Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Phương pháp rèn luyện đọc diễn cảm cho học sinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.76 KB, 17 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TRIỆU SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

PHƯƠNG PHÁP RÈN ĐỌC DIỄN CẢM
CHO HỌC SINH LỚP 3

Người thực hiện: Lại Vũ Lan Phương
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thị Trấn
SKKN thuộc lĩnh vực môn: Tiếng Việt

THANH HÓA NĂM 2017

1


MỤC LỤC
TT
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2
2.3
2.4


3
3.1
3.2

Nội dung
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIÊM
Cơ sở lý luận
Thực trạng
Các giải pháp
Hiệu quả của sáng kiến
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang
1
1
2
2
2
2
2
3
4

9
10
10
10
12

2


1. Mở đầu
1. 1. Lí do chọn đề tài:
Giáo dục bậc Tiểu học là một khoa học giáo dục khó nhất. Nó là nền móng
đầu tiên để giúp con người tồn tại và phát triển. Đặc biệt là môn Tiếng Việt có vị
trí quan trọng trong tất cả các phân môn ở trường, nhất là hình thành khả năng
giao tiếp, là cơ sở để phát triển tư duy của trẻ để tiếp thu các môn học khác.
Phân môn Tập đọc ở Tiểu học nói chung và ở lớp 3 nói riêng đặt ra một
nhiệm vụ quan trọng. Trong các giờ Tập đọc - học thuộc lòng, học sinh biết đọc
diễn cảm bài văn, bài thơ đã tạo cho các em sự say mê hứng thú và để lại một
vốn văn học đáng kể cho trẻ em. Cũng thông qua các bài văn, học sinh học được
hiểu thêm về các vùng miền của đất nước, hiểu được các truyền thống quý báu
của dân tộc.
Phân môn Tập đọc có tác dụng giúp học sinh yêu cái đẹp, rung cảm trước
cái đẹp trong thiên nhiên, cái đẹp trong xã hội, cái đẹp trong văn chương. Môn
này có thể rèn luyện cho học sinh tư duy trừu tượng và cả tư duy logic. Giờ tập
đọc ngoài việc dẫn dắt học sinh và cho học sinh tìm đại ý để phát triển óc tổng
hợp, tìm bố cục để phát triển óc phân tích. Ngoài ra học sinh còn được rèn luyện
óc tưởng tượng, phán đoán, ghi nhớ.
Phân môn Tập đọc không chỉ có nhiệm vụ trên mà còn kết hợp chặt chẽ
với chương trình Tiếng Việt. Qua các bài văn chọn lọc, học sinh vừa cảm thụ
được cái hay, cái đẹp, vừa học được cách sử dụng từ chính xác, cách đặt câu gọn

gàng sinh động, được luyện về nghĩa âm, chính tả, tập làm văn.
Ở bậc Tiểu học nói chung và lớp 3 nói riêng, phân môn Tập đọc có 2 yêu
cầu chính là:
- Rèn kĩ năng đọc.
- Giúp học sinh cảm thụ tốt bài văn, bài thơ.
Học phân môn Tập đọc, việc đọc và cảm thụ có quan hệ mật thiết với
nhau, gắn bó hỗ trợ đắc lực cho nhau. Cảm thụ tốt giúp cho việc đọc diễn cảm
tốt. Ngược lại, việc đọc diễn cảm tốt giúp cho việc cảm thụ bài văn thêm sâu
sắc. Thật vậy, học sinh có đọc thông thạo được văn bản và trên cơ sở đã hiểu nội
dung mới thể hiện được cảm xúc, có nghĩa là đã hiểu tường tận về nội dung và
nắm được ý nghĩa giáo dục của bài. Điều đó khẳng định rằng trong tiết dạy Tập
đọc lớp 3 việc luyện rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh là rất cần thiết.
Trong giờ học, học sinh biết đọc diễn cảm thì tiết học mới có hiệu quả cao và
mới thể hiện được tầm quan trọng của phân môn. [1]
Qua lớp học dưới, học sinh lớp 3 đã có điều kiện và kĩ năng để đọc diễn
cảm tốt. Đọc diễn cảm chính là nghệ thuật đọc thơ, văn.
Với tầm quan trọng đặc biệt của phân môn Tập đọc nói chung và việc rèn
luyện kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 3 nói riêng trong giờ Tập đọc, để
có kết quả cao, mỗi giáo viên phải có nhận thức rõ trong phương pháp giảng
dạy.
Trong quá trình dạy Tập đọc lớp 3, tôi nhận thấy chất lượng đọc diễn cảm
của học sinh còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân do đâu? Vì sao có tình trạng đó?

3


Mình phải làm gì để nâng cao được chất lượng đọc cho học sinh? Đó là băn
khoăn của bản thân và cũng chính là lí do tôi chọn đề tài này.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Hình thành và phát triển kỹ năng đọc đúng theo yêu cầu cho học

sinh.
- Góp phần phát triển năng lực tư duy cùng các môn học khác.
- Giúp học sinh hình thành nhận thức tình cảm, cảm nhận được cái hay
cái đẹp qua các bài đọc mà tác giả gửi gắm, nắm vững nội dung bài đọc.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh lớp 3C Trường Tiểu học Thị Trấn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:[2]
- Phương pháp làm mẫu.
- Phương pháp luyện tập theo mẫu.
- Phương pháp luyện tập củng cố.
- Phương pháp hỏi đáp (đặt câu hỏi để học sinh tự tìm và phát triển ra
từ, tiếng khó).
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm:
2.1. Cơ sở lí luận:
a) Tầm quan trọng của môn Tập đọc.[3]
Môn Tập đọc là một phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất của
nó là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên bốn kỹ
năng đọc đúng,đọc nhanh,đọc hiểu và đọc diễn cảm. Bốn kỹ năng này được hình
thành trong hai hình thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn
luyện đồng thời và hỗ trợ lẫn nhau.
Vì vậy tổ chức dạy Tập đọc cho học sinh chính là quá trình làm việc của
thầy và trò để thực hiện hai hình thức đọc này. Đọc thành tiếng là một hình thức
không thể thiếu được của dạy học này. Đối với học sinh đầu cấp thì đọc thành
tiếng còn là điều kiện cần thiết để rèn luyện tính tự giác trong quá trình đọc.
b) Khái niệm đọc diễn cảm: [3]
Đọc diễn cảm là một điều đặt ra khi đọc những văn bản, văn chương hoặc
các yếu tố của ngôn ngữ nghệ thuật. Đó là việc đọc thể hiện kỹ năng làm chủ
ngữ điệu , chỗ ngừng giọng, cường điệu giọng. Để biểu đạt đúng ý nghĩ và tình
cảm mà tác giả gửi gắm trong bài đọc đồng thời biểu hiện sự thông hiểu, cảm
thụ của người đọc đối với tác phẩm. Đọc diễn cảm thể hiện năng lực ở trình độ

cao và chỉ được thể hiện trên cơ sở đọc đúng và đọc lưu loát.
c) Tầm quan trọng của việc luyện nói, đọc diễn cảm: [3]
- Việc đọc diễn cảm trong các giờ học văn giúp cho việc phân tích văn học
trở nên sinh động và tính truyền cảm hơn, giúp cho việc cảm thụ tác phẩm văn
học và hiểu nghệ thuật viết văn một cách sâu sắc hơn, tạo ra sức hấp dẫn có tác
dụng trong việc giảng dạy văn học đạt được kết quả toàn diện .
- Trong quá trình dạy tiếng mẹ đẻ, việc đọc diễn cảm làm cho học sinh
thấy rõ mặt âm thanh của ngôn ngữ, giúp cho học sinh hiểu được mối quan hệ
giữa ngữ điệu và kết cấu cú pháp, nâng cao trình độ năng lực nói cho học sinh.

4


- Việc đọc diễn cảm cũng góp phần hình thành thế giới quan của học sinh
và là phương tiện giáo dục đạo đức, thẩm mỹ.
Ở bậc tiểu học người ta chú ý rèn luyện bốn kỹ năng cho học sinh trong
quá trình học Tiếng Việt. Vì vậy việc luyện nói , đọc diễn cảm càng quan trọng
và cần thiết đối với học sinh. Thông qua quá trình luyện tập chúng ta sẽ hình
thành và rèn luyện kỹ năng đọc và kỹ năng nói cho các em.
2.2. Thực trạng:
2.2.1. Đặc điểm tình hình lớp:
- Năm học 2016 – 2017 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 3C và dạy môn
Tiếng Việt, Toán. Sĩ số học sinh lớp 3C : 33 em . Trong đó nam : 18 em , nữ : 15
em.
- Thuận lợi :
+ Các em đều có đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập.
+ Hầu hết các em đọc to, rõ ràng, trôi chảy.
- Khó khăn;
+ Nhận thức của học sinh về tầm quan trọng của môn học chưa đúng, các
em thích học môn Toán hơn Tiếng việt nên nhiều em còn ngại đọc bài, chưa có ý

thức tự rèn đọc diễn cảm mà chỉ mới mang tính chất chiếu lệ, đối phó.
+ Do vốn từ ngữ của các em còn quá ít ỏi, chưa hiểu hết nghĩa các từ, cụm
từ trong bài đọc nên dẫn đến khi đọc bài, các em ngắt nghỉ chưa đúng chỗ.
+ Giọng đọc của học sinh còn ấp úng; Nhiều em chưa nắm được nội dung
của bài đọc nên khi đọc, tôi thấy các em chưa bộc lộ được cảm xúc của bài đọc
qua giọng đọc hoặc nếu có thì chỉ mang tính chất bắt chước giáo viên hoặc bạn
bè.
2.2.2. Thực trạng đọc diễn cảm của lớp:
- Thực trạng chung:
Trong quá trình dạy tập đọc lớp 3, cụ thể là lớp 3C của tôi chủ nhiệm, tôi
nhận thấy chất lượng đọc diễn cảm của học sinh còn có phần hạn chế: Học sinh
đã biết đọc to, rõ ràng văn bản, biết ngắt nghỉ nhưng chưa hợp lí. Chưa biết thể
hiện giọng đọc, chưa nắm được nội dung bài, không nêu được ý chính của bài.
- Kết quả thực trạng:
Từ những thực trạng trên, tôi đã kiểm tra tình hình thực tế ban đầu khi
chưa áp dụng kinh nghiệm bằng cách kiểm tra và khảo sát chất lượng, kết quả
thu được như sau:
Tổng số học sinh

Đọc nhỏ, ấp úng

Đọc to, rõ, lưu loát

Đọc diễn cảm

33 em

7 em = 21,2%

22 em = 66,7%


4 em = 12,1%

- Nguyên nhân :
+ Học sinh chưa hiểu được nội dung của bài đọc.
+ Chưa xác định được từ ngữ gợi tả, gợi cảm.

5


+ Chưa biết cách xác định vị trí cần ngắt ở câu dài (bài văn , câu chuyện),
câu thơ (bài thơ).
+ Chưa biết thể hiện phân biệt lời người dẫn chuyện và lời nhân vật.
Ngày nay xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu đòi hỏi về tri thức con
người ngày càng cao, trong đó ngôn ngữ nói và viết là vô cùng cần thiết cho mỗi
người. Mỗi thành công không phải tự nhiên mà có được mà phải trải qua một
quá trình rèn luyện kiên trì ngay từ đầu, trước thực tế đó tôi luôn băn khoăn và
đặt ra câu hỏi cho bản thân mình là phải làm gì? và làm như thế nào? Tôi nghĩ
rằng nếu cứ để tình trạng này kéo dài mãi thì chất lượng môn Tiếng Việt ngày
càng kém đi. Để rèn đọc diễn cảm cho học sinh, tôi mạnh dạn đưa ra một số giải
pháp sau:
2.3. Các giải pháp:
2.3.1. Phân loại học sinh:
Sau khi nhận lớp, tôi đã cho lớp ổn định chung về cách tổ chức lớp. Qua
tìm hiểu điều tra để nắm chắc đối tượng học sinh về lựa chọn, đặc biệt là về kĩ
năng đọc và phân loại học sinh theo ba đối tượng:
- Đối tượng 1: Học sinh biết đọc diễn cảm.
- Đối tượng 2: Học sinh mới chỉ biết đọc to, rõ, lưu loát.
- Đối tượng 3: Học sinh đọc nhỏ, lí nhí, ấp úng.
Dựa vào đó tôi kết hợp với phụ huynh học sinh định hướng cho việc học tập,

giao tiếp của các em khi ở nhà. Ở lớp, tôi đã sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh,
những em đọc yếu ngồi cạnh những em đọc khá, đọc tốt để đôi bạn cùng tiến.
Tôi tiến hành công việc tiếp theo là giới thiệu cấu tạo chương trình môn Tập đọc
để các em nắm được các chủ đề chính trong từng học kì và cả năm học. Đồng
thời nêu tầm quan trọng, yêu cầu cơ bản về việc rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm
giúp các em cảm thụ bài văn, bài thơ của từng chủ đề.
2.3.2. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài và nắm chắc ý
nghĩa của tác phẩm :
- Muốn đọc diễn cảm một tác phẩm trước hết đòi hỏi các em cần phải biết
đọc đúng, đọc to, lưu loát và nắm được nội dung, ý nghĩa của tác phẩm đó. Vì
khi đọc đúng, các em sẽ phát âm chính xác các từ ngữ, biết ngắt nghỉ giọng đúng
chỗ trong từng câu, từng đoạn để giúp người nghe hiểu đúng nghĩa các từ ngữ
cũng như các câu văn của bài đọc. Còn khi các em nắm được nội dung, ý nghĩa
của bài đọc sẽ giúp các em biết nhấn giọng các từ ngữ biểu cảm và tự xác định
được giọng đọc phù hợp cho từng đoạn hay cả bài đọc đó. Hơn nữa có hiểu thấu
đáo nội dung và ý nghĩa của bài đọc thì các em mới có những cảm xúc thức, để
truyền đạt được những tâm tư tình cảm hay ý đồ của tác giả được ẩn chứa trong
từng câu, từng chữ của bài dọc đến với người nghe. Vì thế đây là yếu tố rất quan
trọng, là cơ sở ban đầu của việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho các em.[4]
+ Việc giúp các em luyện đọc đúng, đọc to và lưu loát tôi thực hiện chủ
yếu ở bước luyện đọc.
+ Việc giúp các em nắm nội dung, ý nghĩa bài đọc được tiến hành chủ
yếu ở bước tìm hiểu bài. Sau khi hướng dẫn các em khai thác nội dung các câu
hỏi trong sách giáo khoa, tôi đã nêu thêm một vài câu hỏi mở để giúp các em
hiểu sâu sắc hơn về ý nghĩa của bài đọc đó.
6


2.3.3. Hướng dẫn học sinh luyện đọc diễn cảm :
Đọc diễn cảm (còn gọi là đọc hay) là một hình thức bộc lộ cảm thụ văn bản.

Qua đọc diễn cảm, người giáo viên sẽ đo được mức độ cảm thụ của học sinh. Vì
thế có thể nói : “ Đọc diễn cảm là một kĩ xảo của quá trình đọc ’’.
Luyện đọc diễn cảm cho học sinh tức là hướng dẫn cho các em khi đọc biết
cách đọc đúng giọng vui buồn, giận giữ, trang nghiêm… phù hợp với từng ý của
bài đọc, phù hợp với kiểu câu, thể loại, đọc có cảm xúc cao, biết nhấn giọng ở từ
ngữ biểu cảm, gợi tả, phân biệt lời nhân vật, lời tác giả. Để đọc diễn cảm, học
sinh phải làm chủ được chỗ ngắt giọng, làm chủ được tốc độ đọc (đọc nhanh,
chậm, chỗ ngân hay là việc dãn nhịp đọc), làm chủ được cường độ giọng (đọc to
hay nhỏ, nhấn giọng hay không), làm chủ ngữ điệu (độ cao của giọng đọc, lên
giọng hay hạ giọng). Muốn thể hiện tốt giọng đọc diễn cảm cho một bài đọc hay,
một đoạn trong bài đọc thì người giáo viên cần căn cứ vào nội dung, phong cách
đọc để dẫn dắt, gợi mở học sinh tìm ra cách đọc và tập thể hiện bằng giọng đọc
của chính mình.[4]
a. Hướng dẫn học sinh đọc câu chuyện :
Với thể loại này, khi hướng dẫn đọc diễn cảm thì trước hết tôi giúp các em
phân biệt rõ giữa lời kể và lời các nhân vật, giữa các lời nhân vật với nhau , phân
biệt nhân vật chính- phụ để các em thể hiện tốt lời nói, ngữ điệu theo từng tuyến
nhân vật nhằm tăng giá trị biểu cảm của tác phẩm. Đồng thời, tổ chức đọc diễn
cảm theo cách phân vai kết hợp với sự phụ trợ của nét mặt, điệu bộ, cử chỉ... cho
từng nhân vật. Vì vậy trong quá trình rèn đọc, tôi yêu cầu các em nhấn giọng các
từ ngữ biểu cảm, nhận biết được tính cách của từng nhân vật để xác định giọng
đọc phù hợp với từng đối tượng nhân vật trong câu chuyện. Xác định câu dài và
cách ngắt nghỉ ở câu dài dựa vào cấu trúc câu. Cách đọc lời đối thoại, câu hỏi,
câu cảm.
Ví dụ 1: [5]
Khi dạy bài “Cậu bé thông minh” - Tiếng Việt 3 - tập 1.
Giáo viên yêu cầu học sinh nêu:
- Giọng đọc toàn bài.
- Các từ ngữ gợi tả, gợi cảm để đọc nhấn giọng.
- Xác định giọng của nhân vật, câu dài.

- Cách ngắt câu dài.
*Bài văn được viết theo thể kể chuyện - kể về một cậu bé thông minh, tài
giỏi, nhanh trí. Tình tiết câu chuyện hấp dẫn, sinh động. Khi đọc, học sinh cần
làm rõ những chi tiết đó bằng cách đọc nhấn giọng vừa phải ở các từ ngữ.
“ầm ĩ”, “tìm được”, “trọng thưởng”
Đặc biệt những câu đối thoại giữa Đức Vua và cậu bé. Giọng Đức Vua
hách dịch,quát tháo. Ngữ điệu đọc phải toát lên vẻ ngộ nghĩnh, ngây thơ nhưng
thể hiện sự thông minh của cậu bé.
“Cậu bé kia, sao dám đến đây làm ầm ĩ?”
Và câu trả lời hồn nhiên vô tư của cậu bé: “Muôn tâu Đức Vua - cậu bé
đáp:
- Bố con mới đẻ em bé, bắt con đi xin sữa cho em”.
Vua quát:
7


- Thằng bé này láo, dám đùa với trẫm! Bố ngươi là đàn ông/ thì đẻ sao
được!
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc câu hỏi và câu cảm trong bài tập đọc thật
tốt.
- Với câu hỏi cần đọc cao giọng ở cuối câu, đồng thời nhấn giọng “ầm ĩ”.
- Với câu cảm, giáo viên phải hướng dẫn học sinh lưu ý sự khác nhau khi
đọc câu cảm thứ nhất.
“-Thằng bé này láo, dám đùa với trẫm!”
(Thể hiện sự hách dịch của nhà vua).
Với câu thứ hai.
“Bố ngươi là đàn ông / thì đẻ sao được!”
(Khi đọc gần như là một câu hỏi - tiếng “được” đọc cao giọng).
b. Hướng dẫn học sinh đọc bài văn xuôi:
Hướng dẫn các em xác định về sắc thái giọng đọc, biết lựa chọn cách

ngắt nghỉ giọng và nêu được những chỗ cần nhấn giọng phù hợp trong từng câu
của đoạn. Tùy theo nội dung từng câu hay cả đoạn để lựa chọn các yếu tố trên sao
cho phù hợp. Đối với bài văn có nhân vật thì cần thể hiện giọng nhân vật dựa vào
bản tính của nhân vật.
Đối với những bài văn xuôi, khi đọc ngoài việc tìm những dấu câu đặc
biệt (câu hỏi, câu cảm) để hướng dẫn học sinh đọc giáo viên còn phải chú trọng
cách nghỉ hơi ở dấu chấm, ngắt hơi ở chấm phẩy, dấu hai chấm. Đặc biệt phải
biết ngắt hơi ở chỗ không có dấu câu nhưng đó là chỗ tách ý.
Ví dụ 2: Khi dạy bài: “Cửa Tùng” - Tiếng Việt 3 - tập 1.[5]
Giáo viên yêu cầu học sinh nêu:
- Giọng đọc toàn bài.
- Các từ ngữ gợi tả, gợi cảm để đọc nhấn giọng.
- Xác định câu dài.
- Cách ngắt câu dài.
“Thuyền chúng tôi đang xuôi dòng Bến Hải//- con sông in đậm dấu ấn
của một thời chống Mĩ.// (nghỉ hơi sau dấu gạch nối)
Bình minh/ mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối / chiếu xuống mặt biển/
nước biển nhuộm màu hồng nhạt//. Trưa,/ nước biển xanh lơ/ và khi chiều tà thì
đổi sang màu xanh lục//.
Cần đọc với giọng nhẹ nhàng, chậm rãi, tràn đầy cảm xúc ngưỡng
mộ,ngắt đúng, nhấn giọng ở từ ngữ gạch dưới để thấy được sự thay đổi sắc màu
của nước biển trong một ngày.
c.Hướng dẫn học sinh đọc bài thơ:
Ngoài sắc thái giọng đọc và cách nhấn giọng, tôi thường hướng dẫn học
sinh biết lựa chọn nhịp điệu cho từng dòng thơ, câu thơ trong các khổ thơ.
Tùy theo từng thể loại thơ mà tôi hướng dẫn học sinh cách đọc sao cho
đúng nhịp câu thơ.
Rủ nhau/ xem cảnh Kiếm Hồ (2/4)
Xem cầu Thê Húc/ xem chùa Ngọc Sơn (4/4)
Đài Nghiên/Tháp Bút/chưa mòn( 2/2/2)

Hỏi ai xây dựng/ nên non nước này (4/4).//
8


(Cảnh đẹp non nước- Tiếng việt 3)
Đường vô xứ Nghê /quanh quanh,// (4/2)
Non xanh nước biếc/ như tranh họa đồ.// (4/4)
Đồng Tháp Mười / cò bay thẳng cánh/ (3/4)
Nước Tháp Mười / lóng lánh cá tôm.// (3/4 )
(Cảnh đẹp non sông- Tiếng việt 3)
Thường thì các bài thơ được sáng tác theo thể thơ lục bát mang một âm điệu
mượt mà, tình cảm của thể thơ truyền thống dân tộc. Tuy vậy cũng phải dựa vào
các dòng cụ thể để ngắt dòng cho đúng. Chỉ có ngắt nhịp đúng câu thơ thì ý
nghĩa đoạn thơ mới được bộc lộ cho người nghe thấy được vẻ đẹp của đất nước
Việt Nam cụ thể là vẻ đẹp của Hồ Gươm ở thủ đô Hà Nội.
Trong chương trình cải cách có rất nhiều bài thơ thuộc thể thơ 4 chữ. Nên
việc luyện đọc thể thơ này cũng rất cần thiết.
Ví dụ 3: Bài “Anh Đom Đóm” (Tiếng Việt - lớp 3) [5]
Mặt trời gác núi
Từng bước, từng bước
Bóng tối lan dần
Vung ngọn đèn lồng
Anh Đóm chuyên cần
Anh Đóm quay vòng
Lên đèn đi gác.
Như sao bừng nở.
Theo làn gió mát
Gà đâu rộn rịp
Đóm đi rất êm
Gáy sáng đàng đông

Đi suốt một đêm
Tắt ngọn đèn lồng
Lo cho người ngủ.
Đóm lui về nghỉ.
+ Bài thơ “Anh Đom Đóm” thuộc thể thơ 4 chữ mang âm hưởng của một
bài đồng dao vui nhộn, tươi mát, hồn nhiên. Khi đọc, học sinh cần thể hiện âm
điệu của một bài ca tuổi thơ nhí nhảnh, tình cảm đối với các con vật của bà con
nông dân.
Việc đọc diễn cảm thường gắn liền với ngữ điệu nên tôi thường dùng cử chỉ,
nét mặt, để làm tăng thêm tính gợi cảm của câu văn thân mật, vui vẻ, ngạc
nhiên, khâm phục.
Một tờ giấy trắng
Thêm tờ xanh nữa
Cô gấp cong cong
Cô cắt rất nhanh
Thoắt cái đã xong
Mặt nước dập dềnh
Chiếc thuyền xinh quá !
Quanh thuyền sóng lượn.
Nhấn giọng những từ thể hiện sự nhanh nhẹn, khéo léo, mầu nhiệm của
bàn tay cô giáo. Giọng đọc chậm lại, đầy thán phục ở hai dòng thơ cuối:
Biết bao điều lạ
Từ bàn tay cô.
Đoạn thơ có nhiều ý hóm hỉnh, vui vẻ cần đọc nhấn giọng một số từ ngữ
kèm theo cử chỉ nét mặt để thể hiện sắc thái đó.
+ Vui tươi, hồn nhiên như khi dạy đọc bài “Cùng vui chơi”
Ngày đẹp lắm/ bạn ơi/
Nắng vàng trải khắp nơi/
Chim ca trong bóng lá
Ra sân/ ta cùng chơi.//

9


Quả cầu giấy,/ xanh xanh/
Qua chân tôi,/ chân anh//
Bay lên/ rồi lộn xuống//
Đi từng vòng quanh quanh.//
+ Với bài: “Chú ở bên Bác Hồ” cần đọc với giọng trầm lắng pha chút
trang nghiêm. Kết hợp với cách ngắt nhịp, nhấn giọng kéo dài ở một số từ và
cao giọng ở cuối câu hỏi. Để tạo nên âm hưởng biểu lộ sự xúc động niềm
thương nhớ của Nga và bố mẹ trước sự hi sinh của người chú.
Chú ở đâu, ở đâu?
Trường Sơn dài dằng dặc?
Trường Sa đảo nổi, chìm?
Hay Kon Tum, Đắc Lắc?
Mẹ đỏ hoe đôi mắt
Ba ngước lên bàn thờ
Đất nước không còn giặc
Chú ở bên Bác Hồ.
Vì vậy khi học sinh luyện đọc giáo viên phải tạo được trong lớp một không
khí thoải mái để học sinh dễ trực cảm với bài văn, có tâm trạng chờ đợi và chú ý
nghe giáoviên đọc và cũng từ đó các em có thể học tập và bắt chước.
2.3.4. Tổ chức các hình thức rèn đọc diễn cảm cho học sinh :
Đối với học sinh tiểu học , bất kì học môn học nào hoặc tham gia một
phong trào gì đó thì tâm lí các em đều thích được bộc lộ, thích khen và luôn có
tính thi đua. Vì thế trong quá trình lên lớp, để giúp các em luyện đọc diễn cảm
có hiệu qủa, đảm bảo thời gian và tạo ra cho tất cả các em đều có cơ hội bộc lộ
khả năng của chính mình, tôi đã thường xuyên tổ chức các hình thức đọc diễn
cảm khác nhau. Và tùy theo từng bài , từng thể loại để tổ chức cho các em đọc
diễn cảm một đoạn hay cả bài. Cụ thể :

- Văn xuôi và thơ :
+ Đối với những bài mà giữa các đoạn có độ dài, độ khó tương đương
nhau thì tôi có thể cho các em tự chọn đoạn theo ý thích để luyện đọc diễn cảm.
Trong quá trình luyện đọc, tôi thường tổ chức hình thức đọc cá nhân hoặc đọc
theo nhóm ngẫu nhiên có cùng đoạn đọc.
+ Đối với các bài có đoạn dễ - đoạn khó, đoạn ngắn – đoạn dài thì tôi sẽ ấn
định đoạn cần luyện đọc diễn cảm cho các em (thường là đoạn tiêu biểu nhất
trong bài) . Trường hợp này tôi thường tổ chức các hình thức đọc giống như quy
trình nêu trên, gồm : cá nhân đọc mẫu, đọc theo nhóm đôi, thi đọc trước lớp.
Nếu em học sinh đó đọc mẫu chưa đạt yêu cầu thì tôi sẽ đọc lại đoạn đó để định
hướng cho tất cả các em có giọng đọc đúng và phù hợp với đoạn trên.
- Truyện:
Nếu nội dung của câu chuyện đó ngắn thì tôi hướng dẫn các em luyện đọc
cả bài. Ngược lại câu chuyện đó dài thì tôi chọn đoạn có lời thoại hay, nhiều câu
văn dài, khó để hướng dẫn các em đọc diễn cảm và tổ chức hình thức đọc theo
phân vai.

10


Tuy nhiên không phải bài tập đọc nào tôi cũng tổ chức đọc diễn cảm sau
khi các em đã luyện đọc đúng và tìm hiểu bài. Có những bài tôi đã định hướng
cách đọc diễn cảm cho các em ngay ở phần luyện đọc đúng. Qua các hình thức
tổ chức trên nhằm phát huy tính độc lập (đọc cá nhân), tính hợp tác (đọc theo
nhóm, đọc phân vai) và tính thi đua (thi đọc trước lớp) trong học sinh; đồng thời
giúp tôi phân loại các đối tượng đọc một cách dễ dàng, từ đó tôi tiếp tục có kế
hoạch bồi dưỡng, giúp các em học ngày càng tiến bộ nhằm nâng cao chất lượng
đọc diễn cảm nói riêng và chất lượng giảng dạy nói chung. [4]
* Trong khi rèn đọc diễn cảm tôi thường xuyên chú ý đến:
- Khen ngợi những học sinh đọc to rõ ràng, mạch lạc, ngắt nghỉ đúng, biết

nhấn giọng ở những từ ngữ gợi tả gợi cảm. Đọc đúng giọng của nhân vật.
- Những học sinh rụt rè nhút nhát, tôi động viên khuyến khích, không gắt
gỏng để các em không bị luống cuống.
- Đối với những học sinh chưa tập trung cao trong giờ học, các em còn bị
phân tán tư tưởng, tôi thường để ý và nhắc nhở thỉnh thoảng chỉ định các em đọc
tiếp.
- Đối với học sinh đọc còn ấp úng, ngoài việc hướng dẫn đọc dứt khoát từng
từ, cụm từ, với câu dài cho học sinh ngắt hơi đúng chủ đề ra yêu cầu rèn đọc ở
nhà, kiểm tra lại những yêu cầu đã đề ra đối với học sinh, việc này phải được
tiến hành thường xuyên không được ngắt quãng.
Tóm lại, sau mỗi giờ Tập đọc, tôi thường kiểm tra chất lượng đọc của học
sinh thông qua đọc thành tiếng xem các em đã đọc diễn cảm chưa.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến:
Qua quá trình giảng dạy đến giữa học kì II năm học 2016 - 2017, tôi áp dụng
những biện pháp rèn đọc như đã nêu trên. Sau đó tiến hành khảo sát và có số
liệu như sau:
Lớp 3C
Sĩ số: 33 học sinh
Số học sinh

Đọc nhỏ, ấp úng Đọc to, rõ ràng, lưu loát

Đầu năm

7 em = 21,2 %

22 em = 66,7%

Giữa học kì II


1 em = 3,0%

22 em = 66,7 %

Đọc diễn cảm
4 em = 12,1%
10em =30,3%

Qua kết quả khảo sát tôi rất phấn khởi thấy trong các giờ tập đọc học sinh
say mê học và lớp học sôi nổi, kĩ năng đọc diễn cảm được nâng cao rõ rệt. Có
nhiều em đầu năm học đọc nhỏ, chưa trôi chảy, đến giữa học kì II các em đã đọc
to, rõ ràng, lưu loát hơn. Những em học khá trở lên đã đọc diễn cảm bài văn theo
đúng yêu cầu đề ra. Tuy kết quả chưa được như ý muốn nhưng đó cũng là thành
công bước đầu nghiên cứu, tìm ra biện pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh của
mình.

11


3. Kết luận và kiến nghị:
3.1.Kết luận:
Trên đây là một vài phương pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 3, để đạt
được những kết quả trên qua kinh nghiệm giảng dạy tôi tự rút ra một số kết luận
như sau:
- Muốn rèn cho học sinh đọc diễn cảm tốt trước hết người thầy (cô) phải có
nghiệp vụ sư phạm tốt, đặc biệt đọc mẫu của thầy(cô) phải chuẩn, hay, có sức
cuốn hút học sinh vì trong khâu rèn đọc thì việc đọc mẫu của thầy (cô) có ảnh
hưởng rất lớn đối với học sinh. Các em sẽ theo dõi lắng nghe thầy đọc và coi đó
là chuẩn mực để bắt chước so sánh đánh giá với giọng đọc của mình. Chính vì
vậy thầy (cô) cũng phải có sự chuẩn bị chu đáo, mỗi từ ngữ thầy (cô) đọc, nói

đều phải chuẩn mực.
- Trong mỗi giờ Tập đọc, người thầy phải hướng dẫn cách đọc cho học sinh
thật tỉ mỉ từng từ ngữ, từng câu văn, từng đoạn văn, phải kiên trì uốn nắn, sửa
chữa kịp thời tuỳ theo từng đối tượng học sinh thật tận tình chu đáo.
- Thực tế cho thấy sách giáo khoa Tiếng Việt, sách giáo viên và sách hướng
dẫn là những bộ tài liệu tham khảo có giá trị. Tìm hiểu phần hướng dẫn chung
trong sách đa số giáo viên đã nắm được cơ bản của phương pháp giảng dạy mới,
đi sâu vào từng bài cụ thể thì sự lúng túng và vấp váp lại không ít. Do vậy nắm
vững sách, hiểu ý đồ của người biên soạn là quan trọng song chưa đủ còn đòi
hỏi đến vai trò chủ động sáng tạo và ứng xử linh hoạt đối với từng đối tượng học
sinh khác nhau mới đem lại hiệu quả cao.[6]
- Giáo viên phải giàu lòng yêu nghề mến trẻ, nhiệt tình gương mẫu trong
phương pháp soạn giảng, phát hiện kịp thời đọc sai, đọc ngọng trong học sinh.
Giáo viên phải kiên trì uốn nắn, sửa chữa cách phát âm sai cho học sinh thật tận
tình chu đáo.
- Luôn động viên khuyến khích học sinh khi các em có tiến bộ. Rèn cho
các em đọc trước đám đông, tổ chức thi kể chuyện, đọc diễn cảm trong lớp.
- Phối hợp nhịp nhàng giữa phân môn Tập đọc với các phân môn khác
như: Tập làm văn, kể chuyện, luyện từ và câu, ….. để phát huy kĩ năng đọc diễn
cảm cho học sinh.
3. 2. Kiến nghị:
Để việc đọc của học sinh tiếp tục được nâng cao, tôi xin đưa ra một vài ý
kiến đề xuất với các cấp lãnh đạo như sau:
* Với nhà trường:
- Cần quan tâm thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo
viên tiểu học.
- Tổ chức hội giảng sẽ khuyến khích giáo viên đầu tư trí tuệ cho tiết dạy
và có dịp thể hiện mình.
- Hội thảo dạy từng phần để giáo viên nắm chắc phương pháp giảng dạy.
- Có đầy đủ đồ dùng dạy học cho giáo viên.

* Với giáo viên:
- Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn cần đưa các phương pháp dạy các
môn học để thảo luận.
12


- Cần lựa chọn các phương pháp dạy học phù hợp với từng bài.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ trong việc rèn đọc diễn cảm cho học
sinh trong giờ Tập đọc lớp 3, trong thực tế giảng dạy mỗi người đều có suy nghĩ,
kinh nghiệm riêng của mình nhằm mục đích cuối cùng là nâng cao chất lượng
dạy và học. Có thể đề tài của tôi còn nhiều thiếu sót và hạn chế, tôi mong được
các cấp trên cùng các bạn đồng nghiệp góp ý kiến bổ sung để quá trình dạy học
của tôi được hoàn thiện hơn nhằm góp phần nhỏ bé cho sự nghiệp giáo dục phát
triển.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Thanh Hóa, ngày 5 tháng 6 năm 2017
ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
Hiệu trưởng
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết
(Đã kí)
(Đã kí)
Lê Đình Du

Lại Vũ Lan Phương

13



Ghi chú
- [1]: Ở mục 1.1: Đoạn ‘ Giáo dục bậc Tiểu học...tầm quan trọng của phân
môn” tác giả tham khảo trên mạng internet; đoạn tiếp theo là do tác giả tự
viết.
- Ở mục 1.2; 1.3: Do tác giả tự viết.
- [2]: Ở mục 1.4 tác giả tham khảo sách chuẩn KTKN.
- [3]: Ở mục 2.1: Tác giả tham khảo tài liệu Luyện tập về cảm thụ văn học
ở Tiểu học.
- Ở mục 2.2; 2.3.1: Do tác giả tự viết.
- [4]: Ở mục 2.3.2 và mục 2.3.3: Đoạn “ Đọc diễn cảm... đọc của chính
mình’’. Ở mục 2.3.4: Đoạn “ Đối với học sinh tiểu học... chất lượng giảng
dạy nói chung” tác giả tham khảo của giáo viên Đinh Thị Minh Phượng;
các đoạn tiếp theo là do tác giả tự viết.
- [5] : Ở mục 2.3.3 phần ví dụ 1,2,3 tác giả tham khảo ở sách giáo khoa và
sách giáo viên lớp 3- tập 1,2. Còn lại do tác giả tự viết.
- Ở mục 2.4: Do tác giả tự viết.
- [6]: Ở mục 3.1: Tác giả tham khảo tài liệu“ Phương pháp dạy học môn
Tiếng Việt ở tiểu học” .
- Ở mục 3.2: Do tác giả tự viết.

Tài liệu tham khảo.
[1]. Tham khảo trên mạng internet. WebsiteeLib. Vn bộ sưu tập SKKN.
[2]. Yêu cầu cơ bản về kiến thức kỹ năng các môn học lớp 3.
[3]. Luyện tập về cảm thụ văn học ở Tiểu học.
[4]. Tham khảo SKKN của giáo viên Đinh Thị Minh Phượng.
[5]. - Sách giáo khoa Tiếng Việt tập1, tập 2 – lớp 3.
- Sách giáo viên Tiếng Việt tập1, tập 2 - lớp 3.
[6]. Phương pháp dạy học môn Tiếng Việt ở tiểu học của Phó tiến sĩ Lê
Phương Nga – Đỗ Xuân Hảo – Lê Hữu Tình.

-

14


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TRIỆU SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

PHƯƠNG PHÁP RÈN ĐỌC DIỄN CẢM
CHO HỌC SINH LỚP 3

Người thực hiện: Lại Vũ Lan Phương
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thị Trấn
SKKN thuộc lĩnh vực môn: Tiếng Việt

THANH HÓA NĂM 2017
15


MỤC LỤC
TT
1
1.1
1.2
1.3
1.4

2
2.1
2.2
2.3
2.4
3
3.1
3.2

Nội dung
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIÊM
Cơ sở lý luận
Thực trạng
Các giải pháp
Hiệu quả của sáng kiến
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang
1
1
2
2

2
2
2
3
4
9
10
10
10
12

16


17



×