Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tích cực hoá các họạt động học tập của học sinh lớp 2 trong giờ kể chuyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.11 KB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TP THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÍCH CỰC HÓA CÁC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
LỚP 2 TRONG GIỜ KỂ CHUYỆN

Người thực hiện

: Đặng Thị Thu Hương

Chức vụ

: Giáo viên

Đơn vị công tác

: Trường Tiểu học Điện Biên 1

SKKN thuộc lĩnh vực ( môn): Tiếng Việt

THANH HÓA NĂM 2016
1


1.MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục tiểu học hiện nay là: hình thành cho học
sinh những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về tình cảm trí
tuệ, thể chất và kĩ năng cơ bản để tiếp tục học tiếp trung học cơ sở. Vậy muốn
thực hiện được mục tiêu đó, nhất thiết chúng ta phải dạy đủ các môn học như đã


quy định.Trong đó, Tiếng Việt là một môn học rất quan trọng trong bậc học, nó
được coi là công cụ để học tốt các môn học khác.Tiếng Việt gồm nhiều phân
môn mà Kể chuyện là một bộ phận của nó. Các phân môn ấy có quan hệ chặt
chẽ với nhau, bổ sung kiến thức cho nhau, học tốt phân môn này sẽ góp phần
học tốt các phân môn khác.
Với Kể chuyện, khi nói đến vị trí, vai trò của nó, trước hết phải nói nó là
một món ăn tinh thần không thể thiếu được trong cuộc sống, đặc biệt là với trẻ
nhỏ. Nó bồi dưỡng tâm hồn, phát triển tư duy, ngôn ngữ, rèn kĩ năng nghe, nói,
kể và khả năng giao tiếp cho trẻ. Thông qua giờ Kể chuyện, từ những câu
chuyện thuộc chủ đề thể loại trong kho tàng văn học Việt Nam và thế giới, các
em sẽ được cung cấp thêm những kiến thức văn học, cuộc sống, được rèn luyện
khả năng ghi nhớ, óc tưởng tượng, khả năng tư duy, lô gíc chính xác, khả năng
chú ý, khả năng thông hiểu ngôn ngữ, tăng vốn từ, rèn kỹ năng nói và kể chuyện
trước đám đông một cách tự nhiên, thành thạo, sáng tạo với phong cách kể của
mình. Vì vậy, các em đón nhận những câu chuyện kể một cách tự tin, với niềm
say mê. Qua giờ Kể chuyện, các em không chỉ nhận thức thế giới bằng trí tuệ
mà cả trái tim luôn luôn mơ ước khát khao vươn tới cái đẹp của cuộc sống.
Thể theo phương pháp tích cực hoá các hoạt động học tập của học sinh,
sách giáo khoa Tiếng Việt 2 không trình bày kiến thức như những kết quả có
sẵn, mà xây dựng hệ thống câu hỏi, tranh vẽ để hướng dẫn học sinh thực hiện
các hoạt động nhằm chiếm lĩnh kiến thức, phát triển kĩ năng sử dụng Tiếng Việt,
óc tư duy, sáng tạo của học sinh. Đó là tích cực hoá các hoạt động học tập của
học sinh khi dạy phân môn Kể chuyện nói riêng cũng như môn Tiếng Việt nói
chung. Từ việc hình thành, rèn luyện kĩ năng nghe, phát triển các năng lực ngôn
ngữ, năng lực diễn đạt, sáng tạo trong lời kể, đến bồi dưỡng kiến thức, giáo dục
tư tưởng tình cảm cho các em... năng lực tư duy, mở rộng tâm hồn, rèn luyện
thói quen nghiêm túc, xây dựng thói quen hứng thú đọc sách, chú ý quan sát
tranh, chú ý nghe bạn kể và nhớ được nội dung câu chuyện kể sao cho sinh
động, hấp dẫn, đạt kết quả cao trong giờ kể chuyện quả thật không đơn giản. Nó
đòi hỏi người giáo viên phải tìm tòi, cải tiến phương pháp sao cho có nhiều hình

thức phù hợp, lôi cuốn học sinh say mê hứng thú học tập, không buồn tẻ, nhàm
chán...
Vậy lựa chọn phương pháp dạy học sao cho phù hợp từ đó tạo ra hứng thú
học tập, kích thích học sinh tự giác, say mê học tập, bản thân mỗi giáo viên phải
luôn tích cực hoá các hoạt động học tập của các em để phù hợp với nội dung
2


chương trình sách giáo khoa mới. Đó cũng là lý do tôi chọn đề tài:“ Tích cực
hoá các hoạt động học tập của học sinh lớp 2 trong giờ Kể chuyện”.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Tìm hiểu về thực trạng dạy và học phân môn Kể chuyện lớp 2 ở trường
tiểu học.Từ đó, tôi đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đối với
việc dạy và học phân môn Kể chuyện ở lớp 2.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Trong đề tài này, tôi nghiên cứu về các hình thức tổ chức; các phương
pháp dạy học nhằm tích cực hóa các hoạt động học tập của học sinh trong giờ kể
chuyện lớp 2; một số biện pháp để rèn kĩ năng cho giáo viên và cho học sinh.
Đó là:
Về hình thức dạy học: Kể chuyện theo tranh; kể chuyện theo dàn ý cho
sẵn; kể phân vai, diễn lại một đoạn hoặc cả câu chuyện và hướng dẫn học sinh
tóm tắt toàn bộ câu chuyện bằng vài câu văn ngắn gọn.
Về phương pháp dạy học: Sử dụng tranh minh họa; sử dụng câu hỏi gợi ý;
hướng dẫn học sinh phân vai.
Về các biện pháp để rèn kĩ năng cho giáo viên và học sinh: rèn kĩ năng kể
chuyện, kĩ năng điều khiển của giáo viên; rèn kĩ năng nghe và kể chuyện cho
học sinh.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Để thực hiện được sáng kiến này, tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết, thu thập thông tin.

- Phương pháp điều tra thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.

3


2. NỘI DUNG
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Nghe kể chuyện chính là nhu cầu của học sinh, qua đó góp phần hình
thành nhân cách, đem lại cảm xúc thẩm mĩ lành mạnh cho tâm hồn các em.
Chính vì vậy, Kể chuyện là phân môn có sức hấp dẫn đặc biệt với các em. Nó
còn rèn cho các em kĩ năng sử dụng Tiếng Việt để học tập và giao tiếp trong các
môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua đó góp phần rèn luyện các thao
tác của tư duy, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Kể chuyện có sức mạnh riêng trong giáo dục trẻ. Sức mạnh này bắt nguồn
từ sức mạnh của công cụ mà phân môn Kể chuyện sử dụng, đó là tác phẩm văn
học nghệ thuật mà giáo viên dùng để kể chuyện. Những câu chuyện văn học có
tác dụng lớn đến tâm hồn, cảm xúc của trẻ thơ, giúp các em trở thành những con
người có tâm hồn cao thượng, có lòng nhân hậu ... Nhiều người không bao giờ
quên những kỉ niệm về các buổi tối nghe kể chuyện. Nhà thơ Nga vĩ đại- Puskin
từng tâm sự: “Buổi tối, tôi nghe kể chuyện cổ tích và lấy việc đó bù đắp những
thiếu sót trong sự giáo dục đáng nguyền rủa của mình. Mỗi truyện cổ tích ấy
mới đẹp đẽ làm sao, mỗi truyện là một bài ca.”
Giờ kể chuyện góp phần tích luỹ vốn văn học, mở rộng vốn sống cho trẻ.
Nó còn góp phần mở rộng tầm hiểu biết, khêu gợi trí tưởng tượng cho học sinh.
Cùng với lý tưởng, óc tưởng tượng là bệ phóng cho những hoài bão, ước mơ cao
đẹp khi các em bước vào cuộc sống, bệ phóng cho sự sáng tạo. Qua từng câu
chuyện kể, thế giới muôn màu sắc mở rộng trước các em, các em có thể hiểu
được phong tục tập quán của nhiều dân tộc. Các em hiểu thêm về cảnh sắc thiên
nhiên, hiểu về con người với những cuộc sống giàu nghèo, trang phục, nhà ở,

cách ứng xử của con người trong cuộc sống với hàng ngàn tình huống khác
nhau... Như vậy, vấn đề tích cực hoá các hoạt động của học sinh trong giờ kể
chuyện làm cho học sinh hiểu biết về xã hội, loài người xưa và nay góp phần
hình thành nhân cách cho học sinh.
Mục đích của giờ kể chuyện chủ yếu là rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh
qua việc kể các câu chuyện đã được đọc, được nghe và sự kết hợp sáng tạo với
giọng điệu, cảm xúc riêng của từng em. Việc rèn kỹ năng cho học sinh ở giờ kể
chuyện được tiến hành ngay tại lớp. Các em được hướng dẫn cách ghi nhớ nội
dung, cách kể lại, cách diễn đạt ngôn ngữ kết hợp với việc sử dụng giọng điệu,
nét mặt ngay tại lớp. Trong giờ kể chuyện có nhiều kĩ năng được hình thành
như: kĩ năng ghi nhớ, kĩ năng phân tích, kĩ năng nói trước đông người, nói cho
rõ ràng, rành mạch, có ngữ điệu, biết lựa chọn từ và dùng từ thích hợp, nói bình
tĩnh trước mọi người bằng ngôn ngữ của riêng mình.
Giờ kể chuyện không chỉ dừng lại ở chỗ học sinh có kĩ năng nói tốt trong
phạm vi một câu chuyện, một lớp học mà các em phải biết vận dụng vào giao
tiếp hàng ngày với bạn bè, với mọi người xung quanh. Điều đáng chú ý là nói có
nghệ thuật, hấp dẫn người nghe, như vậy học sinh đã phát huy được tính tích
4


cực, sáng tạo của mình trong các hoạt động của giờ kể chuyện. Thông qua giờ
kể chuyện theo hướng tích cực hoá các hoạt động của học sinh, ngôn ngữ nói
được rèn luyện, hướng tới phong cách nghệ thuật.
2.2. THỰC TRẠNG DẠY- HỌC PHÂN MÔN KỂ CHUYỆN Ở LỚP 2
Thực trạng hiện nay, một số giáo viên còn cho rằng: Kể chuyện chỉ là
môn phụ nên đã lấy tiết kể chuyện dạy bù cho các tiết học khác. Còn câu
chuyện, giáo viên nghĩ rằng học sinh đã qua tiết Tập đọc là đủ nên thường dạy
sơ qua hoặc giao nhiệm vụ kể chuyện về nhà. Có giáo viên dạy chưa phát huy
hết tính tích cực các hoạt động của học sinh, chưa gây được niềm đam mê kể
chuyện của học sinh, nhiều em còn sợ kể chuyện vì không dám kể chuyện trước

lớp ...Thực trạng này có nhiều nguyên nhân: chủ quan và khách quan. Đó là
trình độ chuyên môn, năng lực tổ chức, hướng dẫn còn hời hợt, trang bị thiết bị
phục vụ cho hoạt động dạy và học còn hạn chế, nhiều học sinh còn nhút nhát
dẫn đến chất lượng giờ học còn thấp.
Qua quá trình trực tiếp giảng dạy và dự giờ thăm lớp của một số giáo viên
dạy phân môn Kể chuyện ở lớp 2 trong trường, tôi nhận thấy:
Với giáo viên: Nhìn chung, giáo viên đã áp dụng phần nào việc đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá các hoạt động học tập của học
sinh trong quá trình lĩnh hội tri thức, rèn kĩ năng, đã khơi dậy ở học sinh sự tìm
tòi, khám phá, sáng tạo theo cách của trẻ thơ, học sinh sôi nổi trong giờ kể
chuyện. Bên cạnh những ưu điểm đó, tôi còn thấy những nhược điểm cần khắc
phục: một số giáo viên chưa có sự đầu tư cho tiết dạy(việc sử dụng tranh ảnh
còn ít và chưa nhịp nhàng), khả năng kể chuyện hấp dẫn còn hạn chế, chưa biết
gợi mở cho học sinh khi các em chưa nhớ được nội dung.
Với học sinh, rất ít em có năng khiếu kể chuyện, chủ yếu các em mới kể
đúng nội dung câu chuyện, phần kể sáng tạo còn hạn chế, một số em đối thoại
còn chưa đạt thậm chí còn bí từ... kể chưa kết hợp với điệu bộ, giọng điệu diễn
tả nội tâm nhân vật và vẫn còn hiện tượng nói lắp, nói ngọng, hay để thời gian
kể chuyện ngắt quãng.
Tôi đã tiến hành khảo sát kết quả kể chuyện của các em qua câu chuyện:
Bạn của Nai Nhỏ ( tuần 3 )
Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm - lớp 2B( Năm học 2015- 2016)
Tổng số học sinh
Kể chuyện hay,
Kể đúng nội dung Kể còn ngắc ngứ,
hấp dẫn( mức độ
truyện
chưa nhớ đủ nội
bình thường)
dung truyện

37em
3em
12 em
22em
* Qua việc kết quả khảo sát, tôi nhận thấy:
- Ưu điểm: Học sinh được rèn các kĩ năng kể chuyện, khơi dậy ở học sinh
sự tìm tòi, khám phá, sáng tạo theo cách của trẻ thơ.
- Nhược điểm: Các em mới kể đúng câu chuyện, phần kể sáng tạo còn
hạn chế. Một số em còn nhút nhát không dám nói trước đông người, diễn đạt
còn hạn chế, nhiều em diễn đạt còn chưa đạt thậm chí còn bí từ, kể chưa kết hợp
5


được điệu bộ, giọng điệu diễn tả nội tâm nhân vật, khi kể chuyện học sinh chưa
thoát ly được sách giáo khoa ...
2.3 CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.3.1. Sử dụng phong phú đồ dùng, phương tiện dạy học trong giờ kể
chuyện
Thiết bị đồ dùng dạy học là những phương tiện vật chất giúp cho giáo
viên và học sinh tổ chức hợp lý, có hiệu quả quá trình giáo dục. Đối với phân
môn kể chuyện, khi mà vốn từ và khả năng diễn đạt của học sinh còn hạn chế,
thì thiết bị, phương tiện, đồ dùng dạy học là một trong các yếu tố quan trọng.
Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học, thiết bị đồ dùng giúp giáo viên
và học sinh huy động mọi năng lực nhận thức, tiếp cận nhận thức, nâng cao khả
năng tự học, rèn luyện kỹ năng học tập và thực hành.
Thiết bị đồ dùng tưởng như là vô tri, vô giác. Nhưng dưới sự điều kiển
của giáo viên, thiết bị đồ dùng dạy học thể hiện khả năng sư phạm của nó như:
Làm tăng tốc độ truyền thông tin, tạo sự lôi cuốn hấp dẫn làm cho giờ học thêm
sinh động.
*Sử dụng đa dạng các đồ dùng, phương tiện dạy học trong giờ kể

chuyện:
Trong các tiết dạy kể chuyện, tùy thuộc vào nội dung tiết dạy mà giáo
viên lựa chọn đồ dùng, phương tiện dạy học cho phù hợp. Các loại đồ dùng,
phương tiện dạy học thường được giáo viên sử dụng trong các tiết dạy kể
chuyện:
-Tranh ảnh trong giờ kể chuyện: Bao gồm
+ Tranh ảnh trong sách giáo khoa
+ Tranh ảnh do giáo viên, học sinh sưu tầm: Đây là tranh ảnh được sưu
tầm trên mạng, trong thực tế nhưng tất cả đều phải có tác dụng phục vụ cho nội
dung tiết học. Chẳng hạn, trước khi dạy bài: “Sơn Tinh, Thủy Tinh”, giáo viên
yêu cầu học sinh sưu tầm hình ảnh về cảnh bị lũ lụt, cảnh về các dãy núi hay
hình ảnh về con gà và gà có chín cựa. Khi có thêm hình ảnh về con gà chín cựa,
một loại gà rất hiếm, để cho học sinh thấy rằng đó là một yêu cầu khó khăn đối
với hai chàng trai. Những hình ảnh về nạn lũ lụt và cảnh về các dãy núi càng
thấy rõ được cuộc chiến giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh mà dân ta thường giải
thích về nạn lũ hằng năm ở nước ta.
+ Tranh ảnh do giáo viên tự vẽ hoặc yêu cầu học sinh vẽ (Ví dụ như với
tiết dạy bài: “Chuyện bốn mùa”, giáo viên yêu cầu học sinh trong 4 nhóm sẽ tự
vẽ thêm bức tranh về nét đặc trưng của một mùa (giáo viên cho học sinh chọn
nhung không trùng nhau) để học sinh có thể dựa vào tranh kể lại nội dung từng
đoạn hoặc cả câu chuyện. Những bức vẽ của học sinh làm tăng thêm phần hứng
thú cho các em và các em thấy hào hứng vì đã góp phần tạo nên hình ảnh làm
sống động thêm câu chuyện.
- Video, clip trong giờ kể chuyện: Bao gồm
+ Sưu tầm trên mạng internet: Ví dụ khi dạy bài: “Sáng kiến của bé Hà”,
giáo viên có thể sưu tầm video nói về sự quan tâm, chăm sóc của ông bà trong
6


khoảng 4 đến 5 phút. Hoặc khi dạy bài: “Sự tích cây vú sữa”, giáo viên sưu tầm

những video clip về tình cảm và sự chăm sóc của mẹ đối với con hoặc thậm chí
cả đến sự hi sinh của mẹ dành cho con hoặc video clip về một bài kể trên mạng
internet đã được xây dựng một cách công phu nên việc sử dụng hợp lí các video,
clip này sẽ làm tăng hiệu quả trong các giờ dạy.
+ Giáo viên tự quay các video, clip phù hợp với nội dung tiết dạy: Việc
giáo viên tự xây dựng các video, clip sẽ tăng khả năng chú ý với trẻ em vì những
hình ảnh đó sẽ gần gũi, thân thuộc với các em hơn. Ví dụ khi dạy bài: “Bông hoa
niềm vui”, giáo viên đã quay clip về sự chăm sóc và mạng lại niềm vui cho bố
khi bố bị ốm của một bạn trong lớp. Từ đó, học sinh thấy được giá trị của việc
chăm sóc, chia xẻ, lời động viên an ủi của con cái đối với cha mẹ sẽ làm cho cha
mẹ mau chóng bình phục. Qua đó, giáo viên sẽ giáo dục được tình cảm yêu
thương những người thân trong gia đình cho học sinh. Điều này cũng góp phần
thực hiện được nội dung Giáo dục môi trường trong giờ kể chuyện.
- Trang phục, đạo cụ trong giờ kể chuyện: Câu chuyện kể của giáo viên
hay của học sinh sẽ hấp dẫn hơn nếu học sinh được hóa vai vào các nhân vật và
được thể hiện trong khung cảnh diễn ra câu chuyện đó. Vậy để các nhân vật
sống động thì khi kể chuyện cần có trang phục, đạo cụ. Trang phục giúp học
sinh hóa thân vào các nhân vật, đạo cụ giúp dựng khung cảnh minh họa cho câu
chuyện. Trang phục, đạo cụ bao gồm:
+ Trang phục phù hợp với con người, con vật:
Các trang phục được dùng phải phù hợp với con người, con vật trong câu
chuyện. Có như thế, việc sử dụng mới trang phục mới mang lại giá trị. Chẳng
hạn, khi dạy bài “Có công mài sắt có ngày nên kim ”, giáo viên cần chuẩn bị
một bộ quần áo của một cụ già để khi học sinh được sắm vai, các em mới cảm
thấy hứng thú. Hay khi dạy bài:“ Quả tim Khỉ ”, giáo viên cũng cần chuẩn bị
cho học sinh trang phục của con Cá Sấu và con Khỉ…
+ Đồ dùng sinh hoạt của con người, con vật trong câu chuyện:
Đây là những vật dùng trong sinh hoạt hằng ngày của con người. Ví dụ
với bài “Những quả đào”, giáo viên chỉ cần mua vài quả đào, một chiếc đĩa để
đựng chuẩn bị thêm một chiếc bàn và một khăn trải bàn để tạo khung cảnh khi

người ông lấy đào chi cho các cháu.
+ Đạo cụ để tạo cảnh trong câu chuyện
Để chuẩn bị được đầy đủ các trang phục, đạo cụ phục vụ cho giờ kể
chuyện thì ngoài giáo viên ra, học sinh, phụ huynh đều tham gia vào quá trình
chuẩn bị để tạo sự thành công. Ví dụ khi dạy bài:“ Sơn Tinh, Thủy Tinh”, giáo
viên nhờ phụ huynh chuẩn bị giúp về trang phục của Sơn Tinh, Thủy Tinh, Mị
Nương, học sinh cắt dán những chiếc mũ còn giáo viên chuẩn bị một số đạo cụ,
tranh ảnh về núi đồi, sông nước. Việc chuẩn bị chu đáo đó đã góp phần tạo nên
sự thành công của câu chuyện vì học sinh rất thích sắm vai nhân vật nhất là việc
được mặc những trang phục đặc trưng của nhân vật mình đóng. Từ đó, tạo nên
tâm thế tốt cho học sinh khi kể chuyện
* Sử dụng đúng lúc, đúng chỗ các đồ dùng, phương tiện dạy học
trong giờ kể chuyện:
7


Ở tiểu học, tranh ảnh, đồ dùng dạy học có tác dụng kích thích trí tò mò và
gây hứng thú cho học sinh. Ngoài ra, tranh ảnh là phương tiện trợ giúp đắc lực
cho học sinh trong quá trình kể chuyện. Nó cũng là đồ dùng dạy học để học sinh
dựa vào đó mà kể chuyện. Tuy nhiên, trong quá trình dạy học, người giáo viên
cần sử dụng chúng đúng lúc, đúng chỗ mới đem lại hiệu quả cao. Chẳng hạn khi
dạy bài: “ Ai ngoan sẽ được thưởng”, khi học sinh kể hết phần đầu của đoạn1thì
mới đưa tranh minh họa thứ nhất của truyện ra vì phần đầu của câu chuyện mới
là phần dẫn. Nếu đưa ra ngay từ đầu, học sinh sẽ bị phân tán mà không tập trung
vào phần kể. Đến cuối đoạn là phần quan trọng thể hiện rõ sự quan tâm của Bác
đối các cháu đặc biệt là cháu nhỏ. Đưa tranh đúng vào đoạn kể về Bác kết hợp
với việc sự minh họa của người kể thì người nghe sẽ dễ hình dung ra hình ảnh
của Bác rất gần gũi. Đến đoạn 3, giáo viên lại đưa tranh ngay từ đầu đoạn để học
sinh thấy rõ sự ân cần và độ lượng của Bác khi vẫn chia quà cho Tộ mặc dù Tộ
có lỗi. Với cử chỉ, Bác xoa đầu Tộ và thưởng cho Tộ chiếc kẹo càng giúp cho

học sinh hiểu rõ hơn về Bác càng cho người nghe hiểu được tấm lòng bao dung,
nhân hậu của Bác. Từ đó, các em càng cảm thấy kính trọng Bác.
2.3.2. Tổ chức phong phú, linh hoạt các hình thức dạy học để tích cực hoá
các hoạt động học tập của học sinh lớp 2 trong giờ Kể chuyện
Hình thức dạy học đóng vai trò quan trọng trong mỗi tiết dạy. Đổi mới
mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại nhằm phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của học sinh, khắc phục
lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách
nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để học sinh tự cập nhật và tiếp cận kiến
thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Đối với học sinh lớp 2, khả năng diễn đạt còn
kém, vốn từ chưa phong phú. Chính vì thế, để học sinh có thể kể tốt câu chuyện
được học thì bản thân giáo viên cần gây sự hứng thú, làm tăng khả năng tập
trung của học sinh trong mỗi giờ kể chuyện. Các hình thức dạy học cũng cần
linh hoạt, có thể chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập
đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học.
Cụ thể phân môn Kể chuyện ở lớp 2 có các dạng bài sau và giáo viên đã áp dụng
các hình thức dạy học vào các dạng bài như:
+ Dạng 1: Đưa ra gợi ý hoặc dàn ý tương đối cụ thể để hướng dẫn học sinh
kể lại câu chuyện.
+ Dạng 2: Nêu những nhân vật trong câu chuyện, kể lại sự xuất hiện của
nhân vật, nhắc lại lời nhân vật.
+ Dạng 3: Tóm tắt nội dung từng đoạn bằng một câu và đặt tên cho từng
đoạn truyện.
Để áp dụng các hình thức dạy học vào mỗi dạng bài sao cho hiệu quả, giáo
viên thực hiện như sau:
* Sử dụng hình thức dạy học theo nhóm:
Dạy học theo nhóm sẽ có tác dụng giúp cho học sinh được làm việc nhiều,
học sinh chủ động tích cực học tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên và sự điều
hành của trưởng nhóm.

8


Ở lớp 2, thời gian kể chuyện là 30 phút nên trong một tiết học, muốn
nhiều học sinh kể chuyện, tôi thường sử dụng hình thức kể chuyện theo nhóm
với hầu hết các tiết kể chuyện. Khi dạy kể chuyện, tôi thường sử dụng hình thức
hoạt động nhóm đôi. Hình thức kể chuyện này là từng cặp học sinh quay mặt
vào nhau kể cho nhau nghe câu chuyện của mình, cùng trao đổi về nội dung câu
chuyện. Sau đó đại diện nhóm kể trước lớp, nhóm khác nhận xét, bổ sung. Dạy
kể chuyện cho học sinh theo nhóm 2, học sinh sẽ được thực hành nhiều hơn, tiết
kiệm thời gian hơn, có hiệu quả hơn, vì:
- Kể chuyện theo nhóm đôi đỡ mất thời gian di chuyển chỗ ngồi vì các lớp
hiện nay thường bố trí mỗi bàn 2 em, chỉ cần 2 em quay mặt vào nhau là có thể
kể cho nhau nghe được.
- Kể chuyện theo nhóm đôi chắc chắn học sinh nào cũng kể được. Nếu kể
theo nhóm lớn, thời gian tối đa dành cho hoạt động nhóm nhiều.Vì khó áng
chừng được thời gian, sẽ có em kể quá dài, lấy mất thời gian của bạn khác.
Đồng thời cũng có em lười chuẩn bị bài sẽ trốn được việc kể.
- Kể chuyện theo nhóm đôi hoạt động chiếm ít thời gian hơn nên thời gian
dành cho hoạt động thi kể chuyện trước cũng nhiều hơn, sẽ tăng không khí sôi
nổi của giờ học.
Ngoài kể chuyện theo nhóm đôi, tôi còn cho học sinh kể theo nhóm 3,
nhóm 4, tuỳ theo câu chuyện có số lượng nhân vật nhiều hay ít. Hình thức kể
chuyện này, tôi thường áp dụng với yêu cầu kể theo lối phân vai nhân vật, cũng
có khi sử dụng để kể nối tiếp các đoạn của câu chuyện.
Đối với dạng bài Kể chuyện theo dàn ý cho sẵn
Kể chuyện theo dàn ý cho sẵn là hình thức học sinh dựa vào những gợi ý
giáo viên đưa ra để kể lại câu chuyện. Những gợi ý này bám sát nội dung, diễn
biến câu chuyện. Hệ thống gợi ý phải rõ ràng, dễ hiểu, có nội dung không nên
đưa ra những gợi ý rườm rà, phức tạp.

Trong tiết kể chuyện này, sách giáo khoa cung cấp cho học sinh dàn ý
dưới dạng những câu hỏi hay những tên đoạn để làm chỗ dựa cho học sinh kể lại
câu chuyện đã học. Đây là hình thức rèn luyện trí nhớ cho học sinh, song dạng
bài này có yêu cầu cao hơn dạng bài kể chuyện theo tranh.
Ví dụ : Bài “ Sáng kiến của bé Hà” - Tiếng việt 2 - Tập 1 - Trang 78
Dựa vào gợi ý, kể lại từng đoạn của câu chuyện :
+ Chọn ngày lễ.
+ Bí mật của hai bố con.
+ Niềm vui của ông bà.
Bài “ Hai anh em” - Tiếng việt 2 - Tập 1 - Trang 119.
Kể lại từng đoạn câu chuyện theo gợi ý :
+ Mở đầu câu chuyện.
+ Ý nghĩ và việc làm của người em.
+ Ý nghĩ và việc làm của người anh.
+ Kết thúc câu chuyện.
Với kiểu bài này, giáo viên hướng dẫn học sinh theo gợi ý cho sẵn, học
sinh kể theo ý sáng tạo của mình. Cần giúp cho học sinh nắm vững yêu cầu là
9


dựa vào câu hỏi để định hướng nội dung kể chứ không phải để trả lời câu hỏi.
Giáo viên chia nhóm học sinh để thảo luận và kể chuyện trong nhóm. Sau đó đại
diện các nhóm lên trình bày. Khi kể chuyện, giáo viên yêu cầu học sinh phải
sáng tạo làm cho câu chuyện hấp dẫn hơn.
Khi dạy những bài này, tôi đã tiến hành như sau: Chuẩn bị hệ thống dàn ý
cho sẵn ra bên trái màn hình, bên phải màn hình ghi ý chính câu trả lời, học sinh
dựa vào câu hỏi và phần trả lời để kể (nội dung này trong cùng một Sline)
Cách tiến hành :
- Giáo viên giúp học sinh nắm yêu cầu giờ kể chuyện, cả lớp đọc thầm
câu hỏi gợi ý trong sách giáo khoa.

- Giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi, một học sinh đọc to hệ thống câu hỏi.
- Học sinh thảo luận nhóm (nhóm đôi, nhóm 3, nhóm 5)
-Tự sắp xếp theo ý của mình, các nhóm nhận xét và thống nhất, kể trước
nhóm rồi nhóm cử đại diện kể trước lớp.
- Giáo viên nhận xét, đánh giá, tuyên dương.
- Chọn học sinh kể tốt nhất kể lại cho cả lớp nghe.
Kể chuyện theo gợi ý cho sẵn là hình thức kể tương đối dễ vì nội dung,
diễn biến câu chuyện đã được ghi lại. Hình thức kể này phù hợp với những học
sinh chậm. Câu chuyện do học sinh kể có hấp dẫn hay không phụ thuộc vào kĩ
năng kể chuyện của từng học sinh. Em nào có năng khiếu nhìn hệ thống câu hỏi
mà kể được rất hay, song cũng có em còn lúng túng. Mặc dù vậy, tôi đã động
viên, gợi mở thêm để các em có thể hoàn thành được yêu cầu.
* Sử dụng hình thức dạy học sắm vai
Kể phân vai nhân vật là mỗi học sinh tham gia đóng một nhân vật trong
đúng tâm trạng, cử chỉ điệu bộ của nhân vật đó trong câu chuyện hoặc một
đoạn, một câu chuyện. Đây là hình thức dạy học mà gây được hứng thú nhất đối
với học sinh. Các em được thử sức mình với những nhân vật mà các em yêu
thích. Khi kể các em phải tự tách mình, nhập tâm vào nhân vật để diễn tả
chuyện. Hình thức làm:
- Lập nhóm học sinh để dựng lại chuyện theo vai như yêu cầu sách giáo
khoa.
- Theo dõi học sinh dựng lại chuyện, ghi những điểm tốt và chưa tốt để
góp ý.
- Hướng dẫn học sinh góp ý cho vai diễn.
- Kết hợp ý kiến trong lớp với những nhận xét riêng, giáo viên tổng kết.
Học sinh tiểu học rất thích đóng kịch, sử dụng hình thức này rèn kĩ năng
nói, kĩ năng kể cho học sinh, đồng thời giúp cho học sinh hiểu hơn tính cách,
tình cảm của nhân vật trong câu chuyện.
Kiểu bài này giáo viên yêu cầu học sinh đóng vai một nhân vật và kể lại
theo diễn biến tâm trạng của nhân vật đó. Học sinh phải phối hợp kịp thời, nói

đúng lời của nhân vật. Phải hoá thân thành một nhân vật trong câu chuyện để kể
lại. Phải coi mình là nhân vật đó, trực tiếp tham gia vào diễn biến câu chuyện
Ví dụ : Bài “ Người mẹ hiền” - Tiếng việt 2 - Tập 1 - Trang 64. Dựng lại
câu chuyện theo vai: người dẫn chuyện, Minh, Nam, bác bảo vệ, cô giáo.
10


Với bài này, tôi đã cho các nhóm thảo luận, tự phân vai. Như vậy, mỗi học
sinh đảm nhiệm một vai diễn. Tôi yêu cầu: khi đóng vai, học sinh phải nói kịp
thời, đúng vai, đúng lời nhân vật. Ở trình độ cao hơn, cả nhóm phải phối hợp ăn
ý, nhẹ nhàng. Mỗi em thực sự nhập vai, lời nói biểu cảm, kết hợp với cử chỉ,
động tác. Bằng cách này, câu chuyện trở thành một cảnh kịch sinh động, hấp
dẫn, thú vị, thể hiện sự sáng tạo riêng của mỗi em. Trong trường hợp câu chuyện
có đối thoại, có những câu phải giữ nguyên lời nhân vật, nhưng có những câu
không cần giữ nguyên, chỉ cần nói theo ý hiểu của mình miễn là diễn đạt đúng là
được. Kể chuyện như vậy giúp học sinh thoải mái, không lo sợ
“ không thuộc”, phát huy được tính tích cực học tập của học sinh trong giờ học.
Áp dụng hình thức kể này, trong cùng một thời gian, tôi có thể rèn cho
học sinh các kĩ năng cơ bản (nói, nghe). Nhiều khi văn bản chuyện không lột tả
hết được tâm trạng, tính cách của nhân vật, để câu chuyện trở nên hấp dẫn sinh
động hơn khi chính học sinh thể hiện đúng tính cách nhân vật. Trong câu chuyện
này, các em phải thể hiện cử chỉ, điệu bộ ngôn ngữ đối thoại các nhân vật: Cử
chỉ của nhân vật “ cô giáo” ân cần nên lời nói phải nhẹ nhàng, âu yếm; nhân vật
“bác bảo vệ” cử chỉ, điệu bộ phải nghiêm khắc, giọng nói chậm rãi, ôn tồn;
“bạn Nam và bạn Minh” rụt rè và giọng nói phải nhỏ khi nhận lỗi ...
Cách tiến hành :
- Giáo viên chia nhóm, học sinh tự nhận vai theo các nhóm.
- Các nhóm nhẩm thầm vai của mình từ 1-2 phút.
- Từng nhóm đứng lên kể trước lớp. Cả lớp lắng nghe để nhận xét và bình
chọn nhóm nào kể hay nhất.

- Lưu ý: Giáo viên nên khen ngợi, khuyến khích những học sinh có sự
sáng tạo trong khi kể.
Như vậy với những hình thức kể chuyện trên, phần nào làm thay đổi
không khí học tập, làm cho giờ kể chuyện thêm phong phú, sinh động, hấp dẫn
học sinh và tạo cho học sinh mạnh dạn hơn. Nhưng không nhất thiết trong giờ
kể chuyện phải sử dụng đồng thời các hình thức kể trên mà giáo viên nghiên
cứu, lựa chọn hình thức kể nào phù hợp với giờ dạy phát huy tính tích cực học
tập của học sinh trong giờ kể chuyện để đạt hiệu quả nhất.
* Sử dụng hình thức dạy học ngoài lớp học
Học sinh tiểu học rất thích được thể hiện mình, thích được nhiều người
khen. Chính vì vậy, ngoài việc tổ chức dạy học kể chuyện trong lớp, giáo viên
có thể phối hợp cùng với nhà trường, với Ban phụ trách Đội để đăng kí cho học
sinh được thể hiện việc kể chuyện trước cờ. Việc làm này không chỉ tạo ra một
không gian học mới mà còn rèn luyện cho các em sự tự tin khi đứng trước đám
đông. Những tràng pháo tay của các thầy cô giáo và các bạn sẽ là nguồn động
viên lớn cho các em.
Cách tiến hành:
- Giáo viên lựa chọn học sinh hoặc nhóm học sinh có năng khiếu về kể
chuyện hoặc diễn xuất để tập luyện trước khi thể hiện.
- Cho học sinh được thể hiện trước lớp nhiều lần để học sinh quen với
việc đứng trước đám đông.
11


- Chuẩn bị tốt về trang phục và các đạo cụ cần thiết.
- Học sinh tiến hành kể trước cờ.
- Động viên khuyến khích học sinh kịp thời.
- Sau mỗi lần tham gia đó, giáo viên sẽ đánh giá nhận xét để rút kinh
nghiệm.
Những lần đầu tiên cho học sinh tham gia kể chuyện trước cờ, giáo viên

nên lựa chọn những học sinh có năng khiếu, những học sinh có khả năng tự tin.
Sau đó, ở những lần tham gia sau, giáo viên nên chọn các câu chuyện có sự
tham gia của nhiều nhân vật để tạo cơ hội cho những học sinh chưa có khả năng
tự tin cũng được tham gia thể hiện.
2.3.3. Một số biện pháp rèn kĩ năng kể chuyện cho giáo viên và học sinh
*Rèn các kĩ năng trong việc kể chuyện của giáo viên
‘‘Tài kể chuyện’’ của giáo viên có vai trò quan trọng trong tiết Kể chuyện.
Nó có sức hấp dẫn, lôi cuốn học sinh. Nó còn là phương tiện đầu tiên để chuyển
nội dung câu chuyện cần kể đến học sinh, là mẫu về lời nói, cử chỉ,…để học
sinh học theo. ‘‘Tài kể chuyện’’ ở đây bao gồm các kĩ năng: Giọng kể, ảnh mắt,
cử chỉ, điệu bộ,…Các kĩ năng này nếu được rèn luyện thì sẽ dần thành thuần
thục (Tuy nhiên nếu có năng khiếu thì việc luyện tập sẽ dễ dàng hơn nhưng thực
tế việc có năng khiếu kể chuyện trong giáo viên là rất ít, chủ yếu cần rèn luyện
để có được cá kĩ năng). Việc rèn luyện để có các kĩ năng cần thiết trong dạy học
kể chuyện là điều cần thiết bởi các kĩ năng này có tác dụng, đem lại hiệu quả
cho giờ dạy. Chính vì thế, giáo viên cần rèn những kĩ năng như:
- Tự rèn kĩ năng đọc hiểu: ‘‘Đọc hiểu’’ là kĩ năng rất quan trọng mà người
giáo viên cần và phải có không chỉ đối với dạy phân môn kể chuyện mà đối với
tất cả các môn học. Đọc hiểu tốt, giúp giáo viên:
+ Nắm vững tinh thần chung, ý nghĩa chung của câu chuyện.
+ Nắm vững toàn bộ diễn biến của câu chuyện, các tình tiết chính đặc biệt
là chi tiết có ý nghĩa then chốt, quyết định trong cốt truyện (hành động của nhân
vật, lời nói, tâm trạng…)
- Kĩ năng lựa chọn giọng kể và ngôn từ: Mỗi câu chuyện, tùy theo nội
dung sẽ có giọng điệu kể riêng. Trong truyện có lời kể, lời nhân vật. Cần biết
thay đổi giọng để người nghe phân biệt. Khi kể chuyện người kể thoát ra khỏi
ngôn từ của văn bản và sử dụng ngôn từ của mình đặc biệt, người kể có thể thêm
một số chi tiết làm nổi bật nội dung câu chuyện có như vậy người kể mới hấp
dẫn người nghe.
- Kĩ năng lựa chọn điểm nhấn, điểm dừng nhằm kích thích hứng thú của

người nghe. Điều này thể hiện rõ, người kể cần dừng lại hoặc chậm lại khi đến
điểm‘‘nút’’ của câu chuyện để gây cho người nghe sự hồi hộp.
- Kĩ năng sử dụng yếu tố phi ngôn ngữ phụ trợ cho lời kể (ngôn ngữ của
hình thể): Đây cũng là yếu tố rất quan trọng đối với người kể. Chỉ là một ánh
mắt tươi vui hay lo sợ, một nét mặt rạng rỡ hay buồn rầu… đúng lúc. Khi kể
chuyện, nếu người kể kết hợp được cả ngôn từ với ngôn ngữ của hình thể thì câu
chuyện sẽ có sức hút lạ kì.
*Rèn kĩ năng nghe và kể chuyện của học sinh
12


Để học sinh kể được câu chuyện hay, có sức hấp dẫn, lôi cuốn người
nghe, giáo viên cần rèn luyện cho các em các kĩ năng: kĩ năng nghe và kĩ năng
kể chuyện.
- Rèn kĩ năng nghe: Kĩ năng nghe kể chuyện có tầm quan trọng trong
việc kể chuyện. Để rèn luyện kĩ năng này, giáo viên phải thực hiện qua các bước
sau:
+ Rèn kĩ năng nghe và nắm mạch truyện: Sau khi nghe kể một lần, giáo
viên yêu cầu các em kể tóm tắt lại câu chuyện hoặc nhắc lại tên các nhân vật và
tình tiết cơ bản liên quan đến nhân vật. Trong bước này, lúc đầu giáo viên nên
chọn các câu chuyện có cốt truyện đơn giản, ít tình tiết và có số lượng nhận vật
không nhiều. Khi đã quen nghe và nhớ những mạch truyện đơn giản, giáo viên
chọn những câu chuyện có cốt truyện câu chuyện phức tạp hơn.
+ Rèn kĩ năng nghe và nhớ các chi tiết của truyện: Để rèn cho học sinh,
đối với các câu chuyện phức tạp, giáo viên có thể kể hai lần (lần1: kể bằng lời ;
lần 2: kết hợp với tranh). Sau đó, giáo viên yêu cầu học sinh nhắc lại các chi tiết
của truyện. Học sinh nào nhắc được nhiều chi tiết chứng tỏ chăm chú và có trí
nhớ tốt.
+ Rèn luyện kĩ năng hiểu thấu được tình cảm, cảm xúc của người kể qua
nội dung câu chuyện. Giáo viên hướng dẫn học sinh tập dùng một biện pháp để

hỗ trợ trí nhớ khi nghe kể chuyện (giấy nháp để ghi chép, tranh minh họa để nhớ
nội dung )
- Rèn kĩ năng kể chuyện: Đây là khâu khó nhưng rất quan trọng, là yếu
tố quyết định đến sự thành công của tiết kể chuyện. Để rèn luyện kĩ năng này,
giáo viên phải thực hiện qua các bước:
+ Tập cho học sinh kể một số chi tiết hoặc từng đoạn của câu chuyện.
Bước chuẩn bị: Tạo cho học sinh tâm thế muốn được kể chuyện cho cô, cho
bạn nghe. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng đối với học sinh tiểu học vì các
em còn nhỏ, dễ bị mặc cảm, tự ti. Lời động viên của cô giáo, sự thi đua giữa các
tổ hay sự chuẩn bị chu đáo về trang phục hay đạo cụ… sẽ là những biện pháp
hữu hiệu để tạo tâm thế được tham gia kể chuyện trong tiết học đối với tất cả các
em. Giáo viên giúp học sinh nắm vững, hiểu và có cảm xúc với câu chuyện
mình sắp kể. Có như vậy các em tự tin, mạnh dạn, chủ động khi kể chuyện. Điều
quan trọng, giáo viên phải biết động viên các em đúng lúc. Chẳng hạn, khi dạy
bài“ Sự tích cây vú sữa”, giáo viên cần hiểu rõ nội dung câu chuyện đó là tình
yêu thương sâu nặng của mẹ dành cho con để truyền tải thông điệp này đến với
học sinh. Từ đó, học sinh hiểu và hình thành cảm xúc khi kể chuyện. Có như
vậy, các em mới thể hiện được sự nuối tiếc của cậu bé khi không còn mẹ nữa.
Khi dạy cho học sinh kể từng đoạn câu chuyện, giáo viên không gò ép các
em rập khuôn theo cách kể của cô mà để học sinh tự kể theo giọng điệu của
mình xuất phát từ cách cảm nhận, cách hiểu của các em. Chỉ đến khi học sinh
quên hoặc không kể được thì giáo viên mới đặt câu hỏi gợi ý.
+Tập kể toàn bộ câu chuyện. Đây là một yêu cầu cao (chủ yếu đối với học
sinh có năng khiếu) đòi hỏi người kể có trí nhớ tốt, chủ động trong cách kể song
chính yêu cầu này lại cho phép người kể có điều kiện sáng tạo và thể hiện khả
13


năng của mình. Để làm tốt được việc này, người giáo viên cần khai thác kĩ nội
dung của truyện thông qua tiết tập đọc trước. Để từ đó học sinh hiểu rõ nội dung

câu chuyện, các em có thể khai thác thêm nội dung ẩn chứa bên trong các tình
tiết đó theo cách hiểu riêng của mình. Ví dụ với bài“ Quả tim Khỉ”, giáo viên
cần khai thác sâu về đức tính của con Khỉ và con Cá Sấu nên từ tiết tập đọc giáo
viên có thể gợi ý học sinh nói thêm lời của hai nhân vật này. Chẳng hạn ở đoạn
một, khi nhge Cá Sấu phàn nàn không có ai chơi cùng, giáo viên có thể đặt câu
hỏi: Với đức tính tốt bụng, theo con Khỉ sẽ nói gì? Học sinh có thể nêu: Khỉ
thấy thương Cá Sấu quá, liền nói “ Tội nghiệp bạn hay chúng mình là bạn của
nhau đi” hay đến câu cuối khi đã thoát khỏi sự nguy hiểm, giáo viên có thể gợi ý
để học sinh có thể nói thêm lời của Khỉ: “Từ nay, ta và mi sẽ không bao giờ là
bạn của nhau nữa”. Nhờ đó trong giờ kể chuyện, học sinh có thể tự do sáng tạo
nhưng không bị sai lệch cố truyên mà ngược lại nó càng khắc sâu nội dung câu
chuyện.
2.3.4. Làm tăng khả năng kể chuyện thông qua các hoạt động bổ trợ
Tổ chức kể chuyện theo hướng tích cực hóa nếu chỉ trong tiết học thì chưa
đạt được mục tiêu vì thời lượng quá ít nên số lượng học sinh được tham gia sẽ
không nhiều. Vì vậy, người giáo viên phải hướng đến việc làm tăng khả năng kể
chuyện cho học sinh thông qua các hoạt động bổ trợ. Chính điều này sẽ làm học
sinh yêu thích môn kể chuyện vì các em rất thích được hoạt động. Giáo viên có
thể cho học sinh thực hiện một số hoạt động bổ trợ sau :
* Kể tại lớp
Đây là hoạt động thường xuyên của học sinh trong các tiết kể chuyện. Tại
đây, các em được kể cho bạn, cho cô nghe. Trong giờ sinh hoạt Sao, sau khi
nghe các anh chị phụ trách Sao kể chuyện, giáo viên lúc này cũng đóng vai là
một chị phụ trách sẽ khuyến khích các em kể lại câu chuyện vừa nghe hoặc kể
câu chuyện khác cho các bạn cùng nghe. Trong các buổi sinh hoạt tập thể, như
đã nói ở trên, giáo viên đăng kí với Ban phụ trách Đội để tạo điều kiện cho học
sinh được tham gia kể chuyện trước cờ. Đây cũng là việc đổi mới trong nội dung
sinh hoạt tập thể ở trường.
*Kể ở nhà cho người thân nghe
Thực tế, một tiết kể chuyện với thời gian ít nên số lượng học sinh tham

gia kể cũng không được nhiều. Chính vì vậy, sau mỗi tiết học, giáo viên nên
giao việc về nhà cho các con: Về nhà, con kể lại câu chuyện vừa học cho người
thân nghe. Đến tiết học sau, giáo viên kiểm tra và nắm lại con số những học sinh
đã thực hiện kể chuyện cho người thân nghe. Tuyên dương những em có tinh
thần đó. Làm như vậy, giáo viên sẽ khích lệ được tất cả học sinh trong lớp kể cả
những học sinh còn nhút nhát chưa dám thể hiện mình trước đám đông.
*Giáo viên tổ chức các cuộc thi tại lớp
Trong những tiết học Giáo dục ngoài giờ lên lớp, giáo viên có thể lồng
ghép nội dung nói theo chủ đề. Ví dụ khi dạy bài“ Kể về một ngày của mẹ”,
giáo viên yêu cầu học sinh chuẩn bị: Quan sát mẹ trong một ngày (những việc
của mẹ đã làm, sự chăm sóc của mẹ đối với từng thành viên trong gia đình đặc
biệt là đối với bản thân em), nêu những suy nghĩ của mình về mẹ,... Hay, trong
14


những giờ sinh hoạt lớp, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh được kể chuyện
ngắn (chuyện trong chương trình: Quà tặng cuộc sống) mà em đã được nghe.
chuyện hoạt hình, chuyện vui hài,... Những hình thức tổ chức này sẽ tạo sân chơi
lành mạnh cho các em.
* Giáo viên động viên học sinh tham gia các cuộc thi kể chuyện
Với những học sinh có năng khiếu, giáo viên nên động viên các em tham
gia các cuộc thi lớn: Cuộc thi kể chuyện của học sinh tiểu học ở các cấp. Đây là
những sân chơi cực kì bổ ích cho các em. Không chỉ được thể hiện mình mà ở
đây các em còn được học hỏi nhiều ở các bạn từ những ngôi trường khác, từ
những vùng miền khác nhau từ cách kể chuyện cho đến cách thể hiện trên sân
khấu. Từ nội dung của các câu chuyệnvà cách thể hiện mà các bạn mang tới hội
thi sẽ là những gợi ý cực kì quý giá cho các em trong những lần kể sau.
2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC:
Sau khi đưa ra một số biện pháp đã nêu trên vào hướng dẫn học sinh kể
chuyện trong giờ kể chuyện, cả cô và trò chúng tôi hết sức cố gắng và nỗ lực đã

đem lại một kết quả đáng mừng. Hầu hết các em thấy thích thú hơn trong khi
học kể chuyện, nhiều em đã kể hay hơn, biết thể hiện giọng kể của từng nhân
vật, bước đầu biết sử dụng điệu bộ cử chỉ để hỗ trợ cho lời kể. Đa số học sinh đã
nắm vững nội dung qua bài tập đọc nên có nhiều hơn thời gian để rèn kĩ năng kể
chuyện. Có những em đã có tiến bộ vượt trội: từ khi kể còn ngắc ngứ, chưa nhớ
đủ nội dung truyện nay đã kể đúng được nội dung truyện, thậm chí đã kể hay.
Số em kể còn ngắc ngứ, chưa nhớ đủ nội dung truyện giảm hẳn. Đặc biệt, trong
thời gian qua, lớp tôi chủ nhiệm cũng có được học sinh tham gia cuộc thi kể
chuyện cấp thành phố, đó là một điều đáng mừng.Song, tôi muốn được nhìn
thấy kết quả cụ thể đã cho các em kể lại câu chuyện “ Bạn của Nai Nhỏ ”, kết
quả đạt được như sau :
Kết quả khảo sát giữa học kì II- lớp 2B ( năm học 2015- 2016)
Tổng số học sinh
Kể chuyện hay,
Kể đúng nội dung Kể còn ngắc ngứ,
hấp dẫn( mức độ
truyện
chưa nhớ đủ nội
bình thường)
dung truyện
37em
10em
24 em
3em

15


3. KẾT LUẬN- KIẾN NGHỊ
3.1. KẾT LUẬN :

Giờ Kể chuyện theo hướng tích cực hoá các hoạt động học tập của học
sinh, như trên đảm bảo khoa học. Giờ học diễn ra nhẹ nhàng, gây hứng thú cho
học sinh học tập. Học sinh chủ động kiến thức, kĩ năng cơ bản của giờ kể
chuyện, tạo cho học sinh kĩ năng giao tiếp tốt trong xã hội. Dưới sự hướng dẫn
của giáo viên, học sinh có thể tự kể lại câu chuyện một cách mạch lạc, tính tự
chủ của học sinh được nâng cao, phát huy được tính sáng tạo, duy trì được hứng
thú của các em trong suốt giờ học, giờ học sôi nổi, hào hứng ...
Quá trình dạy học là quá trình nghệ thuật, khoa học phức tạp, tinh tế nhiều
mặt và độc đáo. Người giáo viên phải biết điều chỉnh, biết vận dụng những
phương pháp khoa học có tính khả thi vào giờ học để giờ kể chuyện nói riêng và
phân môn Tiếng Việt trong chương trình Tiểu học nói chung đạt được hiệu quả.
Phân môn kể chuyện là phân môn nghệ thuật nên giáo viên phải có nghệ thuật
kể chuyện. Tuy nhiên phân môn kể chuyện được đưa vào trường tiểu học từ lâu
song vẫn mới mẻ về mặt lí luận lẫn phương pháp dạy học.
Để giờ học đạt được mục đích là tích cực hoá các hoạt động học tập của
học sinh, tôi đã mạnh dạn đưa ra một số phương pháp giúp giáo viên không bị
lúng túng khi lên lớp, làm cho học sinh phát huy được tính tích cực chủ động
trong giờ học. Giáo viên có thể sử dụng các hình thức kể phân vai, nhập vai
nhân vật, kể chuyện theo tranh, kể theo nhóm hai, ba, bốn. Ở hình thức nào, tôi
cũng áp dụng kể theo nhóm vì thời gian kể chuyện là rất ngắn. Với mỗi hình
thức kể, giáo viên nên khuyến khích học sinh kể sáng tạo nhằm giúp học sinh
tích luỹ thêm vốn từ ngữ, vốn sống vừa có điều kiện phát huy được tính tích cực
học tập của các em trong giờ học.
Đề tài này tôi chỉ nghiên cứu sâu ở lớp 2, học sinh ở lứa tuổi này tư duy
bắt đầu phát triển nên việc phát huy được tính tích cực học tập của học sinh là
một việc làm thiết thực. Tránh tình trạng lên lớp cao hơn, học sinh không phát
huy được tính tích cực học tập của mình mà học tập thụ động, ỉ lại, lười suy nghĩ
hoặc ít sáng tạo trong học tập. Một số biện pháp trong đề tài nhằm: “ Tích cực
hoá các hoạt động học tập của học sinh lớp 2 trong giờ Kể chuyện”, nếu học
sinh hứng thú, say mê, sáng tạo trong giờ kể chuyện, chính là đã góp phần nâng

cao chất lượng giờ kể chuyện, tạo một không khí thoải mái trong giờ học, giờ
học có kết quả.
Những biện pháp trên phù hợp với nhận thức của học sinh, phù hợp với
đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá các hoạt động học tập
của học sinh nhằm giúp học sinh tiểu học phát triển thành con người toàn diện
(đức, trí, thể, mĩ). Những biện pháp đó không mấy xa lạ với giáo viên, chỉ cần
giáo viên quan tâm đầu tư thích đáng cho giờ kể chuyện, vận dụng các hình thức
kể chuyện cho phù hợp là đã góp phần nâng cao chất lượng cho giờ dạy.
3.2. KIẾN NGHỊ :
* Đối với giáo viên:
16


- Cần dành nhiều thời gian tâm huyết cho việc chuẩn bị giờ dạy, soạn giáo
án và làm đồ dùng dạy học chu đáo và đầy đủ trước khi lên lớp.
- Thường xuyên tham gia nghiên cứu nội dung chương trình, không
ngừng tích luỹ vốn tri thức, kinh nghiệm giảng dạy. Nắm vững đặc điểm tâm lí
trẻ để lựa chọn phương pháp giảng dạy cho phù hợp.
- Cần sáng tạo, linh hoạt trong quá trình tổ chức giờ dạy, kết hợp quy trình
dạy từng bài học cụ thể và vận dụng phương pháp học sao cho phù hợp để phát
huy tính tích cực học tập của học sinh.
* Đối với các cấp lãnh đạo:
- Cần cung cấp đủ thông tin, tài liệu về đổi mới phương pháp dạy học.
- Cần tổ chức triển khai các sáng kiến kinh nghiệm có chất lượng (dưới
dạng chuyên đề) để giáo viên học tập và áp dụng.
- Cần tăng thêm chế độ đãi ngộ đối với giáo viên dạy giỏi và giáo viên có
sáng kiến kinh nghiệm có giá trị.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà bản thân tôi đã đúc rút và mạnh dạn
đưa ra, tôi rất mong được sự góp ý của các cấp lãnh đạo.
Tôi xin chân thành cảm ơn.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 26 tháng 3 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Đặng Thị Thu Hương

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp dạy học Tiếng Việt 2. Lê Phương Nga- Nguyễn Trí
(chủ biên) NXB Giáo dục – 1999
2. Tâm lý giáo dục tiểu học 1. GS.PTS. Đặng Vũ Hoạt – PGS. Phó Đức
Hòa.NXB Giáo dục -1997
3. Tiếng Việt lớp 2- tập 2. Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên). NXB Giáo dục
Việt Nam.
4. Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 2- tập 2. Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên).
NXB Giáo dục Việt Nam.

18


MỤC LỤC
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu

1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận
2.2. Thực trạng dạy học Kể chuyện ở lớp 2
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục
3. Kết luận, kiến nghị
3.1.Kết luận
3.2.Kiến nghị

Trang
1
1
2
2
2
3
3
4
5
14
15
15
15

19


20




×