản có tới 419.000 các nhà
khoa học và các chuyên gia khoa học-kỹ thuật. Song thành công hơn cả của người Nhật Bản vẫn
là lĩnh vực khoa học ứng dụng.


Nhật Bản đã chú trọng ứng dụng những thành tựu khoa học-kỹ thuật mới nhất của Âu-Mỹ bằng

cách nhập khẩu công nghệ, kỷ thuật, mua các phát minh sáng chế. Từ năm 1950 đến năm 1971,
tổng số vụ nhập khẩu kỹ thuật của Nhật là 15.289 vụ, gần 70% là của Mỹ, hơn 10% của Tây
Đức. Nhờ đó đã cải tạo căn bản tài sản cố định và góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội.
Tốc độ tăng năng suất lao động trung bình hằng năm của Nhật Bản thời kỳ 1955-1965 là 9,4%.
Việc mua các phát minh cho phép Nhật Bản tiếp cận với thành tựu mới nhất của khoa học-kỹ
thuật. Tính đến năm 1968, tởng giá trị những phát minh mà Nhật Bản mua của nước ngồi vào
khoảng 6 tỷ USD. Để có những phát minh đó, các nước khác phải tốn tới khoảng 120-130 tỷ
USD, như vậy Nhật Bản đã tiết kiệm được khoảng 100 tỷ USD, bằng 1/3 tởng tài sản cố định
tích lũy trong thời gian này.
Bằng cách đi khôn ngoan, chỉ hơn 20 năm sau chiến tranh, nền khoa học-kỹ thuật của Nhật Bản
có bước phát triển nhảy vọt. Đến đầu những năm 1970, Nhật Bản đã đạt trình độ cao về tự động
hóa, trình độ sử dụng máy vi tính trong một số ngành sản xuất… Đó là những nhân tố tác động
rất mạnh đến tốc độ phát triển kinh tế của Nhật Bản sau chiến tranh.
– Thứ tư, chú trọng vai trò điều tiết kinh tế của Nhà nước
Ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện hàng loạt
biện pháp để đẩy mạnh tự do hóa nền kinh tế, kích thích kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường
kết hợp với sự điều tiết của Nhà nước thông qua các chính sách kinh tế vĩ mơ. Nhà nước đã tạo
ra môi trường kinh tế thuận lợi cho tăng trưởng bằng hệ thống pháp luật và khả năng duy trì trật
tự xã hội bằng pháp luật và sự đầu tư trực tiếp vào kinh tế.
Từ năm 1955 đến 1973, Nhà nước đã thông qua 7 kế hoạch, đa số là kế hoạch 5 năm, nhưng thời
gian thực hiện trung bình là hai năm rưỡi vì các dự kiến kế hoạch đều thấp hơn mức tăng trưởng
thực tế. Các kế hoạch kinh tế đều có ba nội dung cơ bản: phương hướng kinh tế-xã hội, phương
hướng chính sách của Chính phủ nhằm thực hiện các mục tiêu trên, những chỉ dẫn hoạt động cho
các cơ sở kinh doanh, các ngành công nghiệp. Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc tế (MITI) và
Ngân hàng Nhật Bản (BOJ) có vị trí quan trọng trong việc phát huy vai trò của Nhà nước đối với
phát triển kinh tế. Thông qua các hệ thống này, các chính sách về tài chính, tiền tệ, đối ngoại…
của Nhà nước được thực thi có hiệu quả.
Vai trị nởi bật của Nhà nước thời kỳ này là cải cách hệ thống thuế để thúc đẩy tích lũy vốn, thúc
đẩy nhập khẩu kỹ thuật mới và khuyến khích xuất khẩu. Để khuyến khích tích lũy cá nhân,
Chính phủ đã khơng đánh thuế thu nhập có tính thuế lũy tiến cao như ở một số nước. Thuế công

ty ở mức thấp, các loại thuế trực thu tăng nhưng thuế gián thu lại giảm. Do vậy thuế trong thu
nhập quốc dân ở Nhật Bản thời kỳ này nhìn chung thấp hơn các nước tư bản khác.


Nhà nước Nhật Bản cịn đóng vai trị hướng dẫn và kiểm tra hoạt động đầu tư cũng như việc hỡ
trợ về tài chính cho hoạt động đó. Nhà nước Nhật Bản nắm khoảng 1/3 tổng số đầu tư tư bản cố
định trong nước. Đầu tư của Nhà nước thường tập trung vào cơ cấu hạ tầng, xây dựng các ngành
công nghiệp mới và nghiên cứu khoa học. Những ngành này đòi hỏi vốn đầu tư lớn, chu chuyển
chậm, lợi nhuận thấp nhưng hết sức quan trọng tạo tiền đề cho sự phát triển lực lượng sản xuất
xã hội.
Sự can thiệp và tham gia trực tiếp của Nhà nước vào c1c hoạt động kinh tế đã có tác dụng chống
đỡ khủng hoảng, tạo ra những điều kiện cần thiết cho nền kinh tế tăng trưởng cao.
– Thứ năm, mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài
+ Mở rộng thị trường trong nước
Nhờ cải cách ruộng đất, hình thành chủ trang trại kinh doanh nhỏ đã mở rộng sản xuất, cải tiến
kỹ thuật, sử dụng máy móc cơng nghệ tiên tiến. Do đó, nơng nghiệp nơng thơn tạo ra thị trường
rộng lớn cho sản xuất phát triển.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các công ty luôn cố gắng giữ uy tín bằng việc đưa ra thị
trường những sản phẩm đảm bảo chất lượng. Trên thực tế, khoảng 80% sản phẩm quốc dân của
Nhật Bản là phục vụ cho thị trường nội địa. Vì vậy, phương châm của các cơng ty Nhật Bản là
hàng hóa dù bán ở thị trường nội địa hay nước ngồi đều phải có chất lượng cao. Mặt khác, để
bảo vệ các ngành cọng nghiệp non trẻ và thị trường nội địa, Nhật Bản đã kết hợp khéo léo giữa
chiến lược phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu với chiến lược hướng về xuất khẩu. Lộ
trình tự do hóa thương mại và hội nhập được thực hiện một cách thận trọng, được quản lý thống
nhất từ Trung ương đến địa phương. Mở rộng và đứng vững trên thị trường nội địa tạo tiền đề
cho các công ty Nhật Bản vươn ra chiếm lĩnh các thị trường nước ngồi.
Thời kỳ này, thị trường trong nước cịn được mở rộng do sự gia tăng dân số, sự tăng nhanh số
người làm công ăn lương, tốc độ tăng thu nhập thực tế của người lao động… Do đó đã làm tăng
khối lượng tiêu dùng cá nhân ở trong nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản.
+ Mở rộng thị trường nước ngoài

Là một nước nghèo tài nguyên thiên nhiên, Nhật Bản phải phụ thuộc vào thị trường cung cấp vật
tư, nguyên liệu, năng lượng và thị trường tiêu thụ hàng hóa, do đó thị trường nước ngồi được
coi là điều kiện sống cịn của nền kinh tế Nhật Bản.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã tìm mọi cách để xâm nhập vào thị trường thế giới
như tăng khả năng cạnh tranh hàng hóa nhờ giảm chi phí sản xuất và chú trọng chất lượng sản


phẩm, xây dựng đội ngũ thương nhân có năng lực, nhiều kinh nghiệm, thực hiện chính sách đối
ngoại linh hoạt…
Đối với các nước đang phát triển, Nhật Bản dùng cách lơi kéo về chính trị kết hợp với thâm nhập
kinh tế, viện trợ, tăng cường quan hệ mậu dịch thương mại… được sử dụng một cách rộng rãi.
Đối với các nước châu Á, Nhật Bản cịn sử dụng các chính sách như bồi thường chiến tranh, xây
dựng khu vực thịnh vượng chung… nhằm thâm nhập sâu vào thị trường các nước này. Từ những
năm 70, Nhật Bản đã dẫn đầu các nước tư bản về đầu tư và quan hệ mậu dịch với nhiều nước và
lãnh thổ Đông và Nam Á như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Hồng Kong, Philippines, Đài
Loan… Ngồi ra hàng Nhật Bản cịn thâm nhập và cạnh tranh gay gắt với các nước tư bản phát
triển ngay trên thị trường Tây Âu, Bắc Mỹ và các khu vực khác. Từ năm 1965 trở đi, Nhật Bản
thường xuyên là nước xuất siêu trong quan hệ thương mại với thế giới bên ngồi. Điều đó đã
giúp cải thiện căn bản cán cân thanh tốn của Nhật Bản. Có thể thấy rằng ngoại thương nói riêng
và kinh tế đối ngoại nói chung là một nhân tố quan trọng đem lại sự thành công của người Nhật
thời kỳ sau chiến tranh. Vì vậy, có nhà nghiên cứu đã cho rằng ngoại thương chính là “nhịp thở”
của nền kinh tế Nhật Bản.
– Thứ sáu, kết hợp khéo léo cấu trúc kinh tế hai tầng
Cấu trúc kinh tế hai tầng là đặc điểm nổi bật của Nhật Bản thời kỳ sau Chiến tranh thế giới thứ
hai. Đó là sự liên kết, hỡ trợ lẫn nhau giữa khu vực kinh tế hiện đại và khu vực truyền thống.
Khu vực kinh tế hiện đại bao gồm các công ty lớn với kỹ thuật công nghệ tiên tiến, lượng vốn
đầu tư lớn, sử dụng lao động suốt đời, tiền lương cao theo thâm niên, điều kiện làm việc tốt. Khu
vực truyền thống chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ, sử dụng kỹ thuật công nghệ lạc hậu, lao động
hợp đồng hoặc theo thời vụ, tiền lương và điều kiện làm việc thấp kém. Ở Nhật Bản thời kỳ này
số doanh nghiệp sử dụng dưới 100 công nhân chiếm 99% tởng số xí nghiệp và 76% tởng số công

nhân. Các doanh nghiệp nhỏ thường là các cơ sở gia cơng phụ tùng máy móc hoặc nhận thầu
khốn cho các công ty lớn, đồng thời nhận sự giúp đỡ về vốn, kỹ thuật công nghệ từ các công ty
lớn. Nhiều doanh nghiệp nhỏ trở thành vệ tinh của một công ty lớn. Khi nền kinh tế lâm vào khó
khăn, khu vực truyền thống sẽ trở thành những “đệm giảm xóc” cho khu vực hiện đại. Với cấu
trúc kinh tế hai tầng, nguồn lao động dư thừa và công nghệ lạc hậu thời kỳ sau chiến tranh được
sự dụng hợp lý và có hiệu quả.
– Thứ bảy, đẩy mạnh hợp tác với Mỹ và các nước khác
Sau 3 năm chiếm đóng và kiểm sốt Nhật Bản, tháng 10/1948 Mỹ chuyển giao quyền quản lý
kinh tế-xã hội cho Chính phủ Nhật Bản. Bắt đầu từ đây mối quan hệ kinh tế Mỹ-Nhật đã phục
hời và phát triển nhanh chóng. Việc thực hiện đường lối kinh tế của Joseph Dodge đã giúp Nhật
Bản ởn định nền tài chính tiền tệ. Mức tỷ giá 360 yên/1 USD được duy trì suốt 22 năm đã tạo


điều kiện cho các ngành công nghiệp xuất khẩu cạnh tranh được trên các thị trường quốc tế. Sau
khi hiệp ước hịa bình San Francisco được ký kết vào năm 1951, Nhật Bản và Mỹ trở thành bạn
hàng của nhau. Trong các cuộc chiến tranh ở CHDCND Triều Tiên và Việt Nam, Chính phủ Mỹ
đã có hàng loạt đơn đặt hàng với các công ty của Nhật Bản về vũ khí, khí tài và các đờ qn
dụng khác. Trong khoảng thời gian từ năm 1950 đến 1969, Nhật Bản đã thu được 10,2 tỷ USD
do đơn đặt hàng của Mỹ. Trong cơ cấu ngoại thương của Nhật Bản thời kỳ này có tới 34% tởng
giá trị hàng xuất khẩu sang Mỹ và 30% giá trị hàng nhập của Nhật là từ thị trường Mỹ. Có thể
nói nhu cầu về hàng hóa của Mỹ cho các cuộc chiến tranh ở CHDCND Triều Tiên và Việt Nam
là hai “ngọn gió thần” đối với nền kinh tế Nhật Bản.
Ngoài ra, một số nhân tố khác cũng có tác động mạnh mẽ tới sự phát triển kinh tế Nhật Bản thời
kỳ này như xu thế hội nhập quốc tế, hợp tác và nhất thể hóa kinh tế tư bản chủ nghĩa, xu thế hịa
hỗn và hợp tác của các công ty độc quyền quốc tế… Năm 1955, Nhật Bản xin gia nhập GATT,
tháng 4/1964 trở thành thành viên của IMF và OECD. Đó là những cơ hội để các công ty Nhật
Bản mở rộng thị trường, tăng cường tranh thủ các nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế.
c.) Hạn chế.
Tuy nhiên, ngay trong giai. đoạn phát triển nhanh chóng này, nền kinh tế Nhật Bản đã phải đối
mặt với những mâu thuẫn kinh tế-xã hội gay gắt.

+ Đó là sự mất cân đối nghiêm trọng giữa các vùng kinh tế, giữa khả năng sản xuất hiện đại với
cơ sở hạ tầng lạc hậu, giữa tài chính và tín dụng, giữa tiềm lực của công nghiệp và nông nghiệp.
Phần lớn công nghiệp tập trung ở vùng phía Đơng nước Nhật. Riêng ba trung tâm công nghiệp là
Tokyo- Osaka- Nayoga chỉ chiếm 1,25% diện tích cả nước nhưng tập trung tới 60 triệu dân và
hơn 50% sản lượng cơng nghiệp. Trong khi đó các vùng phía Tây cịn trong tình trạng lạc hậu.
Nhiều nhà kinh tế phương Tây nhận xét rằng có hai nước Nhật: nước Nhật rất hiện đại và nước
Nhật cũ “khuất sau bóng núi”. Nơng nghiệp lạc hậu so với cơng nghiệp, trong nông nghiệp, sản
xuất nhỏ vẫn chiếm ưu thế. Năm 1968, số hộ nơng dân có dưới 2 ha chiếm 68% tổng số hộ..
Nông nghiệp vẫn chưa đảm bảo được nhu cầu trong nước. Mặc dù nền sản xuất cơng nghiệp đã
đạt đến trình độ cao nhưng cơ sở hạ tầng ở Nhật Bản vẫn bị coi là loại lạc hậu trong các nước tư
bản phát triển.
+ Là một nền kinh tế bấp bênh, không ổn định về thị trường và nguồn nguyên liệu. Sự phát triển
của nền kinh tế Nhật Bản phụ thuộc nhiều vào bên ngoài cả về thị trường tiêu thụ hàng hóa và
ng̀n cung cấp nguyên liệu. Sự biến động của thị trường quốc tế, cũng như cạnh tranh gay gắt
của Mỹ và Tây Âu có ảnh hưởng nghiêm trọng, hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản.


+ Mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt do các công ty mãi chạy theo lợi nhuận nên đã hạn chế
những chi phí cho phúc lợi xã hội, duy trì mức sống thấp hơn so với các nước tư bản phát triển,
vấn đề nhà ở, tai nạn giao thông trầm trọng…
Do chạy theo tốc độ tăng trưởng cao, vấn đề môi trường không được chú ý đúng mức. Kết quả là
cuối thập kỉ 60 đầu thập kỉ 70 , mơi trường bị xuống cấp nhanh chóng, một số vùng cơng nghiệp
bị ơ nhiễm nặng nề. Đó là mặt trái, là cái giá phải trả cho sự tăng trưởng “thần kì” của Nhật Bản
thời kì 1951-1973.
C. KẾT LUẬN
Sau những năm khủng hoảng đầu thế kỉ XXI, hiện nay nền kinh tế Nhật Bản có xu hướng phục
hời, dần thốt khỏi trì trệ và sẽ phát triển bền vững hơn. Nền kinh tế Nhật Bản sớm thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế thế giới là do có những chính sách kinh tế hợp lí bên cạnh đó nền tảng nền
kinh tế cũng đóng vai trị quan trọng và nền tảng đó được hình thành vào giai đoạn phát triển
kinh tế “thần kì” năm 1951-1973. Giai đoạn phát triển kinh tế “thần kì” năm 1951-1973 của Nhật

Bản đã để lại cho các quốc gia đi sau một bài học kinh nghiệm quý giá về phát triển kinh tế. Bên
cạnh đó, hiện nay Nhật bản là một trong những đối tác quan trọng của Việt Nam trên nhiều lĩnh
vực. Dựa vào mối quan hệ đối tác đó chúng ta cần phải học tập kinh nghiệm phát triển kinh tế để
phát triển nền kinh tế thị trường của nước ta.

Chia sẻ



×