Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số biện pháp giúp học sinh còn hạn chế năng lực về học môn toán lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.25 KB, 22 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người năng động sáng tạo, độc lập tiếp thu
tri thức là một vấn đề mà nhiều nhà giáo dục đã và đang quan tâm trong giai đoạn
hiện nay. Trong đó bậc Tiểu học là bậc học nền móng cho việc hình thành nhân cách,
tri thức ở học sinh. Các môn học ở bậc Tiểu học có liên quan mật thiết và cùng hỗ trợ
cho nhau. Trong các môn học ở Tiểu học, cùng với môn Tiếng việt môn Toán có một
vị trí rất quan trọng nhằm góp phần trang bị những kiến thức cơ bản ban đầu về số
học, các số tự nhiên, phân số, các đại lượng thông dụng, một số yếu tố hình học và
thống kê đơn giản. Chính vì vậy việc hình thành kiến thức cơ bản cho học sinh ở bậc
Tiểu học là điều rất cần thiết.
Chất lượng giáo dục hiện nay ngày một được nâng lên, phù hợp với xu thế
phát triển của thời đại. Song trong thực tế, chúng ta phải thẳng thắn thừa nhận rằng
bên cạnh phần lớn học sinh có khả năng tiếp thu bài tốt vẫn còn một bộ phận không
nhỏ học sinh tiếp thu bài chậm do nhiều nguyên nhân khác nhau. Bởi mỗi học sinh
là một cá thể riêng biệt, các em khác nhau về ngoại hình, tính cách, điều kiện học tập
và cả khả năng nhận thức trong học tập. Có những học sinh còn hạn chế năng lực về
học môn Toán là hiện tượng đã và đang tồn tại trong các nhà trường. Việc dạy các
em học sinh chưa hoàn thành ở môn Toán lên trình độ hoàn thành quả là một vấn đề
không đơn giản. Đây là vấn đề hiện nay luôn được các nhà trường và xã hội quan
tâm và tìm giải pháp để khắc phục. Vấn đề nêu trên rất khó khăn với không ít giáo
viên bởi hiện tại chưa có tài liệu nghiên cứu nào bàn sâu vào vấn đề này, đồng
nghiệp, nhà trường chưa có nhiều kinh nghiệm để giải quyết, khắc phục.
Mặt khác, việc rèn học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán sẽ làm cho
các em tự tin hơn khi đến lớp, công tác duy trì sĩ số mới được đảm bảo, góp phần
làm nên thắng lợi của công tác phổ cập giáo dục Tiểu học ở địa phương. Vậy là một
giáo viên chủ nhiệm thì phải làm gì đối với những học sinh còn hạn chế năng lực về
học môn Toán này? Đó chính là vấn đề mà tôi rất quan tâm và nó luôn thôi thúc tôi
trong suốt quá trình dạy học.
Trong những năm gần đây, tôi luôn được phân công giảng dạy lớp 4. Đó là
điều kiện tốt giúp tôi tìm hiểu rõ về đặc điểm tâm sinh lí của các em và đề ra các biện


pháp để rèn những học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán có thể nắm được
bài và hoà nhập vào các hoạt động trên lớp cùng các bạn. Bên cạnh đó, trong quá
trình công tác tại trường Tiểu học Hoằng Anh, những khó khăn mà tôi gặp phải luôn
được sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường và tập thể đồng nghiệp chia sẻ.
Chính sự chia sẻ nhiệt tình đó đã góp phần tạo nên nhiều kinh nghiệm hữu ích được
áp dụng thành công. Để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục học sinh của nhà
trường tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh còn hạn chế
năng lực về học môn Toán lớp 4 ” ở lớp 4B trường Tiểu học Hoằng Anh.
1


2. Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu về nội dung, phương pháp dạy học sinh còn hạn chế năng lực về
học môn Toán lớp 4, từ đó giúp học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán
nắm bắt, tiếp thu bài nhanh, nắm vững kiến thức đã học, đáp ứng yêu cầu chương
trình của lớp học.
- Đề xuất một số biện pháp giúp giáo viên lớp 4 nói riêng và giáo viên Tiểu
học nói chung nắm được một số kinh nghiệm giúp học sinh còn hạn chế năng lực về
học môn Toán.
3. Đối tượng nghiên cứu:
- Nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học môn Toán lớp 4.
- Nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học giúp học sinh còn hạn
chế năng lực về học môn Toán lớp 4.
- Học sinh lớp 4 còn hạn chế năng lực về học môn Toán.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu các tài liệu về nội dung chương trình, phương pháp, hình thức tổ
chức dạy học môn Toán lớp 4.
- Nghiên cứu phương pháp, hình thức tổ chức giúp học sinh còn hạn chế năng
lực về học môn Toán lớp 4.
- Phương pháp điều tra.

- Phương pháp thực nghiệm.

2


II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận.
Theo yêu cầu về nội dung giáo dục Tiểu học đó là: Phải đảm bảo cho học sinh
có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có kĩ năng cơ bản
về nghe, nói, đọc, viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ vệ sinh; có
hiểu biết ban đầu về hát, múa, âm nhạc, mĩ thuật. Đối với dạy học Toán lớp 4 nhằm
giúp HS:
*Về số và phép tính:
- Số tự nhiên:
+ Nhận biết một số đặc điểm chủ yếu của dãy số tự nhiên.
+ Biết đọc, viết, so sánh, sắp thứ tự các số tự nhiên.
+ Biết cộng, trừ các số tự nhiên; nhân số tự nhiên với số tự nhiên có ba chữ số;
chia số tự nhiên có đến sáu chữ số cho số tự nhiên có đến ba chữ số.
+ Biết tìm một thành phần chưa biết của phép tính khi biết kết quả tính và
thành phần kia.
+ Biết tính giá trị của biểu thức số có đến ba dấu phép tính (có hoặc không có
dấu ngoặc) và biểu thức có chứa một, hai, ba chữ số dạng đơn giản.
+ Biết vận dụng tính chất giao hoán, kết hợp của phép cộng và phép nhân, tính
chất nhân một tổng với một số để tính bằng cách thuận tiện nhất.
+ Biết tính nhẩm trong phạm vi các bảng tính, nhân với 10, 100, 1000,…Chia
cho 10, 100, 1000,…Nhân số có hai chữ số với 11.
+ Nhận biết dấu hiệu chia hết cho 2, 3, 5, 9,…
- Phân số:
+ Bước đầu nhận biết về phân số (qua hình ảnh trực quan).
+ Biết đọc, viết phân số; tính chất cơ bản của phân số; biết rút gọn, quy đồng

mẫu số các phân số; so sánh hai phân số.
+ Biết cộng, trừ, nhân, chia hai phân số dạng đơn giản.
* Về đo lường:
- Biết mối quan hệ giữa yến, tạ, tấn với kg; giữa giây, phút, giờ; giữa ngày và
giờ; năm và thế kỉ; giữa dm2 và cm2; giữa dm2 và m2; giữa km2 và m2.
.- Biết chuyển đổi các đơn vị đo đại lượng thông dụng trong một số trường
hợp cụ thể khi thực hành vận dụng.
* Về các yếu tố hình học:
- Nhận biết góc nhọn, góc tù, góc bẹt; hai đường thẳng vuông góc, hai đường
thẳng song song; một số đặc điểm về cạnh, góc của hình chữ nhật, hình vuông, hình
bình hành, hình thoi.
- Biết vẽ đường cao của hình tam giác, hai đường thẳng vuông góc, hai đường
thẳng song song; hình chữ nhật, hình vuông khi biết độ dài các cạnh.
- Biết tính chu vi, diện tích của hình bình hành, hình thoi.
3


* Về một số yếu tố thống kê và tỉ lệ bản đồ:
- Biết đọc và nhận định (mức độ đơn giản) các số liệu trên biểu đồ cột.
- Biết một số ứng dụng của tỉ lệ bản đồ trong thực tế.
*Về giải bài toán có lời văn :
- Biết tự tóm tắt bài toán bằng cách ghi ngắn gọn hoặc bằng sơ đồ, hình vẽ.
- Biết giải và trình bày bài giải các bài toán có đến ba bước tính, trong đó có
các bài toán: tìm số trung bình cộng, tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó,
tìm hai số khi biết tổng (hoặc hiệu) và tỉ số của hai số.
* Về phát triển ngôn ngữ, tư duy và góp phần hình thành nhân cách của học
sinh:
- Phát triển năng lực phân tích, tổng hợp, khái quát hóa và cụ thể hóa.
- Biết diễn đạt một số nhận xét, quy tắc, tính chất,… bằng ngôn ngữ nói, viết ở
dạng khái quát.

Dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng mà Bộ Giáo dục đã ban hành trên cơ
sở giáo viên tổ chức và hướng dẫn học sinh tham gia vào các hoạt động học tập một
cách tích cực, chủ động, sáng tạo, khuyến khích học sinh tự phát hiện và giải quyết
các vấn đề của bài học để tự chiếm lĩnh rồi vận dụng kiến thức mới, góp phần tạo
hứng thú và tự tin trong học tập toán của các đối tượng học sinh. Yêu cầu giáo viên
phải dạy học theo cách phân hoá đối tượng học nhằm giải quyết chuẩn kiến thức kỹ
năng tối thiểu và bồi dưỡng năng khiếu Toán học cho học sinh .
2. Thực trạng.
Qua nhiều năm làm công tác giảng dạy ở lớp 4 tôi đã nhận thấy:
- Chương trình toán lớp 4 là chương trình chuyển tiếp giữa các lớp 1, 2, 3.
Học sinh được củng cố, mở rộng kiến thức về 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia và
giải toán ... đặc biệt là giải các bài toán điển hình qua các vòng số. Trên tập hợp số tự
nhiên, phân số; học sinh tiếp tục được học các đại lượng thông dụng, một số yếu tố
hình học và thống kê đơn giản.
- Sự phát triển tâm sinh lí của sinh lớp 4 đang ở sự giao thời của lứa tuổi sao
nhi đồng và lứa tuổi thiếu niên. Ở lứa tuổi này tư duy cụ thể của các em đang chuyển
dần sang tư duy trừu tượng, sự ghi nhớ có chủ định ngày một phát triển hơn. Song sự
phát triển tâm lí, tri thức, kinh nghiệm chưa được nhiều, chưa nhận thức đầy đủ, khái
quát mà các em vẫn thiên về nhận thức trong những trường hợp, hoàn cảnh cụ thể.
- Nhìn chung động cơ học tập của các em tương đối tốt. Tuy nhiên, tuy cùng
hưởng thụ một nội dung chương trình giáo dục như nhau nhưng mỗi học sinh đều có
sự phát triển về thể chất và trí tuệ, điều kiện hoàn cảnh sống và sự quan tâm chăm
sóc ở gia đình, động cơ và thái độ học tập, năng lực học tập và khả năng tiếp thu bài
cũng khác nhau nên trong một lớp học có rất nhiều đối tượng học sinh. Có nhiều học
sinh tiếp thu bài nhanh, sâu sắc thì việc kiểm tra kiến thức, giảng dạy kiến thức mới,
giáo viên thực hiện dễ dàng, các em dễ dàng làm được tất cả các bài tập giáo viên
4


giao cho. Nhưng đối với các em học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán thì

rất khó khăn, vì các em tiếp thu bài chậm, thậm chí không hiểu bài. Khi không hiểu
bài dẫn đến trường hợp các em không tự trải nghiệm, tương tác; thời gian cả lớp làm
bài các em này thường không tập trung học bài.
- Qua quá trình giảng dạy, bản thân nhận thấy rằng các em học sinh còn hạn
chế năng lực về học môn Toán là những học sinh không chịu chú ý, chưa chuyên tâm
vào việc học. Còn một bộ phận nhỏ thì các em chưa xác định được mục đích của việc
học. Các em chỉ đợi đến khi lên lớp, nghe giáo viên giảng bài rồi ghi vào những nội
dung đã học mà không hiểu được nội dung đó nói lên điều gì.
- Đối tượng học sinh hạn chế về năng lực môn Toán thường là những em có
hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, cha mẹ ly hôn, bố mẹ đi làm ăn xa phải ở nhà với
ông bà. Học sinh còn hạn chế về năng lực môn Toán thường có tâm lí tự ti, mặc cảm,
hiểu chậm cái mới, quên nhanh cái vừa tiếp thu được. Quá trình ghi nhớ chậm,
không bền vững, không đầy đủ và thiếu chính xác. Dễ quên với cái gì không liên
quan, không phù hợp với nhu cầu mong đợi của trẻ, khó nhớ những gì có tính khái
quát, trừu tượng, quan hệ lôgic.
- Học sinh hạn chế về năng lực môn Toán gặp phải nhiều vướng mắc sau:
+ Khả năng tính toán chậm do cộng, trừ, nhân, chia trong bảng chưa thuần
thục. Khi thực hiện các phép tính cộng, trừ có nhớ và nhân, chia ngoài bảng, có
nhiều lỗ hổng về kiến thức.
+ Đặt tính chưa đúng, còn lẫn lộn giữa cộng, trừ, nhân, chia.
+ Năng lực giải toán của một số học sinh chưa tốt.
+ Không vận dụng được kiến thức của bài trước cho bài sau.
+ Các em không thích môn Toán vì môn Toán khô khan, ít hình ảnh sinh động
như những môn học khác.
+ Một số học sinh có thái độ thờ ơ với việc học tập, ngại cố gắng, thiếu tự tin,
tiếp thu thụ động, chán nản trong học tập.
Ngay đầu năm học 2015 - 2016 tôi được nhà trường phân công giảng dạy và
chủ nhiệm lớp 4B với tổng số học sinh là 32 em. Tôi đã tìm hiểu tình hình thực tế
việc học toán của lớp, kết quả thu được như sau:
Tổng số học sinh

32 em

Hoàn thành
27 em

Chưa hoàn thành
5 em

Từ kết quả trên, tôi mạnh dạn áp dụng một số biện pháp để giúp học sinh còn
hạn chế về năng lực môn Toán lớp 4 trường Tiểu học Hoằng Anh.
3. Các giải pháp giúp học sinh còn hạn chế về năng lực môn Toán lớp 4.
3.1. Phân loại đối tượng học sinh.
5


Việc phân loại đối tượng học sinh rất quan trọng, bởi lẽ nếu không biết được
các em còn hạn chế chỗ nào thì rất khó kèm cặp. Tôi thực hiện thường xuyên công
tác phân loại học sinh ở thời điểm đầu năm học, trong quá trình giảng dạy…Vì vậy
ngay sau khi nhận lớp, tôi vừa dạy vừa theo dõi cũng như tham khảo giáo viên lớp
dưới để đưa ra kết luận chính xác và khoanh nhóm đối tượng để đề ra phương pháp
dạy học phù hợp.
3.2. Xây dựng môi trường học tập thân thiện.
Môi trường học tập cũng là một yếu tố quan trọng giúp phát huy tính tích cực
của học sinh, nó là một trong những yếu tố giúp học sinh hạn chế năng lực môn Toán
rất có hiệu quả. Tôi đã tạo cho học sinh một môi trường học tập tốt, giúp các em tự
cảm nhận hết ý nghĩa của việc: “ Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Sự thân
thiện của giáo viên là điều kiện cần để thực hiện những biện pháp đạt hiệu quả cao.
Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười,… tôi đã tạo được sự gần gũi, cảm giác
an toàn cho học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc
sống của bản thân mình. Bốn bức tường của lớp học, tôi và học sinh tận dụng để hỗ

trợ cho việc học.
Ví dụ: Trưng bày “ Sản phẩm của em”: Các sản phẩm đẹp do các em làm ra
sau khi học thủ công, mĩ thuật, …; hay những bài toán có cách làm hay,... được trang
trí trên tường để học sinh trong lớp cùng xem, học tập lẫn nhau, kích thích học sinh
phấn đấu hoàn thiện làm đẹp, làm tốt sản phẩm của mình để được biểu dương trước
lớp. Phòng học của lớp được nhà trường và đồng nghiệp đánh giá có tính thẩm mĩ và
khoa học.
- Góc toán học: Là nơi trưng bày những bài giải toán, những bài tìm thành
phần chưa biết, các bảng cộng, trừ,... với các nội dung theo chương trình đang học để
khi vui chơi, lúc rảnh rỗi các em nhìn vào, lâu dần sẽ khắc sâu vào trí nhớ.
- Góc văn thơ: Tôi chọn những học sinh viết chữ đẹp viết một số bài thơ, đoạn
văn hay đã học trong tuần hoặc các bài sưu tầm trên báo,... dán lên để tất cả học sinh
cùng đọc nhằm kích thích sự yêu mến văn thơ, yêu thích viết chữ đẹp, cho các em
tìm hiểu thêm về các con vật, giúp các em miêu tả khi làm tập làm văn hay vẽ về con
vật trong môn Mĩ thuật.
- Góc thi đua: Nơi gắn cờ biểu dương tổ chăm ngoan, giữ vệ sinh tốt, tích cực
phát biểu,... giúp học sinh phấn khởi học tập tốt, chấp hành tốt nội quy nhà trường,
lớp học. Nơi này có bảng vàng danh dự ghi tên những học sinh giỏi, chăm ngoan để
làm gương và là niềm vui cho các em. Đồng thời để khuyến khích học sinh khác
phấn đấu noi theo.
- Học sinh đóng góp truyện, sách báo... để xây dựng thư viện mi ni cho lớp
nhằm trau dồi kỹ năng đọc, giúp học sinh thư giãn.
Để lớp học luôn phong phú, kích thích sự rèn luyện của học sinh tôi thường
xuyên thay đổi nội dung cho phù hợp với chủ điểm học sinh đang học, khuyến khích
6


các em làm các sản phẩm sáng tạo hơn để trang trí cho các bạn cùng học tập. Đặc
biệt tôi chú ý làm tốt nội dung ở góc thi đua. Tôi cho học sinh nhận xét sự cố gắng
vươn lên, sự tiến bộ trong tuần của học sinh nhất là những em học sinh chưa hoàn

thành. Danh sách học sinh được ghi trên bảng vàng danh dự cũng được thay đổi qua
từng tháng. Thật sự học sinh rất hứng thú, phấn đấu hoàn thiện để mình, sản phẩm
của mình được trưng bày lên lớp, được ghi tên vào góc thi đua, trên bảng vàng danh
dự. Tôi rất mừng khi thấy học sinh trong lớp nhất là những em học sinh chưa hoàn
thành môn Toán rất thích, rất tích cực tham gia và phần nào giúp các em lĩnh hội kiến
thức ở môn Toán và các môn học khác rất tốt.
3.3. Thường xuyên cải tiến nội dung và các hình thức tổ chức dạy học
trong mỗi tiết học.
- Phối hợp các hình thức dạy học theo lớp, theo nhóm hay hoạt động cá nhân
một cách phù hợp có hiệu quả, tạo nhiều hình thức thi đua trong học tập.
- Tổ chức các trò chơi học tập, cải tiến các bài tập trong sách giáo khoa thành
trò chơi, câu đố hay giải ô chữ để thu hút sự chú ý ở học sinh, các em được học mà
chơi, chơi mà học. Điều đặc biệt chú ý là trong mỗi tiết học, mỗi trò chơi tôi thường
xuyên quan tâm khuyến khích tất cả các em tiếp thu bài chưa nhanh tham gia một
cách tích cực, tự tin, thoải mái, tránh trường hợp để các em cảm thấy bị ép buộc.
Ví dụ : Trò chơi " Tìm bạn cho tôi": Mỗi đội có 20 tấm thẻ bằng bìa, trên đó
ghi những phép tính toán học. Trong đó có các phép tính có giá trị bằng nhau. Cách
chơi: Chia lớp thành các đội, mỗi đội từ 4 - 6 em. Trong khoảng thời gian là 5 phút
các đội phải tìm được các cặp đôi phép tính có kết quả bằng nhau. Đội nhanh nhất
đúng nhất là đội chiến thắng. Trò chơi này giúp các em rèn kĩ năng tính nhẩm rất tốt.
- Giáo viên thay hình thức tính nhẩm trong các phép tính +, -, x, : thành trò
chơi thi đua tiếp sức giữa các tổ.
- Sử dụng phối hợp bài tập trắc nghiệm giúp tiết học thêm phong phú, sinh
động. Thay vì cứ lặp đi lặp lại việc giải toán có lời văn, thỉnh thoảng tôi thay đổi
bằng hình thức trắc nghiệm.
Ví dụ: Khoanh vào chữ đặt trước câu trả lời đúng:
1.Chiều cao của các bạn Lan, Cúc, Đào, Hồng lần lượt là 136cm, 129cm,
132cm và 139cm. Hỏi chiều cao trung bình của mỗi bạn là bao nhiêu?
A. 133cm
B. 134cm

C. 135cm
D. 143cm
2. Hiện nay tổng số tuổi của hai mẹ con là 40 tuổi và mẹ hơn con 24 tuổi. Tuổi
của mẹ hiện nay là:
A. 8 tuổi
B. 64 tuổi
C. 32 tuổi
D. 16 tuổi
Khi học sinh làm những dạng bài này, tôi luôn chú ý quan sát nhắc nhở các em
tự tìm cách làm, tránh tình trạng các em không cần làm mà chỉ nhìn bài để khoanh và
giúp các em ghi nhớ kiến thức đã học tôi cho học sinh trình bày cách làm để có được
kết quả của mình.
7


3.4. "Ứng dụng công nghệ thông tin" thiết kế giáo án điện tử để nâng cao
hiệu quả giảng dạy.
Ngày nay, do sự phát triển mạnh mẽ về công nghệ thông tin, việc thực hiện bài
giảng bằng giáo án điện tử không những thay đổi hình thức dạy học mà còn nhiều tác
dụng. Học sinh hứng thú học tập bởi các hình ảnh trực quan đẹp, mới lạ, sống động
kiến thức trở nên gần gũi, học sinh dễ hiểu, gây sự tò mò, ham học hỏi. Thực hiện
bài giảng bằng giáo án điện tử đã làm giảm sự “khô khan” của toán học, đồng thời có
thể thiết kế được nhiều trò chơi lí thú, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học và
trong cùng một lúc có thể kiểm tra được nhiều đối tượng học sinh, khi kiểm tra câu
trả lời, sự phản hồi của học sinh, giáo viên dễ dàng bật máy để kiểm tra, tiện lợi nhất
là câu trả lời trắc nghiệm.
3.5. Khuyến khích học sinh tham gia hoạt động ngoại khóa.
Khuyến khích học sinh tham gia hoạt động ngoại khóa, học tập ngoài trời sẽ
giúp học sinh có điều kiện tiếp xúc môi trường xung quanh, có cơ hội để giao lưu,
học hỏi lẫn nhau. Qua đó rèn luyện tính nhanh nhẹn, sự tự tin, bản lĩnh. Đây là phẩm

chất rất cần thiết của con người trong thời đại mới đồng thời giúp các em còn hạn
chế về năng lực môn Toán có cơ hội thể hiện năng lực, nâng dần khả năng nhận thức
của bản thân về mọi mặt. Từ đó giúp các em tiếp thu kiến thức về môn Toán tốt hơn.
3.6. Làm tốt công tác thi đua khen thưởng trong lớp học.
Trong khi dạy ở tất cả các phân môn, tôi thực hiện đúng theo tinh thần đánh
giá học sinh của Thông tư 30/2014/TT – BGDĐT, thường xuên chú ý đến sự tiến bộ
từng mặt của từng em để có lời khen kịp thời dù là rất nhỏ. Nếu việc này làm tốt sẽ
giúp các em thấy được mình đã có tiến bộ và được cô, các bạn khẳng định. Đây là
một trong những động lực giúp các em cố gắng nhiều hơn nữa trong học tập. Bên
cạnh đó tôi sử dụng những lời phê bình nhẹ nhàng nhưng có sức thuyết phục tránh
các em bị tổn thương, tránh việc xử phạt nặng mỗi khi các em làm chưa đúng hoặc
chưa tiến bộ. Mặt khác sự đối xử công bằng và bình đẳng của giáo viên đối với học
sinh cũng rất quan trọng để các em tin tưởng vào sự đánh giá, nhận xét của giáo viên
và xem giáo viên là người chuẩn mực đáng tin cậy.
3.7. Phối hợp với giáo viên bộ môn trong việc giúp học sinh còn hạn chế
về năng lực môn Toán.
Trong thực tế, những học sinh còn hạn chế về năng lực môn Toán thì khả năng
tiếp thu kiến thức ở các môn học khác cũng chậm. Chính vì thế, để việc kèm cặp học
sinh còn hạn chế về năng lực môn Toán thành công chúng ta cần phối hợp với giáo
viên dạy các môn đặc thù chú ý quan tâm kèm cặp, tạo điều kiện tối đa để các em
tham gia lĩnh hội kiến thức một cách chủ động.
3.8. Thành lập: " Đôi bạn cùng tiến"
Qua nắm được lực học, sở thích, điều kiện hoàn cảnh của từng em trong lớp,
tôi phân công một học sinh có năng lực học toán tốt kèm một học sinh hạn chế về
8


năng lực học toán và sắp xếp cho 2 em ngồi cùng một bàn.Việc thành lập "đôi bạn
cùng tiến" được tôi rất quan tâm. Khi thành lập đôi bạn học tập tôi chú ý tạo thành
đôi bạn có thể giúp nhau tiến bộ về môn Toán, đồng thời mỗi đôi bạn này phải cùng

sở thích, thân nhau và gần nhà nhau. Tôi hướng dẫn cho học sinh có năng lực học
toán tốt cách kèm bạn học: Nhắc nhở bạn học bài, xem lại bài; trao đổi kinh nghiệm
học tập; cách học bài dễ thuộc; cách vận dụng kiến thức đã học vào làm bài tập;
hướng dẫn bạn làm bài tập hoặc củng cố kiến thức mà bạn chưa hiểu vào sinh hoạt
15 phút đầu giờ hoặc vào những buổi hai bạn có thể tự học.
Bản thân tôi đầu giờ cũng vào lớp sớm giúp đỡ học sinh; xem cách thực hiện
của đôi bạn học tập như thế nào để có những điều chỉnh cho phù hợp hơn.
Qua việc làm trên, tôi thấy tình cảm bạn bè càng gắn bó hơn. Những học sinh
còn hạn chế về năng lực môn Toán thường hay nhút nhát, rụt rè nay không còn nữa
mà trở nên mạnh dạn, tự tin hơn; các em càng ham thích đến lớp để hòa nhập với bạn
bè, việc học của các em ngày càng tiến bộ hơn.
3.9. Định hướng cho học sinh tự học theo phong cách: Học mọi nơi, học
mọi lúc, học mọi người, học bằng mọi cách và học qua mọi nội dung.
Để định hướng cho học sinh tự học theo phong cách: Học mọi nơi, học mọi
lúc, học mọi người, học bằng mọi cách và học qua mọi nội dung trước hết người giáo
viên cần rèn cho học sinh nề nếp tự quản và khả năng tự học cho học sinh.
Học mọi nơi: Lê - nin đã từng nói: “Học, học nữa, học mãi”. Học là học kiến
thức, học cách suy nghĩ tìm ra kiến thức, học ở nhà, ở lớp, ở câu lạc bộ, ở thư viện, ở
nơi nghỉ hè,…
Học mọi lúc: Nếu học sinh đã biết học “mọi nơi” thì các em cũng sẽ biết học
mọi lúc, tận dụng lúc rảnh rỗi: Học vào lúc đi du lịch, học trên đường đi chơi, học
khi đang hóng mát,…
Ví dụ:
1. Buổi sáng khi đi tập thể dục, các em có thể quan sát vị trí mọc của mặt trời
ở chân trời phía Đông từ đó tập xác định các hướng Tây - Nam - Bắc, các em cũng
có thể liên hệ đến sự chuyển động của mặt trời trong một ngày.
2. Khi nhà trường tổ chức các hoạt động ngoại khóa, lúc các em ngồi trên xe
đi đến nơi tham quan, giáo viên cũng có thể giúp các em ôn cách tính về tìm số trung
bình cộng. Chẳng hạn cho học sinh tìm xem trung bình mỗi giờ ô tô đi được bao
nhiêu ki - lô - mét? bằng cách dựa vào số ghi ở cột cây số trên đường và chiếc đồng

hồ; các em thực hiện một trò chơi thú vị là đọc số ki - lô - mét ghi ở cột cây số cho
biết quãng đường từ nhà đến nơi tham quan và chia cho thời gian ô tô đã đi.
Học mọi người: Học người thật, việc thật, người tốt, việc tốt, người xưa trong
lịch sử, nhân vật trong truyện,… Khi đọc truyện “Vua máy tính Bin Ghết” (Truyện
đọc lớp 4), yêu thích và khâm phục vua máy tính Bin Ghết - nhà phát minh, nhà kinh
doanh, một trong những người giàu có nhất hành tinh, học sinh học được ở nhân vật
9


Bin Ghết tinh thần say mê học tập, làm việc; đam mê đọc sách từ khi còn rất bé; ý
chí quyết tâm cao.
Học bằng mọi cách: Giáo viên cần giúp cho học sinh thoát khỏi lối học thụ
động, đơn giản là đến lớp nghe giảng, về nhà làm bài, học thuộc bài,… Kiên trì giúp
học sinh có thói quen tự đọc sách báo, hứng thú tra từ điển, qua tivi, qua các phương
tiện nghe nhìn, qua các trang web, qua các câu hỏi thông minh,… Phải bằng mọi
cách tự mình tìm ra kiến thức, khám phá cái mới, cái chưa biết bằng hành động và
suy nghĩ của chính mình.
Tóm lại: Học sinh cần rèn luyện cho bản thân tinh thần tự học, kĩ năng tự học.
Các em không chỉ thực hiện việc tự học ở cấp Tiểu học hay Trung học mà việc tự
học cần phải được rèn luyện suốt đời, rèn luyện đến mức nhuần nhuyễn thì mới có
thể cập nhật được tri thức và “nên người” ở thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay.
3.10. Kết hợp: Gia đình - Nhà trường - Xã hội.
- Việc rèn nề nếp tự quản, tinh thần tự học, học mọi nơi, học mọi lúc, học mọi
người, học bằng mọi cách có thành công hay không cũng phải dựa vào mối quan hệ
mật thiết này. Sự phối hợp mật thiết giữa Nhà trường – Gia đình – Xã hội sẽ tạo cho
chúng ta có một giải pháp tốt hơn để rèn luyện giáo dục các em. Nó góp phần hình
thành ở học sinh những hành vi và thói quen đạo đức rất quan trọng của nhân cách
người công dân, người lao động có khả năng hòa nhập tích cực vào cuộc sống của
cộng đồng xã hội.
- Thực tế nếu chỉ giao cho đôi bạn học tập hoặc chỉ một giáo viên kèm cặp mà

không có sự giúp đỡ chỉ bảo của phụ huynh thì kết quả khó mà thực hiện.
- Ngay từ đầu năm học, trong cuộc họp phụ huynh tôi gặp riêng phụ huynh của
những em còn hạn chế về năng lực môn Toán hướng dẫn cách phối hợp, cách kiểm
tra, yêu cầu phụ huynh bố trí giờ tự học cho học sinh ở nhà, góc học tập của các em
cần cách biệt với không gian sinh hoạt ồn ào của gia đình; các ngày nghỉ như chủ
nhật, cho các em tự học, kết hợp vui chơi hợp lí. Duy trì thu nhận thông tin 2 chiều
giữa giáo viên và phụ huynh để có biện pháp phù hợp kèm cặp các em kịp thời.
3.11. Có kế hoạch kèm cặp và biện pháp hỗ trợ cụ thể.
3.11.1. Đối với những em kĩ năng thực hiện 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia,
chưa thành thạo.
a. Đối với số tự nhiên.
Ngoài việc dạy các kiến thức trong chương trình toán 4, tôi tiến hành lên kế
hoạch như sau:
- Thời gian đầu (khoảng 2 tháng) các em này sẽ được rèn kĩ năng tính miệng,
giao bài tập làm thêm ở các tiết học tăng tiết cùng dạng để học sinh làm.
Ví dụ: Bài tập: Đặt tính rồi tính
278157 : 3
475908 : 2
304968 : 4
408090 : 5
10


- Tôi hướng dẫn học sinh những kiến thức đứt quãng ở lớp dưới, đặc biệt là rèn kĩ
năng thực hiện bốn phép tính cơ bản. Thường xuyên kiểm tra các bảng cộng, trừ,
bảng nhân, bảng chia và khả năng vận dụng của các em vào học toán trong chương
trình toán lớp 4.
- Dành thời gian dạy lại cho các em cách đặt tính và tính với các số có ít chữ số
trước, khắc sâu cho học sinh kĩ năng đặt tính và tính, ôn lại cấu tạo, cách đọc viết số
tự nhiên. Tôi cho học sinh làm các bài tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.

Ban đầu, cho học sinh cộng các số có số chữ số bằng nhau rồi đến cộng các số có số
các chữ số không bằng nhau.
Ví dụ: Đặt tính rồi tính:
a. 125 + 217
b. 56 + 1024
- Ngoài ra để luyện đặt tính đúng, tôi đưa ra một số bài trắc nghiệm dạng
đúng, sai.
Ví dụ: Điền Đ vào bài đặt tính đúng, điền S vào bài đặt tính sai:
+ 75
65

-5324
348

435
+
98

5916
2358

( dấu phép tính chưa rõ )
- Tôi rèn cho học sinh kĩ năng tính nhẩm. Tôi thường dành ra năm phút đầu
buổi học hoặc thời gian chuyển giữa các tiết để tổ chúc trò chơi "đố bạn". Tôi hướng
dẫn học sinh đưa ra câu hỏi đơn giản như:
10 x 4 = ?
48 - 8 = ?
50 : 10 = ?
100 x 3 = ? ,...
- Tôi thường xuyên dự kiến, theo dõi, nhắc nhở những sai lầm của học sinh (được

tích lũy từ kinh nghiệm dạy học nhiều năm ở lớp 4). Khi thực hiện các phép tính
nhân, chia ở lớp 4 học sinh thường gặp một số khó khăn sai lầm sau:
* Học phép nhân:
Khi nhân số tự nhiên có 2, 3 chữ số với số tự nhiên có 2, 3 chữ số có nhớ 2, 3
lượt liên tiếp, học sinh thường chỉ nhớ 1, 2 lượt đầu mà không nhớ các lượt tiếp theo.
VD: 234
X
24
836
468
5516
Nguyên nhân sai lỗi này là: Khi tính tích riêng thứ nhất học sinh chỉ cộng số
cần nhớ ở lượt đầu còn ở lượt thứ hai học sinh không cộng phần có nhớ vào.
=>Khắc phục: Đối với lỗi trên, giáo viên cần khắc phục cho học sinh bằng
cách yêu cầu các em nhẩm thầm trong khi tính (vừa tính, vừa nhẩm) như phép tính
11


mẫu trong sách giáo khoa và viết số cần nhớ ra giấy nháp, nhớ sang hàng nào thì sau
khi nhân nhẩm xong nhớ cộng vào ngay.
- Cũng với phép nhân số tự nhiên có 2, 3 chữ số với số tự nhiên có 2, 3 chữ số
có nhớ 2, 3 lượt liên tiếp, học sinh còn vướng thêm sai lầm khi nhận biết tích riêng
thứ nhất, tích riêng thứ hai, tích riêng thứ ba. Đặt sai vị trí của các tích này.
VD:
36
X
23
108
72
180

=>Khắc phục: Giáo viên cần giải thích cho học sinh rõ:
- 108 là tích riêng thứ nhất .
- 72 là tích riêng thứ hai. Tích riêng thứ hai được viết lùi sang bên trái một cột
vì nó là 72 chục, nếu viết đầy đủ phải là 720.
* Học phép chia:
- Học sinh thường ước lượng thương sai trong phép chia có dư nên dẫn đến
tìm được số dư lớn hơn (hoặc bằng số chia) và thực hiện chia số dư đó cho số chia.
Cuối cùng, tìm được thương lớn hơn số chia.
VD:
4674
82
574 561
82
0
Nguyên nhân lỗi sai này là :
- Học sinh chưa nắm được quy tắc “ Số dư bao giờ cũng nhỏ hơn số chia”
- Học sinh không nắm được quy tắc thực hiện phép chia viết “Có bao nhiêu lượt
chia thì có bấy nhiêu chữ số được viết ở thương”
=>Khắc phục: Khi dạy học sinh cách ước lượng thương trong phép chia, cần lưu
ý cho học sinh quy tắc trong phép chia có dư : “Số dư bao giờ cũng nhỏ hơn số
chia”.
- Giúp học sinh tập ước lượng tìm thương, cụ thể :
467 : 82 = ? Có thể ước lượng: 50 : 8 = 6 (dư 2)
- Một sai lầm nữa thường thấy ở học sinh khi học chia viết là: Các em thường
quên chữ số “0” trong phép chia có chữ số “0” ở thương.
VD:
2448
24
048 12
0

=> Khắc phục: Khắc sâu cho các em ở lượt chia thứ hai ta có 4 chia 24 được
0; phải viết 0 ở vị trí thứ hai ở thương.
12


- Sử dụng các hình thức, phương pháp dạy học tích cực để học sinh có thể thực
hành, rút ra kết luận quy tắc và tự thực hành.
Việc hướng dẫn học sinh tự tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức mới có vai trò rất quan
trọng trong quá trình hình thành và phát triển tư duy toán học của học sinh đặc biệt là
sự tiếp thu kiến thức của các em còn hạn chế năng lực môn Toán. Nên trong quá
trình dạy học tôi đã sử dụng các hình thức, phương pháp dạy học tích cực để học
sinh có thể thực hành, rút ra kết luận, quy tắc và tự thực hành.
VD: Khi dạy bài “Chia hai số có tận cùng là các chữ số 0”. Tôi nêu vấn đề cần
tìm hiểu (320 : 40 = ?) để học sinh nhận xét, tư duy cá nhân, tìm cách làm (vận dụng
chia một số cho một tích đã học). Từ đó, học sinh có thể đưa ra nhận xét 320 : 40 =
32 : 4. Đây chính là vấn đề cần giải quyết, giáo viên có thể gọi học sinh đại diện lên
để đặt tính trong khi các học sinh khác tự tính vào bảng con.
Nêu ví dụ thứ hai để học sinh tự giải quyết vào phiếu học tập (32000 : 400 = ?
Học sinh sửa bài và cũng đưa ra nhận xét 32000 : 400 = 320 : 4.
Từ ví dụ thứ hai này học sinh rút ra cách thực hiện chia hai số có tận cùng là các
chữ số 0 (Giải quyết bằng cách đặt tính). Học sinh tự nêu cách thực hiện.
Học sinh được luyện tập thực hành bằng ba bài tập trong phần thực hành để khắc
sâu kiến thức vừa tìm được. Chú ý khắc sâu kiến thức bằng cách sau mỗi bài tập học
sinh cần nêu lại cách thực hiện.
b. Đối với phân số:
Trong bốn phép tính thực hiện trên các phân số các em hạn chế về năng lực
toán thường gặp phải các lỗi như:
+ Đối với phép cộng, phép trừ phân số thì lấy tử số cộng hoặc (trừ) với tử số
được tử số, lấy mẫu số cộng hoặc (trừ) mẫu số được mẫu số. Đặc biệt trong phép trừ
các em còn nhầm lẫn phân số thứ nhất (số bị trừ) có tử số và mẫu số bé hơn phân số

thứ 2 (số trừ) thì không thực hiện phép trừ được.
Ví dụ:

a)

1
2
1
2
3
+ Học sinh thường làm sai: + =
5
5
5
5 10
1
1
1
1
1−1
0
b) Học sinh thường làm sai:
- =
= =
4
6
4
6
4−6
2


0
=> Khắc phục: Trong khi dạy phần lí thuyết, giáo viên chú ý khắc sâu phần
cộng (trừ) hai phân số ở sách giáo khoa cho học sinh. Chỉ ra chỗ sai và kịp thời uốn
nắn, áp dụng làm bài tập tương tự.
+ Đối với phép nhân phân số với phân số, số tự nhiên với phân số thì một số
ít học sinh mắc phải:
Ví dụ:
Tính:

2
3
2
3
6
x có học sinh làm : x = ( nhầm với phép cộng )
5
5
5
5
5

13


4
( nhân số tự nhiên với phân số và ngược lại)
7
4
12

4
21
4
147
21x 7
Có học sinh làm: 3 x =
hoặc 3 x =
x =
=
7
21
7
7
7
7 x4
28

Tính: 3 x

- Sự sai lầm thường rơi vào tiết luyện tập. Do học sinh nắm quy tắc nhân phân
số chưa thật chắc đã nhầm sang phép cộng hai phân số cùng mẫu số.
- Trong ví dụ 2 ngoài việc không nắm được quy tắc nhân thì các em còn không
nắm được số tự nhiên là phân số đặc biệt có mẫu số là 1. Một số em thì nhầm phép
nhân với phép chia.
=> Khắc phục:
- Trước khi làm phần bài tập ( luyện tập) Yêu cầu học sinh nhắc lại quy tắc và
một số chú ý trong sách giáo khoa có liên quan đến kiến thức bài học.
- Trong khi thực hành mẫu giáo viên cần thực hiện từng bước một rõ ràng, cụ
thể không thể làm đơn giản (làm tắt). Để khi thực hiện những học sinh hạn chế về
năng lực nắm được cách làm. Yêu cầu học sinh phân biệt rõ phần chú ý của phép

cộng số tự nhiên với phân số, quy tắc nhân phân số… Giáo viên cần chỉ rõ bản chất
của từng quy tắc đối với mỗi phép tính đồng thời chỉ rõ sai lầm cho các em khắc
phục và tránh những sai lầm đó.
+ Đối với phép chia phân số:
Phép chia phân số khó hơn các phép tính đã học trước đó vì nó vừa áp dụng
quy tắc chia vừa phải vận dụng kiến thức của phép nhân hai phân số đã học, đặc biệt
là việc đảo ngược phân số thứ hai.
Ví dụ:
1: Tính:

2: Tính:

3
5
:
7
8

3
5
3 x5
15
:
=
=
7
8
7 x8
56
3

5
5 x7
35
:
=
=
7
8
8 x3
24
3
3
3x 2
6
: 2 Học sinh làm sai:
: 2 =
=
4
4
4
4

Học sinh làm sai:

=> Khắc phục:
- Đối với ví dụ 1: Yêu cầu các em cần phân biệt rõ quy tắc nhân và chia. Giáo
viên cần chỉ rõ chỗ sai lầm, khi làm mẫu cần làm đủ các bước không nên làm tắt .
- Đối với ví dụ thứ 2: Giáo viên lại phải khắc sâu một lần nữa (số tự nhiên là
phân số đặc biệt có mẫu số là 1) sau đó hướng dẫn cách làm:
Hoặc:


3
3
2
3 1 3
:2 =
:
= x =
4
4
1
4 2 8

hay

3
3
3
: 2=
=
4
4 x2
8

3.11.2. Đối với học sinh hạn chế về năng lực giải toán:
Về phần giải toán, học sinh lớp 4 nói chung đặc biệt là học sinh hạn chế về
năng lực, các em rất sợ bởi khả năng đọc hiểu và không biết tính hoặc tính thiếu
chính xác, chưa biết cách phân tích, thiết lập mối quan hệ giữa các dữ kiện đã cho,
14



khả năng suy luận, xác định dạng toán hạn chế. Chính vì thế để rèn những học sinh
có kĩ năng giải toán chậm tôi đã thực hiện tốt một số biện pháp sau:
- Bổ sung kịp thời những kiến thức về giải toán mà học sinh tiếp thu chậm ở
lớp dưới.
- Dạy tốt chương trình chính khoá: cùng với việc bổ sung phần kiến thức học
sinh tiếp thu chậm từ lớp dưới, tôi cố gắng dạy tốt chương trình chính khoá. Khi dạy
giúp học sinh biết cách xác định dạng toán và nắm vững cách giải các dạng bài toán
điển hình như cách tìm số trung bình cộng, cách giải bài toán về tìm hai số khi biết
tổng và hiệu của hai số đó,...
- Hướng dẫn học sinh nắm vững các bước giải một bài toán:
* Bước 1: Phân tích đề bài.
+ Học sinh cần đọc kĩ đề bài để hiểu nội dung (cách diễn đạt, ý nghĩa nội dung
đề bài).
+ Phân tích đề: xác định được cái đã cho (tức là dữ kiện), cái cần tìm (tức là
ẩn số).
Ví dụ 1: Mua 12 quyển vở hết 48000 đồng. Hỏi mua 30 quyển vở như thế hết
bao nhiêu tiền?
Bài toán cho biết gì ? (Mua 12 quyển vở hết 48000 đồng.)
Bài toán yêu cầu làm gì ? (Mua 30 quyển vở như thế hết bao nhiêu tiền?)
* Bước 2: Lập mối quan hệ.
Học sinh thiết lập được mối quan hệ giữa các dữ kiện, giữa cái đã cho và cái
cần tìm.
Ở ví dụ 1 quan hệ giữa cái đã cho và cái cần tìm là quan hệ tỉ lệ (số vở mua
tăng lên bao nhiêu lần thì số tiền mua vở tăng lên bấy nhiêu lần.)
* Bước 3: Lập kế hoạch giải.
+ Vận dụng phương pháp phân tích và tổng hợp để lập kế hoạch giải. Chẳng
hạn với đề toán như ví dụ 1 học sinh cần xác định được:
Muốn biết mua 30 quyển vở như thế hết bao nhiêu tiền ta làm thế nào? (Lấy số
tiền mua 1 quyển vở nhân với 30)

Vậy muốn biết mua 30 quyển vở như thế hết bao nhiêu tiền ta phải làm gì?
* Bước 4: Giải.
Sau khi lập kế hoạch giải học sinh tiến hành giải bài toán.
Ví dụ: Bài giải của ví dụ 1:
Bài giải:
Giá tiền 1 quyển vở là:
48000 : 12 = 4000 (đồng)
Số tiền mua 30 quyển vở như thế là:
4000 x 30 = 120000 (đồng)
Đáp số: 120000 đồng.
15


* Bước 5: Kiểm tra kết quả gồm: Đọc, kiểm tra lời giải, phép tính. Có thể tìm
cách giải khác để đối chiếu kết quả.
- Giáo viên cho học sinh thực hành giải những bài toán từ dễ đến khó, từ đơn
giản đến phức tạp, tìm tòi, sáng tạo trong giải toán, tìm nhiều cách giải cho một bài
toán.
- Không làm thay học sinh.
Thông thường, trong khi dạy giáo viên thường nóng vội, khi thấy các em chưa
tìm ra cách giải thì giáo viên giảng, gợi ý quá kĩ, gần như làm hộ học sinh. Học sinh
chỉ việc ghi lại lời thầy giảng. Vì thế, khi đưa ra một bài toán, tôi để học sinh đọc kĩ
đề bài, xác định dạng toán, lập luận để tìm ra cách giải bài toán. Có như thế, các em
mới nhớ được lâu và khi gặp các dạng bài tương tự, các em có thể giải được mà
không lúng túng.
- Đưa ra hệ thống bài tập tự luyện hợp lí.
Sau mỗi tiết học, buổi học, tôi luôn đưa ra một số bài tập cho học sinh tự luyện
(học sinh có thể làm ở tiết tự học hoặc ở nhà). Hệ thống bài tập đưa ra cần phải phù
hợp với đối tượng học sinh. Bài tập đưa ra vừa có kiểu tương tự dạng bài vừa học
đồng thời phải cần có sự linh hoạt sáng tạo.

3.12. Soạn chương trình dạy học cho đối tượng học sinh hạn chế về năng
lực học toán.
Căn cứ kế hoạch dạy học tôi soạn ra chương trình dạy học cho các đối tượng
này. Chương trình được soạn trước một tuần và trình lên tổ chuyên môn, hiệu phó
nhà trường góp ý và kiểm duyệt.
3.13. Thường xuyên nắm bắt nội dung kiến thức mới trong chương trình
các em tiếp thu chậm, nâng dần mức độ luyện tập theo khả năng từng em.
Song song với việc nâng cao sự ôn tập, củng cố kiến thức còn hổng ở lớp
dưới, tôi thường xuyên nắm bắt những phần kiến thức trong chương trình môn Toán
lớp 4 mà các em nắm chưa vững để bổ sung vào nội dung cần kèm cặp kịp thời.
Khuyến khích các em tự rèn luyện vào vở bài tập đối với các dạng bài thường sai.
Giáo viên cho học sinh làm các bài tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, nâng
dần mức độ luyện tập theo khả năng từng em, tránh tình trạng chờ nhau cùng tiến.
3.14. Dạy lồng ghép.
Sau khi lên chương trình dạy học thì giáo viên sẽ đưa vào dạy trong chương
trình bằng hình thức dạy lồng ghép với học sinh trong lớp. Khi học sinh học xong
phần lí thuyết, chuyển sang phần luyện tập thực hành tôi dành thời gian kèm đối
tượng học sinh chưa hoàn thành.
Chẳng hạn: Khi dạy bài: Ôn tập các số đến 100000 giáo viên chú ý cho học
sinh còn hạn chế năng lực môn Toán ôn về cấu tạo, cách đọc, viết các số tự nhiên có
2, 3 chữ số trước. Từ đó nâng dần lên ôn về cấu tạo, cách đọc, viết các số tự nhiên có
4 chữ số.
16


4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
4.1. Hiệu quả đối với bản thân.
Qua quá trình áp dụng “Một số biện pháp giúp học sinh còn hạn chế năng lực
về học môn Toán lớp 4” tôi đã thu được kết quả đáng mừng. Đây là một trong những

động lực để tôi say mê, tận tâm hơn với nghề, thúc đẩy bản thân đi sâu tìm tòi,
nghiên cứu những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy cũng như giáo dục
học sinh trong thời gian công tác còn lại của mình.
4.2. Hiệu quả đối với đồng nghiệp và nhà trường.
4.2.1. Hiệu quả đối với đồng nghiệp.
Đồng nghiệp đánh giá cao những giải pháp tôi đã áp dụng để giúp học sinh
còn hạn chế năng lực về học môn Toán lớp 4. Sáng kiến kinh nghiệm đã được áp
dụng rộng rãi trong các giáo viên khối 4, hiệu quả đạt được rất tốt. Nhờ vậy đã giúp
nâng cao năng lực và bồi dưỡng giáo viên ngày càng vững về chuyên môn nghiệp
vụ, năng lực thực tiễn, nghiêm cứu khoa học và khả năng tự học.
4.2.2. Hiệu quả đối với nhà trường.
Qua một năm kiên trì thực hiện những biện pháp giúp học sinh còn hạn chế
năng lực môn Toán lớp 4B, trường Tiểu học Hoằng Anh, tôi thấy ở lớp 4B không còn
em nào chưa hoàn thành môn Toán, các em tiến bộ rất nhanh. Trong quá trình học
toán, học sinh dần dần biết cách phát hiện, chiếm lĩnh kiến thức mới và cách giải
quyết các vấn đề gần gũi với đời sống. Với mỗi bài toán các em luôn đọc kĩ đề bài,
tự phân tích những cái đã cho và cái phải tìm, tự tìm ra mối quan hệ của chúng, từ đó
tìm ra hướng giải của bài toán.
Nhờ phát hiện tốt được những dạng toán và xác định được cách làm đúng nên
đến nay tình trạng “ lỗ hổng” kiến thức đã cải thiện rất nhiều. Đến những dạng toán
điển hình ở lớp 4 các em cũng đã xác định đúng dạng và trình bày bài giải một cách
chính xác, rõ ràng.
Trong quá trình thực hiện, chất lượng học môn Toán của lớp tôi có tiến bộ rõ
rệt. Hiện nay các em rất thích học môn Toán. Các em mạnh dạn phát biểu ý kiến xây
dựng bài, tính toán nhanh, chính xác. Học sinh ham học, tự tin, chất lượng học tập
của cả lớp cũng được nâng lên một cách rõ rệt. Khả năng tham gia các hoạt động và
tiếp thu bài ở các môn học khác của học sinh cả lớp, nhất là các em còn hạn chế năng
lực môn Toán đầu năm được nâng lên. Sự tiến bộ của các em biểu hiện cụ thể qua
bài làm, qua việc đánh giá thường xuyên hàng giờ, hàng ngày, hàng tháng của giáo
viên, qua sự đánh giá của Đội, nhà trường qua từng tháng, qua các lần kiểm tra, dự

giờ thăm lớp của ban giám hiệu.
Cuối năm học tôi đã cùng tổ trưởng chuyên môn ra đề khảo sát học sinh. Nội
dung ra đề đúng 3 mức độ theo hướng dẫn của thông tư 30/2014/TT – BGDĐT.
Tổng số học sinh tham gia khảo sát là 32 em học sinh lớp 4B.
17


Đề bài:
Phần I: Trắc nghiệm (3 điểm) Khoanh vào chữ cái đặt trước câu trả lời
đúng.
Câu 1. Chữ số 6 trong số 456987 có giá trị là:
A. 6
B. 6987
C. 600
Câu 2. Phân số bằng phân số
A.

20
16

4
là:
5
16
B.
20

D. 6000

C.


16
15

D.

12
16

Câu 3. Trung bình cộng của các số 137; 248 và 395 là:
A. 780
B. 390
C. 260
D. 266
2
2
Câu 4. Số thích hợp điền vào chỗ chấm 37dm 4cm = ……. . cm2 là:
A. 3704
B. 374
C. 3740
D. 37040
Câu 5. Diện tích hình thoi có độ dài hai đường chéo 3 dm và 8 dm là:
A.15dm 2
B. 15dm
C. 12 dm 2
D. 12 dm
Câu 6. Phép trừ
A.

5

18

1 2
− có kết quả là:
2 9
13
B.
18

C.

5

D.

36
18

Phần II. Tự luận ( 7 điểm)
Câu 1.( 3 điểm) Tính:
1 5

3 12

6
:2
11

5 3 4
+ x

8 8 9

Câu 2.( 3 điểm) Một thửa ruộng hình chữ nhật có chu vi là 540 m và chiều rộng bằng
hai

2
chiều dài. Tính diện tích của thửa ruộng đó.
3

Câu 3:( 1 điểm) Tìm x:
X × 34 = 20 x 17
Kết quả đạt được là:
Số lượng
Điểm 9 ⇒ điểm 10
HS
SL
TL
25
78.1%
32

Điểm 7 ⇒ điểm 8
SL
5

TL
15.6%

Điểm 6 ⇒ điểm 5
SL

2

TL
6.3%

Chất lượng giáo dục của lớp được nâng lên góp phần chung trong sự phát triển
giáo dục của nhà trường. Phụ huynh học sinh tin tưởng gửi con em mình vào trường,
học sinh hứng thuc học tập thích đến lớp đến trường hơn.

18


III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Học sinh Tiểu học là thế hệ Măng non của đất nước, để bồi dưỡng nhân tài đào
tạo nguồn nhân lực, trong quá trình giảng dạy, song song với việc phát hiện bồi
dưỡng học sinh năng khiếu, mỗi giáo viên cần chú trọng hơn việc kèm cặp, giúp đỡ
học sinh hạn chế năng lực môn Toán. Là người giáo viên trực tiếp giảng dạy bản thân
thiết nghĩ, muốn giúp đỡ đối tượng học sinh hạn chế năng lực môn Toán giáo viên
cần:
- Nhận thức được vai trò của mình trong dạy học.
- Mỗi giáo viên cần trang bị cho mình những kiến thức sư phạm cần thiết.
- Nhiệt tình, năng nổ, luôn tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề để cải tiến phương
pháp giảng dạy nhằm lôi cuốn học sinh học tập tích cực.
- Tìm ra nguyên nhân dẫn đến năng lực học tập hạn chế môn Toán của các em
bằng cách quan tâm, tìm hiểu đặc điểm cụ thể về hoàn cảnh gia đình, về năng lực
học, để từ đó điều chỉnh phương pháp, hình thức tổ chức dạy học và có biện pháp
giúp đỡ phù hợp.
- Phân loại đúng đối tượng học sinh, lên kế hoạch giúp đỡ cụ thể cho từng đối
tượng học sinh.

- Mỗi đối tượng học sinh cần có cách khích lệ riêng. Giáo viên phải nhạy bén
trong mọi tình huống và xử lí tình huống đúng lúc, kịp thời, tôn trọng những thành
tích dù nhỏ của học sinh để kịp thời động viên, khích lệ. Đồng thời phải kiên trì,
nhẫn nại và chịu khó, không bó tay trước mọi thử thách. Hướng dẫn học sinh từng
điểm nhỏ, cụ thể, không được nóng vội muốn có ngay kết quả hoặc yêu cầu tiến bộ
nhanh của học sinh. Cần phải gần gũi, động viên học sinh, tạo cho các em hứng thú
trong học tập.
- Thường xuyên kiểm tra học sinh để có phương pháp dạy học phù hợp.
- Giáo viên cần phải chuẩn bị tốt kế hoạch bài học, đồ dùng dạy học, lựa chọn
phương pháp, hình thức tích cực, hấp dẫn phù hợp với nội dung kiến thức và đối
tượng học sinh.
- Công bằng trong việc đánh giá chất lượng học sinh, tạo niềm tin vững chắc
từ phía học sinh, đồng nghiệp và phụ huynh học sinh. Phát hiện kịp thời những kiến
thức bị hổng của học sinh để kịp thời giúp đỡ. Đồng thời phát hiện những tiến bộ dù
là rất nhỏ của các em để kịp thời, khuyến khích, động viên.
- Xây dựng nề nếp tự học, phương pháp tự học, tự rèn luyện ở học sinh. Xây
dựng khối đoàn kết trong lớp học. Xây dựng và tổ chức tốt phong trào “ Đôi bạn học
tập”. Giáo dục cho học sinh thấy hết tầm quan trọng của phong trào “ Xây dựng
trường học thân thiện – Học sinh tích cực”.
- Thường xuyên phối kết hợp với đồng nghiệp, với các tổ chức trong và ngoài nhà
19


trường, phụ huynh học sinh để có được sự kèm cặp đồng bộ, hỗ trợ kịp thời.
- Bản thân luôn hướng các em theo khẩu hiệu “Học vì ngày mai lập nghiệp”. Học
để hiểu biết, học để trau dồi tri thức và học để trở thành những người công dân có ích
cho xã hội.
2. Kiến nghị:
- Nhà trường tăng cường công tác tổ chức các chuyên đề học tập những sáng
kiến kinh nghiệm.

Trên đây là một số kinh nghiệm giúp học sinh còn hạn chế năng lực về môn
Toán lớp 4 của bản thân. Trong quá trình thực hiện bản thân không tránh khỏi sự
thiếu sót. Tôi rất mong được sự góp ý, bổ sung của Hội đồng Khoa học các cấp để
việc giúp học sinh chưa hoàn thành môn Toán lớp 4 ngày một hiệu quả hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG
NHÀ TRƯỜNG

Hoằng Anh, ngày 25 tháng 3 năm 2016.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Nguyễn Thị Nguyệt

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Toán lớp 4.
2. Chuẩn kiến thức kĩ năng lớp 4.
3. Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học.
4. Phương pháp giải Toán ở Tiểu học.
5. Tâm lí học lứ tuổi và tâm lí học sư phạm.
6. Sách giáo viên Toán 4.
7. Thiết kế bài giảng Toán 4.

21



MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

I. Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài.

1

2. Mục đích nghiên cứu.

2

3. Đối tượng nghiên cứu.

2

4. Phương pháp nghiên cứu.

2

II. Nội dung
1. Cơ sở lí luận.

3

2. Thực trạng.

4


3. Các giải pháp giúp học sinh còn hạn chế về năng lực môn Toán lớp 4.

5

4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.

17

III. Kết luận, kiến nghị.
1. Kết luận.

19

2. Kiến nghị.

20

Tài liệu tham khảo.

21

22



×