Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Hướng dẫn viết đúng chính tả cho học sinh lớp 2b

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.95 KB, 17 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGỌC LẶC
TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐỒNG THỊNH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

HƯỚNG DẪN VIẾT ĐÚNG CHÍNH TẢ
CHO HỌC SINH LỚP 2B

Người thực hiện: Phạm Thị Hòa
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường tiểu học Đồng Thịnh- Ngọc Lặc
SKKN thuộc lĩnh vực: Tiếng Việt

ĐỒNG THỊNH, THÁNG 4 NĂM 2016

1


MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU

Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG

2.1. Cơ sở lí luận
2.2.Thực trạng nghiên cứu
2.3.Các giải pháp
2.4.Hiệu quả của sáng kiến


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGH

Kết luận
Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

Trang 3
Trang 3
Trang 3
Trang 4
Trang 4
Trang 4
Trang 4
Trang 4
Trang 7
Trang 13
Trang 15
Trang 15
Trang 16
Trang 17

1– MỞ ĐẦU

- Lí do chọn đề tài
Chính tả là những chuẩn mực của ngôn ngữ viết, được thừa nhận trong
ngôn ngữ toàn dân. Mục đích của nó làm phương tiện thuận lợi cho việc giao
tiếp bằng chữ viết bảo đảm cho người viết và người đọc đều hiểu thống nhất
những điều đã viết. Chính tả trước hết là sự quy định có tính chất xã hội, một sự
quy định có tính chất bắt buộc gần như tuyệt đối, nó không cho phép vận dụng
quy tắc một cách linh hoạt có tính chất sáng tạo cá nhân.


2


Một ngôn ngữ văn hóa không thể không có chính tả thống nhất. Chính tả
thống nhất là một trong những biểu hiện trình độ văn hóa phát triển của một dân
tộc.
Phân môn chính tả trong nhà trường, giúp học sinh hình thành năng lực và
thói quen viết đúng chính tả, nói rộng hơn là năng lực và thói quen viết đúng
tiếng việt. Vì vậy, phân môn chính tả có vị trí đặc biệt quan trọng, nhằm thực
hiện mục tiêu của môn tiếng việt là rèn và phát triển tiếng mẹ đẻ cho học sinh,
trong đó có năng lực chữ viết. Phân môn này góp phần hình thành một trong bốn
kĩ năng quan trọng của môn tiếng việt đó là kĩ năng viết cho học sinh.
Trong những năm gần đây, các nhà trường Tiểu học luôn quan tâm đến
chữ viết qua các phong trào thi “Viết chữ đẹp”. Đây là một hình thức để tuyên
truyền sâu rộng cho toàn dân trong việc giáo dục con em viết chữ đẹp. Viết đẹp
không phải chỉ đẹp về hình thức mà còn đúng cả về luật chính tả.
Hiện nay, tình hình viết sai lỗi chính tả của học sinh khá phổ biến. Vấn đề
này có thể do nhiều nguyên nhân, nguyên nhân chủ yếu là do giáo viên và học
sinh đôi khi còn phát âm theo tiếng địa phương . Hơn nữa trình độ tiếng việt của
một số giáo viên còn hạn chế, năng lực nắm luật chính tả chưa sâu nên rất lúng
túng trong việc giảng dạy chính tả. Mặt khác do điều kiện gia đình các em làm
nông nghiệp, bố mẹ suốt ngày bận rộn với công việc đồng áng hoặc đi làm ăn xa
để các em ở nhà với ông bà, không có thời gian dạy dỗ con cái. Phần nữa là ý
thức học tập của các em còn hạn chế, không đồng bộ … Do đó, một yêu cầu bức
xúc là giáo viên phải thực sự quan tâm tới từng đối tượng học sinh. Có biện
pháp cụ thể, sát thực trong việc luyện cho học sinh viết đúng đẹp để nâng cao
chất lượng giờ chính tả. Qua quá trình giảng dạy ở các năm ở các lớp, với một
số kinh nghiệm có được của bản thân, tôi mạnh dạn áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm: " Hướng dẫn viết đúng chính tả cho học sinh lớp 2B" vào quá trình

giảng dạy của mình.
- Mục đích nghiên cứu
Môn Tiếng Việt giúp các em đọc thông, viết thạo. Chính vì vậy, việc rèn
đọc cho các em luôn song song với việc rèn chữ viết. Chữ viết luôn giữ một vai
trò vô cùng quan trọng. Chính vì thế, dạy cho các em viết đẹp, viết đúng chính tả
là rèn đức tính cẩn thận, kiên trì, biết yêu quý Tiếng việt, yêu quý mọi người. Vì
vậy, tôi luôn trăn trở làm như thế nào để nâng cao chất lượng viết chính tả cho
học sinh lớp 2B.
- Đối tượng nghiên cứu
Sáng kiến nghiên cứu nguyên nhân, thực trạng học sinh lớp 2B viết sai
chính tả, đưa ra giải pháp để học sinh viết đúng chính tả.
- Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê, khảo sát, thu thập thông tin, xử lý số liệu.
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
- Phương pháp quan sát.

3


2- NỘI DUNG

2.1. Cơ sở lí luận
Đất nước ta đang trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập
với các nước trong khu vực và trên thế giới. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
của xã hội đối với giáo dục. Bộ Giáo dục - Đào tạo đã chủ trương đổi mới
chương trình Tiểu học theo các mục tiêu: Tiếp tục tăng cường thực hiện giáo
dục toàn diện ( Đức, trí, thể, mĩ và các kĩ năng cơ bản) đảm bảo sự cân đối hài
hòa giữa ác lĩnh vực học tập và giáo dục ở nhà trường Tiểu học.
Để giúp học sinh nói, viết đúng tiêng phổ thông trước hết người giáo viên
cần phải hiểu và nắm vững thuật ngữ “ chính tả” được hiểu theo nghĩa gốc là

“phép tính đúng” hoặc “ lối viết hợp chuẩn”.
Trong chương trình môn Tiếng việt lớp 2, phân môn chính tả học sinh
học theo hướng dẫn chuẩn kiến thức kĩ năng các môn học ở Tiểu học, mỗi tuần
học sinh lớp 2 được thực hành viết bài chính tả trong 2 tiết. Các dạng bài chính
tả ở lớp 2 gồm: Tập chép và nghe- viết. Ngoài ra, trong phân môn chính tả còn
có phần bài tập, chủ yếu bổ trợ cho kĩ năng viết chính tả của học sinh. Gồm có
dạng bài tập điền dấu thanh vào tiếng, điền âm đầu và dạng điền vần vào chỗ
chấm.
Như vậy, phân môn chính tả ở lớp 2 chủ yếu là rèn kĩ năng đọc đúng, viết
đúng, kết hợp kĩ năng sử dụng Tiếng việt phát triển tư duy cho học sinh.
2.2. Thực trạng nghiên cứu.
Năm học 2015- 2016, tôi được nhà trường phân công giảng dạy và chủ
nhiệm lớp 2B. Tổng số học sinh là 20 em.Trong đó có 9 em nam và 11 em nữ,
các em đều có ý thức học tập tốt, ngoan ngoãn nghe lời thầy cô, đoàn kết giúp
đỡ bạn bè. Vì vậy, đó là điều kiện thuận lợi cho tôi thực hiện sáng kiến này.
Bên cạnh đó, lớp học phần đa là con gia đình nông nghiệp nên việc chăm lo
đến học tập của các bậc phụ huynh đối với con em còn hạn chế. Có em đi học
còn quên đồ dùng học tập. Do đó ảnh hưởng nhiều đến chất lượng chữ viết của
các em.
Qua thực tế giảng dạy lớp 2B của bản thân, tôi thấy: Học sinh viết chính tả
nhìn chung chưa đảm bảo tốc độ viết chữ theo chuẩn kiến thức kĩ năng. Có một
số học sinh viết bài sạch sẽ, trình bày đúng. Song bên cạnh đó, còn rất nhiều học
sinh gặp khó khăn trong giờ học chính tả.
Để khảo sát thực trạng viết chính tả của học sinh, tôi đã sử dụng bài viết
chính tả nghe- viết: "Ngày hôm qua đâu rồi?" cho học sinh viết. Tôi thu được kết
quả như sau:
Tổng số
học sinh
20


Trình bày đúng,
viết đẹp( loại A)
số lượng
TL
3
15%

Trình bày đúng, viết
chưa đẹp ( loại B)
số lượng
TL
9
45%

Trình bày sai, viết
chưa đẹp ( loại C)
số lượng
TL
8
40%

4


Nhìn vào bảng kết quả trên ta thấy số học sinh biết trình bày đúng viết đẹp
( loại A) rất ít, chiếm 15 %. Số học sinh trình bày đúng viết chưa đẹp( loại B)
chiếm 45 %. Số học sinh trình bày sai ( loại C) chiếm tới 40 % trong tổng số học
sinh cả lớp.
Thực trạng cụ thể ở lớp 2B qua các bài viết chính tả khác:
- Một số học sinh khi viết chính tả không kịp thời gian, hay viết sai lỗi

chính tả:

- Học sinh chưa biết cách trình bày một bài viết chính tả (Đoạn văn, đoạn
thơ). Nhất là chính tả tập chép, học sinh nhìn bài viết mẫu của giáo viên trên
bảng để chép, khi thấy bài viết xuống dòng ở chữ nào học sinh cũng xuống dòng
chữ ấy:

5


- Học sinh viết sai phụ âm đầu:

- Học sinh viết sai các vần khó:

6


Qua việc điều tra thực tế như vậy, tôi thấy tình trạng các em viết xấu và sai
nhiều lỗi quá nhiều. Nếu như không có biện pháp khắc phục sớm, giúp các em
viết đẹp và biết cách viết chữ như thế nào cho đúng, thì lên lớp 3 các em sẽ học
như thế nào đây? Chính vì điều này đã thôi thúc tôi tìm ra một số biện pháp cụ
thể, sát thực để giúp và đưa những đối tượng thuộc loại C lên loại (A hoặc B).
Có như vậy thì chất lượng giờ chính tả mới được tốt.
Nguyên nhân của thực trạng trên là:
- Một số học sinh đọc còn chậm (khi đọc còn phải đánh vần) nên khi viết
chính tả không kịp thời gian, hay viết sai lỗi chính tả.
- Học sinh chưa hiểu cách trình bày bài viết( còn bắt chước giáo viên viết
bảng hoặc SGK- trong các tiết tập chép)
- Học sinh chưa nắm chắc quy tắc viết chính tả (viết sai phụ âm đầu, viết
sai các vần khó).

Trên đây là những nguyên nhân dẫn đến thực trạng chất lượng phân môn
chính tả của học sinh lớp 2B. Trước vấn đề trên với những kinh nghiệm và tiêp
thu học hỏi đồng nghiệp tôi đã vận dụng " Hướng dẫn viết đúng chính tả cho
học sinh lớp 2B" nhằm nâng cao chất lượng viết chính tả ở lớp mình phụ trách
trong các năm học tiếp theo.
2.3. Các giải pháp để giải quyết vấn đề.
2.3.1: Rèn nề nếp tác phong cho học sinh khi ngồi viết chính tả.
Trước hết muốn học sinh viết đúng, đẹp thì tư thế ngồi viết của học sinh là
quan trọng đầu tiên giúp học sinh có nét chữ đẹp. Vì vậy, ngay từ buổi đầu bước
vào lớp, tôi chú ý ngay đến tư thế ngồi viết của từng em. Nhiều em lên lớp 2 rồi
7


mà khi viết, mắt vẫn cúi sát xuống bàn hay cầm bút thấp quá nên mực hay ra tay
làm bẩn vở. Để giúp những em này biết ngồi ngay ngắn khi viết, trước hết giáo
viên phải giải thích cho các em hiểu cần ngồi viết đúng tư thế để giúp chữ viết
đẹp hơn và có lợi cho sức khoẻ, mà ngược lại, nếu ngồi xiêu vẹo người thì sẽ bị
tật vẹo cột sống suốt đời. Nếu em nhìn vào vở sát quá thì mắt sẽ bị cận thị…Sau
đó giáo viên làm mẫu cho học sinh quan sát và làm theo tư thế ngồi viết, ngồi
viết ngay ngắn, lưng thẳng, không tì ngực xuống bàn. Đầu hơi cúi, mắt cách vở
khoảng 25 – 30 cm. Tay phải cầm bút, tay trái đặt phía trước bên trái quyển vở
giữ mép vở khi viết không bị xê dịch, quyển vở được để hơi chếch về phía tay
trái. hai chân để thẳng, vuông góc sau đó tôi hướng dẫn cho các em cách cầm
bút sao cho dễ viết, không cao quá khó viết và không thấp quá mực vào tay làm
bẩn bài viết. Khi hướng dẫn tỉ mỉ tôi khuyến khích cho các em thực hiện, học
sinh nào ngồi đúng nhất được tuyên dương trước lớp. Trong các tiết dạy chính tả
tiếp theo, tôi luôn nhắc nhở để các em nhớ và ngồi đúng, tạo thói quen cho học
sinh.
2.3.2: Xếp chỗ ngồi (Giải pháp cho thực trạng: Một số học sinh viết chính
tả không kịp thời gian, hay viết sai lỗi chính tả.)

Tôi xếp cho những học sinh đọc, viết chậm ngồi thành nhóm để khi đọc
chính tả nghe- viết tôi đến gần và đọc chậm, thậm chí đánh vần từng tiếng đủ để
các em nghe. Đồng thời quan sát nếu thấy học sinh nào viết chưa đúng giáo viên
sửa ngay.
2.3.3: Quy định chung (Giải pháp cho thực trạng: Học sinh chưa biết
cách trình bày một bài viết chính tả)
Từ đầu năm học, giáo viên nêu cách trình bày bài viết văn xuôi: Chữ đầu
tiên cách lề vở 1 ô li- viết hoa. Đối với bài viết là thơ lục bát: dòng đầu tiên cách
lề vở 2 ô li, dòng tiếp theo cách lề vở 1 ô li- viết hoa các chữ đầu dòng thơ. Đối
với dạng thơ tự do: Chữ đầu tiên cách lề vở 2 ô li viết hoa các chữ đầu dòng thơ,
các chữ đầu dòng thẳng cột. Đối với nhóm học sinh viết chưa đúng độ cao, đánh
dấu thanh chưa đúng vị trí: Khi đọc chính tả giáo viên luôn nhắc nhở học sinh
nhớ độ cao các chữ, khi viết đánh dấu thanh vào âm chính trong mỗi tiếng.
2.3.4: Luyện viết đúng phụ âm đầu. (Giải pháp cho thực trạng: Học sinh
viết sai phụ âm đầu.)
Để giúp học sinh viết đúng một số phụ âm đầu dễ lẫn lộn này, trong mỗi
giờ chính tả tôi phải kết hợp nhiều phương pháp dạy học một cách linh hoạt,
trong từng bài cụ thể đối với từng cặp phụ âm mà học sinh hay sai để cho bài
dạy sinh động, để giúp các em dễ phân biệt được cách viết đúng, sai.
Chẳng hạn, với phương pháp trực tiếp, tôi cho học sinh nghe, đọc, nhận
xét các chữ viết đúng bằng mắt, tập viết vài lần chữ khó vào bảng con cho quen
tay. Bước đầu tôi đọc toàn bài, sau đọc từng câu, từng cụm từ, chú ý nhấn mạnh
những tiếng khó để luyện tập cách nghe cho học sinh. Tiếp theo tôi đặt câu hỏi
bằng phương pháp gợi mở vấn đáp để giúp các em nhận ra những tiếng, từ các
em hay viết sai. Sau đó tôi cho một số em nhắc lại một số luật chính tả, các em
đã được học.
8


Như trước e, ê và i âm cờ được viết bằng chữ k (ca).

Ví dụ: kể; kẻ…..
Hoặc trước e, ê và i âm gờ viết bằng chữ gh (ghờ ghép) hay ngờ viết bằng
ngh (ngờ nghép).
Ví dụ: ghế; ghé….
nghỉ; nghé….
Sau khi các em nhắc lại được một số luật chính tả, thì cho các em được
luyện viết nhiều lần trên bảng con để các em nhớ.
Trong những giờ chính tả có phần luyện tập r/d/gi đa số các em khó tìm
ra quy tắc phân biệt khi nào viết d hay gi. Vì vậy với bài tập so sánh trên tôi cho
các em phân biệt bằng nhiều cách như sau:
- Đầu tiên cho các em dựa vào nghĩa để phân biệt.
Bước 1: Cho học sinh đọc kỹ đoạn văn, tìm ra những tiếng từ có phụ âm
đầu r/d/gi có trong bài.
Học sinh tìm được là: dạo, rụt rè, giờ, giỏi, dành,….
Bước 2: Cho học sinh viết bảng con (nhận xét, giảng giải cách viết) phát
âm, giải nghĩa từ, tìm từ có tiếng đó.
Chẳng hạn: với tiếng “dạo”.
Học sinh viết bảng con, giáo viên nhận xét và giảng cách viết.
d + ao + dấu nặng = dạo.
+ Phát âm (gv làm mẫu gọi 1- 2 học sinh phát âm lại) d – ao – nặng – dạo.
Học sinh đọc lại câu có chứa tiếng “dạo” cho trong bài và nêu “dạo” ý nói
gì? (chỉ khoảng thời gian ngắn chưa lâu).
+ Học sinh tìm từ có tiếng “dạo”; dạo này, một dạo…
Bước 3: Cho học sinh phân biệt r/ d/ gi bằng cách tìm các tiếng lập
bảng.
r
- rạo: rạo rực
rào rạo, rệu rạo….

d

dạo: dạo nào
dạo chơi, dạo này

gi
không có

Gợi ý cho học sinh điền từ bằng cách dùng câu hỏi gợi ý. Em tìm từ có
tiếng “rạo”/ “dạo”. Học sinh tìm đến đâu giáo viên ghi lên bảng đến đấy.
Dù sử dụng phương pháp nào đi nữa, tôi đều phải theo dõi, quan tâm uốn
nắn từng em. Những em viết sai s/ x là do các em phát âm sai. Khi dạy tôi phải
phát âm lại cho các em nghe, phát âm s cong lưỡi, đầu lưỡi chạm ngạc phía trên.
Còn viết là x khi đọc lưỡi thẳng đầu lưỡi đưa ra phía ngoài, luồng hơi thẳng ra
ngoài. Sau đó tôi cho cả lớp phát âm lại nhiều lần cho đúng, viết bảng con theo
sự phát âm như: Thi viết nhanh và đúng, giáo viên đọc “xanh” cả lớp viết vào
bảng con, học sinh nào viết sai bị đứng lên phát âm lại. Hoặc khi dạy chính tả
tiết 1 tuần thứ 2 ở phần luyện tập tôi chọn bài tập 2a (bài lựa chọn) giúp các em
làm quen với cách phân biệt s/x qua các dạng bài tập.
Bài tập:Điền vào chỗ trống:
9


a)s hay x:
….oa đầu, ngoài …ân, chim …âu, ….âu cá.
Trước khi làm bài tôi cho 2; 3 em đọc to nội dung yêu cầu của bài tập, cả
lớp đọc thầm.
Sau khi học sinh hiểu được nội dung yêu cầu bài tập, tôi tiến hành tổ chức
các hình thức luyện tập như sau:
Giáo viên phát 3 băng giấy cho 3 em học sinh ngồi ở vị trí khác nhau thi
làm bài. Cả lớp làm bài trên giấy nháp.
Mỗi em làm bài xong (trên băng giấy) dán bài lên bảng, đọc kết quả. Cả

lớp và giáo viên nhận xét về nội dung lời giải, phát âm, kết luận bài làm đúng.
Học sinh nào làm đúng nhanh nhất là thắng cuộc.
Cả lớp và giáo viên nhận xét, sửa lỗi bài làm trên bảng lớp được dán.
xoa đầu, ngoài sân, chim sâu, xâu cá.
Những em thắng cuộc được khen ngợi và cả lớp thưởng một tràng vỗ tay
khuyến khích.
Để phân biệt được s/x tôi đưa ra cho các em nhiều dạng bài tập như dạng
câu đố giúp học sinh học tập sôi nổi hơn. Từ đó các em làm quen và biết cách
dùng đúng khi viết chính tả.
Khi dạy chính tả, trước khi viết bài tôi luôn coi trọng việc tìm luyện viết
chữ khó (chữ các em hay viết sai) trong bài. Đối với bước luyện viết từ khó này,
tiết nào tôi cũng thực hiện và trước hết cho các em tìm trong đoạn bài viết những
từ nào em thấy khó viết, học sinh nêu ra trước lớp sau đó giáo viên cho các em
được luyện viết trên bảng con và gọi vài em lần lượt lên bảng viết, học sinh và
giáo viên nhận xét đúng sai.
Song song với việc phân biệt phụ âm đầu, tôi luyện cho các em viết đúng
các vần khó trong các tiếng, từ.
2.3.5: Luyện viết đúng tiếng có vần khó. (Giải pháp cho thực trạng: Học
sinh viết sai tiếng có vần khó)
Trong quá trình viết các em thường gặp phải những tiếng, từ có vần khó
(uơ, uyu, uôn, uyết, uya ….) một số tiếng có vần dễ lẫn lộn (oe/ eo/ uê/ oa/
ao….) một số từ khó “huơ vòi” trong bài “Ngày hội đua voi ở Tây Nguyên”…
Để rèn viết đúng các lỗi này, trước khi viết bài tôi gọi học sinh phân biệt
từng tiếng, cho học sinh khác nhau nhận xét và thống nhất cách viết.
h + uơ = huơ
Vần khó nên khi phân tích tôi chú ý nhấn giọng vào phần vần, sau đó cho
học sinh viết bảng con, lớp nhận xét, lớp tự sửa sai. Với những bài viết có ít
những vần khó tôi có thể lấy thêm một số tiếng có vần khó đó, đọc cho học sinh
viết, để khắc sâu vần cần chú ý.
Trong các tiết chính tả tôi thường chọn các dạng bài tập khác nhau cho

các em được làm nhiều, luyện viết nhiều để các em nhớ cách viết đúng.
2.3.6: Chấm, chữa bài chính tả.

10


Để nâng cao chất lượng giờ chính tả, việc chấm chữa bài cũng rất quan
trọng, giúp các em biết tự sửa lỗi sai của mình, nhớ viết đúng, lần sau không bị
mắc lỗi sai đó.
Có nhiều hình thức chấm chữa bài, những khi dạy thì thường sử dụng biện
pháp như sau:
Sau khi viết bài xong, tôi đọc chậm cho các em tự soát bài sau đó tự đổi
vở cho nhau (2 em ngồi cạnh nhau) theo sự chỉ đạo của giáo viên. Nếu phát hiện
ra lỗi sai của bạn, kịp thời bảo bạn sửa lại ngay. Sau khi các em thực hiện xong,
tôi cho các em nêu kết quả mình đã được kiểm tra vở bạn. Giáo viên kịp thời
tuyên dương những bạn không sai lỗi nào. Từ việc học sinh tự chữa lỗi theo tôi
có những điểm tích cực sau đây:
- Các em được tiếp xúc với văn bản viết một lần nữa, qua đó góp phần
củng cố những kiến thức vừa được hướng dẫn.
- Với sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh tự phát hiện ra những lỗi
chính tả. Từ đó, các em có điều kiện để tái hiện lại quy tắc viết đúng chính tả
cho mỗi trường hợp. Góp phần củng cố, khắc sâu hơn cho học sinh những khả
năng chính tả.
- Trường hợp, những em học sinh viết chậm, chuyên viết sai lỗi chính tả
thì không tự phát hiện được lỗi của bạn. Đối với những em này, giáo viên đi đến
từng em để hướng dẫn cách sửa lỗi. Từ đó giúp các em có thể nắm bắt được luật
chính tả một cách thuận tiện.
- Thông qua việc tự chữa lỗi của các em, tôi đã giáo dục các em tính cẩn
thận, chính xác, không để sai sót đồng thời cũng kết hợp giáo dục lòng trung
thành cho các em, sai lỗi nào bảo bạn sửa lỗi ấy.

- Hình thành ý nghĩa giữ gìn đồ dùng của bạn cũng như của mình (giữ vở
sạch,viết chữ đẹp), không được làm rách, bẩn vở của bạn trong quá trình chữa
soát lỗi.
- Hình thành ở các em ý thức nhiệm vụ được giao (tính tự giác).
- Để thực hiện mục tiêu này, cần phải được tiến hành thường xuyên đối
với các tiết chính tả. Tạo cho các em thói quen và giữ trật tự khi trao đổi bài.
Giáo viên luôn tuyên dương và khuyến khích những em viết đúng, viết đẹp. Với
những biện pháp trên, học sinh rất thích viết đúng và đẹp để cho bạn không tìm
ra lỗi sai của mình và được cô khen trước lớp. Chính vì thế chỉ một thời gian
không lâu tôi đã thu được kết quả đáng khả quan.
2.3.7: Luyện viết chữ đúng đẹp.
Để nâng cao chất lượng giờ chính tả, thì việc luyện chữ viết cho các em là
rất cần thiết. Viết đẹp nó còn thể hiện được tính cách của con người “Nét chữ nết người”. Trong lớp tôi dạy có rất nhiều em viết chữ chưa đẹp vì nhiều lý do.
Đó là các em viết chưa đúng kích cỡ: độ cao, rộng của các con chữ, khoảng cách
giữa các chữ hay các con chữ chưa đều, các nét chữ chưa liền mạch….
Để giúp các em khắc phục những tình trạng trên tôi đã lập kế hoạch sử
dụng các biện pháp khác nhau áp dụng đến từng đối tượng.

11


Muốn học sinh viết đẹp, trước hết giáo viên phải là người viết chữ đúng
và đẹp. Trong những năm trước đây bản thân tôi viết chữ chưa đúng mẫu quy
định. Đó cũng là điều tôi trăn trở: nếu mình không viết đúng và đẹp thì hướng
dẫn học sinh viết sẽ không thực tế. Do đó, tôi rèn chữ viết thường xuyên. Qua
quá trình rèn luyện, tôi đã tham gia và đạt giải các cuộc thi viết chữ đẹp cấp
huyện. Tôi cho các em xem các bài viết để các em thấy được nếu cố gắng luyện
viết thì ai cũng có thể viết đẹp. Trong các tiết chính tả tập chép tôi viết trên bảng
lớp, học sinh nhìn bài chép.
Tôi hướng dẫn các em cách nhớ độ cao con chữ bằng cách chia độ cao các

chữ cái thành các nhóm (đối với chữ viết thường).
Nhóm 1: Nhóm chữ cao 1 đơn vị như: a,ă, i, e, ê, n, m,….
Nhóm 2: Nhóm chữ cao 1,5 đơn vị như chữ t.
Nhóm 3: Nhóm chữ cao hoặc dài 2,5 đơn vị như: h, l, b, k, y, g….
Nhóm 4: Nhóm chữ cao 2 đơn vị như: d, đ,…
Nhóm 5: Nhóm chữ cao 1,25 đơn vị như: s, r,…
Đối với các chữ viết hoa đều có độ cao 2,5 đơn vị.
Khi học sinh học thuộc các độ cao của các chữ cái trên, tôi tiến hành
hướng dẫn viết trên dòng kẻ bảng lớp. Trong khi viết giáo viên nhắc nhở các em
viết độ rộng của các con chữ phải bằng nhau, khoảng cách của các chữ với nhau
không rộng lắm mà cũng không hẹp lắm, khoảng bằng nửa thân chữ là vừa. Các
nét hắt trong một chữ phải được nối liền nhau, trong khi viết một chữ hạn chế
nhấc bút mà thường viết liền các con chữ với nhau, chữ viết thẳng, giáo viên viết
mẫu (ngay ngắn, không ngả chữ mà không cúi rạp chữ).
Sau khi học sinh nắm được cách hướng dẫn cách viết đẹp cho các em
được luyện vào bảng con theo đúng các dòng kẻ hướng dẫn, giáo viên kịp thời
sửa lại những nét các em viết chưa đúng, tuyên dương những em viết đúng hàng
kẻ, đẹp.
Luyện viết vào vở: giáo viên đọc cho học sinh 1 hoặc 2 câu thơ với tốc độ
chậm để các em tập viết đúng li. Trong khi học sinh viết, giáo viên đi lần lượt
từng bàn quan sát các em viết, em nào viết chưa đúng chưa đẹp cô viết mẫu cho
em đó 1, 2 chữ vào vở để các em bắt chước viết cho đẹp. Khi các em đã biết viết
dùng kích cỡ tôi tập cho các em viết nhanh dần đúng tốc độ viết đối với các học
sinh lớp 2.
Ngoài những việc luyện viết chữ đẹp ở tiết chính tả tôi luôn quan tâm
nhắc nhở các em cần phải viết đúng, nắn chữ ở những tiết học khác như tập làm
văn, tập viết….và tóm lại cứ đặt bút viết là các em phải viết cẩn thận đẹp như
đang trong giờ luyện viết vậy, thì dần dần các em mới quen tay viết chữ đẹp
được. Trong các tiết dạy, cứ phát hiện được bài viết đẹp, đúng cỡ chữ là tuyên
dương trước lớp nhằm khuyến khích các em viết đẹp hơn.

Ngoài việc rèn chữ đẹp ở lớp, tôi còn gặp gỡ gia đình các em trao đổi với
phụ huynh, nhờ phụ huynh kèm cặp thêm viết ở nhà và cứ như vậy, sau một thời
gian lớp tôi có nhiều em viết chữ đẹp như em (Nga, Trinh, Hằng, Liên,…. ) và

12


nhiều em chữ viết từ loại C lên B như em ( Quyền, Trang, Nguyệt, Tân,…) và từ
loại B lên loại A như em ( Lam, Thái, … ).
Đây là một thành công lớn của tôi và sự tiến bộ của các em là nguồn động
viên, khuyến khích tôi càng hăng say thực hiện mong muốn của mình.
Với những biện pháp như trên tôi đã áp dụng vào trong việc dạy học
sinh viết chính tả. Tôi nhận thấy có sự tiến bộ rõ rệt, các em nắm được độ cao
của các con chữ, khoảng cách các con chữ, cách trình bày bài chính tả mà không
cần giáo viên nhắc nhở nhiều.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến
Sau khi áp dụng các biện pháp trên vào thực tiễn giảng dạy tôi đã thực
hiện khảo sát qua bài chính tả nghe- viết: Kho báu- tuần 28, tôi thu được kết quả
như sau:
Tổng số
học sinh
20

Trình bày đúng,
viết đẹp( loại A)
số lượng
6

TL
30%


Trình bày đúng, viết
chưa đẹp( loại B)
số lượng
13

TL
65%

Trình bày sai, viết chưa
đúng mẫu chữ( loại C)
số lượng
1

TL
5%

Nhìn vào bảng thống kê kết quả khảo sát chất lượng sau khi áp dụng các
biện pháp trên ta thấy: Chỉ còn 1 em mắc lỗi về trình bày, có 6 em có bài trình
bày đúng, viết đẹp bằng 30%, có 13 em trình bày đúng nhưng chữ chưa đẹp
bằng 65 %.
Với kết quả trên, chỉ còn rất ít em mắc lỗi về trình bày,viết chưa đẹp
tình trạng học sinh viết chữ sai độ cao và khoảng cách đã giảm hẳn. Học sinh
đọc phát âm tốt, nắm được quy tắc chính tả. Các em đã viết đúng khoảng cách
giữa chữ với chữ, giữa từ với từ, viết đúng dấu chấm, dấu phẩy, viết đảm bảo
thời gian theo yêu cầu, bài viết khá sạch đẹp, ít mắc lỗi chính tả. Qua đây cho
thấy, việc áp dụng một số kinh nghiệm của bản thân vào việc hướng dẫn học
sinh viết đúng chính tả ở lớp mình phụ trách, đã có nhiều tiến triển trong việc
rèn chữ viết và cách trình bày của học sinh.
* Dưới đây là một số bài viết của học sinh lớp 2B trong các tiết chính tả

sau khi tôi áp dụng các biện pháp nêu trên:

13


14


3- KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
- Kết luận

Qua việc nghiên cứu và áp dụng một số biện pháp vào thực tế giảng dạy
phân môn chính tả ở lớp 2B. Tôi thấy để dạy tốt phân môn này:
- Giáo viên cần nắm vững yêu cầu cần đạt và các dạng bài của phân
môn chính tả. Giáo viên phải tự rèn chữ viết cho mình luôn có ý thức viết chữ và
trình bày bảng khoa học.
- Lựa chọn và kết hợp các phương pháp phù hợp để giảng dạy, tạo điều
kiện cho học sinh được luyện tập nhiều.
- Tạo cho học sinh sự hứng thú trong tiết học chính tả như thi đua tổ, cá
nhân giữ vở sạch, chữ đẹp; học sinh có bài viết đẹp được trưng bày trước lớp.
15


- Thường xuyên chấm bài chính tả cho các em để có kế hoạch hình thức
giúp đỡ kịp thời, sát thực với từng đối tượng.
- Liên hệ với gia đình thừờng xuyên, để kết hợp gia đình, nhà trường
chặt chẽ.
- Sau mỗi tiết dạy giáo viên có khen kịp thời, đúng mức, để khuyến
khích các em học tập và gây được niềm tin cho các em. Từ chỗ kèm cặp và động
viên học sinh đúng lúc, kịp thời như thế, nên lớp tôi em nào cũng có ý thức tự

giác viết đúng, viết đẹp. Nhiều em đầu năm viết rất xấu, các em còn hay viết sai
lỗi chính tả. Nhưng được sự chỉ bảo tận tình của cô các em đã biết viết đẹp hơn
và nhớ một số lỗi chính tả để viết đúng.
- Kiến nghị
Đối với nhà trường, hàng tháng, hàng kì có tuyên dương những học sinh
giữ vở sạch- viết chữ đẹp trong các giờ sinh hoạt ngoại khóa.
Đối với giáo viên cần phải rèn chữ viết của mình, thường xuyên trao đổi
học hỏi đồng nghiệp, đọc thêm các tài liệu để nâng cao trình độ chuyên môn.
Phải có tính kiên trì và sáng tạo trong công việc, tận tụy với học sinh.
Đối với phụ huynh, cần dành thời gian để hướng dẫn, kèm cặp con em
mình học ở nhà.
Sáng kiến trên đây của tôi là một phần nhỏ bé giúp cho việc hướng dẫn
học sinh viết đúng chính tả, đây chỉ là một kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi,
không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tôi xin trình bày để Hội đồng khoa
học nhận xét và góp ý để có phương pháp dạy chính tả đạt kết quả cao nhất. Rất
mong được sự góp ý chân thành của bạn bè đồng nghiệp để sáng kiến của tôi
được hoàn thiện hơn ./.
Đồng Thịnh, ngày 28 tháng 4 năm
2016
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác.
NGƯỜI VIẾT SÁNG KIẾN

Phạm Thị Hòa

16



TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sách giáo khoa Tiếng Việt 2.
- Vở viết chính tả của học sinh.
-Hướng dẫn chuẩn kiến thức kĩ năng các môn học Tiểu học.

17



×