Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Một số biện pháp bồi dưỡng học sinh viết câu văn sinh động lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.05 KB, 12 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Bậc Tiểu học được coi là nền tảng của hệ thống giáo dục phổ thông, chất
lượng giáo dục phổ thông phụ thuộc nhiều vào kết quả đào tạo của bậc Tiểu học
do đó yêu cầu giáo dục phải làm sao để có kết quả chất lượng tốt nhất. Để đạt
được điều đó thì một trong những giải pháp của Đảng ta là: “ Tiếp tục đổi mới
nội dung, phương pháp Giáo dục - Đào tạo và tăng cường cơ sở vật chất cho các
trường học”. Đảng cũng chỉ ra: “ Đổi mới mạnh mẽ phương pháp Giáo dục Đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo
của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện
hiện đại vào quy trình dạy học…”.
Chúng ta biết rằng ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của
con người. Vì vậy tiếng mẹ đẻ có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống cộng
đồng và đời sống của mỗi con người. Do đó trẻ em phải được học tiếng mẹ đẻ
một cách cẩn thận, đầy đủ và khoa học để có thể sử dụng công cụ này trong
những năm tháng học tập ở nhà trường cũng như trong suốt cuộc đời.
Tiếng mẹ đẻ có tầm quan trọng rất to lớn do vậy không một quốc gia nào
không quan tâm việc dạy học này trong nhà trường, nhất là ở bậc tiểu học. Nó là
môn học bắt buộc suốt cấp tiểu học. Là một trong những môn bắt buộc trong
những kì thi từ lớp 1 đến đại học. Ở Tiểu học môn này được chia ra nhiều phân
môn, đó là: Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Kể chuyện, Tập làm văn. Các
phân môn này liên quan chặt chẽ với nhau luôn hỗ trợ cho nhau.
Đối với học sinh tiểu học, phân môn Tập làm văn là phân môn hết sức quan
trọng. Nó giúp các em cùng với các môn học khác mở rộng vốn sống, rèn luyện
tư duy lo-gic, tư duy hình tượng, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình
thành nhân cách cho học sinh. Học các tiết Tập làm văn, học sinh có điều kiện
tiếp cận với vẻ đẹp của con người, của thiên nhiên qua các đoạn văn, bài văn
điển hình. Khi phân tích đề tập làm văn, học sinh có dịp hướng tới cái chân,
thiện, mĩ được định hướng trong đề bài. Bên cạnh đó còn tạo cơ hội cho học
sinh thể hiện mối quan hệ với cộng đồng. Những cơ hội đó làm cho tình cảm
yêu mến, gắn bó với thiên nhiên, với người và việc xung quanh các em nảy nở,


tâm hồn, tình cảm của các em thêm phong phú. Đó là những nhân tố quan trọng
góp phần hình thành nhân cách tốt đẹp cho các em.
Trong thực tế dạy và học Tập làm văn ở trường tiểu học nói chung, tập làm
văn khối 5 nói riêng, đã mang lại nhiều điểm tốt, đạt được một số kết quả nhất
định. Song nó cũng có khá nhiều điểm yếu và khuyết điểm lớn là bệnh công
thức, khuôn mẫu, máy móc thiếu tính chân thực trong cả cách dạy và học tập
làm văn.
Người thầy thường dạy cho học sinh yêu cầu các em nhớ nhiều để bắt trước
“làm văn”. Về phía học sinh, qua nhiều năm làm công chấm bài, khi chấm bài
cho học sinh tôi nhận thấy học sinh thường làm 2 kiểu bài được giáo viên phê là:

1


Ý bài văn phong phú, diễn đạt trôi chảy, mạch lạc có cảm xúc. Thực chất
vẫn là sao chép, thường là ý vay mượn của bài văn mẫu. Từ bài văn mẫu sao
chép biến thành bài văn của mình, nên thường nhiều em giống nhau.
Bài văn chưa đủ ý, sắp xếp lôn xộn, diễn đạt không trôi chảy, hời hợt,
chung chung. Chưa bộc lộ rõ cảm xúc trước đối tượng miêu tả. Nhiều em
thường cảm thấy làm bài văn khó khăn, do các em thiếu vốn sống, thiếu hiểu
biết những gì liên quan đến bài làm, ít vốn từ.
Xuất phát từ tình hình thực tế đó, cùng với niềm mong mỏi muốn nâng cao
chất lượng môn Tập làm văn. Trước hết phải rèn luyện, bồi dưỡng cho học sinh
biết viết câu văn sinh động là một việc làm hết sức quan trọng. Với lí do đó nên
tôi chọn làm sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp bồi dưỡng học sinh
viết câu văn sinh động lớp 5.”
2 . MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Để giúp cho chúng ta thấy rõ vị trí quan trọng của phân môn Tập làm văn
trong môn Tiếng Việt.
Để giúp học sinh tiếp thu bài giảng một cách nhẹ nhàng, khắc sâu kiến thức

về phân môn Tập làm văn. Bồi dưỡng cho học sinh biết viết câu văn sinh động.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Giúp học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Trung Lý 1 rèn kỹ năng viết câu văn.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
a) Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tìm đọc các tài liệu, tạp chí, giáo trình có
nội dung giúp học sinh viết văn hay.
b) Phương pháp điều tra: Dự giờ,trao đổi với các bạn đồng nghiệp, học sinh về
những khó khăn cũng như thuận lợi khi thực hiện dạy và hỏctong giờ tập làm
văn.
c) Phương pháp thực nghiệm: Tổ chức cho học sinh thực hiện các yêu cầu của
giải pháp đề ra; kiểm tra kết quả và tác dụng của giải pháp khi tiến hành.
d) Phương pháp so sánh đối chiếu: Tập chung so sánh kết quả trước và sau khi
thực hiện gjải pháp để thấy được kết quả cũng như hạn chế để tìm ra hướng điều
chỉnh, khắc phục hợp lý.
PHẦN II: NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Chương trình Tập làm văn lớp 5 gồm có những nội dung kiến sau:
Số tiết
Học kì I
Học kì II
Cả năm
Loại văn bản
Kể chuyện( ôn tập)
03
03
Miêu tả gồm:
- Miêu tả đồ vật( ôn tập)
04
04
- Miêu tả cây cối( ôn tập)

03
03
- Miêu tả con vật( ôn tập)
03
03

2


- Miêu tả cảnh
- Miêu tả người
Các văn bản khác:
- Báo cáo thống kê
- Đơn
- Thuyết trình, tranh luận
- Biên bản
- Chương trình hoạt động
- Chuyển đoạn văn thành kịch
Tổng cộng số tiết

14
08

04
07

18
15

03

03
30

02
03
02
03
03
03
62

02
03
02
03
32

Chương trình Tiểu học không có môn văn với tư cách là môn học độc lập
nhưng vẫn hướng đến hình thành “năng lực văn” cho học sinh. Mục đích này
được tích hợp qua tiếng mẹ đẻ( Tiếng việt) để hình thành năng lực văn cho học
sinh Tiểu học trước hết phải giúp cho học sinh viết câu văn sinh động.
Viết câu đúng thuộc phạm trù ngữ pháp còn viết câu hay thuộc phạm trù tu
từ. Viết có nghệ thuật mới thành văn.
Viết câu sinh động tức là viết câu văn đạt tốt các yêu cầu: Đúng ngữ pháp,
có hình ảnh và cảm xúc của người viết. Quá trình viết câu văn sinh động tức là
viết câu văn gợi tả, gợi cảm, nó mang tính chủ quan phụ thuộc vào vốn từ và
vốn sống, những kinh nghiệm sự hiểu biết riêng của người viết:
Ví dụ:
- Một học sinh chỉ viết: “Nước sông chảy vào cánh đồng.”
- Còn một học sinh viết: “Dòng sông tuôn bọt trắng xóa, ào ào chảy vào

cánh đồng.”
Như vậy câu văn thứ hai đã có hình ảnh nên hấp dẫn người đọc và làm cho
họ có thể hình dung một cách cụ thể về cảnh vật mình tả, công việc mình thuật
hay kể lại...
Viết câu văn sinh động phụ thuộc vào vốn từ, sự hiểu biết, cách sắp xếp từ
của các em. Học sinh tiểu học vốn từ, vốn sống của các em còn nghèo nàn.
Chính vì vậy, giáo viên cần phải có biện pháp cụ thể để dẫn dắt, gợi mở, tạo
nguồn cảm hứng khơi dậy suy nghĩ trong các em.
2.2. THỰC TRẠNG VIỆC BỒI DƯỠNG HỌC SINH VIẾT CÂU VĂN
SINH ĐỘNG KHỐI LỚP 5 TRƯỜNG TIỂU HỌC TRUNG LÝ I MƯỜNG LÁT.
Để đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội hiện nay đòi hỏi nhà trường
phải không ngừng cải tiến, đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục. Mỗi giáo viên Trường Tiểu học Trung Lý I đều đã nhận thức
được vấn đề. Đó là phải nâng cao trình độ nghiệp vụ, năng lực chuyên môn để
khẳng định mình và tồn tại được trong quá trình phát triển đi lên của nền giáo
dục hiện nay.

3


Thực tế Trường Tiểu học Trung Lý I cho thấy giáo viên đã có cố gắng
nhiều trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Nhưng đổi mới phương pháp
như thế nào, các bước tiến hành ra sao thì mỗi tiết, mỗi bài trên lớp còn có một
số ít giáo viên chưa thể hiện rõ. Trong quá trình dạy cho học sinh viết câu văn
sinh động đa số giáo viên chưa thật sự quan tâm mới hướng cho học sinh viết
câu văn đúng ngữ pháp.
Bản thân tôi là giáo viên chủ nhiệm lớp 5.
Tổng số 25 em trong đó: Nữ 13 em; Nam 12 em.
Tất cả học sinh trong lớp đều là con gia đinh nông dân sinh ra ở xã Trung
Lý, đây là một xã tỉ lệ hộ nghèo còn nhiều, nhiều gia đình chưa thật sự quan tâm

đến việc học của con em mình. Qua việc tìm hiểu các đối tượng học sinh, tôi
nhận thấy học sinh lớp tôi đa số học sinh đều viết đúng ngữ pháp có nghĩa là các
em đã biết viết câu đầy đủ bộ phận chính và đúng ý nhưng chưa rung cảm người
đọc. Rất ít học sinh viết được các câu văn sinh động. Học sinh viết được các câu
văn sinh động tức là học sinh viết câu văn, bài văn có hình ảnh, có cảm xúc. Số
học sinh viết câu sai: Chưa đúng ngữ pháp, câu lủng củng dài dòng, chưa trôi
chảy cũng còn một số em. Tôi đã tiến hành ra đề khảo sát chất lượng trong vòng
20 phút với đề sau đây:
Đề bài: Em hãy viết một đoạn văn khoảng 8 đến 10 câu tả cánh đồng vào
mùa lúa chín
Với đề khảo sát trên tôi đã thu được kết quả như sau:
Học sinh viết câu văn
sinh động

Học sinh viết câu đúng
ngữ pháp

Học sinh viết câu còn
sai

Số lượng

Tỉ lệ

Số lượng

Tỉ lệ

Số lượng


Tỉ lệ

2

8%

16

64%

7

28%

Nguyên nhân: Như tôi đã nêu ở trên, lớp 5 tất cả gia đình các em đều làm
nông nghiệp nên số gia đình có điều kiện để mua tài liệu tham khảo cho con em
mình còn quá ít, hơn nữa bố mẹ đi làm cả ngày nên thời gian giành cho con cái
còn ít. Nhiều phụ huynh trình độ học vấn không cao, nhiều phụ huynh chưa học
hết tiểu học. Các em khu chính học hai buổi/ ngày nhưng buổi hai lại học sách
của SEQAP, vở bài tập thực hành. Thời gian giành cho việc bồi dưỡng thêm quá
ít, chỉ tranh thủ khi học sinh đã hoàn thành nhanh bài tập và thời gian tăng buổi
các ngày nghỉ. Các em lớp 5 lại phải giúp bố mẹ chăn trâu, cắt cỏ, trông em…
những ngày nghỉ. Buổi tối các em mệt nên số em tự giác học ít, các em chỉ học
qua loa. Nhiều gia đình lại không đôn đốc con học, chỉ phó mặc cho thầy, cô
giáo. Đây là những nguyên nhân chính ảnh hưởng đến việc học nói chung và
việc viết văn hay của học sinh nói riêng. Bên cạnh đó thời gian để cho giáo viên
rèn cách viết câu văn sinh động cho học sinh còn ít. Phương pháp dạy kĩ năng
viết văn của giáo viên còn hạn chế. Từ những nguyên nhân trên, tôi đã mạnh
dạn đưa ra các giải pháp thực hiện sau đây.
4



2.3. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
Muốn cho học sinh viết câu văn có hình ảnh, có cảm xúc giáo viên phải
dày công luyện tập cho các em và luyện tập phải tiến hành từ dễ đến khó để giúp
các em được làm quen và nâng dần kĩ năng viết. Tôi đã nghiên cứu sắp xếp và
luyện tập cho học sinh theo các phần sau:
Phần 1: LUYỆN TẬP VIẾT CÂU VĂN GỢI TẢ:
Để tập cho học sinh viết câu văn gợi tả tôi tiến hành xây dựng hệ thống các
dạng bài tập sau đây:
Dạng 1: Cho học sinh so sánh những cặp câu nhận xét câu nào hay hơn? Vì
sao?
Ở dạng bài này tôi muốn cho học sinh nhận biết thế nào là câu văn hay.
Ví dụ: So sánh 2 câu dưới đây và nhận xét câu nào hay hơn? Vì sao?
a1: Cỏ mọc rất nhiều, màu xanh trải ra rất rộng trên khắp các sườn đồi.
a2: Cỏ mọc tua tủa, màu xanh non ngọt ngào, thơm mát trải ra mênh mông
trên khắp các sườn đồi.
Khi đưa ra cặp câu trên học sinh đã thấy rõ câu a2 hay hơn câu a1, vì câu
a2 sự vật được diễn tả cụ thể, rõ nét khiến người đọc có thể hình dung được sự
vật, hiện tượng như hiện ra trước mắt.
Dạng 2: Học sinh tập tìm từ thay thế cho từ khác.
Qua luyện tập học sinh có thể tìm được nhiều từ thay thế cho một từ mới làm
cho câu văn gợi tả có hình ảnh.
Ví dụ: Tìm những từ thay thế cho những từ ngữ gạch chân ở nhưng câu
văn sau làm cho câu văn thêm gợi tả.
a. Cây chanh trong vườn nở hoa rất trắng
b. Mùi hoa chanh lẫn mùi hoa cam, hoa bưởi thơm lắm.
Học sinh có thể thay: “rất trắng” bằng “trắng xóa” hay “ Trắng muốt”…
Từ “thơm lắm” thay bằng “ thơm nức”, “ thơm ngát”, “ thơm lừng”,…
Như vậy học sinh có thể mở rộng vốn từ làm cho vốn từ của các em ngày

càng phong phú.
Dạng 3: Cho học sinh tập điền từ vào chỗ trống.
Ở dạng này cho học sinh thi nhau điền từ, em nào điền được nhiều từ
đúng và chính xác em đó thắng. Biện pháp này ngoài làm cho các em mở rộng
vốn
từ còn giúp các em dùng từ chính xác hơn.
Ví dụ: Tìm những từ ngữ gợi tả điền vào chỗ trống trong những câu văn
sau làm cho câu văn thêm gợi tả.
a. Dưới chân đồi có một dòng suối chảy…
b. Khi chiều tà, tiếng mõ…. Báo hiệu đàn trâu …. Đã trở về.
Ở câu a có thể điền các từ: róc rách, rì rầm, ào ào,.. Câu b điền các từ: cốc,
cốc, cốc …
Dạng 4: Sửa lại câu văn, đoạn văn cho gợi tả hơn.
Học sinh có thêm hoặc bớt hay thay thế từ ngữ gợi tả có tính so sánh, nhân hóa.
Học sinh có thể sử dụng biện pháp tu từ.
5


Ví dụ: Sửa lại những câu văn, đoạn văn sau đây cho gợi tả hơn
“ Sương sớm giăng trên mái nhà. Tiếng chim cu gáy trên khóm tre đầu
làng. Nắng trải vàng đồng quê.”
Học sinh đã thay: “ Sương sớm phủ khắp làng quê. Tiếng chim cu gáy
văng vẳng từ khóm tre đầu làng. Cô nắng rải một màu vàng óng trên khắp cánh
đồng lúa chín.”
Dạng 5: Cao hơn bốn biện pháp trên cho học sinh dựa vào ý cần diễn đạt
trong những câu văn cho sẵn viết lại để có đoạn văn gợi tả hơn.
Ví dụ: Cho đoạn văn: “ Trước sân trường có một cây bàng to lắm, người
lớn dang tay ôm không xuể. Cách mặt đất chừng một mét, thân cây bàng nổi lên
những cái u sần sùi. Cành lá bàng xòa ra rất rộng.”
Học sinh viết lại: “ Trước sân trường có một cây bàng gốc rất to, ba đứa

học trò chúng em cùng dang tay mà ôm không xuể. Cách mặt đất chừng một
mét, thân cây bàng nổi lên những cái u sần sùi to bằng cái mũ. Tán bàng xoè ra
như một cái ô khổng lồ che nắng cho một góc sân trường.”
Như vậy từ năm biện pháp trên dần dần học sinh lớp tôi đã biết viết những
câu văn gợi tả có hình ảnh sinh động.
Phần 2: LUYỆN TẬP VIẾT CÂU VĂN GỢI CẢM
Các dạng bài tập được xây dựng từ dễ đến khó :
Dạng 1: Cho học sinh tập xác định câu văn diễn tả được cảm xúc, tình cảm
gì ?
Ví dụ: Hãy cho biết câu văn sau đã diễn tả được tình cảm và cảm xúc gì
trước sự vật được nêu?
“ Bàn tay của mẹ rám nắng, các ngón tay gầy gầy xương xương mà em yêu
biết bao nhiêu.”
Tình cảm ở đây thể hiện sự yêu thương quý trọng của người con đối với
người mẹ.
Ở dạng này học sinh được làm quen nhiều câu văn, đoạn văn gợi lên tình
cảm của con người đối với sự vật, của con người đối với con người… vừa giáo
dục về
đạo đức, vừa giúp các em biết viết các câu văn gợi cảm.
Dạng 2: Tập viết các câu văn thể hiện thái độ tình cảm khác nhau.
Ví dụ: Viết 4 câu văn thể hiên thái độ tình cảm khác nhau như: Vui – buồn
– thương – giận.
Học sinh viết:
- “ Vui biết bao nhiêu khi em được gặp thầy, gặp bạn trong ngày khai
trường nhộn nhịp.”
- “ Hôm qua, em vô cùng sung sướng khi được cô giáo tuyên dương trước
cả lớp.”…
- “ Hôm nay làm bài kiểm tra chi được điểm 6, em buồn lắm.”
- “ Em bị bạn hiểu nhầm, em đã cố gắng giải thích nhưng bạn vẫn không
thông cảm, em rất giận.”


6


Cùng viết về niềm vui nhưng mỗi học sinh viết một cách khác nhau. Các
câu văn đã thể hiện rõ những tình cảm khác nhau.
Dạng 3: Tập viết câu văn, đoạn văn theo một chủ điểm cho trước.
Học sinh bắt đầu tập viết những câu văn gợi cảm, có thể ban đầu là một hai câu
đó tăng lên ba, bốn câu và dần dần số lượng câu cao hơn cho học sinh viết câu
gợi cảm một cách thành thạo hơn.
Ví dụ: Viết hai đến ba câu nói về niềm vui trước cơn mưa mùa xuân đầy sức
sống hoặc là viết một đoạn văn gợi cảm nói về lòng yêu trăng.
Từ ba biện pháp nêu trên học sinh đã biết viết những câu văn gợi cảm. Từ
đây tôi cho học sinh bắt đầu làm dạng tổng hợp hơn qua phần 3.
Phần 3: TẬP VIẾT CÂU VĂN VỪA GỢI TẢ VỪA GỢI CẢM
Khi học sinh đã làm quen với từng phần( phần 1 và phần 2) tôi bắt đầu yêu
cầu học sinh viết câu văn vừa gợi tả vừa gợi cảm nhưng ở phần này tôi cũng cho
học sinh làm quen dần.
Dạng 1: Tập nhận xét về ý diễn tả cảm giác được biểu hiện trong từng câu, từng
đoạn văn.
Ví dụ: Nhận xét về ý diễn tả và cảm giác được biểu hiện trong từng câu văn
dưới đây, từ đó cho biết câu nào hay hơn ?
a. Từ một tháng nay, trời nắng gắt.
b. Từ một tháng nay, cái nắng gay gắt từ trên trời cao dội xuống.
c. Từ một tháng nay, cái nắng gay gắt cứ như từ trên trời cao dội xuống.
d. Đã hơn một tháng nay, cái nắng gay gắt cứ như từ trên trời cao dội
xuống từ dưới lòng đất bốc lên.
e. Đã hơn một tháng nay, cái nắng gay gắt cứ như từ trên trời cao dội xuống
từ dưới lòng đất bốc lên, làm cho con chó mực nhà em cứ thè lưỡi đỏ và thở
hồng hộc.

Học sinh nhận xét:
- Câu a: Nói đến cái năng gay gắt tạo cảm giác khó chịu.
- Câu b: Ý cụ thể hơn câu a, nói được cái nắng nóng từ đâu xuông. Từ “
dội” hay vì diễn tả rõ được cái nóng như trút xuống, đổ xuống tăng thêm cảm
giác khó chịu.
- Câu c: Hay hơn hai câu trước vì có thêm từ “cứ như” có ý so sánh và
tưởng tượng.
- Câu d: Ý sâu hơn ba câu trước, tô đậm thêm cảm giác bức bối vì nóng.
- Câu e: Hay hơn cả vì ngoài cái ưu điểm ở các câu trên nó còn có thêm
hình ảnh sinh động “con chó mực nhà em cứ thè lưỡi đỏ và thở hồng hộc.” Câu
này vừa
có giá trị gợi tả, vừa có giá trị gợi cảm.
Dạng 2: Học sinh xác định từ loại, những biện pháp tu từ, kiểu câu trong
một đoạn văn.

7


Bài tập này giúp các em củng cố lại kiến thức về từ loại, cách sử dụng các
biện pháp tu từ, kểu câu sao cho phù hợp và hiểu tác dụng của chúng trong đoạn
văn.
Dạng 3: Tập viết câu văn gợi tả, gợi cảm dựa vào những câu văn cho trước.
Ví dụ: Dựa vào ý của từng câu văn hãy viết thành những câu văn vừa gợi tả
vừa gợi cảm.
a. Cây cối toàn một màu xanh.
b. Trời xanh lắm.
Học sinh viết:
a. Cây cối xanh một màu xanh bao la vô tận.
b. Trời xanh mênh mông sâu thẳm tuyệt vời.
Dạng 4: Tập viết lại đoạn văn cho gợi tả, gợi cảm.

Ở dạng này học sinh có thể dùng cách chuyển câu kể thành câu hỏi, câu
cảm, câu cầu khiến,…dùng cách so sánh, nhân hóa và từ ngữ gợi tả, gợi cảm để
viết đoạn văn gợi tả, gợi cảm hơn.
Ví dụ: Viết đoạn văn dưới đây cho gợi tả, gợi cảm hơn.
“ Mùa đông đã đến. Những cơn gió lạnh đã tràn về. Nhìn lên trời, em không
thấy chim én nữa. Mẹ em giục lấy áo ấm ra mặc. Em rất phấn khởi và xúc động
khi mặc cái áo len mà me đã may cho em.”
Học sinh viết:
“ Có phải mùa đông lạnh lẽo đã đến rồi không? Đúng rồi, những cơn gió
lạnh như cắt da, cắt thịt đã vội vã tràn về! Nhìn lên bầu trời xanh xám như màu
chì, em không thấy những cánh én chao liệng nữa. Mẹ em giục: “Con hãy lấy
chiếc áo len mà mẹ vừa đan xong ra mặc cho ấm đi”! Xỏ tay vào cái áo len mới,
em thấy mình như được lớn thêm một tuổi và thấy ấm áp hẳn lên vì được sống
trong tình yêu của mẹ.”
Như vậy ở đoạn văn trên học sinh đã biết viết câu văn sinh động hấp dẫn
người đọc.
Dạng 5: Qua cách nêu trên đến đây tôi bắt đầu cho học sinh tự mình có thể cho
học sinh viết một đoạn văn sinh động từ những chủ đề mà giáo viên cho trước và
các em vận dụng để viết những bài văn theo đề bài của môn Tập làm văn( SGK
môn Tiếng việt).
* Bên cạnh những biện pháp tôi đã trình bày trên để học sinh viết câu văn,
đoạn văn, bài văn có hình ảnh gợi tả, gợi cảm tôi còn cung cấp các từ ngữ hay
cho học sinh, hướng dẫn học sinh đặt thành các câu văn hay giàu cảm xúc để
viết thành đoạn văn, bài văn hay. ( Vì để tự các em làm thì đoạn văn, bài văn sẽ
không hay, không lôi cuốn người đọc. Vì vốn từ của các em còn hạn chế, nghèo
nàn). Để làm tốt được phần này đòi hỏi giáo viên phải chịu khó giành thời gian
soạn ra hệ thống các từ ngữ cho học sinh dựa vào đó để đặt câu, viết thành đoạn
văn, bài văn hoàn chỉnh theo yêu cầu của đề bài.
2.4. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU KHI DẠY THỰC NGHIỆM:


8


Qua thời gian dạy học có sử dụng các biện pháp trên trong các đợt kiểm tra
chất lượng ngày càng tăng lên:
- Số học sinh viết câu văn gợi tả, gợi cảm nhiều hơn, một số em đã bộc lộ rõ
ràng năng khiếu viết văn của mình.
- Số học sinh viết câu văn đúng ngữ pháp nhưng câu văn con khô khan đã
giảm.
- Số học sinh viết câu lủng củng, dài dòng, không đúng ngữ pháp còn rất ít.
Tôi đã tiến hành ra đề khảo sát chất lượng học sinh lớp 5 như sau:
Bài kiểm tra (Thời gian: 40 phút)
Đề bài: Em hãy tả một người thân mà em yêu quý nhất. (Phương án 1)
Đề bài: Quê hương em có rất nhiều cảnh đẹp mà em yêu thích( dòng sông,
cánh đồng, con đường, đầm sen,…).Em hãy tả một trong những cảnh đẹp đó.
(Phương án 2)
Biểu điểm nhận xét:
* Đạt bài văn xuất sắc:
- Viết được hoàn chỉnh bài văn đầy đủ ba phần theo đúng yêu cầu của đề
bài
- Viết câu đúng ngữ pháp, dùng từ đúng, không mắc lỗi chính tả.
- Lời văn sinh động, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc.
- Trình bày sạch sẽ, chữ viết rõ ràng.
* Đạt bài văn hoàn thành tốt:
- Viết được hoàn chỉnh bài văn đầy đủ ba phần theo đúng yêu cầu của đề
bài
- Viết câu đúng ngữ pháp, dùng từ đúng, không mắc lỗi chính tả.
- Lời văn sinh động, có hình ảnh, có cảm xúc.
- Trình bày sạch sẽ, chữ viết rõ ràng.
* Đạt bài văn hoàn thành:

- Viết được hoàn chỉnh bài văn đầy đủ ba phần theo đúng yêu cầu của đề
bài
- Viết câu đúng ngữ pháp, dùng từ đúng, mắc lỗi chính tả không nhiều.
- Lời văn có hình ảnh.
- Trình bày tương đối sạch sẽ, chữ viết tương đối rõ ràng.
* Bài văn chưa hoàn thành:
- Chưa viết được hoàn chỉnh bài văn đầy đủ ba phần theo đúng yêu cầu của
đề bài
- Viết câu chưa đúng ngữ pháp, dùng từ chưa chính xác, mắc lỗi chính tả
nhiều.
- Lời văn lủng củng, chưa rõ ý...
* Kết quả thu được như sau:
Thời gian
Tuần 2
Tuần 10
Tuần 18
Phân loại
SL
TL
SL
TL
SL
TL
HS viết câu văn sinh động
2
8,0%
6
24,0%
9
36,0%

HS viết câu văn đúng ngữ pháp 16 64,0%
15
60,0%
14
56,0%
9


HS viết câu sai

7

28,0%

4

16,0%

2

8,0%

* Nhận xét đánh giá kết quả thực nghiệm:
Để thành công trong việc bồi dưỡng học sinh viết câu văn sinh động thì
người giáo viên cần phải thực hiện tốt những yêu cầu sau:
- Người giáo viên cần phải có lòng yêu nghề mến trẻ, phải nhiệt tình hết
lòng vì học sinh thân yêu.
- phải luôn luôn tìm tòi, tham khảo các tài liệu, học hỏi đồng nghiệp để nâng
cao tay nghề và hoàn thiện bản thân.
- Giáo viên phải biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp và hình

thức dạy học trong một tiết dạy.
- Phân loại học sinh ngay từ đầu năm và có biện pháp cụ thể với từng học
sinh.
- Giáo viên phải xây dựng cho học sinh hứng thú và thói quen đọc sách. Phải
làm cho học sinh thích đọc và thấy được đọc sách sẽ có ích cho các em trong
suất
cả cuộc đời.
- Giáo viên phải giành nhiều thời gian để soạn nhiều bài tập trong cùng một
dạng để cho học sinh được rèn luyện tạo thành kỹ xảo cho các em.
- Giáo viên phải biết sắp xếp để rèn luyện học sinh sao cho phù hợp với
chương trình giảng dạy.
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN:
Đối với việc bồi dưỡng học sinh viết câu văn sinh động là một việc làm
quan trọng trong trong quá trình dạy học. Giúp cho học sinh biết cách viết, cách
diễn đạt truyền cảm, hấp dẫn làm cho mọi người có thể hiểu rõ ý mà mình muốn
nói, muốn viết.
Chính vì vậy trong quá trình dạy học cần phải chú trọng hơn nữa đến việc
bồi dưỡng cho học sinh viết câu văn sinh động. Việc bồi dưỡng cho các em cần
phải đi từ dạng đơn giản đến dạng phức tạp hơn.
Để phát triển học sinh thành con người phát triển toàn diện thì ngoài kiến
thức cơ bản giáo viên cần định hướng cho các em phát huy hết khả năng, biết
sáng tạo và rèn luyện tính kiên trì không hấp tấp. Biết yêu và quý trọng cái đẹp
trong cuộc sống và biết tự hoàn thiện mình để sau này có thể đóng góp sức
mình xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp hơn.
2. KIẾN NGHỊ :
- Mỗi giáo viên phải tự giác,tích cực không ngừng tự học, tự bồi dưỡng để
năng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để giảng dạy ngày càng tốt hơn.
- Ngành giáo dục cần có kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn
nghiệp vụ cho giáo viên tiểu học để mỗi giáo viên ngày càng vững vàng về

chuyên môn để dạy học đạt hiệu quả cao hơn.
10


- Thường xuyên tổ chức đánh giá rút kinh nghiệm việc đổi mới công tác dạy
học để có biện pháp cải tiến, nâng cao phương pháp dạy học.
- Các cấp chính quyền tăng cường nhiều hơn nữa việc hỗ trợ kinh phí để tổ
chức cho giáo viên đi học thêm, đầu tư kinh phí vào việc mua sắm trang thiết bị
phục vụ cho việc dạy học.
- Các trường phải có cơ sở vật chất đảm bảo cho việc dạy – học của học
sinh như: Bàn, ghế, phòng học phải đúng quy cách, có đủ sách tham khảo phục
vụ cho giáo viên và học sinh.
- Cán bộ quản lí cần được đầu tư bồi dưỡng thường xuyên để cập nhật thông
tin cho phù hợp với sự phát triển của xã hội nói chung và ngành giáo dục nói
riêng.
Thực hiện sáng kiến này, tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ của mình
vào công tác giảng dạy phân môn Tập làm văn lớp 5 góp phần nâng cao chất
lượng bồi dưỡng học sinh viết câu văn, đoạn văn, bài văn sinh động của bậc
Tiểu học, tạo tâm lí hứng thú học tập cho học sinh, làm cơ sở vững chắc cho các
em tiếp thu kiến thức ở bậc học tiếp theo.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Tiểu học Trung Lý I và
Tôi xin chân thành cảm ơn các cô giáo khối 4,5 cùng tập thể học sinh khối 5
Trường Tiểu học Trung Lý I đã giúp tôi hoàn thành sáng kiến này.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân trong quá trình thực hiện ở
trường với số kinh nghiệm ít ỏi, hạn chế và thời gian nghiên cứu quá hạn hẹp
chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong sự góp ý của Hội đồng khoa
học Trường, Huyện giúp tôi hoàn thiện sáng kiến này tốt hơn và rất mong được
sự góp ý của các đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

`(Xác nhận)

Thanh Hoá, ngày 10 tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác

Lê Thị Hằng

11


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp dạy học Môn Tiếng Việt lớp 5- Nhà xuất bản Giáo dục.
2. Những bài văn hay lớp 5- Nguyễn Thị Kim Dung - Nhà xuất bản tổng
hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Dạy học lớp 5 theo chương trình tiểu học mới - Nhà xuất bản Hà Nội.
4. Tìm hiểu sách báo, văn hay qua mạng internet .
5. Một số bài văn hay lớp 5- Tài liệu bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 5.

12



×