Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Một số biện pháp nhằm pháp huy tính tích cực trong các hoạt động của trẻ mẫu giáo 4 5 tuổi ở trường mầm non nga yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (633.59 KB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CHĂM SÓC GIÁO DỤC DINH DƯỠNG - VỆ SINH
AN TOÀN THỰC PHẨM CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI
Ở TRƯỜNG MẦM NON NGA YÊN

Người thực hiện: Mai Thị Huệ
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm Non Nga Yên
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

THANH HÓA, NĂM 2017
1


MỤC LỤC
Tên đề mục

Trang

Mục lục
1. Mở đầu

1

1.1. Lý do chọn đề tài



1

1.2. Mục đích nghiên cứu

2

1.3. Đối tượng nghiên cứu

2

1.4. Phương pháp nghiên cứu

2

1.5.Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm

2

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

2

2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm

2

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

4


2.3. Các giải pháp tổ chức thực hiện

6

2.3.1. Đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị để phục vụ chăm sóc
giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm

6

2.3.2. Tổ chức tốt bữa ăn cho trẻ ở tại nhóm lớp

7

2.3.3. Đưa hoạt động giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực
phẩm vào các hoạt động trong ngày

9

2.3.4.Tạo môi trường giáo dục dinh dưỡng trong lớp

13

2.3.5. Tổ chức cho trẻ được thăm quan, quan sát thực tế để trẻ
tiếp thu tri thức mới và có dịp củng cố kiến thức đã học.

14

2.3.6.Giáo dục dinh dưỡng thông qua tổ chức hội thi, các ngày
hội, ngày lễ


14

2.3.7. Công tác tuyên truyền phối kết hợp với phụ huynh trong
chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ

16

2.3.8. Làm đồ dùng đồ chơi chơi phục vụ giáo dục dinh dưỡng và
vệ sinh an toàn thực phẩm.

18

3. Kết luận, kiến nghị

19

Tài liệu tham khảo
Danh mục các đề tài sáng kiến kinh nghiệm được hội đồng các
cấp đánh giá xếp loại

2


1. MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài.
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là
nền tảng đầu tiên của ngành Giáo dục đào tạo. Chất lượng chăm sóc, giáo dục
trẻ ở trường mầm non tốt có tác dụng rất lớn đến chất lượng giáo dục ở bậc học
tiếp theo.

Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác
Giáo dục và đào tạo. Nghị quyết TW 2 khóa VIII đã nêu rõ: “Giáo dục là quốc
sách hàng đầu, là sự nghiệp của toàn dân, toàn nước”. Đồng thời giáo giáo dục
mầm non cũng là một bộ phận quan trọng của hệ thống giáo dục quốc dân trong
sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ, vì trẻ là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất
nước, là lớp người kế tục sự nghiệp của đất nước. Vì lứa tuổi này vốn có một
tiềm lực phát triển mạnh mẽ, nếu được chăm sóc nuôi dưỡng tốt các cháu sớm
được phát triển về thể chất, trí tuệ và tình cảm một cách đúng hướng. Đó là giai
đoạn cực kì quan trọng trong sự nghiệp hình thành nhân cách.[1]
Ở lứa tuổi mầm non việc chăm sóc nuôi dưỡng có một tầm quan trọng đặc
biệt nó tạo điều kiện về thể chất cho sự phát triển toàn diện cho trẻ, không
những trong hiện tại mà còn ảnh hưởng đến tương lai trẻ sau này. Để đảm bảo có
một sức khỏe tốt, cường tráng, dẻo dai cần chú ý đến các chất dinh dưỡng, vì
dinh dưỡng sức khỏe ngày nay đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của mọi
người, mọi nhà. Do đó dinh dưỡng hợp lí đã và đang nâng cao chất lượng cho
cuộc sống con người nói chung và trẻ em nói riêng.
Chính vì vậy nó có nhiệm vụ quan trọng nhằm giáo dục toàn diện cho trẻ
về thể chất, tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ, trí tuệ là cơ sở để hình thành nên nhân
cách con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chuẩn bị những tiền đề cần
thiết cho trẻ bước vào trường tiểu học được tốt.
Giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm hiện nay đang là vấn đề
nóng bỏng là mối quan tâm của toàn xã hội. Trong những năm gần đây, đã có
nhiều vụ xảy ra ngộ độc thực phẩm ở các địa phương các bếp ăn tập thể trong cả
nước ngày càng cao làm ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng của con người.
Song song với việc chăm sóc là việc nuôi dưỡng trẻ mà ăn uống là một nhu
cầu không thể thiếu được của mỗi con người. Nấu ăn là một công việc hết sức
gần gũi và quen thuộc trong mỗi gia đình và trường mầm non. Trong mỗi chúng
ta ai cũng có thể nấu ăn được những món ăn gần gũi quen thuộc, nhưng nấu như
thế nào để đảm bảo đầy đủ chất dinh dưỡng một cách an toàn và hợp lý nhất,
điều này không dễ, nó luôn luôn đòi hỏi chúng ta phải có những sáng kiến và

hiểu biết về nấu ăn cho các cháu ở trường mầm non. Nếu trẻ em được nuôi
dưỡng tốt sẽ có một sức khoẻ tốt và đó là tiền đề cho sự phát triển của trẻ sau
này. Vì vậy công tác nuôi dưỡng trong trường mầm non là một việc hết sức quan
trọng.
Chính vì những lý do trên mà tôi chọn đề tài: “Một số giải pháp nâng cao
chất lượng chăm sóc giáo dục dinh dưỡng - vệ sinh an toàn thực phẩm cho
trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non Nga Yên” để nghiên cứu đưa vào thực tiễn.
1.2.Mục đích nghiên cứu.
1


Mục đích của đề tài là nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng - vệ sinh
an toàn thực phẩm cho trẻ 5 - 6 tuổi tại trường mầm non Nga Yên đạt kết quả
cao và phát triển toàn diện về mọi mặt.
Giúp trẻ nhận biết và làm quen 4 nhóm thực phẩm, lợi ích, nguồn gốc của
các loại thực phẩm, và thức ăn đối với sức khỏe con người.
Biết được lợi ích của việc ăn uống đúng cách, ăn nhiều bữa, phối hợp nhiều
loại thức ăn khác nhau để đảm bảo đủ chất.
Giáo dục cho trẻ hiểu cách ăn khác nhau của từng loại thực phẩm.
Dạy trẻ biết phải sử dụng nguồn thực phẩm sạch sẽ, vệ sinh tay chân trước
khi ăn và trẻ ăn nhiều loại thức ăn với số lượng phù hợp và đầy đủ các nhóm
thực phẩm.
Đây là trách nhiệm của mỗi gia đình cũng như nhà trường cần làm tốt việc
giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm ở lứa tuổi mầm non .[2]
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Trẻ lứa tuổi mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở trường Mầm non xã Nga Yên - Huyện
Nga Sơn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp thực hành, trải nghiệm.
- Phương pháp đàm thoại.

- Phương pháp tuyên truyền.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê ,xử lý số liệu.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.
Qua nghiên cứu về sáng kiến kinh nghiệm (SKKN) của mình, tôi đã nghiên
cứu tìm ra những đổi mới, được đúc rút trong quá trình nghiên cứu thực tế công
việc của mình tại lớp mà tôi đang giảng dậy. Do tình hình thực tế hiện nay vấn
đề vệ sinh và an toàn thực phẩm là một nỗi lo lớn của toàn xã hội, của mỗi một
tập thể, của từng cá nhân chúng ta. Vì vậy các giải pháp mà tôi đã thực hiện
trong SKKN năm 2013-2014 thì tôi mạnh dạn đưa ra những giải pháp mới, sáng
tạo để thu hút trẻ trong việc nâng cao chất lượng về vấn đề dinh dưỡng và vệ
sinh an toàn thực phẩm trong lớp của mình. Nên tôi đã bổ xung thêm hai giải
pháp: Tổ chức cho trẻ được thăm quan, quan sát thực tế để trẻ tiếp thu tri thức
mới có dịp củng cố kiến thức đã học và Làm đồ dùng đồ chơi phục vụ giáo dục
dinh dưỡng, vệ sinh an toàn thực phẩm và một số nội dung bổ sung trong các
giải pháp khác để phù hợp với trẻ, tình hình hiện nay. Đó là những điểm mới mà
tôi đã bổ xung thêm vào bài sáng kiến của mình để nghiên cứu nhằm đem lại
hiệu quả cao nhất, trong quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ ở trường mầm non.
2. NỘI DUNG
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục thế hệ trẻ là trách nhiệm của mọi
người, mọi nhà và toàn xã hội, mọi trẻ em đều có quyền được chăm sóc nuôi
dưỡng và được học tập một cách bình đẳng không phụ thuộc hoàn cảnh riêng về
gia đình, dân tộc, địa phương. Đó không những là mục tiêu của cách mạng mà
còn là ước mơ tha thiết của những người làm cha làm mẹ, vì trẻ em là niềm hạnh
2


phúc của mọi gia đình, là tương lai của mọi dân tộc.Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã
từng nói:[3]

“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”
“Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình là tương lai của đất nước”
Chính vì lẽ đó mà ở lứa tuổi mầm non việc giáo dục dinh dưỡng vệ sinh
an toàn thực phẩm là một trong những vấn đề vô cùng quan trọng và hết sức cần
thiết được đặt lên hàng đầu. Nếu sức khỏe trẻ phát triển tốt thì trẻ sẽ tích cực tự
giác tham gia vào các hoạt động học tập, vui chơi giúp trẻ phát triển toàn diện về
5 lĩnh vực (Phát triển thể chất, phát triển nhận thức, phát triển ngôn ngữ, phát
triển tình cảm xã hội, phát triển thẩm mỹ). Cụ thể là trẻ phải được chăm sóc ăn
uống đầy đủ các chất dinh dưỡng, đủ lượng, đảm bảo hợp vệ sinh, đúng lứa tuổi,
phù hợp với đặc điểm phát triển tâm sinh lý của trẻ. Giúp trẻ phát triển hài hòa
cân đối về thể lực, hình thành cho trẻ một số thói quen nề nếp, kỹ năng sống,
một cách tích cực, biết ăn đúng ăn đủ hợp vệ sinh văn minh.
Hơn nữa, trường mầm non là nơi tập trung đông trẻ. Trẻ còn non nớt chưa
chủ động, chưa ý thức đầy đủ về giáo dục dinh dưỡng - vệ sinh an toàn thực
phẩm, vì vậy ngành học mầm non đã đưa nội dung “Giáo dục dinh dưỡng - vệ
sinh an toàn thực phẩm” vào chương trình chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ
ở lứa tuổi mầm non. Đặc biệt trong những năm qua bậc học mầm non đã tổ chức
tập huấn rất nhiều lớp chuyên đề về vệ sinh an toàn thực phẩm và kiến thức về
chăm sóc sức khỏe cho trẻ trong trường mầm non. Nhằm nâng cao chất lượng
chăm sóc, nuôi dưỡng bảo vệ sức khoẻ cho trẻ. Việc đưa các nội dung giáo dục
dinh dưỡng vệ sinh an toàn thực phẩm và sức khoẻ vào dạy cho trẻ mầm non là
việc làm rất cân thiết. Có như vậy mới tạo ra sự liên thông về kiến thức giáo dục
dinh dưỡng từ độ tuổi nhà trẻ đến lứa tuổi học đường. Tiến hành giáo dục dinh
dưỡng - vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ mầm non sẽ góp phần quan trọng
trong việc phát triển chiến lược con người tạo ra những lớp con người mới có đủ
trình độ hiểu biết về tri thức khoa học hiện đại, tiên tiến vững bước trên con
đường hội nhập và phát triển kinh tế đất nước hiện nay.
Như “Sức khỏe là vốn quý nhất của con người”
Con người sống tồn tại và phát triển được là nhờ nguồn dinh dưỡng, do vậy
giáo dục dinh dưỡng là một quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến

tình cảm, lý trí của con người, làm thay đổi nhận thức thái độ và hành động để đi
đến tự giác chăm lo đến vấn đề ăn uống và sức khỏe cá nhân, tập thể, cộng đồng.
Trước kia có người từng quan niệm “trời sinh voi trời sinh cỏ” theo quan
niệm này thì việc đứa trẻ sinh ra và lớn lên theo một cách tự nhiên theo năm
tháng miễn là cho trẻ ăn để nó lớn, còn ăn như thế nào? có phù hợp với nhu cầu
dinh dưỡng của cơ thể hay không? có đảm bảo thành phần dinh dưỡng của các
chất và cân đối hợp lý khẩu phần ăn hay không thì không cần biết. Nhưng ngày
nay điều kiện kinh tế, xã hội, khoa học ngày càng phát triển, trình độ dân trí
ngày càng cao. Vấn đề dinh dưỡng đối với con người là hết sức cần thiết. Dinh
dưỡng đối với con người là cả một công trình khoa học đã được nhiều nhà dinh
dưỡng học trong nước và trên thế giới nghiên cứu. Đặc biệt là đối với trẻ lứa
tuổi mầm non, không phải chỉ cho trẻ ăn no là đủ mà phải cho trẻ ăn đủ chất, đủ
lượng, cân đối, hợp vệ sinh có như vậy thì trẻ mới có đủ sức khoẻ tốt, cơ thể mới
3


phát triển hài hoà, cân đối là nền tảng để trẻ phát triển toàn diện cả về thể chất
và trí tuệ.
Đây là trách nhiệm và cũng là nhiệm vụ của mỗi chúng ta cần làm tốt việc
giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm ở lứa tuổi mầm non.
2.2. TH ỰC TR ẠNG.
* Thuận lợi:
Trường mầm non Nga Yên có đội ngũ giáo viên trẻ, khỏe, nhiệt tình, năng
động, yêu nghề, mến trẻ, luôn luôn không ngừng phấn đấu học tập để nâng cao
trình độ hiểu biết của mình về công tác nuôi dạy trẻ nói chung “Nội dung chăm
sóc nuôi dưỡng, giáo dục dinh dưỡng” nói riêng.
Thường xuyên nghiên cứu tiếp thu những kiến thức về nuôi dưỡng chăm
sóc, giáo dục dinh dưỡng cho trẻ qua chuyên đề, chương trình hội thi, hội thảo,
qua dự giờ thăm lớp, qua thông tin đại chúng, ti vi, sách báo tạp chí,….
Có được sự hướng dẫn chỉ đạo sát sao của đội ngũ cán bộ chuyên viên

PGD Huyện Nga Sơn và ban giám hiệu nhà trường.
Nhà trường có quy mô rộng rãi thoáng mát, môi trường xanh - sạch - đẹp,
đã có bếp ăn một chiều, có hệ thống nước sạch...
Với sự ủng hộ nhiệt tình của lãnh đạo Đảng, chính quyền địa phương, các
cấp, các ngành đoàn thể, phụ huynh nhiệt tình hưởng ứng, quan tâm chăm lo tạo
điều kiện xây dựng cơ sở vật chất mua sắm đồ dùng trang thiết bị phục vụ cho
công tác chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ. Nhằm phòng ngừa ngộ độc thực
phẩm đáng tiếc xảy ra ở trường lớp, địa phương mình. Đồng thời nâng cao chất
lượng về giáo dục sức khỏe trẻ được tốt.
* Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi trên nhà trường không khỏi không có những khó
khăn bất cập cần được khắc phục trong thời gian tới đó là: kinh phí chi đầu tư
cho cơ sở vật chất như bếp hiện đại hơn, khu vệ sinh, lát sân đảm bảo vệ sinh
môi trường khỏi bụi bặm, có đủ nguồn nước tại chỗ tiện cho vệ sinh cá nhân trẻ
và một số điều kiện khác….
Đa số phụ huynh làm nghề nông nghiệp, đi công ty và nghề buôn bán bận
rộn với công việc nên không có thời gian chăm sóc con cái, một số trẻ chưa có ý
thức về giữ gìn vệ sinh chung, kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn, chất lượng
bữa ăn còn phụ thuộc vào mức thu nhập của cha mẹ, thiếu kiến thức, hiểu biết,
cũng như kinh nghiệm về nuôi dưỡng, chăm sóc con theo khoa học nên dẫn đến
tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng còn cao so với kế hoạch.
Một số bậc cha mẹ chưa thực sự quan tâm sức khỏe của trẻ, để trẻ ăn, ngủ,
vệ sinh tùy thích, mất vệ sinh, dẫn đến trẻ suy dinh dưỡng và mắc các bệnh như:
ngoài da, đau mắt, tiêu chảy, hô hấp...
Hơn nữa các loại thực phẩm có nguy cơ bị làm giả, làm nhái, và còn bị tẩm
ướp các hóa chất độc hại luôn ẩn chứa những nguy cơ nhiễm khuẩn làm ảnh
hưởng đến sức khỏe của trẻ, làm giảm chất lượng bữa ăn của trẻ tại trường mầm
non.
* Kết quả thực trạng
Đầu năm học 2016 - 2017 tôi được nhà trường phân công phụ trách lớp 5 6 tuổi với tổng số trẻ là 37 cháu. Theo hướng dẫn chỉ đạo của Phòng giáo dục và

4


đào tạo Huyện Nga Sơn về công tác chăm sóc sức khỏe và nuôi dưỡng nhà
trường có kế hoạch phối hợp với trạm y tế xã về khám sức khỏe, cân đo theo dõi
trên biểu đồ phát triển của trẻ vào đầu năm học.
* Kêt quả khảo sát đầu năm học: (Tháng 9/2016)
Số trẻ được khảo
Nội dung khảo sát
Tỷ lệ %
sát đầu năm học
1. Chất lượng chăm sóc
Tổng số trẻ đến trường / trẻ điều tra của lớp
37/37
100
Tổng số trẻ ăn bán trú
28
75
Trẻ khám sức khỏe định kỳ
37
100
Trẻ mắc các bệnh
6
16
Trẻ có thói quen nề nếp vệ sinh cá nhân
25
67
2. Chất lượng nuôi dưỡng
Trẻ cân nặng bình thường
32

86,5
Trẻ Suy dinh dưỡng
5
13,5
Trẻ chiều cao bình thường
31
83,8
Trẻ thấp còi
6
16,2
Trước tình hình thực tế trên, để nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục
dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ ở lớp. Ngay từ đầu năm tôi đã
xây dựng kế hoạch, mục tiêu, nội dung, hình thức tổ chức biện pháp giáo dục
dinh dưỡng vệ sinh an toàn thực phẩm được ban giám hiệu nhà trường duyệt và
nhất trí về việc thực hiện nghiêm túc nội dung chương trình cam kết của tôi - từ
đó tôi đã chủ động tích cực sáng tạo nhiệt tình trong việc thực hiện giáo dục
dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ:
- Tôi hiểu rõ ý nghĩa tầm quan trọng của dinh dưỡng có liên quan đến sức
khỏe và bệnh tật của trẻ. Từ đó tôi xác định trách nhiệm trong công tác chăm sóc
về dinh dưỡng cho trẻ
- Nắm bắt được nhu cầu dinh dưỡng của trẻ theo từng độ tuổi như thế nào
là đầy đủ hợp lí.
- Biết giá trị dinh dưỡng của các loại thực phẩm thông thường có sẵn ở địa
phương.
- Biết nguyên tắc xây dựng thực đơn khẩu phần ăn, nguyên tắc thay thế các
loại thực phẩm để đảm bảo khẩu phần ăn cân đối.
- Biết cách chăm sóc trẻ khi trẻ kém ăn, quan tâm đến trẻ yếu, động viên để
trẻ ăn hết xuất.
- Nắm vững một số quy định cơ bản về vệ sinh an toàn thực phẩm. Biết
cách chọn mua thực phẩm đảm bảo để chế biến hợp khẩu vị cho trẻ. Thường

xuyên theo dõi sức khỏe trẻ trên biểu đồ tăng trưởng . Đồng thời cô phải hiểu
được ý nghĩa, mục đích phối kết hợp với trạm y tế xã, nhà trường để khám sức
khỏe cho từng trẻ theo từng giai đoạn để biết được sức khỏe, bệnh tật, phối hợp
với gia đình cùng có kế hoạch chăm sóc tốt hơn.
- Hiểu các nội dung giáo dục dinh dưỡng đối với trẻ.
5


- Cô cho trẻ khám phá một số thực phẩm thông thường, cách chế biến các
loại thực phẩm trẻ được ăn, một số món ăn được chế biến từ các loại thực phẩm
đó, dạy cho trẻ biết con người cần được chăm sóc ăn uống đủ chất dinh dưỡng,
ăn hết suất, không kén chọn thức ăn. Vì vậy, để thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục
dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ tôi đã sử dụng các giải pháp
khác nhau như sau:
2.3. CÁC GIẢI PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
2.3.1. Đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị để phục vụ chăm sóc giáo dục
dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Đối với trường Mầm non việc tổ chức cho trẻ ăn bán trú tại trường thì cơ sở
vật chất, trang thiết bị là những đồ dùng, vật dụng không thể thiếu được vì đây
chính là điều kiện cần thiết để trường có thể tổ chức cho trẻ được ăn bán trú
Trang thiết bị,dụng cụ dùng để chế biến, chứa đựng thực phẩm: Phải có đủ
trang thiết bị, dụng cụ chứa đựng, bảo quản, chế biến riêng biệt cho thực phẩm
sống và thực phẩm chín. Phải có đủ trang thiết bị bảo hộ lao động cho người
tham gia trực tiếp vào các quá trình chế biến thực phẩm, đặc biệt là găng tay,
khẩu trang.
Chính vì vậy bản thân là một giáo viên tôi tự nhận thấy mình phải có trách
nhiệm cùng với nhà trường đưa ra những giải pháp để bàn về vấn đề đầu tư cơ
sở vật chất trang thiết bị để phục vụ chăm sóc giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an
toàn thực phẩm cho trẻ như: Mua xoong, nồi, ấm nhôm, xô chậu, bát, thìa, cốc
Inox, khăn mặt… đảm bảo đầy đủ đồ dùng cho 100% trẻ được ăn bán trú tại

trường, chính vì vậy chất lượng chăm sóc, giáo dục của nhà trường ngày càng
được khẳng định, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục hiện
nay, mang lại niềm tin yêu cho các bậc phụ huynh khi gửi con em vào trường.

Hình ảnh: Đồ dùng trang thiết bị nấu ăn trong trường mầm non Nga Yên
* Kết quả:
Qua cuộc họp phụ huynh đầu năm nhà trường đã xây dựng kế hoạch mua
sắm, bổ sung cơ sở vật chất phục cho việc nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ
như: Đã mua nồi cơm điện, lắp toàn bộ hệ thống bếp ga công nghiệp, mua thêm
xoong nồi, bát thìa, cốc, khăn mặt, đặc biệt mua nồi cơm nấu bằng ga…Mua các
loại tranh ảnh, lô tô về các nhóm thực phẩm… đầy đủ phục vụ cho việc nuôi
dưỡng chăm sóc, giáo dục 100% trẻ trên toàn trường.
6


2.3.2. Tổ chức tốt bữa ăn cho trẻ ở tại nhóm lớp.
Tầm quan trọng của dinh dưỡng hợp lý những năm đầu đời và sự liên quan
giữa dinh dưỡng với khả năng nhận thức của trẻ em trong trước mắt cũng như
lâu dài là rất rõ ràng.
Trẻ em thiếu dinh dưỡng trong những năm đầu đời sẽ ảnh hưởng không tốt
đến mức độ phát triển và kết quả học tập hiện tại cũng như sau này.
Vì vậy, việc tổ chức tốt hoạt động nuôi dưỡng cho trẻ tại trường mầm non
sẽ giúp cho trẻ phát triển tốt về thể lực cũng như trí tuệ, góp phần nâng cao chất
lượng chăm sóc giáo dục trẻ tại các trường mầm non.
Dinh dưỡng cho bé mỗi ngày khi đến trường luôn là một trong những vấn
đề quan trọng được Trường Mầm non đặc biệt quan tâm với trách nhiệm của
người giáo viên tôi luôn mong muốn mang đến những bữa ăn thực sự có chất
lượng cho các bé. Mỗi bữa ăn tại trường trẻ được cung cấp đầy đủ 4 nhóm thực
phẩm mà ngay từ đầu năm học các giáo viên trực tiếp đứng lớp như chúng tôi đã
tham mưu, đóng góp ý kiến cho Ban giám hiệu chỉ đạo cô nuôi cần thay đổi các

món ăn để trẻ khỏi nhàm chán, đảm bảo chất lượng cũng như số lượng bữa ăn và
phải thực hiện đúng giờ, đúng qui định vệ sinh và được ban giám hiệu nhất trí
đưa vào kế hoạch để chỉ đạo.
Hàng ngày Ban giám hiệu đi kiểm tra công tác chuẩn bị và tổ chức cho trẻ
ăn. Có những bữa ăn Ban chấp hành hội phụ huynh học sinh lên kế hoạch lịch
phân công đến kiểm tra giám sát bữa ăn của các cháu. Khi phụ huynh trực tiếp
thấy con em mình được các cô chăm sóc, nuôi dưỡng khoa học như thế các Phụ
huynh hoàn toàn tin tưởng, yên tâm vào nhà trường ngày một gửi trẻ đông hơn.
Có thể nói, việc chăm sóc những bữa ăn giàu dinh dưỡng tại Trường Mầm non
đóng vai trò quan trọng trong việc giúp bé phát triển thể chất khỏe mạnh mỗi
ngày khi đến trường.
Tổ chức bữa ăn cho trẻ chúng tôi cùng nhóm lớp đã phân công sắp xếp
công việc giữa các giáo viên một cách hợp lý, cần tạo cho trẻ ăn uống hợp vệ
sinh, chuẩn bị trước bữa ăn quét dọn phòng ăn sạch sẽ, bàn ghế sắp xếp gọn
gàng, ngăn nắp, lau sạch bàn chia thức ăn, bát, thìa, đĩa tráng nước sôi, đồ dùng
ăn uống sạch sẽ, khô ráo, bầy xếp đẹp mắt, sẽ gây được phản xạ kích thích trẻ
thèm ăn, hứng thú ăn ngon miệng, ăn hết xuất, sắp xếp chỗ ngồi ăn của trẻ phải
thoải mái, tránh ngồi quá chặt trẻ bị gò bó, ăn mất ngon hoặc gây vướng sẽ bị đổ
cơm, bố trí cho trẻ có chỗ ra vào, cô chia ăn phải rửa tay bằng xà phòng, đeo
khẩu trang, đi gang tay, mặc tạp dề chia thức ăn, chia cơm xong cho trẻ ăn ngay,
trước khi ăn trẻ phải rửa tay bằng xà phòng mới vào bàn ăn.
Khi ăn trẻ được tham gia trực tiếp trong quá trình tổ chức bữa ăn: trẻ tự sắp
xếp bàn ăn, chuẩn bị các đồ dùng, khăn ướt, đĩa đựng khăn, ca cốc, bát thìa cô
đã chuẩn bị, đĩa đựng cơm rơi ở mỗi bàn, trẻ cũng học cách trưng bày các món
ăn làm sao cho đẹp mắt và tham gia chọn thức ăn một cách hào hứng. Điều này
không chỉ có ý nghĩa về mặt dinh dưỡng như giúp trẻ ăn ngon miệng hơn, hấp
thu tốt hơn mà còn có ý nghĩa tích cực rất lớn trong việc giáo dục và hình thành
các kỹ năng, lịch sự trong văn hóa ẩm thực (không vừa ăn vừa nói, biết lấy thức
ăn vừa đủ, không bỏ thừa đồ ăn; đi lại nhẹ nhàng, không tranh giành, la hét...) và
hình thành sự hiểu biết của trẻ về thực phẩm, các món ăn mà trẻ yêu thích, tạo

7


không khí thoải mái hào hứng - hứng thú, đầm ấm như gia đình giúp trẻ ăn ngon
miệng, ăn hết suất.
Để đảm bảo vệ sinh trong ăn uống thì điều đầu tiên tôi phải vệ sinh cá nhân
sạch sẽ trước khi chia cơm và thức ăn cho các cháu. Trong khi chờ đợi chia cơm,
tôi cho trẻ hát bài “Mời bạn ăn” của nhạc sỹ Trần Ngọc
Mời bạn ăn, ăn cho chóng lớn
Mình cùng ăn, chúng mình sẽ lớn nhanh
Mời bạn uống, uống nước mịn da
Mình cùng ăn nhất định sẽ lớn nhanh
Thịt và rau, trứng đậu cá tôm
Được đi thi bé khỏe, bé ngoan
Từ đó để hình thành thói quen vệ sinh hành vi văn minh trong ăn uống
cho trẻ. Thói quen tự phục vụ, lao động vừa sức để giúp cô giáo rèn cho trẻ thói
quen trước khi ăn trẻ biết chào mời cô giáo, bạn bè, khách đến thăm.

Hình ảnh: Trẻ ăn bữa trưa trong trường mầm non
Trong khi ăn tôi luôn hỏi trẻ về các món ăn: hôm nay các con ăn những
món ăn gì?, các món ăn này cung cấp chất gì?, ăn đủ chất giúp cho cơ thể chúng
ta sẽ như thế nào? Trong khi ăn rèn cho trẻ biết ăn từ tốn, nhai kỹ không nói
chuyện riêng ăn không nhai nhồm nhoàm, phải ăn hết suất của mình, không làm
cơm rơi vãi, không xúc cơm đổ vào bát của bạn, không kén chọn thức ăn, không
thò tay bốc thức ăn, không cười đùa chạy lung tung. Hơn nữa tôi còn giáo dục
trẻ trong khi ăn nếu có hắt hơi thì phải lấy tay che miệng hay quay mặt ra ngoài
bàn ăn, nếu không sẽ bát cơm vào bàn ăn, bát ăn của bạn và các bạn…như thế sẽ
mất vệ sinh… Ngoài ra tôi còn động viên khuyến khích những trẻ nhác ăn, tôi đề
ra tiêu chí thi đua để khích lệ các cháu ăn thi với nhau, ăn tốt thì cơ thể mới khỏe
mạnh chóng lớn da dẻ hồng hào, học giỏi, được mọi người quý mến. Lười ăn thì

người gầy yếu mệt mỏi, da dẻ xanh xao, chậm lớn, sẽ gây bệnh tật, học kém, bố
mẹ cô giáo không vui lòng. Tuy nhiên không phải tất cả các cháu đều có sở thích
ăn uống giống nhau, bởi vì có những cháu không ăn cháo lươn, cháo trai, canh
trứng… mà đến bữa ăn cháu cứ ngồi thờ ơ, không muốn ăn, bởi vì khi ở nhà các
cháu thường ăn theo sở thích của mình nên ăn chưa đa dạng 4 nhóm chất dinh
dưỡng vì vậy các cháu không quen ăn những thức ăn ở trường. Chính vì vậy là
8


một giáo viên mầm non với công việc vừa chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ
tôi luôn tìm ra những biện pháp để trẻ ăn được hết xuất như: tôi dỗ giành, động
viên nhằm khuyến khích trẻ để giúp trẻ ăn được tất cả các loại thức ăn khác
nhau. Tôi giúp cháu hiểu ăn đa dạng và đầy đủ 4 nhóm chất thực phẩm: đạm,
chất béo, bột đường, vitamin và muối khoáng sẽ giúp cho cơ thể khỏe mạnh cân
đối, da dẻ hồng hào.
Trẻ được ăn bán trú tại trường sẽ hình thành cho trẻ thói quen nề nếp học,
chơi, ăn, ngủ có giờ, có giấc, vì vậy sức khỏe các cháu được nâng lên. Hàng
ngày nhìn các cháu ngoan, vui khỏe, sạch sẽ, ăn uống ngon miệng lại biết lao
động tự phục vụ, ăn xong xếp gọn bát vào rổ, nhặt cơm rơi vãi, lau bàn xếp ghế,
uống nước lau miệng.
Khi đi ngủ biết lấy chăn gối kê sạp giường, lúc ngủ dậy biết gấp chăn gối
cất đúng nơi quy định, chải đầu soi gương. Thấy các cháu hồn nhiên ngây thơ
trong sáng mà lại dí dỏm, luôn tích cực tham gia vào các hoạt động học tập vui
chơi, lòng tôi như ấm lại và tự nhủ mình phải cố gắng dạy dỗ, rèn luyện cho trẻ
những kiến thức, kỹ năng sống, thân thiện hòa đồng, những kỹ năng thói quen
giao tiếp ứng xử, hành vi văn minh trong ăn uống, lối sống có văn hóa, giờ đây
đã đi vào nề nếp. Công việc này được tiến hành thường xuyên liên tục.
Để giúp các cháu trở thành những con người mới có kiến thức, có kỹ năng
về giáo dục dinh dưỡng, có đủ sức khỏe tham gia học tập tốt.
* Kết quả:

Qua việc tổ chức bữa ăn cho trẻ ở lớp tôi: Thể lực của trẻ được nâng lên rõ
rệt: 100% trẻ nhận biết, phân biệt thành thạo và ăn đa dạng 4 nhóm chất dinh
dưỡng và biết lợi ích của các chất dinh dưỡng đối với cơ thể con người, biết khi
ăn không nói chuyện riêng, ăn không nhai nhồm nhoàm, ăn không làm rơi vãi
mất vệ sinh. Đặc biệt 100% trẻ trong lớp có những kỹ năng thói quen giao tiếp
ứng xử, hành vi văn minh trong ăn uống và trước, sau khi ăn đã đi vào nề nếp.
2.3.3. Đưa hoạt động giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực
phẩm vào các hoạt động trong ngày.
Muốn đứa trẻ phát triển toàn diện thì điều đầu tiên chúng ta nhắc đến đó là
"sức khoẻ" do đó dinh dưỡng là nhu cầu sống hàng ngày của mỗi con người. Trẻ
em cần dinh dưỡng để phát triển về thể lực, trí tuệ và góp phần phát triển toàn
diện nhân cách cho trẻ. Chúng ta biết rằng tình trạng dinh dưỡng tốt của mọi
người nói chung, trẻ em nói riêng phụ thuộc vào khẩu phần dinh dưỡng thích
hợp, việc được chăm sóc sức khoẻ đầy đủ có môi trường sống hợp vệ sinh.
Trên cơ sở nhận thức được tầm quan trọng của giá trị dinh dưỡng và điều
kiện kinh tế hiện nay, là một giáo viên mầm non tôi cần tuyên truyền giáo dục
dinh dưỡng cho mọi người, nhất là giáo dục dinh dưỡng đối với trẻ ngay ở độ
tuổi mầm non.
Giáo dục dinh dưỡng là một quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch
đến tình cảm, lý trí con người nhằm làm thay đổi nhận thức, thái độ và hành
động để đi đến tự giác. Chăm lo vấn đề ăn uống và sức khoẻ cá nhân, tập thể
cộng đồng.
Từ thực tiễn trên tôi đã lồng ghép giáo dục dinh dưỡng thông qua một số
hoạt động trong ngày vì: Giáo dục dinh dưỡng là biện pháp nhằm hướng đến
9


hình thành những thuộc tính tâm lý và năng lực chung của trẻ, nhằm phát triển
toàn diện nhân cách ban đầu ở trẻ, kích thích, thu hút, lôi cuốn trẻ tham gia giải
quyết những nhiệm vụ học tập như khám phá mối liên kết giữa hành vi và sức

khoẻ, củng cố sự hiểu biết của trẻ về dinh dưỡng sức khỏe. Chính vì vậy tôi đã
đưa hoạt động giáo dục dinh dưỡng vào các hoạt động trong ngày.
* Thông qua hoạt động Khám phá khoa học: Nhằm củng cố, hệ thống
hoá, chính xác hoá những kiến thức về dinh dưỡng mà trẻ đã làm quen ở mọi lúc
mọi nơi, phát triển trí tuệ cho trẻ.
- Dạy trẻ biết tên gọi đặc điểm cấu tạo của đối tượng trẻ biết được thành
phần các chất và giá trị dinh dưỡng của đối tượng đó đối với cơ thể con người.
- Trẻ biết được tác dụng của các chất Prôtít, Lipít, Gluxít, Các loại Vitamin
và muối khoáng với cơ thể con người.
- Khi sử dụng các hình thức này cần đạt các yêu cầu sau:
+ Phát huy tính tự giác, chủ động của trẻ, đảm bảo không khí vui tươi thoải
mái nhẹ nhàng, không gò bó áp đặt.
+ Giờ học phải có trọng tâm, tránh dàn trải, lan man, cần biết phối hợp các
phương pháp một cách linh hoạt, hợp lý.
* VD: “Bài một số con vật nuôi trong gia đình có 4 chân đẻ con”
(Độ tuổi 5 - 6 tuổi)
Giúp trẻ biết gọi tên và nhận xét được những điểm rõ nét của một số con
vật nuôi trong gia đình có 4 chân, đẻ con (Mèo, bò, lợn, thỏ....)
Trẻ biết so sánh nhận xét được điểm giống nhau là động vật nuôi trong gia
đình có 4 chân, đẻ con thuộc nhóm gia cầm) Và khác nhau (Tiếng kêu, cấu tạo,
thức ăn, vận động ích lợi...)
Giáo dục: Trẻ có ý thức biết chăm sóc giáo dục vật nuôi, biết giá trị dinh
dưỡng của một số con vật nuôi đối với sức khoẻ con người.
Hình thức này tạo điều kiện cho trẻ được vận động như bắt chước tiến kêu,
dáng đi của các con vật nuôi.
- Giúp trẻ hiểu thêm về môi trường xung quanh, phát triển ở trẻ khả năng
quan sát và khiếu thẩm mỹ
+ Thông qua hình thức này để giáo dục trẻ đối với thiên nhiên con người
- Đối tượng quan sát phải đảm bảo phù hợp với nội dung bài học, đảm bảo
thẩm mỹ.

- Qua hình thức này trẻ sẽ được tiếp xúc trực tiếp với các loại thức ăn thực
phẩm. do vậy giáo dục cho trẻ tức là giáo dục trẻ hiểu được các thành phần vai
trò ở từng loại lương thực thực phẩm cụ thể nhanh hơn chính xác hơn.
+ Hình thức ngoài tiết học gồm nhiều hình thức: Dạo chơi, hoạt động vui
chơi, các hoạt động khác: ăn trưa và ăn chiều...
- Các tổ chức khác nhau sẽ hỗ trợ giúp đỡ nhau cho việc giáo dục trẻ hiệu
quả cao hơn.
* Hoạt động ngoài trời
Trong giờ hoạt động ngoài trời: Cô cho trẻ quan sát, phân biệt, so sánh các
loại rau, quả, con vật, cách chăm sóc chúng; hướng dẫn cho trẻ một số nguyên
tắc an toàn khi chơi ngoài trời(chơi ở những nơi an toàn, không chơi gần hồ, ao;
những đồ chơi được phép chơi và không được phép chơi…). Trong quá trình trẻ
10


chơi ngoài trời, cô chỉ cho trẻ những nơi để trẻ không được đến gần như: giếng
nước, vũng nước. Cô thường xuyên nhắc nhở trẻ không đưa tay bẩn lên dụi mắt,
không vứt rác bừa bãi sân trường, không được chơi những vật sắc nhọn; không
ngậm hột, hạt, không ngậm vật bẩn vào mồm và rửa tay sạch sẽ trước khi vào
lớp, sau khi đi vệ sinh.
- Thông qua hoạt động ngoài trời giúp trẻ nhận biết các đặc điểm cơ bản của
đối tượng, vừa giúp trẻ hiểu thêm về thành phần dinh dưỡng của đối tượng đó.
- VD: Cho trẻ quan sát vườn rau của nhà trường (lớp Mẫu giáo 5- 6 tuổi).

Hình ảnh: Cô và trẻ cùng quan sát vườn rau sạch trong trường
Thông qua đó trẻ nhận biết gọi được tên, đặc điểm, thành phần dinh dưỡng,
của các loại rau trong vườn rau.
- Mở rộng hiểu biết, phát triển thể lực, trí tuệ, ngôn ngữ cho trẻ.
* 100% trẻ biết tác dụng của rau, của quả và các con vật trẻ được quan sát.
Đặc biệt trẻ biết ích lợi của các loại rau đối với cơ thể từ đó trẻ có ý thức chăm

sóc cây trồng có ích và tăng cường ăn rau trong các bữa ăn.
* Hoạt động góc:
Trẻ gọi tên các loại thực phẩm, biết đặc điểm của các loại thực phẩm, trẻ tự
học cách chế biến những thực phẩm thành những món ăn. Biết cách tạo ra
những thực phẩm trong cuộc sống, biết vệ sinh cá nhân và hành vi văn minh.
- Tổ chức giáo dục dinh dưỡng ở các trò chơi trong góc phân vai.
VD: Trò chơi : “Cửa hàng bách hoá” , Trò chơi “Cửa hàng ăn uống”
Trẻ thể hiện được vai chơi của mình và biết sáng tạo trong khi chơi.
Trẻ nói được tên thành phần dinh dưỡng của các loại lương thực thực phẩm
Rèn khả năng tái tạo lại công việc của người lớn.
Giáo dục trẻ khi chơi không tranh dành đồ chơi của bạn, giúp đỡ bạn, biết
đoàn kết trong khi chơi.
Quá trình chơi:
- Cho trẻ chơi: Cô có thể nhập vai chơi cùng trẻ, cô quan sát gợi ý trẻ chơi.

11


VD: Bác ơi bán cho tôi hộp bánh: Người bán hàng nói về giá trị dinh
dưỡng của loại bánh đó cho khách hàng hiểu và khi người bán hàng đưa thì
người mua phải lấy bằng hai tay và phải biết cảm ơn người bán hàng.
- Cô tạo tình huống để trẻ giao lưu giữa các nhóm chơi.
Cô luôn nhắc trẻ: Người bán hàng phải chào khách mua hàng, phải nói
được tên hàng và giá trị dinh dưỡng của mặt hàng đó, quảng cáo các hàng.
Người mua hàng đi mua phải nói được tên mặt hàng, hỏi người bán hàng về các
chất dinh dưỡng có trong mặt hàng mình cần mua.
+ Trò chơi cửa hàng ăn uống, phải biết chế biến ra các món ăn từ các thực
phẩm được mua về và nói được các chất dinh dưỡng của nhóm đó khi khách hỏi.
- Cô giáo dục thái độ cư xử của các trẻ với nhau trong khi chơi.


Hình ảnh: Trẻ chơi các trò chơi ở góc
Cô hướng dẫn trẻ rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh, khi tay bẩn. Trẻ
lứa tuổi này không những có kỹ năng của việc rửa tay, lau mặt, đánh răng, rửa
đồ chơi mà còn hiểu được lợi ích của việc giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi
trường. Do vậy, trong quá trình hướng dẫn cho trẻ làm, cô nên giải thích cho trẻ
tại sao phải rửa mặt, rửa tay, giữ gìn vệ sinh quần áo và lợi ích của những việc
làm đó.
- Thường xuyên nhắc nhở trẻ không vứt đồ chơi bừa bãi ra sàn nhà, hướng
dẫn trẻ thu dọn đồ chơi gọn gàng, sắp xếp đúng nơi quy định sau khi chơi.
- Theo lịch vệ sinh, vào những thời điểm tổng vệ sinh đồ chơi, cô hướng
dẫn trẻ tham gia cùng cô, bước đầu hướng dẫn trẻ lau, rửa đồ chơi, làm trực nhật
cùng cô.
- Phối hợp với gia đình để giáo dục dinh dưỡng, vệ sinh và sức khỏe cho trẻ
tại gia đình, hình thành thói quen tốt về vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường, biết
tự chăm sóc sức khỏe và an toàn cho bản thân (ăn nhiều loại thức ăn, không
kiêng khem, mặc ấm, đi tất khi trời rét, đội mũ khi ra nắng, không chơi cạnh hồ
ao, không sờ vào ổ điện, dây điện, quạt …).
* Hoạt động chiều:
- Tổ chức giáo dục dinh dưỡng cho trẻ vào các họat động chiều dưới hình
thức ôn luyện các hình thức đã học, nhằm giúp trẻ khắc sâu được kiến thức hơn.
12


- VD: Khi thực hiện chủ đề: Động vật sống dưới nước đề tài “Tìm hiểu về
một số loại cá” thì vào buổi chiều cô cho trẻ ôn luyện qua trò chơi “Đố vui” về
các loại cá sau đó cô nói cho trẻ biết có rất nhiều loại cá chúng sống ở khắp nơi
như ao, hồ, sông, suối. Trong thịt cá chứa rất nhiều chất đạm, canxi là nguồn
thực phẩm rất tốt cho cơ thể con người, cá chế biến rất nhiều món ăn, cho trẻ kể
các món ăn được chế biến từ cá, và giáo dục trẻ ăn nhiều thức ăn được chế biến
từ cá.

* Tổ chức các trò chơi về giáo dục dinh dưỡng:
Trong quá trình tổ chức giáo dục dinh dưỡng cho trẻ thông qua bộ môn
làm quen với môi trường xung quanh, ngoài các hình thức trên tôi còn áp dụng
một số trò chơi nhằm gúp trẻ hiểu biết thêm về dinh dưỡng:
VD: Trong tiết học chủ đề “Làm quen với một số loại rau” sau khi đã
cung cấp kiến thức tôi đã sử dụng trò chơi đi siêu thị để trẻ biết cách chọn rau
tươi, rau sạch và các chất dinh dưỡng có trong các loại rau đó.
Hoặc trò chơi với lô tô: Phân nhóm các loại thực phẩm theo các chất dinh
dưỡng vào các tiết học có chủ đề các con vật sống trong gia đình.
Ngoài ra còn cho trẻ được trải nghiệm thông qua trò chơi bé tập làm nội
trợ như: cho trẻ xếp lô tô theo quy trình pha nước cam... làm bánh, pha sữa, làm
sinh tố hoa quả.....
Khi áp dụng các trò chơi trên vào trong các hoạt động tôi thấy trẻ rất hứng
thú và phát huy được tính tích cực của trẻ trong các hoạt động đạt kết quả cao
chính vì vậy mà thông qua các hoạt động trong ngày nhằm giáo dục dinh dưỡng
và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ đạt hiệu quả cao.
* Kết quả:
- 100 % trẻ biết được tên gọi, đặc điểm của các nhóm chất dinh dưỡng cung
cấp cho cơ thể thông minh khỏe mạnh.
- Thông qua các hoạt động trẻ tiếp thu và lĩnh hội được những kiến thức về
giáo dục dinh dưỡng cho trẻ trong trường mầm non.
- 37/37 = 100% trẻ có thói quen tốt về vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường,
biết tự chăm sóc sức khỏe và an toàn cho bản thân.
- 100% trẻ biết tự phục vụ, biết lao động cùng cô, biết rửa tay trước khi ăn
sau khi đi vệ sinh….
2.3.4.Tạo môi trường giáo dục dinh dưỡng trong lớp
Xây dựng góc dinh dưỡng bằng mô hình, sưu tầm tranh ảnh về các loại
thực phẩm theo 4 nhóm
+ Chất đạm: lợn, gà, cua, ốc, cá tôm…
+ Chất béo: dầu mỡ, lạc vừng, bơ..

+ Chất bột đường: ngô khoai, gạo sắn,..
+ Chất vitamin và muối khoáng: gồm các loại rau củ quả…
- Mua sắm đồ dùng đồ chơi, chế biến dinh dưỡng được sắp xếp ở góc chơi
giúp trẻ dễ thấy, dễ lấy, dễ cất…Đặc biệt các đồ chơi đa dạng về chủng loại…để
giúp trẻ được khám phá.
- Xây dựng góc tuyên truyền kiến thức chăm sóc sức khỏe trẻ 5 tuổi, xây
dựng tháp dinh dưỡng .
13


- Biết nội dung chương trình hoạt động trong ngày của trẻ, biết nhu cầu
dinh dưỡng của trẻ 5 tuổi.
- Biết khẩu phần ăn như thế nào là đầy đủ và hợp lý…
- Biết giá trị dinhh dưỡng của các loại thực phẩm thông thường có ở địa
phương
- Biết được 10 lời khuyên vàng của tổ chức y tế thế giới WHO
- Biết được những điều cơ bản về vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Tổ chức tốt các tiết học giáo dục dinh dưỡng vệ sinh an toàn dưới nhiều
hình thức: câu đố, trò chơi, thơ truyện, …giúp trẻ hứng thú tham gia học tập tốt.
* Kết quả:
- Thông qua việc xây dựng môi trường bằng các hoạt động góc giáo dục
dinh dưỡng giúp trẻ tái tạo lại những công việc hàng ngày của cô giáo cũng như
của bố mẹ nhằm giúp trẻ nắm được những kiến thức hiểu biết về dinh dưỡng đối
với trẻ.
- 100 % trẻ tiếp thu được những kiến thức cơ bản về giáo dục dinh dưỡng
và vệ sinh an toàn thực phẩm.
2.3.5. Tổ chức cho trẻ được thăm quan, quan sát thực tế để trẻ tiếp thu
tri thức mới và có dịp củng cố kiến thức đã học.
Đặc điểm của trẻ là dễ nhớ mau quên. Vì vậy việc cho trẻ quan sát thực tế
là rất cần thiết giúp trẻ ghi nhớ có chủ định. Trong giờ hoạt động ngoài trời tôi

cho trẻ thăm quan vườn rau sạch của bé và sắp xếp cho trẻ đi thăm quan mô hình
vườn, ao, chuồng của gia đình bác Hiền ở gần trường, đến vườn rau được quan
sát trẻ nhớ tên gọi, đặc điểm các loại rau: rau su hào, bắp cải, cà chua, đậu quả,
rau mồng tơi, rau muống, .... được quan sát ao cá, khu chăn nuôi gà vịt...
* Kết quả: Thông qua hoạt động cho trẻ thăm quan, quan sát thực tế trẻ đã
hiểu được sự vất vả của các bác nông dân hàng ngày phải chăm sóc cây cối, con
vật nuôi…Từ đó trẻ biết quý trọng sản phẩm của người lao động làm ra.
- 100 % trẻ tiếp thu được những kiến thức cơ bản về giáo dục dinh dưỡng
và vệ sinh an toàn thực phẩm.
2.3.6. Giáo dục dinh dưỡng thông qua tổ chức hội thi, các ngày hội,
ngày lễ.
Nhà trường đã phối hợp cùng hội phụ nữ, ban văn hoá xã tổ chức tuyên
truyền kiến thức nuôi dạy con theo khoa học đến các bậc phụ huynh trên thông
tin đại chúng, qua các buổi sinh hoạt, hội họp địa phương tổ chức, kết hợp cùng
nhà trường để tổ chức các hội thi cho trẻ như hội thi “Bé khoẻ bé ngoan, nuôi
con khoẻ, gia đình dinh dưỡng trẻ thơ”; Hội thi “Hội khỏe, Bé mầm non” cấp
trường đều có nội dung liên quan đến giáo dục dinh dưỡng và bảo vệ sức khoẻ
cho trẻ. Ví dụ: Đối với lớp tôi bắt vào nội dung thi trò chơi vận động “Bò chui
qua cổng, rê bóng bằng hai chân qua đường dích dắc, lấy thực phẩm theo yêu
cầu chuyển về kho”. Tất cả các cháu đội tuyển của lớp tôi đều nhanh nhẹn, khéo
léo thực hiện qua các yêu cầu và lấy đúng thực phẩm theo yêu cầu chuyển về
kho được nhiều thực phẩm nhất và đã thắng cuộc. Đặc biệt là hội thi “Bé tập làm
nội trợ” qua các hội thi được đông đảo phụ huynh hưởng ứng, lãnh đạo địa
phương quan tâm ủng hộ, các cháu hào hướng phấn khởi, mạnh dạn, tự tin, nắm
vững kiến thức về nội dung giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm.
14


Công tác tuyên truyền qua các hội thi luôn đạt kết quả tốt (Vì trong hội thi
có đủ các thành phần tham dự như trẻ, cô, bố mẹ cùng tham gia), thông qua hội

thi giúp cho trẻ, giáo viên và phụ huynh hiểu biết, củng cố kiến thức kỹ năng
thực hành giáo dục dinh dưỡng, vệ sinh an toàn thực phẩm, giúp cho phụ huynh
học sinh hiểu thêm được tầm quan trọng của ngành học mầm non.
Đặc biệt để thu hút sự quan tâm của cộng đồng đến sự nghiệp trồng người,
nhà trường đã triển khai tổ chức tốt các hội thi “Hội khỏe bé mầm non”đã thu
hút được đông đảo các phụ huynh, các cô giáo và các cháu học sinh trong nhà
trường tham gia.

Hình ảnh: Hội thi “Hội khỏe bé mầm non” cấp trường
Qua các hội thi tạo được sự chuyển biến cao trong nhận thức của phụ
huynh về công tác chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ; về phòng chống suy dinh
dưỡng và đảm bảo VSATTP, làm thay đổi nhận thức của nhiều người về việc
cho trẻ ăn bán trú tại trường. Cũng qua các hội thi đã tạo ra động lực thúc đẩy sự
phối kết hợp chặt chẽ giữa các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương ngày càng tốt
hơn. Nhà trường luôn nhận được sự hỗ trợ về kinh phí để tổ chức các hội thi từ
các đoàn thể và hội cha mẹ học sinh.
Đối với các cháu ở độ tuổi 5 - 6 tuổi thông qua các hoạt động trên trẻ sẽ
thực hành và thể hiện tốt các kiến thức kỹ năng khéo léo của đôi bàn tay bằng
vật thật, mô phỏng qua tranh theo các quy trình chế biến ra một số món ăn nước
uống đơn giản. Qua đó hình thành nhân cách trẻ, rèn cho trẻ thói quen hành vi
văn minh trong ăn uống, cách giao tiếp ứng xử với bạn bè, mọi người xung
quanh, hình thành kỹ năng sống cho bản thân biết sống gọn gàng ngăn nắp.
Ví dụ: Thông qua trò chơi “Nấu ăn”, “Bữa ăn hợp lý”, “Tổ chức buổi sinh
nhật”, “Gia đình đi siêu thị”.

15


Bằng những nội dung hình thức thay đổi theo chủ đề lớn, chủ đề nhỏ tôi
phối hợp với gia đình thống nhất nội dung giáo dục dinh dưỡng phù hợp, hình

thức: tổ chức các cuộc họp phụ huynh 2 lần/ năm vào tháng 9 và tháng 1 để
thông báo kết quả của trẻ và tuyên truyền chăm sóc giáo dục trẻ theo phương
pháp khoa học. Cho trẻ ăn đủ lượng đủ chất, đúng bữa, đúng giờ, ngủ đúng, ngủ
đủ. Tập cho trẻ có thói quen vệ sinh cá nhân văn minh, hạn chế ăn quà vặt, quà
không có chất dinh dưỡng, ảnh hưởng đến bữa ăn chính, vệ sinh không tốt có thể
làm ảnh hưởng đến vệ sinh răng miệng… không những đủ lượng đủ chất mà còn
cân đối 4 nhóm thực phẩm cùng phối hợp hỗ trợ lẫn nhau tăng khả năng hấp thu
và dễ tiêu hóa cho trẻ. Cần làm tốt khâu vệ sinh cá nhân, vệ sinh phòng bệnh, vệ
sinh môi trường thông thoáng giúp trẻ hít thở không khí trong lành.
Theo dõi lịch tiêm chủng đầy đủ các loại vacxin cũ và mới, thực hiện phối
hợp với trạm y tế cân đo khám sức khỏe định kỳ theo dõi trên biểu đồ phát triển
của trẻ qua từng lần, thông báo kết quả trẻ kịp thời cho phụ huynh biết.
Biểu đồ phát triển của cháu qua các lần thông báo kết quả sức khỏe trẻ kịp
thời cho phụ huynh biết. Không những thế phối hợp với tổ dinh dưỡng của
trường lựa chọn thực phẩm sạch đảm bảo chế biển thay đổi các món ăn phù hợp
khẩu vị trẻ ăn ngon miệng - phòng tránh ngộ độc thức ăn xảy ra. Tham mưu với
trường xây dựng mô hình rau sạch để cung cấp thực phẩm sạch, an toàn phục vụ
các cháu như trồng các loại rau xanh, củ, quả (đậu, lạc, bí đỏ…)
Kết quả:
Thông qua các hội thi 100% trẻ và phụ huynh đã có nhận thức đầy đủ nắm
vững kiến thức về nội dung giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm
cho trẻ tại lớp đã làm cho tỷ lệ trẻ bị suy dinh dưỡng, mắc các loại bệnh của lớp
giảm đáng kể.
100% trẻ mạnh dạn, nhanh nhẹn, khéo léo, dẻo giai thực hiện tốt các hoạt
động. Đặc biệt là các trò vận động, dân gian...
Từ đó nêu cao tinh thần trách nhiệm hơn nữa của phụ huynh và giáo viên
trong công việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.
2.3.7. Công tác tuyên truyền phối kết hợp với phụ huynh trong chăm
sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ.
Ngay từ cuộc họp phụ huynh đầu năm học, tôi đã trao đổi với phụ huynh

học sinh về bữa ăn ở trường mầm non, các món ăn của trẻ trong một tuần để phụ
huynh hoc sinh biết để cân đối với bữa ăn ở gia đình.
Trước tình hình thực tế hiện nay, trong cuộc sống hàng ngày tại các gia
đình có con nhỏ cũng như chế độ giáo dục chăm sóc trẻ ở trường mầm non còn
có nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề dinh dưỡng.
Từ những kết quả về kiến thức và thực hành chế biến bữa ăn cho trẻ của bố
mẹ các cháu cho thấy cần đẩy mạnh hơn nữa công tác truyền thông giáo dục về
dinh dưỡng nói chung và về việc đa dạng hóa bữa ăn cho trẻ nói riêng. Đó là
nhiệm vụ của các cô giáo mầm non trong quá trình công tác của mình, cần được
thực hiện một cách có hệ thống, thường xuyên.
Để tạo sự tin tưởng và thu hút sự tham gia của phụ huynh vào các hoạt
động Chăm sóc, giáo dục trẻ của lớp và của nhà trường, giáo viên cần phải:
16


- Lắng nghe ý kiến của cha mẹ trẻ; chủ động xây dựng mối quan hệ tốt với
phụ huynh; sẵn sàng tư vấn và giúp đỡ các kiến thức chăm sóc, giáo dục trẻ khi
gia đình có yêu cầu thông qua những dịp tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với
phụ huynh.
* Phối kết hợp với giáo viên và cô nuôi:
Giáo viên và cô nuôi luôn có sự trao đổi với nhau như chị em trong cùng
một nhà. Vì giáo viên là người trực tiếp cho trẻ ăn, sát sao trong từng bữa ăn của
trẻ. Biết được trẻ thích ăn những món gì thì phát huy và không thích ăn những
món gì. Bởi trẻ có ăn được thì mới lớn nhanh, mới có sức khỏe để vui chơi, học
tập.
Vì thế hàng ngày sau khi nấu ăn xong các cô nuôi thường xuyên dự giờ ăn
các lớp qua đó nắm được khẩu vị ăn của trẻ. Sau đó trao đổi với cô giáo của trẻ
xem thức ăn hôm nay trẻ ăn như thế nào? Có hợp khẩu vị không? Trẻ có ăn hết
xuất không?. Từ đó các cô thay đổi món ăn cho phù hợp với từng độ tuổi (Nhà
trẻ và mẫu giáo) và từng trẻ. Các món ăn cho trẻ luôn phải thay đổi theo mùa,

theo khẩu vị của trẻ để tránh sự nhàm chán khi ăn. Khi thay đổi những món mới
thì trẻ ăn có hợp khẩu vị không và cách chế biến như vậy trẻ có thích ăn không.
* Những lúc đón và trả trẻ, cô trao đổi với phụ huynh về tình hình ăn uống,
sức khỏe của trẻ ở trường. Dựa vào kết quả theo dõi biểu đồ phát triển của trẻ,
cô đánh giá phân loại tình trạng dinh dưỡng của trẻ, tìm ra nguyên nhân như: tìm
hiểu cách chế biến thức ăn cho trẻ của người mẹ (qua trao đổi với người mẹ) để
tham mưu, xây dựng kế hoạch, biện pháp can thiệp hợp lý, hữu hiệu.
* Sử dụng góc dinh dưỡng trong lớp, môi trường giáo dục dinh dưỡng
trong trường Mầm non để phụ huynh chú ý mọi lúc, mọi nơi.
* Thông qua hội thi “Hội khỏe bé mầm non” tôi luôn trò chuyện với phụ
huynh khi trẻ được chọn vào đội tuyển của lớp về việc củng cố bổ sung và chọn
thức ăn cho trẻ phải đảm bảo 4 nhóm thực phẩm để trẻ phát triển cân đối, vận
động những bài tập được khỏe mạnh, nhanh nhẹn, khéo léo, dẻo giai…đạt được
những kết quả cao cho lớp.
* Thông qua các cuộc họp phụ huynh, các buổi tọa đàm về chăm sóc nuôi
dạy con, các hội thi “Nuôi con khỏe, Gia đình công dân tý hon…”, các cô đã trò
chuyện mang tính chất tuyên truyền, động viên, trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ
thông tin, nhắc nhở phụ huynh những kiến thức về dinh dưỡng cho trẻ, về cách
thức đa dạng hóa bữa ăn cho trẻ một cách thật dễ hiểu, thiết thực và phù hợp. Để
phụ huynh trẻ nắm chắc một điều rằng: Chế độ ăn của trẻ khi có sự đa dạng là
rất tốt. Giá trị của bất kỳ loại thực phẩm nào đều nằm ở sự chuyển hóa chất của
cơ thể vì thế không thể có loại “siêu thực phẩm” độc quyền.
- Thống nhất với các bậc cha mẹ về nội quy, các hình thức và biện pháp
phối hợp giữa phụ huynh và nhà trường trong từng giai đoạn và cả năm học.
- Trong khi phối hợp với các bậc cha mẹ, tôi cần căn cứ vào điều kiện và
hoàn cảnh cụ thể của từng gia đình để có hình thức phối hợp phù hợp và mang
lại hiệu quả cao nhất.
* Kết quả: Qua công tác tuyên truyền và phối kết hợp với phụ huynh đã
thu được kết quả đáng mừng đó là: Đa số các bậc phụ huynh hiểu được ý nghĩa
và tầm quan trọng của việc nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ mầm non ở trường cũng

17


như ở gia đình, từ đó phụ huynh có biện pháp chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ được tốt
hơn.
2.3.8. Làm đồ dùng đồ chơi chơi phục vụ giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an
toàn thực phẩm.
- Ngoài việc lồng ghép giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm
cho trẻ vào các hoạt động trên tôi luôn tìm tòi sáng tạo ra những đồ dùng đồ chơi
đẹp, hấp dẫn, có tính thẩm mỹ cao có đầy đủ số lượng và có nhiều chủng loại để
trẻ được học, được trực tiếp hoạt đông với đồ dùng đồ chơi giúp trẻ nhớ lâu và
hiểu thêm về những thực phẩm có trong cuộc sống của chúng ta.
Ví dụ: Tôi đã dùng ống nước rửa bát màu xanh lá cây làm sạch, sau đó cắt
thành hình lá bắp cải để trẻ ghép thành cây bắp cải, cắt thành các loại rau quả
khác nhau để trẻ được chơi, được trực tiếp hoạt động.
- Tôi dùng các loại giấy màu phù hợp để bồi thành hình các loại quả cho trẻ
học và chơi như quả xoài, quả cam, quả na, quả đu đủ, quả khế.
- Ngoài ra tôi cũng đã dùng các loại phế liệu sẵn có ở địa phương để cắt tạo
ra những con vật, những loại quả… phục vụ cho các hoạt đông học tập, hoạt
động chơi và trưng bày tại môi trường xung quanh lớp đẹp, hấp dẫn, phù hợp
với chủ đề, chủ điểm như: Vườn cau, bộ ấm chén, lợn con…Tôi còn cắt tỉa các
hộp nước rửa bát, ống luồng tạo thành hình thư một đàn lợn 10 con có kích
thước khác nhau dùng để trồng và gieo các loại hạt cho trẻ quan sát khám phá sự
nảy mầm và lớn lên của cây.
* Kết quả: Việc tạo ra bộ đồ dùng đồ chơi tự tạo đa dạng phong phú góp
phần không nhỏ vào các hoạt động của lớp tôi. Từ những nguyên vật liệu đơn
giản, đồ vật sẵn có trong cuộc sống hàng ngày đã giúp cô và trẻ làm nên những
đồ dùng đồ chơi vô giá, giúp trẻ được trải nghiệm. Vì vậy cần tạo điều kiện cho
trẻ được học mà chơi, được chơi mà học để tạo ra nhiều sản phẩm đẹp, hấp dẫn.
* Kết quả nghiên cứu.

Xuất phát từ tình hình thực tế với mục tiêu, hình thức, nội dung và một số
biện pháp thích hợp và tấm lòng yêu thương chăm sóc giáo dục trẻ như con của
mình đã giúp tôi có được kết quả đáng khích lệ trong việc nâng cao chăm sóc,
nuôi dưỡng và giáo dục dinh dưỡng - vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ ở nhóm
lớp qua đợt cân đo khám sức khỏe các cháu theo dõi trên biểu đồ: được trạm y tế
và ban giám hiệu nhà trường đánh giá cao so với đầu vào. Đặc biệt được Ban
giám hiệu đánh giá thu hút số cháu ăn đều đặn tại trường là 37 cháu rất cao so
với các lớp khác.
* Kêt quả khảo sát cuối năm so với đầu năm được thể hiện như sau:
Số trẻ được khảo
Nội dung khảo sát
Tỷ lệ %
sát đầu năm học
1. Chất lượng chăm sóc
Tổng số trẻ đến trường / trẻ điều tra của lớp
37/37
100
Tổng số trẻ ăn bán trú
37
100
Trẻ khám sức khỏe định kỳ
37
100
Trẻ mắc các bệnh
3
8,1
Trẻ có thói quen nề nếp vệ sinh cá nhân
37
100
18



2. Chất lượng nuôi dưỡng
Trẻ cân nặng bình thường

36

97,2

Trẻ Suy dinh dưỡng

2,7
1
Trẻ chiều cao bình thường
35
95
Trẻ thấp còi
2
5
- 100% cán bộ giáo viên, nhân viên được tập huấn kiến thức thực hành
dinh dưỡng, vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh chế biến, vệ sinh trong ăn uống.
- 100% cán bộ giáo viên, nhân viên thực hiện tốt công tác chăm sóc sức
khỏe, vệ sinh và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường. Quy trình sơ
chế, chế biến, chia ăn, cho trẻ.
- Trẻ ăn ngon miệng hơn và hết suất. Trẻ nhận biết được thế nào là một
bữa ăn hợp lý đặc biệt là trẻ biết vệ sinh văn minh trong bữa ăn.
- Trẻ có được những bữa ăn đầy đủ dinh dưỡng, những bữa ăn có hương
vị thơm ngon, kích thích sự thèm ăn nhờ vào sự thay đổi bữa ăn và cách chế
biến món ăn hợp lý.
- Thực đơn của nhà trường luôn thay đổi theo tuần, theo mùa có nhiều

món ăn mới phong phú, màu sắc bắt mắt hấp dẫn trẻ giúp trẻ ăn ngon miệng, ăn
hết xuất không có thức ăn thừa.
Có được kết quả trên là do có sự chỉ đạo sát sao của ban giám hiệu nhà
trường cùng với sự chuyển biến về nhận thức của phụ huynh, cộng với sự nhiệt
tình của cô giáo, tổ cấp dưỡng đã phối hợp thực hiên tốt công tác chăm sóc nuôi
dưỡng và giáo dục dinh dưỡng cho trẻ nhằm nâng cao sức khỏe cho trẻ giúp trẻ
phát triển tốt 5 lĩnh vực: phát triển thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, phát triển tình
cảm xã hội, phát triển thẩm mỹ.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
* Kết luận:
Việc chăm sóc giáo dục dinh dưỡng trẻ mầm non là vấn đề hết sức cần thiết
và vô cùng quan trọng vì ăn uống khoa học hợp lý là cơ sở của sự phát triển về
sức khỏe, ăn uống theo đúng nhu cầu dinh dưỡng ngủ đúng, ngủ đủ thì cơ thể và
trí tuệ phát triển tốt. Trẻ khỏe mạnh hồn nhiên, thông minh, tích cực tham gia
vào các hoạt động học tập, vui chơi, chống đỡ một số bệnh tật, đồng thời ăn
uống đúng, đủ chất là thể hiện văn hóa ẩm thực của người Việt Nam. Chính vì
thế mà bản thân là một cô giáo Mầm non tôi không ngừng học tập, trau dồi kiến
thức và kinh nghiệm của mình áp dụng vào làm tốt công tác chăm sóc nuôi
dưỡng và giáo dục dinh dưỡng cho trẻ. Luôn quan tâm đến nhu cầu dinh dưỡng
của trẻ đảm bảo đủ lượng, đủ chất cân đối theo 4 nhóm thực phẩm, thay thế thực
đơn theo tuần phù hợp khẩu phần ăn của trẻ - phù hợp theo mùa. Cô luôn nhẹ
nhàng, tình cảm gần gũi yêu thương chăm sóc trẻ tạo không khí đầm ấm hào
hứng như gia đình, tổ chức tốt các hoạt động để phụ huynh yên tâm, tin tưởng
thu hút cháu đến với cô ngày càng đông hơn. Các cháu hiểu biết nhiều điều,
ngoan, sạch sẽ, có nề nếp thói quen văn minh để hình thành nhân cách trẻ toàn
diện 5 lĩnh vực phát triển. Ngoài ra cô cần sáng tạo linh hoạt trong việc xây

19



dựng kế hoạch mục tiêu nội dung, hình thức, có biện pháp mới phù hợp với kế
hoạch chăm sóc hơn.
Phối hợp chặt chẽ gia đình, nhà trường, thống nhất một số phương pháp
chăm sóc, nuôi dạy giúp trẻ không bị thấp còi, suy dinh dưỡng và mắc một số
bệnh khác. Cô chú ý nhiều đến trẻ yếu, trẻ cá biệt, có biện pháp động viên khích
lệ, khen ngợi kịp thời giúp trẻ hứng thú ăn ngon miệng, ăn hết suất, không kén
chọn thức ăn. “Trẻ khỏe mạnh, hồn nhiên, thông minh, nhanh nhẹn, là niềm
hạnh phúc của gia đình,là tương lai của đất nước”.
* Kiến nghị:
Qua quá trình thực hiện viết sáng kiến kinh nghiệm tôi có một số đề xuất:
- Cần phối hợp tạo sự liên kết giữa gia đình và nhà trường chia sẻ hỗ trợ lẫn
nhau trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ, đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển
vế mọi mặt của trẻ, tạo điều kiện tốt mục tiêu chăm sóc giáo dục trẻ.
- Hàng năm phòng giáo dục và đào tạo phối hợp với trung tâm y tế dự
phòng Huyện tổ chức tập huấn về chuyên đề giáo dục dinh dưỡng và VSATTP
cho tất cả các giáo viên trong huyện đề được tham gia.
- Nhà trường có kế hoạch mua sắm, bổ sung trang thiết bị để phục vụ ăn
uống đặc biệt tham mưu với các cấp lãnh đạo địa phương tu sửa, mua sắm thêm
những trang thiết bị hiện đại hơn nhằm phục vụ cho công tác chăm sóc, nuôi
dưỡng giáo dục trẻ.
- Các nhóm lớp hàng năm trang trí môi trường trong và ngoài lớp và cần
chú trọng hơn về góc tuyên truyền với phụ huynh.
Trên đây là sáng kiến nhỏ của bản thân đã áp dụng vào lớp mình đang thực
hiện và đạt được hiệu quả rất cao.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
Nga Yên, ngày 12 tháng 4 năm 2017
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình,
không sao chép nội dung của người khác

Người thực hiện
Mai Thị Liên

Mai Thị Huệ
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nghị quyết hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành trung ương Đảng (khóa
VIII) về định hướng phát triển giáo dục- đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa
hiện đại hóa.
2. Chuyên đề hè năm 2016-2017 của sở giáo dục và đào tạo Thanh Hóa.
3. Quyết định số 2824-QĐ-BYT do Bộ Y tế ban hành 30/7/2007 về việc
Phê duyệt bảng nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam.
20


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD & ĐT, CẤP SỞ GD & ĐT
VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Mai Thị Huệ
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường MN Nga Yên

TT

Tên đề tài sang kiến

Cấp đánh giá
xếp loại (Phòng,
Sở, Tỉnh)


Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B, C)

Năm học
đánh giá
xếp loại
21


1

2

3

4

Một số biện pháp giáo dục
âm nhạc cho trẻ 4 - 5 tuổi
Phòng GD & ĐT
Một số hình thức tổ chức
sinh hoạt tổ nuôi dưỡng
nhằm góp phần nâng cao
chất lượng bữa ăn và
Phòng GD & ĐT
phòng chống suy dinh
dưỡng cho trẻ tại trường
mầm non

Kinh nghiệm giáo dục dinh
dưỡng và vệ sinh an toàn
thực phẩm cho trẻ 5 - 6
Phòng GD & ĐT
tuổi ở trường mầm non
Nga Yên
Kinh nghiệm giáo dục dinh
dưỡng và vệ sinh an toàn
thực phẩm cho trẻ 5 - 6
Phòng GD & ĐT
tuổi ở trường mầm non
Nga Yên

B

2010 -2011

B

2012-2013

A

2013-2014

C

2013-2014

22




×