Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số biện pháp về rèn kĩ năng giải toán cho học sinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.73 KB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GD&ĐT THỌ XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN CO
LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 3

Người thực hiện: Nguyễn Thị Phương
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Quảng Phú-Thọ Xuân
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Toán

THANH HOÁ NĂM 2016
1


MỤC LỤC
MỤC

NỘI DUNG

Trang

A

MỞ ĐẦU

1

I



Lí do chọn đề tài

1

II.

Mục đích nghiên cứu

1

III

Đối tượng nghiên cứu

1

IV.

Phương pháp nghiên cứu

1

B.

NỘI DUNG

2

I.


Cơ sở lý luận

2

II

Thực trạng của vấn đề
Đặc điểm tình hình
Thực trạng dạy - học các bài toán giải

2
2
2
3

1
2
3
4
C

Kết quả của thực trạng trên
Giải pháp và biện pháp thực hiện
KẾT LUẬN - KIẾN NGHI

4
13

I


Kết luận

13

II

Kiến nghi

14

A. MỞ ĐẦU
I.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

2


Môn Toán đóng vai trò quan trọng, không chỉ cung cấp kiến thức toán học
mà nó còn giúp học sinh phát triển trí thông minh, tư duy sáng tạo, kích thích óc
tò mò, tự khám phá và rèn luyện một phong cách làm việc khoa học. Yêu cầu đó
rất cần thiết cho mọi người, góp phần giáo dục ý chí, đức tính chiu khó, nhẫn
nại, cần cù trong học tập để trẻ tiếp tục học ở bậc Trung học hay cho công việc
lao động sau này. Trong quá trình dạy - học Toán thì dạy giải toán là hoạt động
được chú ý nhiều nhất vì với Tiểu học nó chiếm khoảng thời gian khá lớn trong
nhiều tiết học cũng như toàn bộ chương trình. Thông qua việc giải toán giúp học
sinh ôn tập, hệ thống hóa, củng cố các kiến thức và kĩ năng đã học đồng thời rèn
luyện cho học sinh tư duy lô gic, diễn đạt và trình bày một vấn đề toán học trong
đời sống. Có thể nói nó góp phần hình thành nhip cầu nối toán học trong nhà
trường và ứng dụng toán học trong thực tiễn. Giải toán có lời văn là một trong
bốn mạch kiến thức cơ bản của môn Toán Tiểu học nói chung và lớp 3 nói riêng.

Nội dung giải toán có lời văn ở lớp 3 là giải các bài toán có hai bước tính với các
mối quan hệ trực tiếp và đơn giản. Giải bài toán liên quan đến rút về đơn vi và
bài toán có nội dung hình học.Cũng như các lớp trước yêu cầu của dạy học giải
toán có lời văn ở lớp 3 chủ yếu là rèn kĩ năng về “phương pháp” giải toán ( cách
đặt vấn đề, tìm hiểu đề, giải quyết vấn đề); rèn khả năng “diễn đạt”; Trình bày
vấn đề bằng lời nói, bằng chữ viết cho học sinh.
Vậy làm cách nào để học sinh tiếp thu bài một cách tốt nhất, nắm chắc bản
chất của dạng toán, tìm tòi được cách giải phù hợp, từ đó, làm bài một cách độc
lập, tích cực và hiệu quả là điều mà tôi luôn băn khoăn suy nghĩ và trăn trở. Sau
một thời gian tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu, tìm hiểu kĩ bản chất của các bài
toán giải ở lớp 3, tôi mạnh dạn đưa ra : "Một số kinh nghiệm về rèn kỹ năng
giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3"với mong muốn góp một phần nhỏ vào
việc nâng cao chất lượng dạy học môn Toán lớp 3.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:Nghiên cứu đề tài này nhằm tìm hiểu một số
sai lầm của học sinh lớp 3 thường mắc khi giải các bài toán có lời văn. Từ đó,
tìm ra biện pháp giúp bản thân rút kinh nghiệm vận dụng linh hoạt các phương
pháp , các hình thức dạy học. Từ dó, áp dụng các kỹ năng dạy học sinh giải toán
sao cho phù hợp với từng bài dạy, với từng đối tượng học sinh để đạt kết quả cao
hơn, góp phần nâng cao chất lượng dạy- học Toán .
III- ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Lớp 3 năm học 2015 - 2016 trường Tiểu học Quảng Phú.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
-Nghiên cứu sách giáo khoa Toán lớp 3,Vở bài tập Toán lớp 3.
-Nghiên cứu tài liệu sách giáo viên Toán lớp 3 và một số phương pháp dạy học
toán ở tiểu học và các tài liệu khác.
2. Phương pháp quan sát
3. Phương pháp điều tra: thực hiện phỏng vấn điều tra, dự giờ để tìm hiểu...
4. Phương pháp so sánh : so sánh, đối chiếu kết quả của lớp thực nghiệm với
lớp khác cùng khối.

3


5. Phương pháp thống kê toán học: thống kê số liệu, phân tích kết quả điều tra
thực nghiêm.
6. Phương pháp thực nghiệm...
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận :
Trong quá trình dạy học hiện nay, ngoài công tác dạy – học theo đúng mục tiêu,
yêu cầu và kĩ năng cần đạt của môn học, thì việc rèn kỹ năng giải toán có lời văn
cho học sinh lớp 3 cần được chú trọng và quan tâm một cách chặt chẽ vì chủ yếu
ở lớp 1, lớp 2 các em chủ yêu làm quen với cách giải các bài toán đơn. Ở lớp 3
học sinh mới bắt đầu làm quen với dạng toán giải bằng hai bước tính, giải bài
toán liên quan đến rút về đơn vi và bài toán có nội dung hình học ở mức độ khó
hơn nên khả năng diễn đạt bài giải còn có nhiều hạn chế như sai ngữ pháp, chưa
rõ ý, lủng củng. Có em chưa hiểu đề dẫn đến hiểu sai đề và làm lạc đề. Bản thân
là giáo viên dạy lớp 3 tôi luôn trăn trở và tìm các giải pháp, biện pháp để giúp
học sinh có thể hiểu và vận dụng kiến thức để giải các bài toán tốt hơn.
II. Thực trạng của vấn đề dạy- học giải các bài toán giải ở lớp 3.
1.Đặc điểm tình hình:
Năm học 2015 – 2016 Trường tiểu học Quảng Phú có 22 lớp, trong đó có 3 lớp
5; 5 lớp 4; 4 lớp 3; 5 lớp 2 và có 5 lớp1.
Khối 3 được chia thành 5 lớp: 3A, 3B, 3C, 3D, 3Đ.Trong đó lớp chủ nhiệm là
lớp 3A.
2.Thực trạng dạy- học các bài toán giải .
a.Thực trạng dạy của giáo viên.
Hiện nay việc đổi mới phương pháp dạy học được hầu hết giáo viên trường
Tiểu học Quảng Phú chúng tôi tích cực tham gia. Các đồng chí không những
trao đổi trực tiếp với đồng nghiệp mà còn tham khảo thêm các ý kiến hay trên
mạng nên trong giờ học đã biết kết hợp nhiều phương pháp dạy học để học sinh

hoạt động tích cực, tự tìm ra kiến thức mới. Trong việc giải toán, giáo viên đã
hướng dẫn học sinh tìm tòi ra nhiều cách giải. Mặt khác, khi dạy các dạng toán
điển hình, giáo viên chưa khai thác hết nội dung bài dạy, còn thụ động trong
cách giải ở sách giáo khoa làm cho học sinh tiếp thu bài thụ động, máy móc.
b.Thực trạng học giải toán của học sinh.
Qua thực tế nhiều năm giảng dạy, tôi nhận thấy rằng đa số học sinh có học
lực trung bình và yếu rất ngại giải toán có lời văn. Mặt khác khả năng tư duy ở
nhiều học sinh trung bình và yếu còn nhiều hạn chế, không có khả năng thiết lập
các mối liên hệ giữa các đại lượng trong bài toán, gặp những bài tập biến dạng
một chút là học sinh rất khó khăn.
Một số học sinh chưa đọc kĩ đề bài, khả năng phân tích để xác đinh dạng
toán chưa đúng, thiếu suy nghĩ về dữ kiện và điều kiện đưa ra trong bài toán, các
em thường làm bài theo mẫu nên rất dễ quên.
3. Kết quả của thực trạng trên.

4


Thực trạng trên cho thấy chất lượng giảng dạy các bài toán giải cho học sinh
còn nhiều hạn chế. Nhiều học sinh không nắm được cách giải và giải toán còn
sai nhiều. Nhìn chung trong những năm học gần đây chất lượng môn toán nói
chung và chất lượng môn Toán lớp 3 nói riêng còn thấp, chưa đáp ứng được yêu
cầu dạy học đặt ra. Là một giáo viên nhiều năm được nhà trường phân công
giảng dạy ở lớp 3, điều đó khiến tôi luôn trăn trở làm thế nào để giúp học sinh
giải toán có lời văn được tốt hơn.Vì thế, tôi đã tiến hành khảo sát kĩ năng giải
toán của học sinh lớp 3A(lớp thực nghiệm do tôi phụ trách) và lớp 3B do cô
Phượng phụ trách (đây là hai lớp có chất lượng tương đối đồng đều.) với đề
kiểm tra như sau:
Đề bài: ( thời gian 40 phút)
Bài 1: Con hái được 7 quả cam, mẹ hái được gấp con 6 lần.Hỏi mẹ hái được bao

nhiêu quả cam ?
Bài 2: Nhà Lan nuôi 24 con gà, mẹ đã bán đi

1
số gà đó. Hỏi nhà Lan còn lại
3

bao nhiêu con gà?
Bài 3: Mẹ Hoa mua 4 gói kẹo và 1 gói bánh, mỗi gói kẹo cân nặng 180g và gói
bánh cân nặng 355g. Hỏi mẹ Hoa đã mua tất cả bao nhiêu gam kẹo và bánh ?
Bài 4: Một công ti dự đinh xây 45 ngôi nhà, đến nay đã xây được

1
số nhà đó.
5

Hỏi công ti còn phải xây tiếp bao nhiêu ngôi nhà nữa ?
Cách đánh giá: Toàn bài cho 10 điểm.
Bài 1: ( 2.5 điểm) Đặt lời giải và làm phép tính đúng cho 2 điểm, đáp số đúng
cho 0,5 điểm.
Bài 2:( 2.5 điểm) Đặt lời giải và làm phép tính đúng cho 2 điểm, đáp số đúng
cho 0,5 điểm
Bài 3:( 2.5 điểm) Đặt lời giải và làm phép tính đúng cho 2 điểm, đáp số đúng
cho 0,5 điểm.
Bài 4:(2.5 điểm) Đặt lời giải và làm phép tính đúng cho 2 điểm, đáp số đúng cho
0,5 điểm.
Kết quả học sinh làm bài được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 1: Chất lượng môn Toán đầu năm của hai lớp 3A và 3B
Chất lượng
Lớp

3A( 30HS)
3B( 29HS)

Hoàn thành
HT ở mức 1
( Điểm 9-10)

HT ở mức 2
( Điểm 7-8)

Chưa HT
HT ở mức 3
( Điểm 5-6)

ứng với
điểm dưới 5

2

6.7

10

33.3

11

36.7

7


23.3

3

10.3

10

34.5

11

38.0

5

17.2

Bảng 1 cho thấy kết quả giải toán có lời văn ở hai lớp 3A và 3B tương đối đồng
đều . Cả hai lớp chất lượng giải toán có lời văn chưa cao, số lượng học sinh khá,
giỏi còn hạn chế, số học sinh yếu vẫn còn nhiều. Từ thực tế dạy học cũng như
5


kết quả khảo sát trên, tôi rất trăn trở về chất lượng dạy và học toán hiện nay của
lớp tôi cũng như các lớp khối 3 trường tôi, cần phải tìm ra một giải pháp để giải
quyết tình hình trên.
Từ thực trạng trên tôi thấy cần phải tìm ra những nguyên nhân dẫn đến những
sai lầm của học sinh khi dạy loại toán này. Nguyên nhân sai lầm do học sinh

không đọc kỹ đề bài, nhầm lẫn thuật ngữ “gấp ” và “hơn ”. Khi giải bài toán học
sinh chưa đọc kĩ đề bài, chưa hiểu đúng các dữ kiện của bài toán giữa cái đã cho
và cái cần tìm. Học sinh không nắm vững kiến thức cơ bản. Sai lầm do học sinh
còn lúng tung khi sử dụng từ ngữ để viết câu lời giải và chưa nắm vững các
bước giải của bài toán để có biện pháp khắc phục.Vậy để nâng cao chất lượng
giảng dạy môn Toán, đặc biệt là giải toán có lời văn, tôi đã mạnh dạn đưa ra
"Một số kinh nghiệm về rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3"
4. Giải pháp và biện pháp thực hiện:
Giải pháp giúp HS sữa chữa những sai lầm của học sinh trong quá trình
làm các bài toán giải.
Sai lầm của học sinh khi học toán là một hiện tượng phổ biến, cho đến
nay trước những sai lầm của học sinh giáo viên thường cho rằng học sinh ít chú
ý nghe giảng ở trên lớp, không chiu khó làm bài tập nên không nắm được kiến
thức hoặc kiến thức không vững, không chắc ... mà ít người để tâm theo dõi,
nghiên cứu, phân tích một cách cụ thể, có hệ thống, các nguyên nhân sai lầm về
kiến thức, suy luận trong khi học toán có phần thuộc về tinh thần, thái độ học tập
của học sinh nhưng không phải trường hợp nào cũng như vậy. Trong dạy học để
ngăn ngừa hoặc hạn chế học sinh mắc sai lầm ta cần phải nghiên cứu nguyên
nhân sâu xa của những sai lầm đó.
“Bài toán giải bằng hai bước tính ở lớp 3 ” là một loại toán cần nhiều
đến tư duy, bởi vì đề bài được nêu ra dưới hình thức có lời văn hoàn chỉnh. Vì
vậy, để giải được học sinh cần phải tìm được sự liên quan giữa các đại lượng,
các yếu tố đã học và yếu tố cần tìm của bài toán một cách lôgíc. Nói chung, nội
dung được đưa ra trong đề toán đều gắn liền với thực tế hoạt động của các sự
vật, các yếu tố cuộc sống để học sinh dễ liên hệ, nó mang tính chất đa dạng. Như
vậy, đây là loại toán khó đối với học sinh ở lứa tuổi học sinh tiểu học, các em
chưa tiếp xúc nhiều với cuộc sống. Bản chất các em còn rất hồn nhiên, ngây thơ,
vì vậy, sự chú ý của học sinh tiểu học hướng ra bên ngoài chứ chưa có khả năng
hướng vào bên trong, vào tư duy, vào trí nhớ lôgic. Trí nhớ các em còn nhớ máy
móc, nhớ dễ dàng đối với các hiện tượng, hình ảnh cụ thể hơn là các câu chữ

trừu tượng, khô khan. Khi suy luận, các luận cứ lôgíc các em còn gắn nhiều với
thực tế. Bởi vậy dạy các nội dung toán giải sao cho các em hứng thú và có được
kỹ năng làm bài tập là việc làm cần nhiều công sức của người thầy. Việc rèn
luyện, hình thành, củng cố kỹ năng giải toán của học sinh ở gần như chưa có.
Chính vì vậy học sinh không thể tránh khỏi những khó khăn, sai lầm. Qua thực
tế giảng dạy và khảo sát học sinh ở một số lớp tôi thấy sai lầm của học sinh khi
giải các bài toán giải là do những nguyên nhân sau:

6


a- Sai lầm do học sinh không đọc kỹ đề bài, nhầm lẫn thuật ngữ “gấp ” và
“hơn ” :
Ví dụ 1: (BT1 -VBTT3 T60) : Một người có 50 quả trứng. Lần đầu bán 12
quả, lần sau bán 18 quả. Hỏi sau hai lần bán, người đó còn bao nhiêu quả trứng ?
- Tìm hiểu đề toán:
Bài toán cho ta biết những gì ? (Có 50 quả trứng, bán lần đầu 12 quả, lần
sau bán 18 quả.)
Bài toán yêu cầu ta phải làm gì ? (Còn lại bao nhiêu quả trứng)
Tóm tắt đề bài toán
Có 7 học sinh lớp 3A năm học 2015-2016 đã giải như sau:
Bài giải:
Sau khi bán, còn lại số quả trứng là:
50 - 12 = 38 (quả )
Người đó còn lại số quả trứng là:
38 + 18 = 56 (quả )
Đáp số: 56 quả trứng
Còn đa số học sinh làm đúng bài toán với lời giải như sau:
Bài giải:
Số quả trứng người đó bán cả hai lần là:

12 + 18 = 30 (quả trứng)
Người đó còn lại số quả trứng là:
50 - 30 = 20 (quả trứng)
Đáp số: 20 quả trứng
7 học sinh mắc sai lầm trên đều do các em chưa đọc kỹ đề bài toán, một
dữ kiện quan trọng của bài toán “Lần đầu bán 12 quả, lần sau bán 18 quả"
Đây chỉ là một trong những ví dụ học sinh mắc sai lầm loại này.
b- Khi giải bài toán học sinh chưa đọc kĩ đề bài, chưa hiểu đúng các dữ kiện
của bài toán giữa cái đã cho và cái cần tìm
Ví dụ 2: Bài tập 1 - trang 51 (SGK)
Quãng đường từ nhà đến chợ huyện dài 5 km, quãng đường từ chợ huyện
đến bưu điện tỉnh dài gấp 3 lần quãng đường từ nhà đến chợ huyện. Hỏi quãng
đường từ nhà đến bưu điện tỉnh dài bao nhiêu ki - lô - mét ?
Khi gặp bài toán trên học sinh rất lúng túng. Tôi tiến hành kiểm tra trên
lớp 3A năm học 2015 - 2016 chỉ có một số ít học sinh giải bài toán này theo
cách giải sau:
Quãng đường từ Chợ huyện đến Bưu điện tỉnh dài số ki - lô - mét là:
5 × 3 = 15 (km)
Quãng đường từ Nhà đến Bưu điện tỉnh dài số ki - lô - mét là:
5 + 15 = 20 (km)
Đáp số: 20 km
Một số học sinh khác do quen cách tính chỉ có một phép tính nên không
viết được trọn vẹn lời giải.

7


Khi đã làm bài toán giải bằng một phép tính sang bài toán giải bằng hai
phép tính có em áp dụng máy móc cách tính của bài toán giải bằng một phép tính
c- Học sinh không nắm vững kiến thức cơ bản:

Ví dụ 3: Bài 3 - trang 157
Một quãng đường dài 25 850 m, trong đó có 9850 m đường đã trải nhựa.
Hỏi còn bao nhiêu ki- lô- mét đường chưa trải nhựa ?
Với bài toán trên học sinh có thể tính được kết quả nhưng không để ý đến tên
đơn vi đề bài mà chỉ để ý đến yêu cầu của bài bắt tìm gì ? và trong quá trình giải
các em điền ngay tên đơn vi mà không qua bước đổi đơn vi đo
Có 15 học sinh đã giải như sau:
Còn lại số mét đường chưa trải nhựa là :
25 850 - 9850 = 16 000 (km)
Đáp số: 16 000 km
Chỉ có 13 em có lời giải và kết quả đúng như sau:
Bài giải:
Số ki- lô- mét đường chưa trải nhựa là :
25 850 - 9850 = 16 000 (m)
Đổi : 16 000 m = 16 km
Đáp số: 16 km
15 học sinh mắc sai lầm trên đều do các em chưa đọc kỹ đề bài toán, một dữ
kiện quan trọng của bài toán “Bài toán cho biết quãng đường dài theo đơn vi là
mét nhưng yêu cầu đi tìm đoạn đường còn lại theo đơn vi là ki- lô- mét”.
d- Sai lầm do học sinh còn lúng tung khi sử dụng từ ngữ để viết câu lời giải
và chưa nắm vững các bước giải của bài toán.
Ví dụ 4: Bài 4 - VBTT3 trang 46
Mẹ mua rau hết 5600 đồng. Mẹ đưa cô bán hàng một tờ giấy bạc loại 5000
đồng và một tờ loại 2000 đồng. Hỏi cô bán hàng phải trả lại mẹ bao nhiêu tiền?
Tôi tiến hành kiểm tra trên lớp 3A năm học 2015 - 2016 , nhưng chỉ có 16 em có
lời giải và kết quả đúng.
Số học sinh còn lại đặt lời giải và phép tính như sau:
Bài giải:
Số tiền mẹ mua rau hết là :
5000 - 2000 = 3000 (đồng)

Cô bán hàng trả lại mẹ số tiền là :
5600 - 3000 = 2600 (đồng)
Đáp số : 2600 đồng
Tóm lại: Trên đây là những khó khăn sai lầm cơ bản học sinh thường gặp
khi giải bài toán có lời văn. Trong quá trình giải, học sinh dễ bộc lộ những sai
lầm nhưng không phải rành mạch từng loại mà có những sai lầm đan xen bao
hàm lẫn nhau. Người giáo viên phải nắm chắc được những khó khăn cơ bản, làm
cơ sở tìm hiểu những khó khăn sai lầm cụ thể để giúp đỡ học sinh sửa chữa.
Sau đây là khảo sát trên lớp 3A và lớp 3B ở trường tôi trong năm học đã nêu
ở trên.
8


Kiểm tra những bài tập sau ở vở Bài tập Toán lớp 3:
Lớp 3A, lớp 3B đều 3 bài
Bài 3 - trang 75
Bài 4 - trang 33
Bài 1 - trang 81
Kết quả thu được như sau:
Chất lượng
Hoàn thành

Chưa HT

HT ở mức 1
( Điểm 9-10)

ứng với
điểm dưới 5


Lớp
3A( 30HS)
3B( 29HS)

HT ở mức 2
( Điểm 7-8)

HT ở mức 3
( Điểm 5-6)

2

6.7

10

33.3

12

40

6

20.0

4

13.8


9

31.0

12

41.4

4

13.8

Nhìn vào bảng thống kê trên ta nhận thấy : Kết quả giải toán của HS chưa mĩ
mãn. Chất lượng HS giỏi còn khiêm tốn . Số bài điểm yếu còn nhiều. Cụ thể khi
chấm bài cho HS tôi nhận ra một số nhược điểm như sau :
- HS chưa nắm chắc bản chất của bài toán.
- Một số HS không hiểu bản chất vấn đề nên trình bày câu lời giải không
chính xác.
- Một số HS khác lại biết cách làm nhưng tính toán còn sai sót do không
nắm chắc các kiến thức ở lớp dưới.
-Một số học sinh làm phép tính đúng nhưng lại viết sai đơn vi bài toán ....
*Các biện pháp tổ chức thực hiện.
Áp dụng phương pháp dạy học tích cực để dạy giải các bài toán có lời văn
ở lớp 3:
Qua điều tra thực trạng về giải toán có lời văn ở trường tôi và căn cứ vào
nội dung giải toán có lời văn ở Tiểu học, tôi mạnh dạn đề xuất phương pháp dạy
giải các bài toán giải cụ thể như sau:
a- Phương pháp chung:
Đối với giáo viên Tiểu học, việc dạy giải toán cần tiến hành theo một quy
tắc nhất đinh. Những quy tắc đó được xác đinh trên cơ sở:

- Yêu cầu của nội dung kiến thức trong bài.
Để phát huy cao nhất tác dụng, yêu cầu của việc dạy giải toán, khi dạy
giải toán người giáo viên Tiểu học cần tuân theo các bước sau:
- Xác đinh yêu cầu của bài.
- Giáo viên giải bài toán bằng các cách khác nhau.
- Hướng dẫn học sinh giải.
- Dự kiến khó khăn sai lầm của học sinh.
* Giải toán:
Là khâu đầu tiên trong quá trình chuẩn bi dạy - giải của người giáo viên.
Chỉ thông qua giải toán, giáo viên mới có thể dự kiến được những khó khăn sai
lầm mà học sinh thường mắc phải. Khi giải bài toán bằng nhiều cách giáo viên
bao quát được tất cả hướng giải của học sinh, phát hiện nhiều em cón hướng giải
9


tốt. Đồng thời hướng dẫn các em giải theo nhiều cách để kích thích lòng say mê
toán học ở trẻ.
* Dự kiến sai lầm:
Đây là một công việc không thể thiếu được trong quá trình dạy toán. Từ
dự kiến những sai lầm của học sinh giáo viên đặt ra phương án tốt giải quyết
cho từng bài toán.
Một số khó khăn sai lầm học sinh thường mắc phải khi giải toán là:
- Không nắm được các bước giải
- Tính toán sai.
- Đổi sai đơn vi đo.
- Vận dụng sai công thức
Xuất phát từ đinh hướng trên và từ những ngại ngùng khi gặp toán giải
của học sinh, tôi đã hướng dẫn học sinh qua từng bước để các em thấy giải toán
không còn là mối lo ngại khi làm bài.Khi gặp bài toán giải tôi thường hướng dẫn
các em đi theo các bước sau đây:

* Tìm hiểu đề toán:
Hướng dẫn học sinh xác đinh được:
- Bài toán cho ta biết những gì ?
- Bài toán yêu cầu tìm gì ?
- Mối quan hệ giữa cái đã biết và cái chưa biết là gì ?
- Phân tích điều phải tìm để tìm hướng đi đến đích của bài.
* Hướng dẫn giải:
Đây là công việc chủ yếu trong giờ dạy giải toán, để việc đó đạt hiệu quả
rõ ràng người giáo viên phải thực hiện tốt những khâu trên.
Hướng dẫn giải có khi chỉ là một câu hỏi ngắn gọn gợi ý của bài toán, có
khi là một sơ đồ hoặc nhắc lại một kiến thức nào đó, cũng có thể là một hệ thống
câu hỏi mắt xích.
b- Phương pháp dạy giải một số bài toán cụ thể:
Bài toán có đến hai bước tính (Với các mối quan hệ trực tiếp và đơn giản)
Bài 3 - trang 58 (SGK Toán 3)):Thu hoạch ở thửa ruộng thứ nhất được
127 kg cà chua, ở thửa ruộng thứ hai được nhiều gấp 3 lần số cà chua ở thửa
ruộng thứ nhất. Hỏi thu hoạch ở cả hai thửa ruộng được bao nhiêu ki- lô- gam cà
chua ?
Bài giải
Thửa ruộng thứ hai thu hoạch được số ki- lô- gam cà chua là :
127 × 3 = 381 (kg)
Thu hoạch ở cả hai thửa ruộng được số ki- lô- gam cà chua là:
127 + 381 = 508 (kg)
Đáp số: 508 kg cà chua
* Yêu cầu:
- Nắm được yêu cầu của bài
- Viết đúng các đơn vi, viết đúng lời giải
10



- Tính toán chính xác
* Dự kiến sai lầm:
- Viết lời giải sai
- Tính toán sai
* Hướng dẫn giải:
- Cho học sinh đọc kỹ bài toán. Tóm tắt bài toán
Xác đinh yêu cầu: Bài toán cho biết gì ? (Thửa ruộng 1 thu hoạch : 127 kg
cà chua, Thửa ruộng 2 nhiều gấp 3 lần số cà chua ở thửa ruộng thứ nhất)
Bài toán yêu cầu ta tìm gì ? (Thu hoạch ở cả hai thửa ruộng được bao nhiêu kilô- gam cà chua ? )
- Để tìm được cả hai thửa ruộng thu hoạch được bao nhiêu ki- lô- gam cà
chua ? trước tiên ta cần tìm gì ? (Tìm thửa ruộng thứ hai thu hoạch được bao
nhiêu ki- lô- gam cà chua ? )
Việc tìm thửa ruộng thứ hai thu hoạch được bao nhiêu ki- lô- gam cà chua
được thực hiện như thế nào? )
127 × 3 = 381 (kg)
- Thửa ruộng thứ nhất và thửa ruộng thứ hai đã biết ta tìm cả hai thửa
ruộng như thế nào?
127 + 381 = 508 (kg)
Bài 3- VBTT3 - trang 76
Một nhà máy dự đinh sản xuất 15 420 cái cốc. Nhà máy đã sản xuất được

1
số
3

lượng đó. Hỏi nhà máy còn phải sản xuất bao nhiêu cái cốc nữa?
Bài giải
Số cái cốc nhà máy đã sản xuất được là:
15 420 : 3 = 5140 (cái cốc)
Số cái cốc nhà máy còn phải sản xuất nữa là:

15 420 - 5140 = 10280( cái cốc)
Đáp số : 10280 cái cốc
* Yêu cầu của bài toán:
- Nắm được cách tìm một phần mấy của một số
- Nắm được cách giải bài toán bằng hai phép tính.
* Dự kiến sai lầm:
- Không tìm được “

1
số lượng”.
3

- Nhầm lẫn giữa tên đơn vi (cái cốc với từ số lượng).
* Hướng dẫn giải:
- Cho học sinh đọc kỹ đề bài, xác đinh cái đã cho và cái cần tìm trong đề
toán. Hướng dẫn học sinh tóm tắt.
- Muốn biết còn phải sản xuất bao nhiêu cái cốc nữa, trước hết ta phải tìm
gì ? (Tìm số cái cốc đã sản xuất được là bao nhiêu ?)
Việc thực hiện tìm số cái cốc đã sản xuất được ta làm như thế nào ?
15 420 : 3 = 5140 (cái cốc)
11


Theo kế hoạch phải sản xuất 15 420 cái cốc, đã sản xuất được 5140 cái
cốc, vậy ta tìm số cái cốc cần phải sản xuất nữa như thế nào ?
15 420 - 5140 = 10280 (cái cốc)
- Bài toán liên quan đến rút về đơn vị.
Bài 2- trang 129
Muốn lát nền 6 căn phòng như nhau cần 2550 viên gạch. Hỏi muốn lát nền 7
căn phòng như thế cần bao nhiêu viên gạch ?

Bài giải
Số viên gạch lát nền mỗi căn phòng là :
2550 : 6 = 425 (viên)
Số viên gạch lát nền 7 căn phòng là :
425 × 7 = 2975 (viên)
Đáp số : 2975 viên gạch
* Dự kiến khó khăn sai lầm:
- Viết lời giải, viết phép tính sai
- Sai tên đơn vi
* Yêu cầu:
- Nắm được cách tìm giá tri một phần
- Nắm được cách tìm giá tri một phần
* Hướng dẫn giải:
- Cho học sinh đọc kỹ đề bài, xác đinh cái đã cho và cái cần tìm trong đề
toán. Hướng dẫn học sinh tóm tắt.
- Muốn tìm được số viên gạch để lát 7 căn phòng, trước tiên ta phải tìm gì
? (Tính số gạch lát nền mỗi căn phòng )
- Muốn tìm được số viên gạch để lát mỗi căn phòng ta phải thực hiện như
thế nào ? 2550 : 6 = 425 (viên)
- Tính được số gạch lát nền mỗi căn phòng rồi, ta thực hiện tính số viên
gạch lát nền 7 căn phòng thế nào ? 425 × 7 = 2975 (viên)
Bài 3 - trang 178
Có 42 cái cốc như nhau được xếp đều vào 7 hộp. Hỏi có 4572 cái cốc cùng loại
thì xếp được vào bao nhiêu hộp như thế ?
Bài giải
Số cốc đựng trong mỗi hộp là :
42 : 7 = 6 (cốc)
Số hộp để đựng 4572 cốc là :
4572 : 6 = 762 (hộp)
Đáp số: 762 hộp

* Dự kiến khó khăn sai lầm:
- Học sinh lúng túng, lẫn lộn giữa tìm cốc và hộp
- Viết sai lời giải, sai tên đơn vi
* Yêu cầu:
- Nắm được cách tìm giá tri một phần
12


- Nắm được cách tìm các phần
- Các phép tính được tính toán chính xác không nhầm lẫn
* Hướng dẫn giải:
- Cho học sinh đọc kỹ đề bài
- Bài toán cho biết gì và yêu cầu tìm gì ?
Tóm tắt bài toán
- Tìm số cốc đựng trong mỗi hộp là bao nhiêu ? tìm bằng cách nào ?
42 : 7 = 6 (cốc)
- Muốn tìm số hộp để đựng 4572 cốc thực hiện như thế nào ?
4572 : 6 = 762 (hộp)
- Bài toán có nội dung hình học
Bài 3 - VBTT trang 64
Hình chữ nhật có chiều rộng 8cm, chiều dài gấp 3 lần chiều rộng. Tính
diện tích và chu vi của hình chữ nhật đó.
Bài giải
Chiều dài hình chữ nhật đó là :
8 × 3 = 24 (cm)
Diện tích hình chữ nhật đó là :
24 × 8 = 192 (cm2)
Chu vi hình chữ nhật đó là :
( 24 +8 ) × 2 = 64 (cm)
Đáp số : 192 cm2, 64 cm

* Dự kiến khó khăn sai lầm:
- Nhầm lẫn cách tính chu vi và diện tích
- Nhầm tên đơn vi là xăng- ti- mét với xăng- ti- mét vuông
* Yêu cầu:
- Nắm vững quy tắc tính chu vi, diện tích hình chữ nhật
- Hiểu được thuật ngữ “ gấp 3 ”
* Hướng dẫn giải:
- Cho học sinh đọc kỹ đề bài.
- Bài toán cho biết gì ? và yêu cầu tìm gì ?
- Đưa ra hệ thống câu hỏi mắt xích có tính chất gợi ý
Để tính được diện tích , chu vi của hình chữ nhật, trước tiên ta phải tìm gì ?
(Tìm chiều dài của hình chữ nhật đó ) - Tìm bằng cách nào ?
8 × 3 = 24 (cm)
Tính được chiều dài, biết chiều rộng của hình chữ nhật rồi
ta có tìm được diện tích, chu vi của hình chữ nhật đó không ? Tìm bằng cách
nào ? (HS nêu quy tắc tính diện tích hình chữ nhật , cách tính chu vi của hình
chữ nhật.)
- Diện tích của hình chữ nhật đó được tính như thế nào ?
24 × 8 = 192 (cm2)
- Chu vi hình chữ nhật đó được tính như thế nào ?
(24 + 8) × 2 = 64 (cm)
13


Bài 2 - trang 154
Để ốp thêm một mảng tường người ta dùng hết 9 viên gạch men, mỗi
viên gạch hình vuông cạnh 10 cm. Hỏi diện tích mảng tường được ốp thêm là
bao nhiêu xăng- ti- mét vuông ?
* Dự kiến khó khăn sai lầm:
- Không nắm vững yêu cầu của bài

- Sai lời giải, sai phép tính
- Sai tên đơn vi
* Yêu cầu:
- Nắm vững quy tắc tính chu vi, diện tích hình vuông
- Hiểu được cụm từ trong đề bài “mảng tường dùng hết 9 viên gạch men”
* Hướng dẫn giải:
- Cho học sinh đọc kỹ đề bài.
- Bài toán cho biết gì ? và yêu cầu tìm gì ?
- Đưa ra hệ thống câu hỏi mắt xích có tính chất gợi ý
Để tính được diện tích của mảng tường, trước tiên ta phải tìm gì ?
(Tìm diện tích của 1 viên gạch men) - Tìm bằng cách nào ? (HS nêu quy tắc
tính diện tích hình vuông)
Tính được diện tích của 1 viên gạch men, ta tìm được diện tích của mảng
tường
- Diện tích 1 viên gạch men hình vuông được tính như thế nào ?
10 × 10 = 100 (cm2)
- Diện tích của mảng tường được tính như thế nào ? 100 × 9 = 900 (cm2)
Tóm lại: Việc vận dụng các phương pháp trên đòi hỏi phải rất linh hoạt.
Có những bài toán kết hợp nhiều phương pháp, có những bài toán ta không sử
dụng những phương pháp trên. Chính vì vậy phần trình bày này chỉ có ý nghĩa
tham khảo, vận dụng thêm vào tiến trình bài giảng của mình để bài giảng đạt
hiệu quả cao nhất.
4. Kiểm nghiệm :Từ việc áp dụng dạy học tích cực để dạy giải toán có lời văn
cho học sinh lớp 3, năm học 2015-2016 tôi tiến hành dạy thực nghiệm ở lớp 3A.
Như vậy so sánh giữa hai lớp 3A và 3B, ta thấy chất lượng môn Toán lớp 3A
hơn hẳn lớp 3B.
Sau khi học sinh lớp 3A năm học 2015-2016 và lớp 3B năm học 2015 - 2016
học xong dạng bài Bài toán liên quan đến rút về đơn vi, bài toán có đến hai bước
tính, bài toán có nội dung hình học và các tiết luyện tập. Tôi tiến hành đưa ra các
bài toán, với những phương pháp giải đã soạn cụ thể ở giáo án.

Đề bài: ( thời gian 40 phút)
* Bài toán 1: Đàn vit có 48 con, trong đó có

1
số vit đang bơi ở dưới ao. Hỏi
4

trên bờ có bao nhiêu con vit ?
* Bài toán 2: Mua 5 quả trứng gà phải trả 35000 đồng. Hỏi mua 7 quả
trứng gà thì phải trả bao nhiêu tiền?
14


* Bài toán 3: Một thửa ruộng hình chữ nhật có chiều rộng 18 m, chiều dài
gấp đôi chiều rộng. Tính chu vi và diện tích thửa ruộng đó.
* Bài toán 4:Mỗi gói mì cân nặng 80g, mỗi hộp sữa cân nặng 455g .Hỏi 2
gói mì và 1 hộp sữa cân nặng bao nhiêu gam ?
Và kết quả khảo sát thật khả quan.
Cách đánh giá: Toàn bài cho 10 điểm.
Bài 1: ( 2.5 điểm) Đặt lời giải và làm phép tính đúng cho 2 điểm, đáp số đúng
cho 0,5 điểm.
Bài 2:( 2.5 điểm) Đặt lời giải và làm phép tính đúng cho 2 điểm, đáp số đúng
cho 0,5 điểm
Bài 3:( 2.5 điểm) Đặt lời giải và làm phép tính đúng cho 2 điểm, đáp số đúng
cho 0,5 điểm.
Bài 4:(2.5 điểm) Đặt lời giải và làm phép tính đúng cho 2 điểm, đáp số đúng cho
0,5 điểm.
Kết quả học sinh làm bài được thể hiện ở bảng sau
Bảng 3: Chất lượng môn Toán sau khi khảo sát (cuối tháng 3 / 2016)
Chất lượng

Hoàn thành
Chưa HT
Lớp
3A( 30HS)
3B( 29HS)

HT ở mức 1
( Điểm 9-10)

HT ở mức 2
( Điểm 7-8)

HT ở mức 3
( Điểm 5-6)

ứng với
điểm dưới 5

8

26.6

11

36.7

11

36.7


0

0

5

17.2

9

31.0

12

41.4

3

10.4

Qua việc vận dụng sáng kiến kinh nghiệm tôi thấy hiệu quả học tập của lớp
tôi được nâng lên rõ rệt tỉ lệ học sinh làm đúng câu lời giải , làm đúng phép tính
chuyển biến một cách khá rõ ràng, chất lượng cao hẳn so với đầu năm và so với
lớp 3B lớp tôi đạt kết quả cao hơn hẳn. Tỉ lệ học sinh làm đúng câu lời giải , làm
đúng phép tính tăng lên, tỉ lệ học sinh chưa đúng câu lời giải, chưa làm đúng
phép tính , chưa đúng đơn vi bài toán không còn nữa.
C- KẾT LUẬN- KIẾN NGHI
I. Kết luận
Là giáo viên dạy lớp 3, khi dạy các bài toán giải , tôi thấy học sinh bi mắc
sai lầm rất nhiều. Điều đó đã khơi dậy cho tôi thắc mắc là phải làm thế nào để

khắc phục tình trạng trên.
Qua quá trình giảng dạy và việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực để
dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3 (như đã trình bày ở trên), tôi đã
thu được những kết quả bước đầu đáng tin cậy ở lớp tôi đó là: Số học sinh chưa
đọc kỹ đề bài, thiếu suy nghĩ cặn kẽ về các dữ kiện và điều kiện bài toán, sai lầm
do nặng về trí nhớ máy móc, tư duy chưa linh hoạt, khả năng tưởng tượng yếu;
sai lầm do không nắm vững kiến thức; sai lầm do ngôn ngữ còn nhiều hạn chế
15


đã giảm hẳn, cụ thể kết quả chất lượng khảo sát ở bảng 3 thể hiện rõ tính ưu việt
và hiệu quả rất cao, tạo hứng thú học các bài toán giải cho học sinh.
* Bài học kinh nghiệm:
Từ thực tế áp dụng phương pháp dạy học tích cực để rèn kỹ năng giải
toán cho học sinh lớp 3, bản thân tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
Để chất lượng dạy- học học sinh làm các bài toán giải lớp 3 ” nói riêng
và chất lượng môn toán nói chung từng bước được nâng lên và đạt kết quả tốt
đòi hỏi mỗi giáo viên phải làm tốt những nội dung sau:
- Người giáo viên phải nắm vững mục tiêu đào tạo nắm vững yêu cầu và
nhiệm vụ của môn học.
- Thật sự nhiệt tình với nghề nghiệp có trình độ nghiệp vụ vững vàng .
Không ngừng học hỏi để nâng cao tay nghề có ý thức tiến bộ, thật sự thương yêu
gần gũi học sinh.
- GV phải nghiên cứu kĩ nội dung chương trình SGK, SGV, hiểu được
nội dung , dụng ý của sách , nắm chắc bản chất phương pháp dạy học từng bài
dạy, từng dạng bài cụ thể.
- Tham gia đầy đủ các buổi sinh hoạt chuyên môn của khối, tổ, trường để
nắm bắt một cách cụ thể, thường xuyên và có chất lượng nội dung các cuộc
họp đồng thời để học hỏi những kinh nghiệm quí báu của đồng nghiệp.
- Soạn bài cẩn thận, chu đáo, có chất lượng thật sự trước khi đến lớp.

- Tổ chức cho HS chiếm lĩnh kiến thức bằng những hoạt động và các
hình thức dạy học phù hợp. Biết đặt câu hỏi dẫn dắt hợp lí , kích thích trí tò
mò và phát huy tính tích cực của HS.
- Bên cạnh đó GV không ngừng phát hiện và tranh thủ bồi dưỡng cho HS
những kiến thức bi hổng ở lớp dưới, để HS có đủ kiến thức cơ bản giải quyết
những bài tập hiện tại, kiên quyết xoá bỏ tình trạng học sinh ngồi nhầm lớp.
- Không ngừng tự học, tự bồi dưỡng, tham khảo các tài liệu, tạp chí của
ngành, của Bộ giáo dục để nâng cao tay nghề.
II. KIẾN NGHI :
Sau khi thực hiện đề tài này, bản thân có một số kiến nghi sau:
* Đối với nhà trường :
- Thường xuyên lên kế hoạch và kiểm tra đôn đốc việc thảo luận về nội
dung, PPDH cho từng bài, từng dạng bài cụ thể tránh tình trạng hình thức,
phô trương.
- Thường xuyên dự giờ thăm lớp để kiểm tra thực tế dạy - học của GV,
HS để có kế hoạch uốn nắn kip thời.
- Hằng năm, nên tổ chức hội thảo trao đổi về kinh nghiệm dạy học cho
GV trong trường học tập kinh nghiệm lẫn nhau, đồng thời báo cáo các sáng
kiến kinh nghiệm đạt giải cao để nhân rộng điển hình.
* Đối với các cấp giáo dục:
- Trang cấp đầy đủ thiết bi dạy học cho các trường Tiểu học.

16


- Ngoài việc tổ chức các cuộc thi GV giỏi, GV viết chữ đẹp cấp huyện
cần tổ chức thêm các hội thảo về đề tài nghiên cứu khoa học, công bố các đề
tài đạt giải cao cấp huyện, cấp tỉnh cho đông đảo các GV được tham khảo để
áp dụng các kiến thức, kinh nghiệm hay vào thực tế dạy học.
Mặc dù khi nghiên cứu, bản thân tôi đã có những cố gắng song do

thời gian, khả năng và kinh nghiệm còn hạn chế nên ở đây tôi mới chỉ nêu
được " Một số kinh nghiệm về rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh
lớp 3 nâng cao hiệu quả giờ dạy. Kinh nghiệm trên đây đã triển khai thực hiện
có hiệu quả ở Trường Tiểu học Quảng Phú .Trong đề tài này còn có gì khiếm
khuyết rất mong được sự góp ý kiến nhiệt tình của các bạn đồng nghiệp, các
cấp quản lí giáo dục và hội đồng khoa học cấp trên để bổ sung cho đề tài
được hoàn thiện hơn..
Tôi xin cam đoan bản SKKN này là do tôi đúc rút qua quá trình giảng dạy
thực tế tại đơn vị, không sao chép của ai, nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách
nhiệm.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

NGƯỜI THỰC HIỆN

Lê Thị Dung

Nguyễn Thị

Phương

17


18


19




×