Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

skkn một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 36 tháng tuổi tại trường mầm non hoằng thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.16 KB, 15 trang )

1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.

Như chúng ta đã biết trong cuộc sống chúng ta ai cũng phải sử dụng ngôn
ngữ để giao tiếp với mọi người và để nhận thức thế giới xung quanh. Ngôn ngữ
chính là phương tiện giao tiếp giữa con người với con người, là phương tiện cho
việc dạy và học. Ngôn ngữ nói, đọc, viết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
việc phát triển nhân cách của trẻ mầm non nói riêng, của con người và xã hội nói
chung. Lứa tuổi mầm non là thời kỳ phát triển ngôn ngữ tốt nhất. Là giai đoạn
có nhiều điều kiện thuận lợi nhất cho sự lĩnh hội ngôn ngữ nói và các kỹ năng
nghe, hiểu, trả lời câu hỏi của trẻ. Phát triển ngôn ngữ và giao tiếp có ảnh hưởng
đến tất cả các lĩnh vực phát triển khác của trẻ. Ngôn ngữ chính là công cụ để tư
duy vì thế ngôn ngữ có ý nghĩa quan trọng đến việc phát triển nhận thức. giải
quyết vấn đề của trẻ.
Ngôn ngữ là phương tiện quan trong để giáo dục trẻ phát triển một cách
toàn diện. Sự phát triển toàn diện của trẻ bao gồm cả về sự phát triển đạo đức
chuẩn mực hành vi văn hóa. Điều gì tốt, điều gì xấu; cần phải ứng xử giao tiếp
như thế nào cho phù hợp… Không chỉ là bắt chước máy móc. Ngôn ngữ phát
triển sẽ giúp trẻ mở rộng giao tiếp. Điều này giúp trẻ có điều kiện học hỏi những
gì tốt đẹp xung quanh. Nhưng trên thực tế, trẻ 25- 36 tháng tuổi ở lớp tôi các
cháu dùng từ không chính xác, nói ngọng, nói không đủ câu, nói câu không trọn
nghĩa chiếm một số lượng không nhỏ và rất khó cho việc trẻ tiếp cận các môn
học khác sau này .
Vì vậy tôi luôn suy nghĩ làm sao để dạy trẻ phát âm chuẩn, chính xác
đúng Tiếng Việt, phát triển vốn từ và dạy trẻ nói đúng ngữ pháp, phát triển ngôn
ngữ mạch lạc, rõ ràng cho trẻ có hiệu quả nhất. Từ những suy nghĩ, trăn trở đó
tôi đã mạnh dạn áp dụng các biện pháp vào trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ
với nhiều hình thức khác nhau. Tôi đã dạy các con thông qua các môn học khác
nhau và dạy các con ở mọi lúc mọi nơi qua các hoạt động hàng ngày, từ đó trẻ
khám phá hiểu biết về mọi sự vật hiện tượng, về thế giới xung quanh trẻ, phát
triển tư duy. Chính vì vậy nên tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp phát triển
ngôn ngữ cho trẻ 25 - 36 tháng tuổi ở trường Mầm non Hoằng Thành”.


1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
-Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về lĩnh vực phát triễn ngôn
ngữ cho trẻ 25-36 tháng tuổi, để đề xuất áp dụng các biện pháp phát triễn ngôn
ngữ cho trẻ nhà trẻ 25-36 tháng tuổi ở trường Mầm non Hoằng Thành.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ
25 - 36 tháng ở trường Mầm non Hoằng Thành.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
- Phương pháp điều tra khảo sát thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê toán học.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:

1


2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN:

Ngôn ngữ là công cụ để giao tiếp. Trong cuộc sống, chúng ta ai cũng phải
sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp với mọi người xung quanh và ngôn ngữ chính là
phương tiện cho việc dạy và học. Đối với trẻ mầm non thì qua giao tiếp bằng
ngôn ngữ và tư duy trẻ thu được các kinh nghiệm sống làm phong phú thêm sự
hiểu biết của trẻ. Cụ thể trẻ nhà trẻ thì nhận thức và ngôn ngữ của trẻ còn hạn chế,
trẻ mới đang tập nói, có trẻ mới nói được câu 2 - 3 từ, có trẻ thì đã nói được câu
4-6 từ, có trẻ nói chưa trọn vẹn được câu, trẻ chưa diễn đạt được ý muốn của
mình bằng những câu đơn giản…(sách các hoạt động phát triển ngôn ngữ của trẻ
mầm non) chính vì vậy mà phát triển ngôn ngữ cho trẻ là việc làm cần thiết. Đối
với trẻ nhà trẻ 25-36 tháng phát triển ngôn ngữ chính là việc phát triển các khả
năng nghe, hiểu, nói của trẻ.
Ở giai đoạn này, chúng ta cần giúp trẻ phát triển, mở rộng các từ loại

trong vốn từ, biết sử dụng nhiều loại câu bằng cách thường xuyên trò chuyện với
trẻ về những sự vật, sự việc trẻ nhìn thấy trong sinh hoạt hàng ngày. Nói cho trẻ
biết các từ biểu hiện về các đặc điểm, tính chất, công dụng của chúng. Cho trẻ
xem tranh, kể cho trẻ nghe các câu chuyện đơn giản qua tranh. Đặt một số loại
câu hỏi giúp trẻ biết kể chuyện theo tranh bằng ngôn ngữ của trẻ.
2.2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.

2.2.1. Thực trạng
Trong qua trình thực hiện nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ độ tuổi 25- 36
tháng tuổi tôi đã nhận thấy những thuận lợi và khó khăn sau.

* Thuận lợi:
- Đối với nhà trường: Được sự quan tâm giúp đỡ của ban giám hiệu.
- Đối với trẻ: Đa số trẻ đi học chuyên cần, các cháu ngoan, thích tìm tòi, khám
phá, thích được nói, được giao tiếp với mọi người “ Trẻ lên ba cả nhà học nói”
- Đối với phụ huynh học sinh: Các bậc phụ huynh học sinh quan tâm đến
trẻ đưa đón trẻ đúng giờ, nhiều phụ huynh thường trao đổi trực tiếp với giáo viên
chủ nhiệm về tình hình học tập cũng như sức khỏe của trẻ.
- Đối với bản thân: Là giáo viên được học qua trình độ đại học và trải qua
nhiều năm đứng lớp nhà trẻ 25 - 36 tháng tuổi, nhiệt tình trong công tác, đoàn
kết giúp đỡ nhau trong việc công tác giáo dục trẻ.
Hình ảnh trường và khu vườn cổ tích
Nhà trường cũng đã đầu tư cho lớp tôi những đồ dùng cần thiết phục vụ
cho công tác giảng dạy đặc biệt là hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ phong
phú về mầu sắc và hình ảnh, đảm bảo tính thẩm mỹ, hấp dẫn thu hút trẻ.
* Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi, trong quá trình thực hiện nội dung phát triễn
ngôn ngữ cho trẻ chúng tôi còn gặp không ít khó khăn.
+ Đối với trẻ: Trẻ 25- 36 tháng tuổi do tôi phụ trách là độ tuổi còn non
nớt, các cháu bắt đầu đi học còn khóc nhiều, chưa quen với các cô và các bạn,

chưa thích nghi với điều kiên sinh hoạt và các hoạt động ở lớp, các cháu không
2


cùng tháng tuổi, mỗicháu đều có sở thích và cá tính khác nhau. Trí nhớ của trẻ
còn nhiều hạn chế, trẻ chưa biết hết khối lượng các âm tiếp thu cũng như trật tự
các từ khi nhắc lại câu của người lớn. Vì thế trẻ thường xuyên bỏ bớt từ, bớt âm
khi nói. 85% kinh nghiệm sống của trẻ còn nghèo nàn, nhận thức còn hạn chế
dẫn đến tình trạng trẻ thường dùng từ không chính xác. 60% trẻ nói phát âm sai
do ảnh hưởng ngôn ngữ của người lớn xung quanh. Ở lớp nhà trẻ, thời gian
chăm sóc trẻ chiếm đa số nên việc giáo viên chú ý phát triển vốn từ cho trẻ đôi
khi còn gặp nhiều khó khăn.
+ Đối với phụ huynh học sinh: Đa số các bậc phụ huynh học sinh chỉ quan
tâm đến sức khỏe của trẻ, còn chưa chú ý đến việc giúp trẻ phát triển ngôn ngữ.
Do đó chưa kịp thời sữa sai cho trẻ khi trẻ phát âm không đúng mà còn phát âm
sai theo trẻ.
2.2.2. Khảo sát thực trạng.
Xuất phát từ thực tế đó tôi đã tiến hành khảo sát ở lớp tôi như sau:
Tổng số 14 trẻ; đối tượng từ 25-36 tháng tuổi.
*Bảng 1: Kết quả khảo sát đầu năm thời điểm tháng 9/2016:
TT
1
2
3
4

Các nội dung phát
triển ngôn ngữ
Trẻ chú ý lắng nghe
Trẻ phát âm rõ ràng

mạch lạc
Khả năng nói đúng
ngữ pháp
Trẻ hiểu và trả lời
câu hỏi

Tổng sổ
trẻ

Kết quả thể hiện trên trẻ
Đạt
%

%

14

6

44

8

56

14

5

36


9

64

14

7

50

7

50

14

7

50

7

50

Qua bảng khảo sát cho thấy kết quả chung trên trẻ còn thấp:
Sau khi tiến hành khảo sát kết quả đạt được đã không làm tôi hài lòng,
làm thế nào để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất, mang lại hiêụ quả
cao nhất tôi đã trăn trở, nghiên cứu tìm tòi sáng tạo và áp dụng các hình thức
giáo dục phù hợp giúp trẻ tiếp thu một cách nhẹ nhàng, thoải mái. Từ đó giúp trẻ

phát triển ngôn ngữ mạch lạc hơn và trẻ phát triển toàn diện hơn.
2.3. Các biện pháp thực hiện.
2.3.1. Tạo môi trường ngôn ngữ phong phú.
Trẻ mầm non nói chung và trẻ 25- 36 tháng nói riêng hay tò mò, thích
khám phá thế giới xung quanh, những gì mới lạ đều làm trẻ chú ý, vì vậy tôi đã
tạo môi trường giáo dục ở trong và ngoài lớp học nhằm thu hút sự chú ý của trẻ ,
kích thích trẻ tò mò khám phá giúp ngôn ngữ trẻ phát triển.
Ví dụ: Ở chủ đề “bé và những bông hoa đẹp” tôi đã trang trí lớp
bằng nhiều loại cây hoa được làm từ xốp màu đẹp, len, giấy nhăn… đẹp mắt gây
được sự chú ý của trẻ. Bên ngoài lớp học tôi đã chọn một số chậu hoa có màu
3


sắc đẹp để trang trí như: Hoa Hồng, Hoa Cúc, Hoa Thược Dược…đã gây được
sự chú ý của trẻ, trẻ được quan sát được, được nói lên đặc điểm của các loại hoa
từ đó giúp ngôn ngữ trẻ phát triển.
Hình ảnh tạo môi trường giáo dục phong phú
2.3.2. Phát triển ngôn ngữ thông qua việc ứng dụng công nghệ thông
tin:
Hoạt động nhận biết là một trong những hoạt động giúp trẻ phát triển
ngôn ngữ một cách tốt nhất, hiệu quả cao nhất chính vì vậy bản thân tôi luôn
trăn trở làm thế nào để tổ chức các hoạt động này hấp dẫn, gây được hứng thú
cho trẻ, khuyến khích, lôi cuốn trẻ tích cực tham gia hoạt động. Để giúp trẻ tiếp
thu nội dung tôi đã sử dụng giáo án điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin vào
trong quá trình giảng dạy.
Từ việc sử dụng giáo án điện tử để tổ chức các hoạt động tôi đã giúp trẻ
rất hứng thú tham gia trả lời các câu hỏi, được xem các hình ảnh động lạ mắt tôi
cũng đã khéo léo cung cấp từ mới cho trẻ từ đó làm tăng vốn từ cho trẻ giúp trẻ
phát triển ngôn ngữ.
Ví dụ: Khi tổ chức hoạt động cho trẻ nhận biết: “Con gà – con vịt”

Tôi đã Sử dụng giáo án điện tử cho trẻ quan sát con gà con vịt qua hình
ảnh động được quan sát con gà trống đang gáy trẻ rất thích thú, tôi cũng đã khéo
léo đặt câu hởi để trẻ trả lời:
- Các con nhìn thấy con gì đấy? - Con gà trống.
- Gà trống đang làm gì?
- Gà trống đang gáy ò ó o.
- Gà trống có những bộ phận gì? - Đầu, mình, đuôi…
Hình ảnh con gà – con vịt trên máy chiếu
Ví dụ: Khi tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen tác phẩm văn học: Truyện
“ đôi bạn nhỏ”
Tôi đã sử dụng các hình ảnh Gà con, Vịt con, con Cáo, tôi chèn các hình
ảnh vào Slides sau đó tôi tạo hiệu ứng cho các hình ảnh đó: (Gà bới đất, vịt bơi
dưới ao, cáo đang rình, vịt cõng gà trên lưng bơi giữa ao, cáo đang đi vào rừng)
Trong quá trình tổ chức hoạt động: Khi kể chuyện tôi đã cho trẻ xem các
nhân vật qua các slides trẻ rất hứng thú, đặc biệt đến cảnh vịt cõng gà trên lưng
bơi ra xa trẻ đã reo hò theo “ bơi đi, bơi đi”.
Hình ảnh các slides truyện đôi bạn nhỏ
Khi đàm thoại với trẻ tôi cũng đã sử dụng các slides để cho trẻ quan sát
trẻ tích cực tham gia trả lời các câu hỏi:
- Các con vừa nghe cô kể chuyện gì? - Câu truyện Đôi bạn nhỏ
- Trong truyện có những con vật gì? - Gà con, Vịt con, con cáo
- Gà kiếm ăn ở đâu? - Gà đang kiếm ăn trên bãi cỏ
- Vịt kiếm ăn ở đâu? - Vịt kiếm ăn ở dưới ao
- Con gì rình để bắt gà con? - con cáo ạ
4


- Khi bị cáo đuổi bắt gà con đã làm gì? - Con gà kêu “cứu tôi với”
- Ai đã cứu gà con? - Vịt con đã cứu gà con.
Từ việc sử dụng giáo án điện tử vào trong quá trình tổ chức các hoạt động

cho trẻ, trẻ đã rất thích thú và tích cực tham gia hoạt động, tham gia trả lời câu
hỏi, trẻ được rèn phát âm, nói đủ câu, được cung cấp thêm vốn từ, ngôn ngữ của
trẻ ngày càng phong phú hơn, trẻ nói mạch lạc hơn. Nhận thức của trẻ ngày càng
tiến bộ, nhân cách của trẻ ngày càng hoàn thiện hơn.
2.3.3. Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động chơi tập có chủ đích:
a. Phát triển ngôn ngữ thông qua việc cho trẻ làm quen tác phẩm văn
học:
Việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là vô cùng bổ ích vì thông
qua việc cho trẻ làm quen tác phẩm văn học trẻ được làm quen với vốn từ biểu
cảm, giàu cảm xúc, câu từ trong tác phẩm văn học mà các nhà văn, nhà thơ sử
dụng mang tính nghệ thuật cao, qua việc làm quen với tác phẩm văn học còn
giúp trẻ phát triển câu , nói đúng ngữ pháp, chú ý nghe hiểu và trả lời câu hỏi.
Ví dụ: Khi cho trẻ làm quen với truyện: “Thỏ con không vâng lời”
Để gây được hứng thú và sự chú ý của trẻ trước khi vào bài tôi đã tổ chức
cho trẻ chơi trò chơi “ con thỏ”
Cô nói:
Trẻ nói:
+ Con thỏ, con thỏ
+ Ăn cỏ, ăn cỏ - làm động tác ăn cỏ
+ Tai thỏ, tai thỏ
+ Rất dài rất dài - làm động tác vẩy tai
Sau khi cho trẻ chơi tôi đã giới thiệu nhẹ nhàng vào câu chuyện và kể diễn
cảm cho trẻ nghe, trong quá trình kể tôi kết hợp cho trẻ xem mô hình.
Để phát triển vốn từ và dạy trẻ nói đúng ngữ pháp tôi đã tiến hành đàm
thoại cùng trẻ qua đàm thoại còn giúp trẻ phát huy tính sáng tạo, tư duy, khả
năng phán đoán, tôi đưa ra câu hỏi:
- Thỏ mẹ dặn thỏ con như thế nào? (Con ở nhà, chớ đi chơi xa)
- Ai đã đến nhà thỏ con? (Bạn bướm ạ)
- Bạn Bướm đã nói gì với thỏ con? (Ra vườn kia chơi đi...)
- Thỏ con đi chơi xa quên mất đường về nhà thì đã như thế nào? (thỏ con

đã khóc hu hu và gọi mẹ ơi, mẹ ơi.)
- Bạn thỏ đã nói gì với mẹ khi về tới nhà? (Con xin lỗi mẹ vì mẹ dặn con
ở nhà nhưng con lại đi chơi xa)
- Qua câu chuyện con học bạn thỏ điều gì? (bạn thỏ biết nhận lỗi khi
không nghe lời)
Để trẻ suy nghĩ trả lời,trong quá trình đàm thoại, tôi khai thác nội dung
trong mỗi câu truyện giúp trẻ khắc sâu nội dung câu chuyện qua đó giáo dục trẻ
những điều tốt đep nhất, đồng thời tạo cho trẻ có thêm ấn tượng với những hình
ảnh tốt đẹp.
Khi trẻ tham gia trả lời câu hỏi tôi đã tập cho trẻ trả lời đủ câu, hướng dẫn
trẻ phát âm chuẩn tiếng phổ thông...Từ đó phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ.
Ví dụ: Qua câu chuyện “Quả thị” tôi muốn cung cấp cho trẻ một số từ
mới giúp trẻ có thêm vốn từ: “ngủ im lìm, mèo cào cào, vịt lạch bạch…”
5


Ngoài việc cung cấp cho trẻ vốn từ mới thì việc sửa lỗi nói ngọng, nói lắp
cũng vô cùng quan trọng khi trẻ giao tiếp. Khi áp dụng vào bài dạy tôi luôn chú
trọng đến điều này và đã kịp thời sửa sai cho trẻ ngay tại chỗ.
Ví dụ: Khi nói “ngủ im lìm” thì trẻ lại nói thành “ngủ im nhìm”, “Vịt lạch
bạch” thì lại nói thành “vịt lạch mạch”, “mèo cào cào” trẻ nói thành “mèo chào
chào”…
- Mỗi khi trẻ nói sai tôi dừng lại sửa sai luôn cho trẻ bằng cách: tôi nói
mẫu cho trẻ nghe 1-2 lần sau đó yêu cầu trẻ nói theo.
Ví dụ: Qua bài thơ “Cây bắp cải” tôi muốn cung cấp cho trẻ từ “xanh
mát mát” “Sắp vòng tròn”. Tôi chuẩn bị một chiếc bắp cải thật để cho trẻ quan
sát, trẻ phải được nhìn, sờ, ngửi…..và qua vật thật tôi sẽ giải thích cho trẻ từ
“xanh mát mát”, “sắp vòng tròn”.
- Tôi giải thích cho trẻ: Các con nhìn này đây là cây bắp cải mà hàng ngày
các con được các cô, mẹ mua về để nấu cho các con ăn đấy. Các con nhìn xem

lá bắp cải rất to có màu xanh và khi cây bắp cải càng lớn thì lá càng cuộn thành
vòng tròn xếp chồng lên nhau lá non thì nằm ở bên trong được bao bọc bằng
những lớp lá già ở ngoài. Bên cạnh đó tôi cũng chuẩn bị câu hỏi để trẻ trả lời:
+ Cô vừa đọc cho các con nghe bài thơ gì? (Cây bắp cải ạ)
+ Cây bắp cải trong bài thơ được miêu tả đẹp như thế nào? (Xanh man mát)
+ Còn lá bắp cải sắp như thế nào? (Sắp vòng tròn ạ).
+ Búp cải non thì nằm ở đâu? (Nằm ở giữa ạ)
- Như vậy qua bài thơ ngoài những từ ngữ trẻ đã biết lại cung cấp thêm
vốn từ mới cho trẻ để ngôn ngữ của trẻ thêm phong phú.
Ví dụ: Với bài thơ “đi dép” chủ đề đồ dùng của bé.
- Hoạt động 1: cho trẻ xem các kiểu dép .
Hình ảnh minh họa bài thơ “ Đi dép”
+ Đây là gì?
+ Đôi dép này màu gì?
+ Dép dùng để làm gì?
+ Vì sao phải đi dép?
- Hoạt động 2:
+ Cô đọc thơ lần 1.
+ Cô đọc thơ lần 2, cho trẻ xem tranh .
+ Cô đọc lần 3.
* Đàm thoại: - Cô đưa hình thức “ Vòng quay may mắn”.
- Hai đội chọn vòng quay may mắn tham gia trả lời câu hỏi, nếu đúng sẽ
được một phần quà.
+ Cô vưa đọc bài thơ gì? (Đi dép)
+ Bài thơ nói về điều gì? (chân được đi dép)
+ Chân được đi gì? (đi dép)
+ Được đi dép chân cảm thấy thế nào? (êm êm)
+ Chân đi dép dép thấy thế nào? (dép cũng vui lắm)
+Vì sao dép lại vui? (được đi khắp nhà)
6



* Trẻ đọc:
- Cô cho cả lớp đọc 2-3 lần.
- Tổ đọc
- Cho hai tổ đọc nối tiếp.
- Cho trẻ đọc to, đọc nhỏ.
- Cho nhóm đọc
- Cá nhân đọc.
- Cả lớp đọc 1 lần
* Giáo dục: Các con phải đi dép để giữ gìn vệ sinh cho đôi chân luôn sạch
sẽ, và cũng là để giũ gìn sức khỏe cho mình không bị ốm…..
Qua việc cho trẻ đọc thơ giúp trẻ có thêm nhận thức về thế giới xung
quanh trẻ mà còn giúp trẻ khả năng ghi nhớ, trẻ tham gia đọc thơ giúp trẻ mạnh
dạn tự tin hơn trong cuộc sống.
Như vậy thơ truyện không những kích thích nhận thức có hình ảnh của
trẻ mà còn phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách toàn diện. Trẻ nhớ nội dung
câu truyện bào thơ và biết sử dụng ngôn ngữ nói là phương tiện để tiếp thu kiến
thức, từ đó trẻ dần hoàn thiện bản thân mình.
b. Phát triển ngôn ngữ thông qua các hoạt động nhận biết :
Hoạt động nhận biết là hoạt động quan trọng nhất đối với sự phát triển
ngôn ngữ và cung cấp vốn từ vựng cho trẻ.
Trẻ ở lứa tuổi 25 - 36 tháng đang bắt đầu học nói, bộ máy phát âm chưa
hoàn chỉnh, vì vậy trẻ thường nói không đủ từ, nói ngọng, nói lắp. Cho nên trong
tiết dạy cô phải chuẩn bị đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn để gây hứng thú cho
trẻ. Bên cạnh đó cô phải chuẩn bị một hệ thống câu hỏi rõ ràng ngắn gọn trong
khi trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu không nói cộc lốc, khi tổ
chức cho trẻ hoạt động nhận biết tập nói tôi cũng quan tâm đến việc lựa chọn nội
dung, lựa chọn từ mới để cung cấp cho trẻ vứ phù hợp với chủ đề, lại phù hợp
với nhận thức, phù hợp với khả năng phát âm của trẻ.

Ví dụ: Hoạt động nhận biết: “ con chó, con mèo”
Để gây được sự chú ý, hứng thú của trẻ tôi đã cho trẻ xem một đoạn video
về các hoạt động của con chó, con mèo cho trẻ bát chước tiếng kêu của con chó,
con mèo. Sau đó cô đưa từng con vật ra và hỏi trẻ:
- Đây là con gì? - con chó ạ
- Bạn nào hãy kể về con chó nào? - Con chó có đầu, mắt, chân…
- Con chó kêu như thế nào? - con chó kêu gâu gâu
- Con chó được nuôi ở đâu? - con chó được nuôi trong gia đình
- Nuôi chó để làm gì? - con chó nuôi để trông nhà.
Trong khi trẻ trả lời cô phải chú ý đến câu trả lời của trẻ. Trẻ phải nói
được cả câu theo yêu cầu câu hỏi của cô. Nếu trẻ nói cộc lốc, thiếu từ cô phải
sửa ngay cho trẻ.
Cô cho trẻ xem tranh con mèo và đặt các câu hỏi như trên, cuối giờ học cô
lồng giáo dục trẻ chăm sóc con vật nuôi, yêu quý con vật và cho trẻ chơi trò chơi

7


làm động tác và tiếng kêu của con vật nhằm phát huy tính tích cực của trẻ, tận
dụng mọi cơ hội để phát triển ngôn ngữ, trí tuệ, tình cảm cho trẻ.
Ví dụ: Hoạt động nhận biết: “Con cá”
Trước khi vào bài tôi cho trẻ chơi trò chơi “làm cá bơi” trẻ rất thích thú
và tôi đã nhẹ nhàng dẫn dắt trẻ quan sát nhận biết và tập nói: con cá
Tôi đưa con cá thật ra đặt câu hỏi:
- Đây là con gì? - Con cá ạ
- Bạn nào hãy kể về con cá nào? - Con cá có đầu, mình, đuôi…
- Con cá sống ở đâu? - Con cá sống ở dưới nước
- Nuôi cá để làm gì? - Nuôi cá để lấy thịt ăn
Sau mổi lần trẻ trả lời câu hỏi cô khẳng định lại sau đó cho trẻ phát âm
các từ, nói đủ câu. Từ đó trẻ nhớ được các từ mới mà cô cung cấp và rèn kỹ

năng phát âm cho trẻ giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách nhẹ nhàng.
Ví dụ: Hoạt động nhận biết: “con thỏ”
Cô tạo tình huống gây hứng thú cho trẻ một cách nhẹ nhàng, hấp dẫn thu
hút trẻ. Sau khi cho thỏ xuất hiện cô mượn lời thỏ chào trẻ và dạy chào bạn thỏ,
cô đặt câu hỏi: con gì đây? tai thỏ thế nào? lông thỏ mầu gì? đuôi thỏ thế nào?
thỏ thích ăn gì? với hệ thống câu hỏi này nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua
việc làm quen với một số đặt điểm rõ nét về con thỏ, đồng thời kích thích sự
phát triển tư duy cho trẻ.
2.3.4. Giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong chế độ sinh hoạt
hàng ngày.
a. Giờ đón trẻ - Trả trẻ:
Giờ đón trẻ là lúc cần tạo không khí vui vẻ, lôi cuốn trẻ tới trường, tới lớp
cô phải thật gần gũi, tích cực trò chuyện với trẻ.Vì trò chuyện với trẻ là hình
thức đơn giản nhất để cung cấp vốn từ cho trẻ và phát triển ngôn ngữ cho trẻ,
đặc biệt là ngôn ngữ mạch lạc. Bởi qua cách trò chuyện với trẻ cô mới có thể
cung cấp, mở rộng vốn từ cho trẻ.
Hình ảnh minh họa dạy trẻ mọi lúc mọi nơi

VD: Ở chủ đề: “Bé và những người thân trong gia đình”
- Cô trò chuyện với trẻ về gia đình của trẻ:
+ Gia đình con có những ai? (trong gia đình con có bố, mẹ, con)
+ Ai là người chăm sóc con hàng ngày? (mẹ là người chăm sóc con hằng
ngày)
+ Mẹ chăm sóc con như thế nào? (mẹ tắm cho con, cho con ăn...)
+ Buổi sáng ai đưa con đến lớp? (bố con đưa con đến lớp)
+ Bố con đưa đi bằng phương tiện gì? (bố đưa xon đi học bằng xe máy)
VD: Ở chủ đề: “Bé và các bạn”
- Cô trò chuyện với trẻ:
+ Con tên là gì?
+ Hằng ngày con đến trường con chơi với ai?

+ Con thích chơi với bạn nào nhất?
8


+ Vì sao con thích chơi với bạn ấy?
+ Khi chơi với bạn các con phải như thế nào?
- Như vậy khi trò chuyện với cô trẻ tự tin vào vốn từ của mình, ngôn ngữ
của trẻ nhờ đó mà được mở rộng và phát triển hơn. Ngoài ra trong giờ đón trẻ,
trả trẻ tôi luôn nhắc trẻ biết chào ông, bà, bố, mẹ như vậy kích thích trẻ trả lời
câu trọn vẹn bên cạnh đó giáo dục trẻ có thói quen lễ phép, biết vâng lời.
b. Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động dạo chơi ngoài trời:
Qua hoạt động dạo chơi ngoài trời trẻ được tiếp xúc với thiên nhiên một
cách thoải mái, trẻ được trải nghiệm, được trực tiếp quan sát thế giới xung
quanh qua đó tôi cung cấp vốn từ và làm phong phú vốn từ của trẻ, đồng thời
cũng rèn kỹ năng phát âm cho trẻ.
Ví dụ: Tôi cho trẻ quan sát vườn cây: Tôi hỏi trẻ :
- Đây là cây gì? - cây Xoài ạ
- Cây Xoài có những bộ phận gì? - Rễ, thân, cành, lá
- Trồng cây xoài để làm gì? - Trồng cây xoài để lấy quả, bóng mát
Qua việc trẻ được nhìn sờ thân cây, lá cây, tôi đã khéo léo cung cấp thêm
kiến thức cho trẻ bằng cách đặt câu hỏi trẻ trả lời theo sự hiểu biết của mình
giúp trẻ có thêm hiểu biết đồng thời cung cấp vốn từ cho trẻ.
Ví dụ: Khi cho xem quan sát “Vườn rau”
- Đây là cây rau gì? - rau mồng tơi
- Rau mồng tơi có những bộ phận gì? - Rễ, thân, lá
- Trồng rau mồng tơi để làm gì?- Trồng rau mồng tơi để nấu canh
Tiếp đó tôi cho trẻ được nói theo sự hiểu biết của mình về rau mồng tơi,
giúp trẻ phát triển tư duy đồng thời phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Ví dụ: Quan sát xe đạp
- Đây là xe gì? (Xe đạp)

- Xe đạp có những bộ phận gì? (Ghi đông, bánh xe, yên xe…)
- Chiếc xe đạp này có màu gì? (Xe đạp có màu xanh)
- Xe đạp dùng để làm gì? (Xe đạp dùng để trở người, hàng)
- Xe đạp chạy ở đâu? (Xe đạp chạy trên đường bộ)
- Khi ngồi xe đạp các con ngồi như thế nào? (phải ngồi ngay ngắn)
- Trong quá trình cho trẻ quan sát tôi đã trò chuyện cùng trẻ và cung cấp
thêm vốn từ mới cho trẻ, được quan sát trực tiếp trẻ cũng hứng thú hơn và tích
cục tham gia trả lời các câu hởi của cô từ đó trẻ cũng được luyện phát âm và
phát âm rõ ràng hơn.
c. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động vui chơi:
Hoạt động góc là thời điểm mà trẻ được phát triển ngôn ngữ một cách tích
cực nhất, không những được tham gia trao đổi cùng với bạn mà trẻ còn được nói
lên những suy nghĩ, cảm xúc của bản thân mình từ đó giúp trẻ phát triển ngôn
ngũ mạch lạc hơn.
VD1: Ở chủ đề: “Bé và người thân trong gia đình”

9


Ở góc “Thao tác vai” trẻ được chơi với em búp bê và khi trẻ chơi sẽ giao
tiếp với các bạn bằng ngôn ngữ hàng ngày.
+ Bác đang làm gì đấy? (Tôi đang nấu cháo cho bé ăn)
+ Hôm nay bác nấu cháo gì? (Tôi nấu cháo cá)
+ Ngoan nào nấu xong mẹ cho bé ăn nhé!
+ Cháo đã được rồi ăn nhanh tý mẹ cho đi chơi!
+ Ăn xong rồi mẹ lau mặt cho bé nhé.
+ Nào chúng ta cùng đến nhà bà nào. (Âu yếm búp bê)
- Qua giờ chơi cô không những dạy trẻ kỹ năng sống mà còn dạy trẻ nghe,
hiểu giao tiếp cùng nhau và trao cho nhau những tình cảm yêu thương, gắn bó
của con người.

VD2: Trong góc “Hoạt động với đồ vật” ở chủ điểm “Bé và những bông
hoa đẹp” bằng chơi tự tạo là những bông hoa được cắt từ vỏ hộp, chai, lọ, mút
xốp đã đục lỗ tôi đã cho trẻ lấy dây xâu qua những lỗ đó và tôi sẽ hỏi trẻ:
+ Con đang làm gì đấy? (Con đang xếp nhà ạ)
+ Ngôi nhà con xếp mái có màu gì vậy? (mái có có màu đỏ ạ)
+ Con xếp nhà để làm gì thế? (Con xếp nhà để tặng mẹ ạ)
Qua giờ hoạt động góc trẻ tích cực tham gia giao tiếp từ đó ngôn ngữ của
trẻ ngày càng được phát triển và mạnh dạn hơn trong giao tiếp, trẻ nói rõ ràng
hơn, nói đủ câu và thể hiện cảm xúc khi giao tiếp mọi người, hình thành ở trẻ
tình cảm tốt đẹp biết quan tâm đến những người xung quanh.
d. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua các bài đồng dao.
Trẻ mầm non đặc biệt là trẻ nhà trẻ được phát triển ngôn ngữ thông qua
trò chơi là một biện pháp tốt nhất. Trò chơi đã trở thành phương tiện để cung
cấp, tích luỹ được nhiều vốn từ các loại trò chơi đồng giao, luyện kỹ năng phát
âm cho trẻ là tích cực nhất bởi trẻ vừa được chơi vừa tham gia đọc đồng dao mà
đồng dao giúp trẻ có thêm nhiều vốn từ phong phú.
Qua trò chơi trẻ sẽ được giao tiếp mạnh dạn hơn, ngôn ngữ cũng lưu loát
hơn, vốn từ của trẻ cũng được tăng lên. Và tôi nhận thấy rằng khi trẻ chơi trò
chơi xong sẽ gây sự hứng thú lôi cuốn trẻ vào bài học. Như vậy trẻ sẽ tiếp thu
bài một cách nhẹ nhàng và thoải mái.
Ví dụ: Ở hoạt động Nhận biết tập nói: Con voi Tôi cho trẻ chơi trò chơi
“con voi”
Con vỏi con voi - Trẻ cúi người hai tay để đằng sau.
Có cái vòi đi trước - Hai tay đưa về phía trước đan vào nhau.
Hai chân trước đi trước - Hai tay vươn ra phía trước làm hai chân trước.
Hai chân sau đi sau .
Còn cái đuôi đi sau rốt - Trẻ lắc cái mông.
Tôi xin kể nốt cái chuyện con voi - Trẻ đi khom người.
Sau khi trẻ được chơi tôi đã hỏi trẻ :
- Chúng ta vừa chơi trò chơi về con gì? - Chúng ta vừa chơi trò chơi con voi.

- Con voi có đặc điểm gì? - Con voi có vòi, hai chân trước, hai chân sau, đuôi….
10


- Con voi sống ở đâu? - Con voi sống ở trong rừng.
Thông qua chơi cô đã khéo léo gợi mở để trẻ được trả lời. Trẻ cũng đã
tích cực tham gia trả lời các câu hởi của cô từ đó ngôn ngữ của trẻ được phát
triển.
Ví dụ: Chơi trò chơi “Kéo cưa lừa xẻ ”
Tôi cho 2 trẻ ngồi đối diện nhau cầm tay nhau kéo nhịp nhàng vừa kéo
vừa đọc.
Kéo cửa lừa xẻ
Ông thợ nào khỏe
Về ăn cơm trưa
Ông thợ nào thua
Thì về với mẹ.
Lắc lắc đùng đùng - trẻ kéo nhanh tay
Trẻ vừa chơi vừa vận động trẻ rất thích thú, trong khi chơi các trẻ lại được
cùng nhau đọc đồng dao cùng thi nhau đọc để xem ai đọc đúng hơn, rõ ràng hơn
qua các trò chơi đó nhiều trẻ đã cố ngắng đặc biệt là những trẻ nói ngọng, nói
lắp các cháu đã đọc rõ ràng hơn từ đó giúp trẻ hạn chế nói ngọng hơn trong giao
tiếp.
Hình ảnh: Trẻ chơi kéo cưa lừa xẻ
2.3.5. Tuyên truyền, phối kết hợp với các cha mẹ trẻ để phát triển
ngôn ngữ cho trẻ.
Để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ thì cha mẹ trẻ có vai trò vô cùng quan
trọng trong việc cung cấp vốn từ cho trẻ cũng như luyện trẻ phát âm, hay nói
đúng ngữ pháp. vì vậy ngay từ đầu năm học, bằng nhiều hình thức khác nhau tôi
đã tuyên truyền đến các bậc phụ huynh :
- Thông qua các buổi họp phụ huynh.

- Thông qua các góc trao đổi với phụ huynh.
- Trao đổi với phụ huynh giờ đón, trả trẻ.
Để phụ huynh hiểu rõ tầm quan trong của việc phát triển ngôn ngũ cho trẻ
bằng kinh nghiệm, lòng nhiệt tình của mình. Tôi đã làm tốt công tác tuyên
truyền đến các bậc phụ huynh, tranh thủ mọi lúc mọi nơi trao đổi với phụ huynh
để phụ nhận ra được tầm quan trong của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ, đó
không chỉ đơn thuần là dạy trẻ nói mà còn giúp trẻ phát triển các mặt: Đức - tríthể - mỹ từ đó giúp trẻ phát triển một cách toàn diện.
Ví dụ: Để cung cấp vốn từ cho trẻ.
Ở nhà phụ huynh học sinh có thể cung cấp vốn từ cho trẻ bằng cách cho
trẻ gọi tên đồ vật, đồ chơi mới hoặc tên đồ dùng trong gia đình, hoặc có thể dạy
trẻ gọi tên thức ăn trước khi ăn: (Tôm rang, cá kho, trứng rán, canh mồng tơi…)
Các bậc phụ huynh nên thường xuyên dạy trẻ nói, nói cùng trẻ để khích lệ trẻ từ
đó dần dần trẻ sẽ có vốn từ phong phú.
Ví dụ: Để trẻ phát âm rõ ràng mạch lạc
11


Cha mẹ người thân cố gắng phát âm đúng khi dạy trẻ phát âm .Không nên
bắt chước những từ mà trẻ nói ngọng khi trẻ phát âm sai cần phải sửa sai ngay
cho trẻ . Khi trẻ phát âm “con chá” thì phải sửa ngay cho trẻ là “con cá” đồng
thời phụ huynh phát âm lại cho trẻ nghe và yêu cầu trẻ phát âm lại, từ đó giúp trẻ
phát âm đúng, rõ ràng mạch lạc, ngoài ra phụ huynh học sinh cần nhắc nhở trẻ
khi nói tốc độ vừa phải, âm lượng đủ nghe .
Ví dụ: Qua giờ đón trả trẻ tôi trao đổi với phụ huynh học sinh về tình hình
học tập của trẻ như hôm nay học bài thơ gì, về nhà phụ huynh có thể giúp luyện
đọc thơ để phát triển ngôn ngữ.Tôi cũng trao đổi với phụ huynh để phụ huynh
thường xuyên quan tâm đến trẻ , dành nhiều thời gian trò chuyện với trẻ ,cung
cấp kinh ngiệm sống cho trẻ.Tránh không nói tiếng địa phương,cần tránh cho trẻ
nghe những hình thái ngôn ngữ không chính xác.
Ví dụ: Qua góc trao đổi phụ huynh học sinh tôi thường xuyên sưu tầm

các bài thơ, các bài ca dao, đồng dao, câu chuyện gắn có nội dung rõ ràng dễ
hiểu, để cho phụ huynh mang về đọc, dạy thêm cho trẻ ở nhà giúp trẻ có thêm
nhiều vốn từ, trong quá trình dạy trẻ giúp trẻ nói đúng ngữ pháp, từ đó giúp trẻ
phát triển ngôn ngữ một cách tự nhiên, không gò ép trẻ từ đó mang lại hiệu quả
cao trong việc giúp trẻ tập nói.
2.3.6. Động viên, khích lệ và nêu gương kịp thời.
Đây là biện pháp quan trọng nhằm kích thích trẻ hứng thú tham gia vào
các hoạt động phát triển ngôn ngữ trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ, tôi luôn
quan tâm đến khả năng phát triển vốn từ của trẻ, do đó thường tạo ra những tình
huống, sưu tầm những đồ vật, đồ dùng xung quanh trẻ để khuyến khích trẻ phát
âm. Đồng thơi biểu dương những trẻ nói đúng, phát âm chuẩn không ngọng để
trẻ hứng thú hơn, thích được nói nhiều hơn. Từ đó mà kích thích những trẻ khác
học tập theo bạn.
Nhờ có sự linh hoạt và vận dụng biện pháp này một cách phù hợp mà trẻ
ở nhóm lớp tôi ngôn ngữ phát triển rất tốt, trẻ hào hứng thích thú khi được trò
chuyện, được nói, được giao tiếp với bạn bè và những người xung quanh.
2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Sau khi áp dụng các biện pháp, phương pháp dạy mới vào quá trình “Phát
triển ngôn ngữ cho trẻ” kết quả cuối năm đạt được như sau:
- Tổng số trẻ khảo sát: 14/14 trẻ = 100%
TT
1
2
3
4

Các nội dung phát
triển ngôn ngữ
Trẻ chú ý lắng
nghe

Trẻ phát âm rõ
ràng mạc lạc
Khả năng nói đúng
ngữ pháp
Trẻ hiểu và trả lời

Tổng
sổ trẻ
14

Kết quả thể hiện trên trẻ
%

93
1

Đạt
13

14

13

93

1

7

14


12

86

2

14

14

12

86

2

14

%
7

12


đúng câu hỏi
Qua bảng khảo sát lần 2 cho thấy, kết quả chung trên trẻ tăng rõ rệt.
*Đối với trẻ:
Trải qua quá trình thực hiện bền bỉ, liên tục, trẻ lớp tôi đã có những
chuyển biến rõ rệt, phần lớn số trẻ trong lớp đã có một số vốn từ rất khá, các

cháu nói năng mạch lạc, rõ ràng, biết cách diễn đạt ý muốn của mình, mạnh dạn,
tự tin hơn trong giao tiếp, vốn từ của trẻ đã phong phú hơn rất nhiều so với kết
quả đầu năm tôi đã khảo sát. Bên cạnh đó ở lớp tôi có một số cháu đã sử dụng
vốn từ các cô cung cấp cũng rất hay và ngộ nghĩnh trong sinh hoạt hàng ngày.
Trong giờ hoạt động ngoài trời, cô cho trẻ quan sát vườn hoa, nhiều cháu đã phát
hiện ra bông hoa hồng nhung có cánh hoa ” sắp vòng quanh”. Cách hiểu của các
cháu tuy còn nhiều hạn chế nhưng cháu đã biết sử dụng từ ” Sắp vòng quanh”
trong giờ văn học để ứng dụng vào cuộc sống hàng ngày.
* Đối với phụ huynh học sinh:
Phụ huynh thấy con em mình về nhà ngày một ngoan hơn, có nền nếp
trong sinh hoạt, mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp, thích đi học, thích hát, đọc thơ,
truyện cho ông bà, bố mẹ nghe. Trong giờ đón trả trẻ, phụ huynh học sinh hay
kể với các cô rằng hôm trước cho cháu đi chơi công viên khi thấy con cá sấu bò
từ dưới nước đi lên cháu bỗng kêu vui sướng” Mẹ ơi ! Trông con cá ướt lướt
thướt kìa”. Như vậy các cháu ở lớp tôi đã có những chuyển biến rõ rệt về phát
triển vốn từ. Điều rất mừng là sau một năm ” vốn từ” của các cháu không chỉ
tăng lên cả về số lượng và chất lượng mà các cháu còn biết vận dụng những từ
được học ở trên lớp vào sinh hoạt hàng ngày và sử dụng chúng rất hiệu quả.
Phụ huynh đa số hiểu về ý nghĩ của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.Từ đó, phụ
huynh yên tâm khi đưa trẻ đến lớp và ngày càng quan tâm hơn đến việc học của
con em mình, có cái nhìn ngày một khác hơn về bậc học mầm non. Phụ huynh
ủng hộ nhiệt tình khi cô giáo, nhà trường kêu gọi quyên góp, ủng hộ xây dựng
cơ sở vật chất cho nhóm lớp, cho nhà trường.
*Đối với bản thân:
- Nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ ở độ tuổi được giao phụ trách.
- Nắm được những điểm mạnh, điểm yếu của từng trẻ, từ đó có biện pháp
bồi dưỡng kịp thời cho trẻ.
- Có những biện pháp phù hợp để tổ chức hoạt động phát triển ngôn ngữ
cho trẻ
*Đối với đồng nghiệp:

- Qua những buổi dự giờ rút kinh nghiệm, bản thân tôi đã vận dụng các
biện pháp này vào tổ chức hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ đã được bạn bè
đồng nghiệp học tập để áp dụng vào nhóm lớp của mình.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
3.1. Kêt luận:

Phát triển vốn từ cho trẻ ở trường mầm non và đặc biệt là lứa tuổi nhà trẻ
là vấn đề rất quan trọng và cần thiết, mức độ phát triển vốn từ của trẻ còn tùy
thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Tôi nhận thấy việc rèn luyện và phát triển vốn
13


từ cho trẻ là cả quá trình liên tục và có hệ thống đòi hỏi giáo viên phải kiên trì,
bền bì, khắc phục khó khăn để tìm ra phương tiện, điều kiên cần thiết cho sự
phát triển toàn diện của các cháu, hơn nữa cô giáo là người gương mẫu để trẻ
noi theo, điều này đã góp phần bồi dưỡng thế hệ măng non của đất nước, thực
hiện mục tiêu của ngành. Vậy muốn có được kết quả trong việc phát triển vốn từ
cho trẻ qua quá trình thực hiện tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm sau :
– Giáo viên cẩn hiểu rõ tầm quan trọng của ngôn ngữ với việc hình thành
và phát triển nhân cách trẻ, không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, tự rèn luyện ngôn ngữ của mình để phát âm chuẩn Tiếng Việt.
– Đề phát triển ngôn ngữ của trẻ một cách toàn diện thì cô giao cẩn phải
thực hiện ba nhiệm vụ:
+ Làm giầu vốn từ của trẻ qua việc hướng dẫn trẻ quan sát, đàm thoại,
hướng dẫn trẻ chơi, kể chuyện và đọc truyện cho trẻ nghe.
+ Củng cố vốn từ cho trẻ
+ Củng cố vốn từ cho trẻ
+ Tích cực hóa vốn từ cho trẻ
– Giáo viên phải biết phối hợp chặt chẽ ba nội dung trên để góp phần tạo
điều kiện cho trẻ lĩnh hội những điều mới lạ về thế giới xung quanh.

– Giáo viên luôn tạo không khí vui tươi, thoải mái cho trẻ, động viên trẻ
đi học đều, tạo điều kiện quan tâm đến những trẻ nhút nhát,dành thời gian gần
gũi, trò chuyện vói trẻ để trẻ mạnh dạn, tự tin tham gia các hoạt động tập thể
giúp trẻ
được giao tiếp nhiều hơn.
– Cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường để giáo viên
nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để từ đó có kế hoạch phát triển vốn từ.
– Tổ chức nhiều trò chơi sử dụng ngôn ngữ
– Cô giáo tạo điều kiện cho trẻ nghe nhiều và nói chuyện nhiều với trẻ,
luôn tìm cách thúc đẩy trẻ sử dụng ngôn ngữ một cách chủ động.
– Tích cực cho trẻ tiếp cận và làm quen với thiên nhiên và phát triển khả
năng quan sát của trẻ, giúp trẻ củng cố và tư duy hóa các biểu tượng ngôn từ.
– Vận động phụ huynh đóng góp các loại hoa, cây cảnh, vật nuôi để xây
dựng góc thiên nhiên phong phú, thông qua các tiết học, cô kết hợp với nội dung
phát triển ngôn ngữ cho trẻ phù hợp.
Tóm lại, trong tất cả các hoạt động hàng ngày của trẻ ở trường cô phải
tích cực trò chuyện với trẻ, hỏi trẻ để trẻ trả lời, nếu trẻ không trả lời được cô
phải biết sử dụng từ trong tình huống giao tiếp.
3.2. Kiến nghị:
Để giáo viên nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đặc biệt là tổ
chức mọi hoạt động giáo dục cho trẻ đạt kết quả cao. Bản thân tôi xin có một số
ý kiến đề xuất như sau:
* Đối với nhà trường:

14


- Ban giám hiệu nhà trường cần làm tốt hơn nữa công tác tham mưu với
các cấp lãnh đạo địa phương về xây dựng cơ sở vật chất để tạo môi trường hoạt
động mở, giúp trẻ phát triển tốt hơn.

- Mua sắm thêm các trang thiết bị công nghệ thông tin để giáo viên có
điều kiện áp dụng vào giảng dạy cho trẻ.
- Tạo mọi điều kiện cho giáo viên được học tập nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, trao đổi kinh nghiệm thực tế với nhau.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN
Hoằng Thành, ngày 10 tháng 5 năm 2017
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là SKKN của tôi
viết, không sao chép của người khác. Nếu
sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
NGƯỜI VIẾT SÁNG KIẾN

Lương Thị Hoàn

Lương Thị Nguyệt

15



×