Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Một số kinh nghiệm nhằm phát triển vốn từ cho trẻ 25 36 tháng tuổi ở trường MN nga nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 25 trang )

MỤC LỤC
Nội dung

Trang

1. MỞ ĐẦU

1

1.1- Lý do chọn đề tài

1

1.2- Mục đích nghiên cứu

2

1.3- Đối tượng nghiên cứu

2

1.4- Phương pháp nghiên cứu

2

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN

2

2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm


2

2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nhiệm

3

2.3. Các phương pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

4

2.3.1. Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi:
2.3.2.Giáo dục ngôn ngữ thông qua các hoạt động chơi – tập có chủ
định.
2.3.3 Thường xuyên tổ chức các trò chơi nhằm phát triển ngôn ngữ,
tăng vốn từ và kích thích trẻ nói câu dài.
2.3.4. Thường xuyên phối kết hợp với phụ huynh để phát triển ngôn
ngữ cho trẻ khi ở nhà.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:

5

3 KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1- Kết luận:
3.2- Kiến nghị:

6
13
15
16
17

17
17

1


1. MỞ ĐẦU
1. 1. Lý do chọn đề tài:
Ngôn ngữ có vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển của mỗi quốc
gia, dân tộc, đôi khi còn là nhân tố đảm bảo sự ổn định và tiến bộ của mỗi quốc
gia, dân tộc đó. Chẳng những thế, ngôn ngữ còn góp phần quan trọng trong việc
kế thừa và bảo tồn các di sản văn hóa dân tộc. Sinh thời, Hồ Chí Minh rất quan
tâm đến việc sử dụng và bảo vệ tiếng Việt, Người thường nhắc nhở mọi người
phải biết giữ gìn và quý trọng tiếng Việt. Bác đã căn dặn chúng ta: “Ngôn ngữ
là thứ của cải vô cùng lâu đời, vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải
quý trọng nó, giữ gìn nó và làm cho nó phát triển ngày càng rộng khắp” [1].
Vì vậy ngay từ bậc học mầm non chúng ta cần phải chú trọng đến việc phát triển
ngôn ngữ cho trẻ chuẩn xác nhất. Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là
tương lai của xã hội. Trẻ em hôm nay là những công dân tương lai của đất nước,
việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ là trách nhiệm của nhà nước và toàn xã hội,
của mỗi gia đình. Ngôn ngữ là một công cụ hữu hiệu để trẻ có thể bày tỏ những
nguyện vọng của mình từ khi cón rất nhỏ để người lớn có thể chăm sóc, điều
khiển, giáo dục trẻ là một điều kiện quan trọng để trẻ tham gia vào mọi hoạt
động và trong hoạt động hình thành nhân cách của trẻ. Ngôn ngữ phát triển làm
cho tư duy phát triển, ngôn ngữ phát triển toàn diện của trẻ bao gồm cả sự phát
triển vế đạo đức, chuẩn mực hành vi văn hóa, ngôn ngữ phát triển giúp trẻ sớm
tiếp thu những giá trị thẩm mĩ trong thơ ca, truyện kể, những tác phẩm nghệ
thuật ngôn từ đầu tiên người lớn có thể đem đến cho trẻ từ những ngày thơ ấu,
sự tác động của lời nói nghệ thuật như một phương tiện hữu hiệu giáo dục thẩm
mĩ cho trẻ.

Ngôn ngữ có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách của
trẻ em. Ngôn ngữ là phương tiện giữ gìn bảo tồn, truyền đạt và phát triển những
kinh nghiệm lịch sử và phát triển xã hội của loài người. Trẻ em sinh ra đầu tiên
là những cơ thể sinh học, nhờ có ngôn ngữ là phương tiện giao lưu bằng hoạt
động tích cực của mình dưới sự giáo dục và dạy học của người lớn trẻ em dần
chiếm lĩnh được những kinh nghiệm lịch sử- xã hội của loài người và biến nó
thành cái riêng của mình. Trẻ em lĩnh hội ngôn ngữ sẽ trở thành những chủ thể
có ý thức, lĩnh hội kinh nghiệm của loài người xây dựng xã hội ngày càng phát
triển hơn.
Ngôn ngữ là phương tiện để phát triển tư duy, là công cụ hoạt động trí tuệ
và là phương tiện để giáo dục tình cảm, thẩm mỹ cho trẻ. Như vậy ngôn ngữ có
vai trò to lớn đối với xã hội và đối với con người. Vấn đề phát triển ngôn ngữ
một cách có hệ thống cho trẻ ngay từ nhỏ là nhiệm vụ vô cùng quan trọng.
Là một cô giáo Mầm Non trực tiếp dạy trẻ 25- 36 tháng tôi luôn có những
suy nghĩ trăn trở làm sao để dạy các con phát âm chuẩn, chính xác đúng Tiếng
Việt. Vì thế tôi đã dạy các con thông qua các môn học khác nhau và dạy các con
ở mọi lúc mọi nơi qua các hoạt động hàng ngày, từ đó trẻ khám phá hiểu biết về
mọi sự vật hiện tượng, về thế giới xung quanh trẻ, phát triển tư duy. Tôi thấy
mình cần phải đi sâu tìm hiểu kỹ vấn đề này để từ đó rút ra nhiệm vụ giáo dục
2


cho phù hợp với yêu cầu phát triển của lứa tuổi. Chính vì vậy nên tôi đã chọn đề
tài: “Một số kinh nghiệm phát triển ngôn ngữ cho trẻ độ tuổi 25- 36 tháng ở
trường Mầm non Nga Nhân” nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ
đối với chương trình GDMN mới hiện nay.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Là một giáo viên chủ nhiệm lớp ngay từ đầu năm học tôi luôn quan tâm
đến đặc điểm tâm sinh lý cũng như ngôn ngữ giao tiếp của từng trẻ nhằm khám
phá, tìm hiểu khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ để kịp thời có những biện pháp

giáo dục nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ độ tuổi 25-36 tháng ở trường Mầm
non Nga Nhân, và nâng cao dần ngôn ngữ cho trẻ.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Tại nhóm trẻ 24- 36 tháng, trường Mầm non Nga Nhân
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Khảo sát thực tế nhóm lớp, thu thập thông tin
- Thống kê, xử lý số liệu
- Cung cấp kiến thức bằng các phương pháp giáo dục: tác động bằng tình
cảm, trực quan minh họa, thực hành, dùng lời nói và đánh giá nêu gương.
- Phối kết hợp với các bậc phụ huynh, tham mưu với cấp trên trong việc
nghiên cứu và thực hiện đề tài.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Ngôn ngữ của trẻ cũng như mọi hành vi khác được hình thành do thao tác
quyết định, và sự “bắt chước” là rất quan trọng. Những thao tác về ngôn ngữ
cùng với sự giúp đỡ của người lớn sẽ cho trẻ nhanh chóng trưởng thành về ngôn
ngữ. U. Sinxki đã nhận định “Tiếng mẹ đẻ là cơ sở của mọi sự phát triển, là
vốn quý của mọi tri thức” [2]
Ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong việc giáo dục trí tuệ cho trẻ Trước hết,
ngôn ngữ là phương tiện giúp trẻ nhận thức thế giớ xung quanh. Song sự lĩnh
hội những tri thức đó lại không thể thực hiện được khi không có ngôn ngữ.
Ngôn ngữ chính là cơ sở của mọi suy nghĩ và công cụ của tư duy. Trẻ em
có nhu cầu rất lớn trong việc nhận thức thế giới xung quanh, trong quá trình
nhận thức những sự vật hiện tượng, muốn cho các cháu phân biệt các vật này
với vật khác, biết được tên giọi, hình dạng, công dụng, và những thuộc tính cơ
bản của vật, nếu chỉ cho các cháu xem xét mà không dùng từ ngữ để giải thích,
hướng dẫn và khẳng định những kết quả đã quan sát được thì những tri thức mà
các cháu thu được đó nhất định sẽ hời hợt, nông cạn, có khi còn sai lệch hẳn.
Trong khi nhận thức các sự vật đó, trẻ phải dùng từ để gọi tên sự vật, tên các chi
tiết, đặc điểm, tính chất, công dụng của sự vật, từ đó trẻ biết phân biệt sự vật nà

với sự vật khác.
Khi đứa trẻ đã lớn nhận thức của trẻ phát triển. Trẻ không chỉ nhận thức
những sự vật, hiện tượng trẻ không trực tiếp nhìn thấy. Trẻ muốn biết cả về quá
khứ cả về tương lai: trẻ muốn biết cả công việc của người lớn, của bố mẹ, của
Bác Hồ, của chú bộ đội…Để đáp ứng những nhu cầu đó trẻ không có cách nào
3


khác là thông qua lời kể của người lớn, thông qua tac phẩm văn học…có kết hợp
với hình ảnh trực quan.
Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách con người nói chung và trẻ
Mầm non nói riêng thì ngôn ngữ có một vai trò rất quan trọng không thể thiếu
được. Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt đối với trẻ
nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh
hình thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hoà nhập với
cộng đồng và trở thành một thành viên của cộng đồng. Nhờ có những lời chỉ dẫn
của người lớn mà trẻ dần dần hiểu được những quy định chung của xã hội mà
mọi người đều phải thực hiện theo những quy định chung đó.
Ngôn ngữ còn là phương tiện giúp trẻ tìm hiểu khám phá, nhận thức về
môi trường xung quanh, thông qua cử chỉ lời nói của người lớn trẻ sẽ được làm
quen với các sự vật, hiện tượng có trong môi trường xung quanh. Nhờ có ngôn
ngữ mà trẻ sẽ nhận biết ngày càng nhiều màu sắc, hình ảnh… của các sự vật,
hiện tượng trong cuộc sống hàng ngày.
Đặc biệt đối với trẻ 24- 36 tháng cần giúp trẻ phát triển mở rộng các loại
vốn từ, biết sử dụng nhiều loại câu bằng cách thường xuyên nói chuyện với trẻ
về những sự vật, hiện tượng, hình ảnh…. mà trẻ nhìn thấy trong sinh hoạt hành
ngày, nói cho trẻ biết đặc điểm, tính chất, công dụng của chúng từ đó hình thành
ngôn ngữ cho trẻ.
2.2.Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
* Thuận lợi:

- Đối với nhà trường và cơ sở vật chất:
Trường Mầm non Nga Nhân có phòng học rộng rãi, có đầy đủ trang thiết
bị đồ dùng đồ chơi cho trẻ học tập, có đội ngũ quản lý, đội ngũ giáo viên đạt
chuẩn, yêu nghề mến trẻ, có trình độ chuyên môn vững vàng, tích cực học tập
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, góp phần nâng cao chất lượng chăm
sóc giáo dục trẻ.
Trường được các cấp các ngành của xã quan tâm đầu tư xây dựng ngôi
trường khang trang, sạch đẹp, có các phòng học, đồ dùng đồ chơi phong phú về
chủng loại để các đến trường được ăn ngủ tại trường nên thuận tiện cho việc tích
hợp hoạt động trong việc làm quen với ngôn ngữ của trẻ 25-36 tháng cho trẻ ở
mọi lúc mọi nơi.
Đồ dùng đồ chơi trang thiết bị phục vụ cho hoạt động phát triển ngôn ngữ
tương đối đầy đủ.
Đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ phong
phú về màu sắc và hình ảnh, hấp dẫn thu hút trẻ.
- Đối với phụ huynh
Đa số phụ huynh trong lớp quan tâm đến việc học tập của con em mình,
cùng phối kết hợp với giáo viên trong lớp để thống nhất phương pháp giáo dục
trẻ đặc biệt là hoạt động làm quen với ngôn ngữ. Ngoài ra phụ huynh còn tìm
kiếm các nguyên liệu để cùng với giáo viên làm thêm những đồ dùng, đồ chơi
4


phục vụ cho hoạt động phát triển ngôn ngữ của trẻ. Điều này có tác dụng rất lớn
trong việc tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với phát triển ngôn ngữ.
- Đối với giáo viên:
Bản thân có trình độ đạt chuẩn, có năng lực, phương pháp, tác phong tốt.
Luôn nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ và đã trải qua nhiều năm kinh nghiệm dạy lớp
25- 36 tháng nên đã rút được nhiều kinh nghiệm cũng như tìm ra nhiều biện
pháp để phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách tốt nhất.

Bản thân có khả năng để tạo ra nhiều chủng loại đồ dùng đồ chơi để phục vụ cho
trẻ hoạt động 1 cách tích cực trong lĩnh vực phát triển ngôn ngữ.
Lớp có diện tích khá rộng rãi, thoáng mát.
- Đối với trẻ:
Trẻ được phân chia theo đúng độ tuổi.
Trẻ ra lớp đúng độ tuổi, được sự quan tâm của phụ huynh, hàng ngày đưa
các cháu đi học rất chuyên cần nên cũng thuận tiện cho giáo viên thực hiện việc
phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách thường xuyên và liên tục.
* Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi mà tôi có được thì tôi cũng gặp phải không ít
khó khăn trong quá trình giảng dạy đó là:
- Đối với phụ huynh:
Một số phụ huynh trong lớp vẫn còn quan niệm rằng đối với trẻ ở lứa tuổi
này đến trường là chỉ để chơi, các cô chỉ trông coi chứ không học gì cảchưa thực
sự quan tâm đến vấn đề phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở lửa tuổi này nên phần nào
đó cũng ảnh hưởng đến chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ ở trường. Đặc biệt là
việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Đối với trẻ:
+ Đa số các cháu mới bắt đầu đi học nên còn khóc nhiều chưa thích nghi
với điều kiện sinh hoạt của lớp nên còn bở ngỡ. Mỗi cháu lại có những sở thích
và cá tính khác nhau.
+ Trí nhớ của trẻ còn nhiều hạn chế, trẻ chưa nhớ hết trật tự của các âm
khi sắp xếp thành câu vì thế trẻ thường xuyên bỏ bớt từ, bớt âm khi nói.
+ 60% trẻ phát âm chưa chính xác hay ngọng chữ x-s, dấu ngã - dấu sắc,
dấu hỏi – dấu nặng.
Chính vì những khó khăn trên bước đầu tôi đã khảo sát chất lượng để
dánh giá trẻ với kết quả như sau:
(Phụ lục 1: bảng kết quả khảo sát đầu năm)
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là giáo dục khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ và

phát âm chuẩn, phát triển vốn từ, dạy trẻ nói đúng ngữ pháp, phát triển ngôn ngữ
mạch lạc, giáo dục văn hoá giao tiếp lời nói. Ngoài ra ngôn ngữ còn là phương
tiện phát triển thẩm mỹ, tình cảm, đạo đức. Đặc biệt nhờ có ngôn ngữ mà trẻ dễ
dàng tiếp nhận những chuẩn mực đạo đức của xã hội và hoà nhập vào xã hội tốt
hơn. Chính vì vậy mà trong quá trình dạy trẻ tôi đã mạnh dạn áp dụng một số
biện pháp dạy trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua một số hoạt động sau:
5


2.3.1. Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi:
- Hoạt động đón, trả trẻ.
Hoạt động đón trẻ là lúc cần tạo không khí vui vẻ, lôi cuốn trẻ tới trường,
tới lớp cô phải thật gần gũi, tích cực trò chuyện với trẻ. Vì trò chuyện với trẻ là
hình thức đơn giản nhất để cung cấp vốn từ cho trẻ và phát triển ngôn ngữ cho
trẻ, đặc biệt là ngôn ngữ mạch lạc. Bởi qua cách trò chuyện với trẻ cô mới có thể
cung cấp, mở rộng vốn từ cho trẻ.
Ví dụ: Trong chủ đề: Bé và gia đình thân yêu của bé
Cô trò chuyện với trẻ về gia đình của trẻ:
+ Gia đình con có những ai? (bố, mẹ)
+ Buổi sáng ai đưa con đến lớp? (mẹ)
+ Con được gặp ai? (cô giáo)
Tôi nhắc nhở trẻ khi đến lớp phải chào cô, chào mẹ. Con chào cô ạ, con
chào mẹ
(Hình ảnh minh họa kèm theo phụ lục 2)
- Như vậy khi trò chuyện với cô trẻ tự tin vào vốn từ của mình, ngôn ngữ
của trẻ nhờ đó mà được mở rộng và phát triển hơn.
- Ngoài ra trong giờ đón trẻ, trả trẻ tôi luôn nhắc trẻ biết chào ông, bà, bố,
mẹ như vậy kích thích trẻ trả lời câu trọn vẹn bên cạnh đó giáo dục trẻ có thói
quen lễ phép, biết vâng lời.
- Giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động góc:

Trong quá trình trẻ vui chơi ở các góc là khoảng thời gian trẻ được giao
lưu, nói chuyện vui vẻ bên các bạn và cô giáo. Cô và trẻ cùng hòa mình trong
các vai chơi. Vì vậy tôi luôn tạo điều kiện trò chuyện nhiều với trẻ để kích thích
trẻ phát triển ngôn ngữ. Đặc biệt đối với trẻ nhút nhát và những trẻ nói chưa
thành thạo, đầy đủ cả câu. Tôi giành nhiều thời gian cho trẻ hơn, tạo cơ hội để
trẻ phát triển ngôn ngữ một cách toàn diện. Đây có thể coi là một hình thức quan
trọng nhất, bởi giờ chơi có tác dụng rất lớn trong việc phát triển vốn từ, đặc biệt
là tích cực hoá vốn từ cho trẻ. Thời gian chơi của trẻ chiếm nhiều nhất trong thời
gian trẻ ở nhà trẻ, là thời gian trẻ được chơi thoải mái nhất. Trong qúa trình trẻ
chơi sử dụng các loại từ khác nhau, có điều kiện học và sử dụng các từ có nội
dung khác nhau.
Ví dụ: Trò chơi trong góc “Thao tác vai” trẻ được chơi với em búp bê và
khi trẻ chơi sẽ giao tiếp với các bạn bằng ngôn ngữ hàng ngày.
+ Ai đây bác? (em búp bê)
+ Bác đã cho búp bê ăn chưa? (ăn rồi ạ)
+ Khi ăn bác nhớ đeo yếm để bột không dây ra áo của búp bê nhé!(vâng ạ)
+ Em búp bê ăn xong rồi bác lau miệng cho em đi!
+ Búp bê của mẹ ăn ngoan rồi mẹ cho búp bê đi chơi nhé! (Âu yếm em
búp bê).
- Qua giờ chơi cô không những dạy trẻ kỹ năng sống mà còn dạy trẻ nghe,
hiểu giao tiếp cùng nhau và trao cho nhau những tình cảm yêu thương, gắn bó
của con người.
6


Hay khi tôi hướng dẫn trẻ chơi trong góc “Hoạt động với đồ vật” ở chủ
đề “Giao thông” tôi cho trẻ sử dụng các khối gỗ có các màu, xanh, đỏ, vàng tự
tạo và cho trẻ xếp thành những chiếc ô tô, tàu và tôi sẽ hỏi trẻ:
+ Linh ơi, con đang làm gì đấy? (Xếp ô tô ạ)
+ Con xếp ô tô bằng gì đấy? (khối gỗ ạ)

+ Dũng ơi, ô tô này có màu gì hả con? (Màu đỏ ạ)
Với góc “Nghệ thuật bé khéo tay” ở chủ đề “Thế giới thực vật - Bé yêu
cây và những bông hoa đẹp” tôi vẽ tranh chiếc lá màu xanh, bông hoa màu
vàng để cho trẻ tô màu. Trẻ sẽ tô màu sắc tạo thành sản phẩm của mình. Tôi thấy
trẻ rất khéo léo, chăm chú khi làm. Khi trẻ làm tôi ân cần đến bên trẻ trò chuyện
cùng trẻ:
+ Con đang làm gì vậy? (Con tô màu ạ)
+ Bông hoa màu gì của con có màu gì? (Màu vàng ạ)
+ Cái gì đây? Cái lá ạ
+ Con tô lá màu gì? (Màu xanh ạ)
Ví dụ: Ở góc xây dựng khi trẻ đang xếp ao cá tôi đến hỏi trẻ “Các bác ơi
các bác xếp gì thế”, “chúng tôi xếp ao cá”. “Vậy xếp xong ao rồi phải làm gì”
“Thả cá vào ao”.
Như vậy bằng những cuộc trò chuyện thân mật, gần gũi, những câu hỏi,
câu trả lời đơn giản, thông qua hoạt động chơi không những rèn cho trẻ sự khéo
léo mà còn góp phần làm tăng vốn từ, phát triển ngôn ngữ mạnh lạc cho trẻ.
- Giáo dục ngôn ngữ thông qua hoạt động dạo chơi ngoài trời:
Hàng ngày đi dạo chơi quanh sân trường tôi thường xuyên đặt câu hỏi để
trẻ được gọi tên các đồ chơi quanh sân trường như: Đu quay, cầu trượt, bập
bênh… Ngoài ra tôi còn giới thiệu cho trẻ biết cây xanh, cây hoa ở vườn trường
và hỏi trẻ:
+ Cây hoa này có màu gì? (Màu đỏ ạ)
+ Đây là cây gì? (Cây nhãn ạ)
+ Các con có nhìn thấy con gì đang bay đến không?
+ Con gì vậy? (Con chim)
+ Các con nhớ cây xanh rất tốt cho sức khoẻ của con người các con
không được hái hoa, bẻ cành mà phải tưới cây để cây mau lớn nhé! (Vâng ạ)
Qua những câu hỏi cô đặt ra sẽ giúp trẻ tích luỹ được những vốn từ mới
ngoài ra còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ chính xác, mạch lạc, rõ ràng hơn.
Ở lứa tuổi này trẻ nhiều khi hay hỏi và trả lời trống không hoặc nói những

câu không có nghĩa. Vì vậy bản thân tôi luôn chú ý lắng nghe và nhắc nhở trẻ,
nói mẫu cho trẻ nghe và yêu cầu trẻ nhắc lại.
* Kết quả: Sau khi áp dụng vào thực tiễn tôi thấy trẻ mạnh dạn, tự tin giao
tiếp, có nề nếp, thói quen chào hỏi lễ phép, có thể nói câu dài 3-4 từ, trẻ phát âm
rõ ràng hơn, ít nói từ địa phương.
2.3.2.Giáo dục ngôn ngữ thông qua các hoạt động chơi – tập có chủ
định.
- Thông qua hoạt động nhận biết:
7


Đây là môn học quan trọng nhất đối với sự phát triển ngôn ngữ và cung
cấp vốn từ vựng cho trẻ.
Trẻ ở lứa tuổi 25-36 tháng đang bắt đầu học nói, bộ máy phát âm chưa
hoàn chỉnh, vì vậy trẻ thường nói không đủ từ, nói ngọng, nói lắp. Cho nên trong
tiết dạy cô phải chuẩn bị đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn để gây hứng thú cho
trẻ. Bên cạnh đó cô phải chuẩn bị một hệ thống câu hỏi rõ ràng ngắn gọn trong
khi trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu không nói cộc lốc.
Trẻ ở lứa tuổi này không những có khả năng nhận biết từng sự vật riêng lẻ
mà còn có khả năng khái quát hoá đơn giản các sự vật hiện tượng. Vì vậy, khi
dạy trẻ từ 25-36 tháng tuổi nhận biết. Tôi chú trọng sử dụng các đồ dùng trực
quan đa dạng (vật thật, đồ chơi, tranh ảnh) bằng các nguyên vật liệu khác nhau
như: cao su, nhựa bông…và các đồ dùng tự tạo bằng những nguên vật liệu sẵn
có ở địa phương. có kích thước mầu sắc khác nhau như: To, nhỏ, mầu đỏ, xanh,
vàng…Các đồ dùng dạy trẻ phải đảm bảo tính giáo dục và tính thẩm mỹ. Tôi
thường chú ý cho trẻ nhận biết hai loại bài dạy:
- Loại bài dạy nhận biết về sự vật, hiện tượng:
+ Nếu nội dung bài dạy giúp trẻ làm quen với tên gọi và 1 -> 2 đặc điểm
đặc trưng của vật thì một lần luyện tập cô giáo cho trẻ làm quen với 2 -> 3 vật.
Ví dụ: Trong bài nhận biết: “con bò, con lợn” tôi tạo tình huống gây hứng

thú cho trẻ một cách phù hợp, hấp dẫn thu hút sự chú ý của trẻ vào nội dung bài
dạy sau đó cô đưa từng con vật ra và hỏi trẻ: Con gì đây? nó kêu như thế nào?
Khi trẻ trả lời song theo câu hỏi của cô, cô tiếp tục đặt hai con vật cạch nhau và
đặt câu hỏi: con gì đây? Kêu như thế nào? con gì kêu éc…éc? Con gì kêu bò…
bò?. Cô mở rộng tiết dạy bằng cách hỏi trẻ nhà các cháu nuôi con gì? nó kêu
như thế nào? con gì nữa?... Ngoài những con vật đó thì trong gia đình các con
còn nuôi những con gì nữa sau đó cô cho trẻ so sánh những đặc điểm giống nhau
và khác nhau rõ nét giữa các con vật.
Cô cho trẻ xem tranh con bò, con lợn và đặt các câu hỏi như trên. cuối giờ
học cô có thể cho trẻ chơi trò chơi bắt chước tiếng kêu của con vật nhằm phát
huy tính tích cực của trẻ, tận dụng mọi cơ hội để phát triển ngôn ngữ, trí tuệ,
tình cảm cho trẻ.
+ Nếu nội dung bài dạy giúp trẻ làm quen với đặc điểm của một vật, thì
một lần luyện tập Cô cho trẻ làm quen với 4 -> 5 đặc điểm của vật đó.
Ví dụ: Trong bài nhận biết tập nói: “Con thỏ” cô tạo tình huống gây hứng
thú cho trẻ một cách nhẹ nhàng, hấp dẫn thu hút trẻ. Sau khi cho thỏ xuất hiện
cô mượn lời thỏ chào trẻ và dạy chào bạn thỏ, cô đặt câu hỏi: con gì đây? tai thỏ
thế nào? lông thỏ mầu gì? đuôi thỏ thế nào? thỏ thích ăn gì? với hệ thống câu
hỏi này nhăm phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua việc làm quen với một số đặt điểm
rõ nét về con thỏ.
Ví dụ: Trong bài nhận biết “Quả cam” tôi cung cấp vốn từ mới “quả
cam”, “màu vàng”, “cái vỏ”, “múi cam”, “hạt”, “vị ngọt”… Và tạo cơ hội để trẻ
được đọc từ nhiều. Tôi chuẩn bị mô hình vật thật cho trẻ khám phá và trải
nghiệm bằng các giác quan, sò, ngửi, nếm. Để kích thích sự tò mò và tạo cơ hội
8


cho trẻ được sử dụng các giác quan để khám phá về quả cam. Tôi đã chuẩn bị
chiếc túi kỳ lạ. Sau đó cho trẻ sờ và tìm quả theo yêu cầu của cô. Trẻ sử dụng
các giác quan như: sờ, nhìn, ngửi, nếm nhằm phát huy tính tích cực của tư duy,

rèn khả năng ghi nhớ có chủ định.
- Để giúp trẻ hứng thú tập trung vào đối tượng quan sát tôi đã đưa ra hệ
thống câu hỏi:
+ Đây là quả gì? (quả cam ạ)
+ Quả cam có màu gì? (màu vàng ạ)
+ Vỏ cam như thế nào? (vỏ nhẵn ạ)
+ Đây là cái gì? (vỏ cam, múi cam)
+ Ăn cam có vị gì? (vị ngọt ạ)
- Trong khi trẻ trả lời cô phải chú ý đến câu trả lời của trẻ. Trẻ phải nói
được cả câu theo yêu cầu câu hỏi của cô. Nếu trẻ nói cộc lốc, thiếu từ cô phải
sửa ngay cho trẻ.
Ví dụ: Bài nhận biết “Ô tô”
Khi vào bài tôi đặt câu đố:
“Xe gì bốn bánh
Chạy ở trên đường
Còi kêu bim bim
Chở hàng chở khách” (Ô tô)
- Trẻ trả lời đó là ô tô tôi đưa chiếc ô tô cho trẻ xem và hỏi:
+ Xe gì đây?
+ Ô tô có màu gì?
+ Ô tô đi ở đâu?
+ Ô tô dùng để làm gì?
+ Còi ô tô kêu như thế nào?
+ Đây là cái gì? (Cô hỏi từng bộ phận của ô tô và yêu cầu trẻ trả lời)
Trong quá trình dạy trẻ tôi phát hiện có rất nhiều chúa nói ngọng trẻ hay
nói ô tô - (ô chô). Tôi sửa sai ngay cho trẻ, vì vậy mà trẻ ít nói ngọng hơn, phat
triển từ chuẩn xác.
(Hình ảnh minh họa kèm theo phụ lục 3)
Cứ như vậy tôi đặt hệ thống câu hỏi từ tổng thể đến chi tiết để trẻ trả lời
nhằm kích thích trẻ phát triển tư duy và ngôn ngữ cho trẻ, qua đó lồng liên hệ

thực tế giáo dục trẻ về an toàn giao thông khi đi trên đường.
- Loại bài dạy ôn luyện:
Cho trẻ ôn luyện các vật đã học trong tháng, lúc đầu cô cho trẻ xem, nhắc
lại từng vật một sau đó cho trẻ nhận biết lựa chọn tất cả các vật cùng một lúc,
mỗi lần cho trẻ luyện tập gồm :
Bước 1: Quan sát.
Khi cho trẻ quan sát vật, cô không nói ra ngay tên gọi, đặc điển của vật
mà nên đặt thành câu hỏi ngắn gọn, chính xác để dịnh hướng sự trả lời của trẻ
và phát huy tính chủ động, tích cực trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Nếu
trẻ không trả lời được, cô nói cho trẻ biết và đặt lại câu hỏi để trẻ nhắc lại.
9


Bước 2: Luyện tập.
Trong bước luyện tập cô nên đưa ra nhiều dạng câu hỏi để trẻ trả lời.
Ví dụ:
+ Con gì đây?
+ Cái gì đây?
+ Để làm gì?
+ Như thế nào?
+ Có cái gì?...
Cùng một nội dung trả lời, cô phải đặt nhiều dạng câu hỏi khác nhau. Ví
dụ:
+ Gà gáy thế nào?
+ Con gì gáy ò…ó…o ?
Với những câu hỏi trên nhằm phát triển ngôn ngữ đồng thời kích thích sự
phát triển tư duy cho trẻ.
- Thông qua hoạt động làm quen với văn học (giờ thơ, truyện):
Trên tiết học khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là phát triển ngôn
ngữ nói cho trẻ và còn hình thành phát triển ở trẻ kỹ năng nói mạch lạc, giúp trẻ

bước đầu tiếp cận và phát triển ngôn ngữ nghệ thuật. Muốn làm được như vậy
trẻ phải có vốn từ phong phú hay nói cách khác là trẻ cũng được học thêm được
các từ mới qua giờ học thơ, truyện.
Để giờ thơ, truyện đạt kết quả cao cũng như hình thành ngôn ngữ cho trẻ
thì đồ dùng phục vụ cho tiết học phải đảm bảo:
+ Đồ dùng phải đẹp, màu sắc phù hợp đảm bảo tính an toàn và vệ sinh cho
trẻ.
+ Nếu là tranh vẽ phải đẹp, phù hợp với câu truyện, phía dưới phải có chữ
to giúp cho việc phát triển vốn từ của trẻ được thuận lợi.
+ Bản thân giáo viên phải thuộc truyện, ngôn ngữ của cô phải trong sáng,
giọng đọc phải diễn cảm, thể hiện đúng ngữ điệu của các nhân vật.
*Kể chuyện:
Để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ qua giờ kể chuyện, tôi căn cứ vào từng nội
dung,quá trình tiếp xúc câu truyện mà tôi chuẩn bị đồ dùng trực quan chu đáo.
Tôi cố gáng luyện giọng để có giọng kể hấp dẫn, tạo sự thích thú của trẻ khi
nghe cô kể chuyện.
Ví dụ: Khi dạy trẻ câu truyện “Thỏ ngoan” trước hết tôi kể bằng mô hình,
cho trẻ trực tiếp tiếp xúc với các nhân vật; Sau đó tôi cho trẻ nghe truyện kết
hợp xem tranh.
Tôi dùng câu hỏi đàm thoại, phát huy tính sáng tạo, tư duy, tính phán đoán
của trẻ,làm phong phú vốn từ của trẻ như:
+ “Bác gấu đang đi giữa rừng thì trời làm sao”?.
+ “Bác đã đến gõ cửa nhà ai trước” ?.
+ “Bạn thỏ là người như thế nào”?.
+ “Bạn Thỏ và cáo các con yêu ai nhất”?.
10


Để trẻ suy nghĩ trả lời,trong quá trình đàm thoại, tôi khai thác nội dung
trong mỗi câu truyện giúp trẻ khắc sâu hình ảnh tốt đẹp. Kích thích trẻ trả lời

đầy đủ câu. Khi đã thu hút và sự chú ý của trẻ vào bài học một cách nhẹ nhàng.
các lần dạy sau trẻ tập kể bằng cách đưa ra các mẫu câu cho trẻ tập nói theo cô.
Ngoài việc giúp trẻ thể hiện ngữ điệu, sắc thái tình cảm của các nhân vật trong
truyện tôi còn sửa sai những từ trẻ hay nói ngọng để giúp trẻ phát âm chuẩn và
động viên những trẻ nhút nhát mạnh dạn hơn khi trả lời.
+ Trẻ nói Thỏ ngoan
Thỏ ngan
+ Bác Gấu
Bác ấu
+ Con Cáo
Con áo
Mỗi khi trẻ nói sai tôi dừng lại sửa sai luôn cho trẻ bằng cách: tôi nói mẫu
cho trẻ nghe 1-2 lần sau đó yêu cầu trẻ nói theo.
- Thể hiện sắc thái, ngữ điệu nhân vật sẽ cuốn hút rất nhiều trẻ tham gia
đặc biệt những trẻ nhút nhát qua đó cũng mạnh dạn hơn. Đối với những trẻ đó
tôi động viên, khích lệ trẻ kịp thời.
- Tôi cho trẻ thể hiện ngữ điệu của các nhân vật trong truyện “Thỏ
ngoan” để bước đầu dạy trẻ tiếp cận với ngôn ngữ nghệ thuật.
+ Giọng Bác Gấu bị mưa rét thì ồm ồm và run, nét mặt buồn.
+ Giọng con Cáo thì gắt gỏng, nét mặt kênh kiệu.
+ Giọng Thỏ thì ân cần, niềm nở.
Ví dụ: Trẻ nghe câu truyện “Đôi bạn nhỏ”. Tôi cung cấp vốn từ cho trẻ đó
là từ “Bới đất”. Cô có thể cho trẻ xem tranh mô hình một chú gà đang lấy chân
để bới đất tìm giun và giải thích cho trẻ hiểu từ “Bới đất”.
(Các con ạ, bản năng của những chú gà là mỗi khi đi kiếm ăn các chú phải
lấy chân để bới đất, đào đất lên để tìm thức ăn cho mình, khi kiếm được thức ăn
chú gà sẽ lấy mỏ để ăn đấy). Sau khi giải thích tôi cũng chuẩn bị một hệ thống
câu hỏi giúp trẻ nhớ được nội dung truyện và từ vừa học:
+ Hai bạn Gà và Vịt trong câu truyện cô kể rủ nhau đi đâu?
+ Vịt kiếm ăn ở đâu?

+ Thế còn bạn Gà kiếm ăn ở đâu?
+ Bạn Gà kiếm ăn như thế nào?
+ Khi hai bạn đang kiếm ăn thì con gì xuất hiện đuổi bắt Gà con?
+ Vịt con đã cứu Gà con như thế nào?
+ Qua câu truyện con thấy tình bạn của hai bạn Gà và Vịt ra sao?
+ Nếu như bạn gặp khó khăn thì các con phải làm gì?
- Cô kể 1-2 lần cho trẻ nghe giúp trẻ hiểu thêm về tác phẩm và qua đó lấy
nhân vật để giáo dục trẻ phải biết yêu thương và giúp đỡ bạn trong lúc gặp khó
khăn. Qua hoạt động kể chuyện giúp trẻ phát triển từ nhanh, nói mạch lạc, nói
đầy đủ cả câu, không bị nói ngọng.
*Đọc thơ:
Trẻ từ 25-36 tháng tuổi rất thích nhẩm đọc theo cô và có khả năng học
thuộc bài thơ. Khi dạy trẻ đọc thơ, cô đọc diễn cảm, rõ ràng toàn bộ bài thơ làm
nhiều lần, kết hợp với các động tác minh hoạ. Cô đọc với âm lượng vừa đủ để cả
11


lớp cùng nghe, phát âm chuẩn xác tránh nói ngọng. Khi đọc phải ngắt nghỉ đúng
chỗ, thể hiện được vần điệu, nhịp điệu của bài thơ. Chú ý đến các từ tượng hình,
tượng thanh, các từ khó giảng giải từ khó phải chính xác nhưng dễ hiểu.
Tiến trình tiết học “đọc thơ” cho trẻ 25-36 tháng: Lần 1 cô đọc diễn cảm
bài thơ; Lần 2: Đọc kết hợp xem tranh; Lần 3 đọc trích dẫn đàm thoại.
Để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ cô cho trẻ đọc thơ: Cả lớp đọc, tổ đọc,
nhóm đọc, cá nhân đọc. Khi trẻ đọc thơ tôi chú ý sửa sai cho trẻ, giúp trẻ phát
âm đúng thú giúp trẻ nhanh chóng hiểu nội dung bài thơ, câu chuyện.
Ví dụ: Với bài thơ “Hoa nở” chủ đề thế giới thực vật.
+ Hoạt động 1: Dạo chơi công viên.
- Cô và các con cùng đi chơi công viên nhé!
- Cô giáo dục trẻ đi đúng luật lệ giao thông.
- Cô và trẻ vừa đi vừa hát bài “Hoa trong vườn”.

- Ở đây có rất nhiều loại hoa khoe sắc, chúng mình cùng đi ngắm hoa
nào!.
- Cô chỉ vào từng loại hoa cho trẻ quan sát gọi tên và màu sắc của hoa.
- Các loại hoa có vẽ đẹp khác nhau nhưng đều có ích lợi làm đẹp cảnh
quang môi trường và vì thế cô có một bài thơ nói về các loài hoa rất hay các con
hãy lắng nghe xem có những loại hoa gì nhé.
+ Hoạt động 2: Cô đọc mẫu
- Cô đọc thơ lần 1.
- Cô đọc thơ lần 2, cho trẻ xem tranh.
- Cô đọc lần 3.
*Trẻ đọc:
- Cô cho cả lớp đọc 1-2 lần.
- Cho hai tổ đọc nối tiếp.
- Cho trẻ đọc to, đọc nhỏ.
- Cá nhân đọc.
*Đàm thoại:
- Cô đưa hình thức “Đố vui có thưởng”.
- Hai đội sẽ thi nhau lắc nhịp để trả lời câu hỏi, nếu đúng sẽ được một
phần quà.
+ Các con thấy có những loại hoa nào trong bài thơ?
+ Hoa cà có màu gì? Hoa mướp có màu gì?.....
+ Nhà thơ đã nhắc các bạn nhỏ điều gì?
+ Vì sao các bạn nhỏ đừng nên hái hoa tươi?
* Giáo dục: Các con không được hái hoa vì hoa làm đẹp cho môi trường,
hoa còn kết trái để có quả chín cho các con ăn nữa, các con phải biết chăm sóc
cây để cây cho nhiều hoa thêm nữa.
Ví dụ: Qua bài thơ “Cây bắp cải” tôi muốn cung cấp cho trẻ từ “Sắp vòng
quanh”. Tôi chuẩn bị một chiếc bắp cải thật để cho trẻ quan sát, trẻ phải được
nhìn, sờ, ngửi…..và qua vật thật tôi sẽ giải thích cho trẻ từ “sắp vòng quanh”.
12



- Tôi giải thích cho trẻ: Các con nhìn này đây là cây bắp cải mà hàng ngày
mẹ vẫn mua về để nấu cho các con ăn đấy. Các con nhìn xem lá bắp cải rất to có
màu xanh và khi cây bắp cải càng lớn thì lá càng cuộn thành vòng tròn xếp
chồng lên nhau, lá non thì nằm ở bên trong được bao bọc bằng những lớp lá già
ở ngoài. Bên cạnh đó tôi cũng chuẩn bị câu hỏi để trẻ trả lời:
+ Cô vừa đọc cho các con nghe bài thơ gì?
+ Cây bắp cải trong bài thơ được miêu tả đẹp như thế nào?
+ Còn lá bắp cải được nhà thơ miêu tả ra sao?
+ Búp cải non thì nằm ở đâu?
Như vậy qua bài thơ ngoài những từ ngữ trẻ đã biết lại cung cấp thêm vốn
từ mới cho trẻ để ngôn ngữ của trẻ thêm phong phú.
- Ngoài việc cung cấp cho trẻ vốn từ mới thì việc sửa lỗi nói ngọng, nói
lắp cũng vô cùng quan trọng khi trẻ giao tiếp. Khi áp dụng vào bài dạy tôi luôn
chú trọng đến điều này và đã kịp thời sửa sai cho trẻ ngay tại chỗ.
Như vậy thơ truyện không những kích thích nhận thức có hình ảnh của
trẻ mà còn phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách toàn diện. Trẻ nhớ nội dung câu
truyện và biết sử dụng ngôn ngữ nói là phương tiện để tiếp thu kiến thức nhan và
chính xác nhất.
- Thông qua hoạt động âm nhạc:
- Để thu hút trẻ vào giờ học và giúp trẻ phát triển ngôn ngữ được tốt hơn
thôi thúc tôi phải nghiên cứu, sáng tạo những phương pháp dạy học tốt nhất có
hiệu quả với trẻ.
- Đối với tiết học âm nhạc trẻ được tiếp xúc nhiều đồ vật.
(Trống, lắc, phách tre, mõ, xắc xô…… và nhiều chất liệu khác) trẻ được
học những giai điệu vui tươi kết hợp với các loại vận động theo bài hát một cách
nhịp nhàng. Để làm được như vậy đó là nhờ sự hiểu biết, nhận thức vốn từ, kỹ
năng nhất là sự giao tiếp bằng ngôn ngữ của trẻ được tích lũy và lĩnh hội, phát
triển tính nghệ thuật, giúp trẻ yêu âm nhạc.

Qua những giờ học hát, vận động theo nhạc, trẻ đã biết sử dụng ngôn ngữ
có mục đích, biết dùng ngôn ngữ và động tác cơ bản để miêu tả những hình ảnh
đẹp của bài hát.
Ví dụ: Hát và vận động bài “Con voi”
+ Câu đầu tiên: Con vỏi con voi
Cái vòi đi trước.
(Trẻ đưa tay ra phía trước giả làm vòi con voi)
+ Câu thứ hai: Hai chân trước đi trước
Hai chân sau đi sau.
(Hai tay chống hông, hai chân nhấc lên nhấc xuống)
+ Câu cuối:
Còn cái đuôi đi sau rốt
Tôi xin kể nốt
Câu chuyên con voi.
(Một tay chống hông, một tay đưa ra đằng sau vờ làm đuôi con voi)
- Thông qua hoạt động thể dục vận động :
13


Trong góc vận động của lớp tôi đã sử dụng những thùng bìa để làm thành
tàu hoả cho trẻ chơi. Mỗi thùng làm thành một toa tàu. Trong khi chơi trẻ có thể
vừa chơi vừa kết hợp âm nhạc hát: “Đoàn tàu tí hon”, “Tàu vào ga”… vận dụng
vào phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Tôi còn phân loại màu xanh, đỏ, vàng của những chiếc vòng để khi trẻ
phân biệt màu không bị nhầm lẫn. Khi trẻ chơi với vòng tôi có thể hỏi trẻ giúp
ngôn ngữ của trẻ thêm mạch lạc, rõ ràng hơn:
+ Vòng này có màu gì hả con? (Màu vàng ạ)
+ Thế còn vòng này có màu gì đây? (Màu đỏ ạ)
* Kết quả: Từ thực tế cho thấy, sau khi áp dụng biện pháp 2 vào thực
tiễn hàng ngày, thông qua các giờ hoạt động chơi tập, ngôn ngữ của trẻ phát

triển một cách rõ rệt, trẻ biết trả lời những câu hỏi của cô đúng trọng tâm, nói
câu dài 4-5 từ, trẻ phát âm rõ ràng, ít nói ngọng.
2.3.3. Thường xuyên tổ chức các trò chơi nhằm phát triển ngôn ngữ,
tăng vốn từ và kích thích trẻ nói câu dài.
Đối với trẻ nhà trẻ, được phát triển ngôn ngữ thông qua trò chơi là một
biện pháp tốt nhất. Trò chơi đã trở thành phương tiện để cung cấp, tích luỹ được
nhiều vốn từ và trên cơ sở hiểu biết đầy đủ ý nghĩa của những từ đó trẻ biết sử
dụng “số vốn từ” đó một cách thành thạo.
Qua trò chơi trẻ sẽ được giao tiếp mạnh dạn hơn, ngôn ngữ cũng lưu loát
hơn, vốn từ của trẻ cũng được tăng lên. Và tôi nhận thấy rằng khi trẻ chơi trò
chơi xong sẽ gây sự hứng thú lôi cuốn trẻ vào bài học. Như vậy trẻ sẽ tiếp thu
bài một cách nhẹ nhàng và thoải mái
Bản thân tôi đã tìm tòi, tham khảo, đọc những tài liệu sách và tôi thấy
rằng trò chơi này thực sự có hiệu quả làm tăng thêm vốn từ cho trẻ, từ đó ngôn
ngữ của trẻ ngày càng phong phú.
Trò chơi 1: “Cái gì? Dùng để làm gì?”
- Mục đích của trò chơi này là trẻ nhận biết và nói đúng tên gọi một số đồ
dùng quen thuộc và biết tác dụng của những đồ chơi từ đó cung cấp từ mới, làm
tăng vốn từ cho trẻ:
*Chuẩn bị:
+ Đồ dùng để ăn uống (Bát, thìa, cốc, ca…)
+ Đồ dùng để mặc (Quần, áo, khăn, mũ…)
+ Mỗi trẻ một tranh lô tô đồ dùng khác nhau.
*Tiến hành:
- Tôi cho trẻ ngồi chiếu xung quanh cô. Cô nhắc tên đồ dùng nào thì trẻ
phải nói nhanh đồ dùng đó dùng để làm gì?
- Cô nói:
+ Cái bát dùng để làm gì?
+ Cái cốc dùng để làm gì?
+ Cái mũ để làm gì?

+ Cái áo để làm gì?
( Cái áo để mặc ạ)
…………………..
………………
14


Sau khi hỏi trẻ xong tôi vận dụng trò chơi này để rèn sự nhanh nhẹn và tư
duy của trẻ. Tôi phát cho mỗi trẻ một lô tô đồ dùng khác nhau. Tôi yêu cầu trẻ
gọi tên đồ dùng và xác định nơi cất đồ dùng đó trong lớp. Sau đó tôi hô: 1,2,3
yêu cầu trẻ chạy nhanh về đúng nơi đồ dùng.
- Trò chơi 2: “Con muỗi”
- Cô đứng phía trước trẻ, cô cho trẻ đọc và làm động tác theo cô.
- Cô cho trẻ đọc từng lời một có kèm theo động tác:
+ Có con muỗi vo ve, vo ve. (Trẻ giơ ngón tay trỏ ra trước mặt vẫy qua
vẫy lại theo nhịp đọc)
+ Đốt cái tay, đốt cái chân, rồi bay đi xa. (Lấy ngón tay trỏ vào cánh tay
đối diện, chỉ xuống đùi rồi dang 2 tay sang ngang).
+ Úi chà! úi chà! Dang tay ra đánh cái bép, con muỗi xẹp. Rửa tay. (Nhún
vai 2 lần, dang 2 tay sang ngang, vỗ tay một cái rồi chỉ vào chóp mũi. Sau đó
xoa 2 tay vào nhau vờ rửa tay).
- Tuỳ theo sự hứng thú của trẻ mà cho trẻ chơi 3- 4 lần. Khi trẻ chơi tôi
nhận thấy tất cả các trẻ đều tham gia đọc cùng cô, có trẻ đọc được cả câu, có trẻ
bập bẹ bớt một hai từ. Nhưng qua đó cũng giúp ngôn ngữ của trẻ dần dần được
hình thành trọn vẹn hơn .
(Hình ảnh minh họa kèm theo phụ lục 4)
- Trò chơi 3: “Trò chuyện về các PTGT quen thuộc”.
- Qua trò chơi này trẻ sẽ kể được một số phương tiện giao thông quen
thuộc như: ô tô, xe đạp, xe máy, tàu hoả….
* Chuẩn bị:

+ Mô hình các PTGT: ô tô, xe máy, xe đạp….
+ Tranh, ảnh các loại PTGT.
+ Đàn, đài có thu âm thanh tiếng kêu của các PTGT cho trẻ đoán
* Tiến hành:
Trong trò chơi này tuỳ thuộc vào thời gian rảnh rỗi tôi có thể cho trẻ chơi.
Có thể là thời điểm đón trẻ, trả trẻ, giờ chơi buổi chiều…tôi có thể đàm thoại với
trẻ về các loại PTGT mà trẻ biết như:
+ Hôm nay, ai đưa con đến trường?
+ Mẹ con đưa đến trường bằng PT gì?
+ Cô nào đón con vào lớp?
+ Hôm qua chủ nhật, bố mẹ con có đưa con đi đâu không?
+ Con đi với ai?
+ Con đi bằng PT gì?
+ Khi đi đường con nhìn thấy gì ?
+ Bạn nào đã được đi ô tô rồi ?
+ Ô tô kêu như thế nào ?
+ Khi ngồi trên ô tô phải như thế nào để đảm bảo ATGT?
Sau khi đặt những câu hỏi như vậy tôi khuyến khích trẻ kể tên những loại
PTGT khác mà trẻ biết.
15


Tiếp tục cho trẻ quan sát mô hình PTGT và cho trẻ nghe âm thanh của
PTGT yêu cầu trẻ đoán đó là PTGT nào.
- Trò chơi 4: “Trò chuyện cùng cô”
- Qua trò chơi này trẻ được phát âm nhiều, tiếp xúc nhiều với ngôn ngữ
mới qua giao tiếp với cô.
* Tiến hành:
Trong ngày tuỳ từng thời điểm mà cô dành thời gian vỗ về ôm ấp trẻ, nói
chuyện với trẻ:

* Khi cho ăn:
+ “Bạn Hùng ăn giỏi nào, con ăn cơm với gì đấy?”
+ “Bạn Hà ăn được mấy bát cơm rồi?”
* Khi thay quần áo cho trẻ cô cũng cần nựng trẻ:
+ “Cô Dương mặc áo đẹp cho Minh nhé?”
+ “Áo đẹp này ai mua cho con?”
+ Con có biết mẹ mua ở đâu không?
+ Con có thích mặc áo này không?
* Khi ngồi chơi cô trò chuyện với trẻ về một chủ đề nào đấy để khơi gợi
trẻ được phát âm nhiều:
+ Bạn Chi có bàn tay bé xíu trông rất đáng yêu này!
+ Hàng ngày các con phải làm gì để đôi bàn tay luôn sạch?
+ Thế đôi bàn tay để làm gì các con có biết không?
* Kết quả: Phải khẳng định rằng “Vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ
mầm non”, đặc biệt khi được tham gia vào các trò chơi trẻ vô cùng hứng thú, trẻ
được thỏa sức giao lưu cùng cô, cùng các bạn, trẻ biết thực hiện những yêu cầu
của trò chơi, bên cạnh đó trẻ cũng được đưa ra những ý kiến riêng về cách chơi,
luật chơi mà trẻ thích theo sự gợi mở của cô giáo, từ đó mà vốn từ của trẻ ngày
càng phong phú, trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc.
2.3.4. Thường xuyên phối kết hợp với phụ huynh để phát triển ngôn
ngữ cho trẻ khi ở nhà.
Để vốn từ của trẻ phát triển tốt không thể thiếu được đó là sự đóng góp
của gia đình. Việc giáo dục trẻ ở gia đình là rất cần thiết tôi luôn kết hợp chặt
chẽ với phụ huynh trao đổi thống nhất về cách chăm sóc nuôi dưỡng trẻ và kế
hoạch lịch sinh hoạt dạy học cho từng tháng, từng tuần cho phụ huynh nắm bắt
được.
Vì đây là trẻ nhà trẻ, trẻ bắt đầu tập nói tôi trao đổi với phụ huynh về ý
nghĩa phát triển vốn từ cho trẻ và yêu cầu phụ huynh cùng phối hợp với cô giáo
trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Hàng ngày phụ huynh phải dành nhiều
thời gian thường xuyên trò chuyện cùng trẻ, cho trẻ được tiếp xúc nhiều hơn với

các sự vật hiện tượng xung quanh, lắng nghe và trả lời các câu hỏi của trẻ.
Đối với những cháu mới đi học vốn từ của trẻ còn hạn hẹp, hơn nữa trẻ rất
hay nói ngọng, nói lắp thì vai trò của phụ huynh trong việc phối hợp với cô giáo
trong việc trò chuyện với trẻ là rất cần thiết bởi nó giúp trẻ được vận dụng
16


những kiến thức đã học vào cuộc sống của trẻ, trẻ được giao tiếp, được sửa âm ,
sửa ngọng.
Ngoài ra tôi còn kết hợp với phụ huynh sưu tầm những quyển thơ, truyện
có chữ, hình ảnh to, rõ nét, nội dung phù hợp với lứa tuổi nhà trẻ để cho trẻ làm
quen và để xây dựng góc thư viện sách truyện của lớp. Tôi phô tô các bài thơ,
câu chuyện, bài ca dao, đồng giao trong các chủ đề để phụ huyên dạy trẻ khi ở
nhà.
Từ những việc làm phối kết hợp với các bậc phụ huynh mà vốn từ của trẻ
được củng cố và phát triển, trẻ mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp với những người
xung quanh, phát âm chuẩn, nói đủ câu...làm tiền đề cho trẻ vững vàng bước
sang tuổi mẫu giáo.
Kết quả: 100% phụ huynh ủng hộ kinh phí mua sắm đầy đủ các trang thiết
bị phụ vụ cho giáo dục trẻ. Huy động 100 quyển tranh truyện, thơ, phô tô 150
bài thơ, câu chuyện, bài ca dao, đồng giao trong các chủ đề. Phụ huynh dạy trẻ
nói dứt khoát, không e a, không nói nặng, không dùng tiếng địa phương khi dạy
trẻ.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Sau khi áp dụng những giải pháp trên để cải tiến chất lượng trong cả năm
học tôi thấy có những chuyển biến rõ rệt.
Bằng một số kinh nghiệm của mình mà tôi đã áp dụng trong việc phát
triển ngôn ngữ của trẻ lứa tuổi nhà trẻ trong năm học vừa qua và kết quả đạt
được như sau:
(Phụ lục 1: bảng kết quả khảo sát cuối năm)

* Đối với hoạt động giáo dục:
Nâng cao chất lượng tổ chức các hoạt động sẽ góp phần phát triển ngôn
ngữ cho trẻ nhanh và chính xác nhất. Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện cho trẻ ở trường mầm non. Phần lớn số trẻ trong lớp đã có một số vốn
từ rất khá, các cháu nói năng mạch lạc, rõ ràng mạnh dạn, tự tin hơn trong khi
giao tiếp, biết nói đủ câu hoàn chỉnh, trẻ không còn nói ngọng, nói lắp như
trước.
Ngôn ngữ của trẻ đã phong phú hơn và trẻ đã biết vận dụng vốn từ vào
cuộc sống hàng ngày.
* Đối với bản thân:
- Tạo được môi trường phong phú phù hợp với nội dung của từng chủ đề
- Có kỹ năng tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách
tự tin, linh hoạt. Có nhiều kinh nghiệm trao đổi với phụ huynh phương pháp
giáo dục cung cấp vốn từ, phát triển ngôn ngữ cho trẻ cả khi ở nhà.
* Đối với đồng nghiệp: Sáng kiến kinh nghiệm của tôi đã được hội đồng
khoa học nhà trường đánh giá cao, được các đồng nghiệp ở trường áp dụng rộng
rãi trong quá trình tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
* Đối với nhà trường: Chất lượng tổ chức hoạt động hoạt động phát triển
ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. Góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường ngày càng vững chắc.
17


Phụ huynh quan tâm hơn đối với tình hình học tập của con em mình khi
ở nhà giúp cô giáo đỡ vất vả hơn trong công tác rèn trẻ nói đúng.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1- Kết luận:
“Phát triển ngôn ngữ” giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống giao tiếp
hàng ngày và hoạt động nhận thức của con người nói chung, sự phát triển tâm lý
nhận thức của trẻ nói riêng, đặc biệt là trẻ lứa tuổi 25- 36 tháng khả năng ngôn

ngữ phát triển rất nhanh.
Muốn có được kết quả trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua quá
trình thực hiện tôi rút ra một số kinh nghiệm sau:
* Giáo viên cần hiểu rõ tầm quan trọng của ngôn ngữ với việc hình thành
và phát triển nhân cách cho trẻ, không ngừng học tập để nâng cao trình độ
chuyên môn, rèn luyện ngôn ngữ của mình để phát âm chuẩn.
* Làm giàu vốn từ của trẻ qua việc hướng dẫn trẻ quan sát, vui chơi, kể
truyện và đọc truyện cho trẻ nghe.
* Củng cố vốn từ cho trẻ.
* Tích cực hoá vốn từ cho trẻ.
* Tích cực làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo hấp dẫn với trẻ và phù hợp với
nội dung của bài dạy.
* Luôn tạo không khí vui tươi, thoải mái cho trẻ, tạo điều kiện quan tâm
đến những trẻ nhút nhát, dành thời gian gần gũi trò chuyện với trẻ để trẻ mạnh
dạn, tự tin tham gia vào các hoạt động tập thể giúp trẻ được giao tiếp nhiều hơn.
* Cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa cô giáo và phụ huynh để nắm được đặc
điểm tâm sinh lý của trẻ từ đó có kế hoạch phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
* Tổ chức nhiều trò chơi sử dụng ngôn ngữ.
* Cô giáo tạo điều kiện cho trẻ nghe nhiều và nói chuyện nhiều với trẻ,
luôn tìm cách thúc đẩy trẻ sử dụng ngôn ngữ một cách chủ động.
* Tích cực cho trẻ làm quen với thiên nhiên để phát triển khả năng quan
sát, giúp trẻ củng cố và tư duy hoá các biểu tượng bằng ngôn từ.
Tôi nhận thấy rằng việc rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ là cả quá
trình liên tục và có hệ thống, đòi hỏi giáo viên phải kiên trì, bền bỉ khắc phục
khó khăn để tìm ra phương tiện, điều kiện cần thiết cho sự phát triển toàn diện
của trẻ, góp phần bồi dưỡng thế hệ măng non của đất nước.
3. 2- Kiến nghị:
- Tiếp tục cho giáo viên đi thăm quan môi trường sư phạm và các tiết dạy
mẫu ở trường bạn để học hỏi kinh nghiệm.
XÁC NHẬN CỦA

Nga Nhân , ngày 10 tháng 4 năm 2017
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết
không sao chép nội dung của người khác
Người viết
Khương Thị Dương
18


PHỤ LỤC
KÈM THEO SKKN “MỘT SỐ KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN

NGÔN NGỮ CHO TRẺ ĐỘ TUỔI 25-36 THÁNG Ở TRƯỜNG
MẦM NON NGA NHÂN”
Phụ lục 1: Bảng kết quả khảo sát
* Kết quả khảo sát ban đầu:
Phân loại khả năng
Khả năng nghe hiểu
ngôn ngữ và phát âm
Vốn từ
Khả năng nói đúng ngữ
pháp
Khả năng giao tiếp

Đạt

Tổng
số

Tốt


Chưa đạt

Khá

TB

Yếu

40
40

Sl
8

%
20

Sl
10

%
25

Sl
13

% Sl
33 9


%
22

40
40

9
8

22
20

9
10

22
25

12
13

31 10
33 9

25
22

40

7


18

10

25

13

32 10

25

*Kết quả khảo sát cuối năm:
Phân loại khả năng
Khả năng nghe hiểu ngôn
ngữ và phát âm
Vốn từ
Khả năng nói đúng ngữ
pháp
Khả năng giao tiếp

Tổng
số

Đạt
Tốt

Chưa đạt


Khá

TB

Yếu

40
40

Sl
12

% Sl
30 15

% Sl
37 10

%
25

Sl
3

%
8

40
40


13
11

32 14
27 12

35 9
30 13

22
32

4
4

11
11

40

10

25 13

32

35

3


8

14

19


Phụ lục 2: Hình ảnh minh họa giải pháp: 2.3.1. Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ ở
mọi lúc mọi nơi

Hình ảnh trẻ chào cô giáo, chào mẹ khi đến lớp trong hoạt động đón trẻ

20


Phụ lục 3: Hình ảnh minh họa giải pháp: 2.3.2.Giáo dục ngôn ngữ thông
qua các hoạt động chơi – tập có chủ định.

Hình ảnh mình họa hoạt động nhận biết ô tô

21


Phụ lục 4: Hình ảnh minh họa giải pháp: 2.3.3. Thường xuyên tổ chức các
trò chơi nhằm phát triển ngôn ngữ, tăng vốn từ và kích thích trẻ nói câu dài.

Hình ảnh cô và trẻ cùng chơi trò chơi “con muỗi”
Phụ lục 4: Hình ảnh minh họa giải pháp: 2.3.3. Thường xuyên tổ chức
các trò chơi nhằm phát triển ngôn ngữ, tăng vốn từ và kích thích trẻ nói câu
dài.


22


Hình ảnh minh họa trẻ chơi trò chơi “ chim mẹ, chim con” trong hoạt động
âm nhạc để phát triển ngôn ngữ
Tài liệu tham khảo
1- . Bài nói chuyện với Đại hội Hội Nhà báo xuất bản1962;
2- . Tài liệu phát triển ngôn ngữ của học giả U.Sinxki. Nguyên bản tiếng
Nga. NXB Matxcơva, tr.3.

23


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT
VÀ CẤP CAO HƠN XẾP TỪ LOẠI C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Khương Thị Dương
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường Mầm non Nga Nhân

STT
1

Tên đề tài SKKN

2

Phát triển ngôn ngữ
cho trẻ 4- 5 tuổi thông

qua hoạt động kể
chuyện sáng tạo
Một số biện pháp giúp
trẻ 4 – tuổi cảm thụ
văn học

3

Một số biện pháp dạy
trẻ 3 – 4 tuổi những kỹ
năng sống cơ bản ở

Cấp đánh giá
xếp loại (Phòng,
Sở, Tỉnh….)

Kết quả
đánh giá xếp
loại
(A,B hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

Phòng GD&ĐT

B

2011 - 2012


Phòng GD&ĐT

C

2012 - 2013

Phòng GD&ĐT

B

2014 - 2015

24


trường mầm non

25


×