Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Xây dựng hệ thống bài tập rèn kĩ năng quan sát, và trả lời câu hỏi trong phân môn tập làm văn lớp 2, 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 21 trang )

PHÒNG GD & ĐT TRIỆU SƠN

TRƯỜNG TIỂU HỌC DÂN LÝ

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÀI TẬP RÈN KĨ NĂNG
QUAN SÁT VÀ TRẢ LỜI CÂU HỎI TRONG PHÂN MÔN TẬP
LÀM VĂN LỚP 2- 3

GV: Lê Thị Tình
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường Tiểu học Dân Lý
Sáng kiến thuộc lĩnh vực môn: Tiếng Việt

THANH HÓA NĂM 2016
1


MỤC LỤC
Tên mục
I.Mở đầu
1.Lí do chọn đề tài
2.Mục đích nghiên cứu
3.Đối tượng nghiên cứu
4.Phương pháp nghiên cứu
II.Nội dung sáng kiến
1.Cơ sở lý luận
2.Thực trạng
3.Các sáng kiến kinh nghiệm “ Xây dựng hệ thống bài tập rèn kĩ


Trang
1
1
2
2
2
2
2
4
6

năng quan sát tranh và trả lời câu hỏi trong phân môn Tập làm văn
lớp 2,3”
4.Hiệu quả của sáng kiến
III.Phần kết luận
1.Kết luận
2.Kiến nghị

13
17
17
18

I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Tiếng Việt ở trường tiểu học được dạy và học thông qua các phân môn
khác nhau: học vần, tập đọc, tập viết, chính tả, luyện từ và câu, kể chuyện, tập
làm văn. Phân môn Tập làm văn có vị trí đặc biệt trong việc dạy và học Tiếng
Việt xét trên hai phương diện:
2



- Phân môn Tập làm văn tận dụng các hiểu biết và kĩ năng về tiếng Việt
do các phân môn khác rèn luyện hoặc cung cấp đồng thời góp phần hoàn thiện
chúng. Để làm được một bài làm văn nói hoặc viết, người làm phải hoàn thiện
cả bốn kĩ năng: đọc, nghe, nói, viết, phải vận dụng các kiến thức về Tiếng Việt.
Trong quá trình vận dụng này, các kĩ năng và kiến thức đó được hoàn thiện và
nâng cao dần .
- Phân môn tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng sản sinh văn
bản (nói, viết). Nhờ vậy tiếng Việt không chỉ là một hệ thống cấu trúc được xem
xét từng phần, từng mặt qua từng phân môn mà trở thành một công cụ sinh động
trong quá trình giao tiếp, tư duy, học tập. Nói cách khác, phân môn Tập làm văn
đã góp phần hiện thực hóa mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy và học
Tiếng Việt là dạy học sinh sử dụng tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt, trong quá
trình lĩnh hội các tri thức khoa học.
Ở Tiểu học phân môn Tập làm văn góp phần rèn luyện tư duy hình tượng từ
óc quan sát tới trí tưởng tượng, từ khả năng tái hiện các chi tiết được tới khả
năng nhào nặn các vật liệu có thực trong đời sống để xây dựng nhân vật, xây
dựng cốt truyện. Khả năng tư duy logic của học sinh cũng được phát triển trong
quá trình học các kiểu bài có phong cách nghệ thuật, việc phân tích đề, lập dàn
ý…giúp cho khả năng phân tích, tổng hợp, phân loại, lựa chọn… của trẻ được
rèn luyện để trở nên sắc bén hơn. Ở Tiểu học, học sinh tập làm các kiểu bài miêu
tả, kể chuyện, viết thư, viết đơn, viết danh sách, viết mục lục sách, điền vào giấy
tờ in sẵn,…Hai kiểu bài được học nhiều và chiếm nhiều thời gian nhất là miêu
tả, kể chuyện. Đặc biệt văn miêu tả ở tiểu học góp phần nuôi dưỡng mối quan hệ
và tạo nên sự quan tâm của các em với thế giới xung quanh, với thiên nhiên, góp
phần giáo dục tình cảm thẩm mĩ, lòng yêu cái đẹp, góp phần phát triển ngôn ngữ
của trẻ.
Hiện nay văn miêu tả được đưa vào chương trình phổ thông ngay từ các lớp
đầu cấp Tiểu học. Từ lớp 2, khi tập quan sát để trả lời câu hỏi các em đã bắt đầu

làm quen với miêu tả. Tại sao cần cho các em học sinh ngay từ đầu cấp học Tiểu
học đã học văn miêu tả? Có lẽ vì văn miêu tả phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí
tuổi thơ (ưa quan sát, thích nhận xét, sự nhận xét thiên về cảm tính…). Một
trong những nhiệm vụ quan trọng của dạy học tập làm văn lớp 2-3 là đạt yêu cầu
kỹ năng về miêu tả ở mức: viết đoạn văn kể, tả ngắn đơn giản có độ tài từ 3 đến
5 câu (lớp 2), từ 5 đến 7 câu (lớp 3) bằng các trả lời câu hỏi hoặc viết theo gợi ý.
Song khi học văn miêu tả các em gặp nhiều khó khăn cả về tri thức và phương
pháp, hiểu biết và cảm xúc với đối tượng miêu tả. Các em lấy đâu ra hiểu biết về
hoa, về quả, về em bé, về chú bộ đội,… nếu không được quan sát ? Hầu như các
em không có gì hồi tưởng về các đối tượng miêu tả nếu liền ngay trước tiết làm
văn các em các em không được đến tận nơi quan sát, xem xét, nhận xét. Những
khó khăn về nội dung càng được nhân lên do các em chưa nắm được phương
pháp quan sát, tìm ý. Thời gian và số lượng bài tập dành cho nội dung dạy học
văn miêu tả ở lớp 2-3 rất hẹp, nhưng học sinh vẫn phải được chuẩn bị, được
luyện tập để lên lớp 4-5 các em có thể học tập những kiến thức và kĩ năng làm
3


văn miêu tả một cách thuận lợi. Mặt khác, giáo viên dạy lớp 2-3 chỉ chú ý dạy
theo các tiết Tập làm văn định sẵn trong Tiếng Việt của lớp 2-3 mà vô tình
không hay biết mình đang dạy văn miêu tả cho học sinh nên không chú ý đến
rèn phương pháp, kĩ năng quan sát tìm ý cho học sinh. Đó là một kĩ năng vô
cùng quan trọng trong quá trình viết văn miêu tả sau này của học sinh.
Chính vì những lí do trên mà tôi mạnh dạn nghiên cứu: “Xây dựng hệ
thống bài tập rèn kĩ năng quan sát và trả lời câu hỏi trong phân môn Tập làm
văn cho học sinh lớp 2-3”
2. Mục đích nghiên cứu:
Đưa ra hệ thống bài tập rèn kĩ năng quan sát, tìm ý trong văn miêu tả cho
học sinh lớp 2-3.
Hệ thống bài tập phải đúng đắn, hợp lý về tính khoa học, sư phạm, phù hợp

với mục tiêu dạy học Tập làm văn ở tiểu học, bổ trợ đắc lực cho các bài tập dạy
văn miêu tả trong sách giáo khoa lớp 2-3, có tính khả thi, đạt hiệu quả cao.
3. Đối tượng nghiên cứu:
- Hệ thống bài tập rèn kỹ năng quan sát tranh và trả lời câu hỏi trong phân
môn Tập Làm văn.
- Học sinh lớp 2 và lớp 3 trường Tiểu học Dân Lý.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thống kê – phân loại.
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
II, NỘI DUNG SÁNG KIẾN:
1. Cơ sở lý luận:
Ở trường tiểu học, dạy tiếng Việt là tổ chức hoạt động lời nói. Đối với học
sinh, có thể xem việc giải bài tập tiếng Việt là hình thức chủ yếu của hoạt động
tiếng Việt. Các bài tập tiếng Việt là một phương tiện rất có hiệu quả và không
thể thay thế được trong việc giúp học sinh có năng lực ngôn ngữ, phát triển tư
duy.
Hiện nay, vấn đề này được thể hiện rất rõ trong nội dung chương trình sách
giáo khoa Tiếng Việt và trong cả hoạt động dạy học tiếng Việt ở tiểu học.
Trên cơ sở những ý kiến thống nhất, có thể nêu ra một số ý nghĩa quan
trọng của bài tập Tiếng Việt đối với hoạt động dạy học như sau:
Mỗi bài tập Tiếng Việt là một ví dụ cụ thể và một vấn đề lí thuyết nào đó.
Vì vậy, làm bài tập là một hình thức học lí thuyết về tiếng Việt trên những tình
huống cụ thể.
Việc giải bài tập tiếng Việt là một hình thức rèn luyện các kĩ năng ngôn ngữ
cho học sinh. Nó đòi hỏi các em phải biết áp dụng những kiến thức đã học vào
vấn đề cụ thể, vào thực tế (bởi các bài tập Tiếng Việt thường là các tình huống
trong thực tiễn).
4



Việc giải bài tập của học sinh là một phương tiện kiểm tra rất tốt. Qua việc
làm bài tập, học sinh có thể tự kiểm tra xem mình đã nắm vững lí thuyết chưa.
Cũng qua việc làm bài tập của học sinh, giáo viên sẽ nhận được tín hiệu phản
hồi về việc lĩnh hội của học sinh, từ đó điều chỉnh phương pháp giảng dạy của
mình.
Việc giải bài tập đòi hỏi học sinh làm việc độc lập, phát huy tính sáng tạo,
phát triển tư duy, đồng thời rèn luyện ở các em tính cẩn thận, chu đáo, bền bỉ…
Để học sinh lớp 2-3 bước đầu có những ý niệm, những kĩ năng sơ giản về
văn miêu tả, học sinh phải được làm các loại bài tập cùng kiểu, cùng mục đích
làm quen với văn miêu tả. Việc thực hiện các bài tập đó được lặp đi lặp lại tới
chừng mực nào đó thì kĩ năng mới dần hình thành.
Mặt khác, phương pháp dạy học mới là hướng tới xác lập một quá trình dạy
học để tổ chức, điều khiển và kiểm soát quá trình dạy học. Điều này có nghĩa là
trong giờ học, cách dạy học thầy giảng, trò ghi phải chuyển thành thầy tổ chức
việc làm, trò thực hiện thi công. Do vậy, hệ thống bài tập hiện nay không chỉ là
thực hành mà đó còn là con đường, là cách thức mà thông qua đó, học sinh sẽ tự
tìm kiếm tri thức, hình thành kĩ năng. Chẳng hạn chỉ có thể tổ chức cho học sinh
quan sát tìm ý và kiểm soát, điều chỉnh kết quả quan sát tìm ý của các em thông
qua các câu hỏi, bài tập hướng dẫn quan sát. Chẳng hạn, để học sinh bước đầu
có thói quen quan sát cảnh từ bao quát đến cụ thể, giáo viên phải có câu hỏi, bài
tập định hướng.
Ví dụ: Bài Quan sát tranh – trả lời câu hỏi.
a) Tranh vẽ cảnh gì?
b) Sóng biển như thế nào?
c) Trên mặt biển có những gì?
d) Trên bầu trời có những gì?
(Tiếng Việt 2, tập hai, trang 67)
Nhờ các câu hỏi này, giáo viên không chỉ định hướng cho học sinh quan sát

và cách quan sát mà còn điều chỉnh được kết quả quan sát của các em.
Như vậy, để giúp học sinh lớp 2-3 làm quen với cách miêu tả, cần thiết phải
thông qua hệ thống bài tập. Hệ thống bài tập chính là phương tiện hữu hiệu để
đạt mục đích hình thành kĩ năng miêu tả.
b) Yêu cầu của bài tập Tiếng Việt là bài tập trong phân môn Tập làm văn.
- Bài tập phải được xây dựng trên cơ sở, mục đích dạy học.
- Lệnh bài tập dễ hiểu.
- Ngữ liệu cho bài tập phải tiêu biểu, điển hình
- Hình thức bài tập phong phú, đa dạng.
Có thể nói rằng những yêu cầu của bài tập trong dạy học tiếng Việt nói
chung, dạy tập làm văn nói riêng sẽ là điều kiện góp phần kích thích hứng thú
học tập của học sinh, đưa học sinh vào con đường tự mình tìm đến tri thức. Nhờ
đó mà việc dạy học tiếng Việt sẽ có hiệu quả hơn. Xây dựng một hệ thống bài
tập sao cho thông qua việc giải quyết chúng, học sinh sẽ tự tìm được cho mình
5


những câu trả lời về nội dung bài học, tự hình thành được những kỹ năng, những
phẩm chất, những năng lực mà mục tiêu giáo dục đề ra là một việc làm cần thiết.
2. Thực trạng:
a, Những yêu cầu về kĩ năng làm văn miêu tả ở lớp 2,3.
Ở lớp 2, yêu cầu về kĩ năng miêu tả chỉ ở mức độ tả ngắn (3 đến 5 câu)
xoay quanh các đề tài gần gũi:
- Tả ngắn, giới thiệu về người thân (ông, bà, bố mẹ, thầy cô giáo…)
- Tả ngắn về một con vật gần gũi như con chim, con gà, con chó, con mèo.
- Tả cảnh (theo tranh) qua các câu hỏi.
Lên lớp 3, kĩ năng quan sát và trả lời câu hỏi mà học sinh cần đạt ở mức độ
cao hơn. Học sinh phải viết được một đoạn văn (5-7 câu), nhiều nhất là 10 câu tả
ngắn về người thân trong gia đình, trường lớp, quê hương, lễ hội, hoạt động thể
thao – văn nghệ. Yêu cầu kĩ năng làm văn miêu tả ở lớp 2-3 ở mức đơn giản

nhằm chuẩn bị cho lớp 4-5 các em sẽ được trang bị và rèn luyện các kĩ năng làm
văn miêu tả một cách đầy đủ.
Nhiệm vụ dạy học văn miêu tả cho học sinh tiểu học được chương trình đề
ra theo hai mức độ lớp 2-3 và lớp 4-5 với những yêu cầu cụ thể. Lớp 2-3 chuẩn
bị các kĩ năng bộ phận và ở mức độ đơn giản, làm tiền đề cho lớp 4-5. Lớp 4-5
học sinh sẽ học kiến thức, được rèn luyện kĩ năng làm văn miêu tả một cách có
hệ thống và bài bản.
Tuy nhiên, để học sinh lớp 2-3 được chuẩn bị tốt về kĩ năng làm văn miêu
tả, các em phải thường xuyên thực hành luyện tập. Chính vì vậy, xây dựng các
bài tập bổ trợ giúp học sinh lớp 2-3 làm quen với văn miêu tả là việc làm cần
thiết.
b. Các bài tập giúp học sinh làm quen với văn miêu tả trong sách giáo khoa
Tiếng Việt lớp 2-3.
a. Bài tập rèn kĩ năng quan sát, tìm ý.
- Bài tập quan sát tranh – trả lời câu hỏi:
-Bài tập đọc văn bản – trả lời câu hỏi.
b. Bài tập rèn kĩ năng sắp xếp ý, trình tự tả.
-Bài tập sắp xếp ý
- Bài tập đọc văn bản – trả lời câu hỏi
c) Bài tập rèn kĩ năng diễn đạt (kể, tả ngắn thành đoạn văn)
c, Đánh giá hệ thống bài tập rèn kĩ năng quan sát, tìm ý trong văn miêu tả
ở sách giáo khoa lớp 2-3.
* Những ưu điểm:
Trước khi đến trường, học sinh đã được sử dụng kĩ năng quan sát, nhưng
đó chỉ là sự quan sát một cách vô thức. Việc rèn luyện kĩ năng quan sát trong
dạy học văn miêu tả phải được tiến hành thường xuyên, một cách có hệ thống,
đầy đủ, cụ thể thông qua một loạt các hoạt động như: sử dụng các giác quan, lựa
chọn trình tự quan sát, nhận xét, so sánh trong quan sát. Đây cũng chính là
những gợi ý để chúng ta có thể phân ra thành những loại bài tập nhỏ rèn kĩ năng
quan sát cho học sinh. Ở sách giáo khoa lớp 2-3 bài tập rèn kĩ năng quan sát, tìm

6


ý được phân ra làm hai loại nhỏ là Quan sát tranh, trả lời câu hỏi; Đọc văn bản,
trả lời câu hỏi. Các bài tập này nhằm rèn cho HS nhận biết được trình tự quan
sát, các giác quan được sử dụng trong quán sát.
Bài tập rèn trình tự quan sát tiếp tục được nâng cao dần ở lớp 3 nhưng với
yêu cầu khó hơn.
Có thể nói rằng bài tập rèn trình tự quan sát trong nhóm rèn kỹ năng quan
sát, tìm ý đã được sách giáo khoa chú ý và sắp xếp theo mức độ từ dễ đến khó,
từ đơn giản đến phức tạp. Bên cạnh đó, bài tập giúp học sinh tìm hiểu các giác
quan được sử dụng trong quán sát cũng được chú ý (ví dụ bài tập 3- trang 21tuần 20).
* Những hạn chế.
- Các bài tập trong SGK lớp 2 - 3 mới chỉ tập trung rèn trình tự quan sát
cho hai kiểu bài tả cảnh, tả người. Trong khi đó, rèn luyện trình tự quan sát, cách
quan sát trong kiểu bài này sẽ được dạy ở lớp 4. Nói khác đi, SGK chưa có
những bài tập rèn kĩ năng quan sát đồ vật, con vật để chuẩn bị cho nội dung dạy
các kiểu bài này ở lớp 4-5.
- Việc sử dụng các giác quan như thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác,
xúc giác là yêu cầu cần thiết trong quan sát miêu tả. Nhờ những giác quan này,
học sinh mới phát hiện ra màu sắc, hình dáng, kích thước… đặc điểm của đối
tượng. Thế nhưng trong SGK, bài tập rèn các giác quan được sử dụng trong
quan sát chưa được chú ý (cả hai lớp 2 và 3 chỉ có một bài).
- Việc sắp xếp các bài tập rèn kỹ năng quan sát, tìm ý cũng chưa thể hiện rõ
được tính hệ thống. Ví dụ như trước khi tổ chức cho học sinh làm bài tập quan
sát tranh – trả lời câu hỏi, cần tổ chức cho học sinh làm bài tập nhận diện các
giác quan được sử dụng trong quan sát. Bởi lẽ việc tìm ý và lựa chọn ý bao giờ
cũng được hình thành từ các thao tác nhìn, nghe, xem tranh…
Một số bài tập có câu hỏi chưa thật phù hợp với trình tự quan sát.
- Sách giáo khoa lớp 2 và 3 đều chưa có những bài tập quan sát vật thật.

Tuy hệ thống bài tập cho các kĩ năng tập rèn kĩ năng quan sát, tìm ý trong
văn miêu tả ở sách giáo khoa lớp 2-3 còn một số hạn chế nhưng ta cũng không
thể phủ nhận rằng bài tập này đều có giá trị cả về mặt khoa học và sư phạm, đảm
bảo cho việc thực hiện mục tiêu giáo dục. Còn có những điểm chưa thật hoàn
chỉnh trong hệ thống bài tập rèn kĩ năng quan sát, tìm ý trong văn miêu tả ở
sách giáo khoa lớp 2-3 của phân môn Tập làm văn, qua thực tế dạy học, tôi
nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập bổ trợ giúp học sinh lớp 2 và 3 rèn kĩ năng
quan sát, tìm ý trong văn miêu tả được trình bày ở chương II.
d, Đối với học sinh lớp 2,3 :
Qua nhiều năm giảng dạy lớp 2,3 đặc biệt dạy học Tiếng việt giúp các em
hình thành 4 kỹ năng cơ bản nghe, nói, đọc, viết. Phân môn Tập làm văn trong
môn Tiếng Việt hội đủ 4 kĩ năng trên. Đối với các em đây là một phân môn khó.
Bởi lứa tuổi các em, vốn kiến thức và hiểu biết còn hạn hẹp. Bên cạnh đó còn
một số khó khăn như hoàn cảnh sống khó khăn, ở với ông bà, gia đình không có
điều kiện quan tâm đến các em, việc diễn đạt ngôn ngữ kém, HS nghèo vốn từ…
7


Trong quá trình làm bài, tôi nhận thấy các em còn lúng túng, nhiều HS làm bài
chưa đạt yêu cầu. Các em thường lặp lại câu đã viết, dùng từ sai, có em viết
không đúng yêu cầu của đề bài hoặc có những bài làm đảm bảo về số câu nhưng
viết không đủ ý.
3. Các sáng kiến kinh nghiệm : Xây dựng hệ thống bài tập rèn kỹ năng
quan sát tranh và trả lời câu hỏi trong phân môn Tập làm văn lớp 2,3.
a. Cơ sở xây dựng bài tập.
Các nhà tâm lí học cho rằng quan sát không chỉ là nhìn phải được hiểu là
tổng thể hoạt động của các giác quan bao gồm: nhìn thấy, nghe thấy, ngửi thấy…
“Quan sát là hình thức cao nhất của tri giác”.
Đối với học sinh tiểu học, vốn sống, vốn hiểu biết của các em còn nghèo
nàn, các em đang trong quá trình khám phá, ưa quan sát, thích nhận xét, tìm hiểu

thế giới xung quanh. Qua quan sát, các em sẽ phát hiện ra đặc điểm riêng của
từng đối tượng để chuẩn bị cho việc làm bài văn theo yêu cầu đề bài. Đồng thời,
quan sát sẽ giúp cho bài làm của học sinh đảm bảo tính chân thực. Trước khi đến
trường, học sinh đã sử dụng kĩ năng quan sát nhưng đó chỉ là sự quan sát sơ lược
và đơn giản. Việc rèn luyện kĩ năng quan sát cho học sinh cần phải được dạy
một cách thường xuyên thông qua các bài tập rèn luyện: Sử dụng các giác quan
vào quan sát, quan sát theo một trình tự hợp lí. Căn cứ vào các hoạt động cần
hướng dẫn học sinh quan sát, chúng tôi chia nhóm bài tập này thành: Bài tập
luyện tập trình tự quan sát và bài tập luyện tập sử dụng các giác quan để quan
sát khi miêu tả.
b. Mục đích của bài tập.
- Giúp học sinh thấy được vai trò của quan sát, tìm ý trong học văn miêu tả.
- Biết cách quan sát theo trình tự
- Nhận biết được các giác quan thường được sử dụng khi quan sát.
- Tập vận dụng các giác quan vào để quan sát.
- Biết dùng từ ngữ ghi lại kết quả thu nhận được từ quan sát.
c.Các dạng bài tập :
+ Bài tập luyện tập trình tự quan
sát, cách quan sát.
Bài 1. Quan sát tranh, trả lời câu hỏi.
a) Tranh vẽ gì?
b) Bàn được sơn màu gì?
c) Mặt bàn hình gì?
d) Trên mặt bàn có vẽ những gì?
e) Bàn được dùng để làm gì ?
Bài 2. Quan sát tranh và trả lời câu hỏi
a) Tranh vẽ quả gì?
b) Quả có hình gì?
c) Màu sắc của quả ra sao?
d) Cuống nó như thế nào?

8


e) Khi bổ ra, ruột của nó có màu gì?
g)Khi ta ăn vào miệng nó ó mùi, vị gì?

Bài 3. Quan sát tranh và trả lời câu hỏi:
a) Tranh vẽ hoa gì?
b) Bông hoa có hình dáng và màu sắc
như thế nào?
c) Cánh hoa màu gì?
d) Nhụy hoa có màu gì?
e)Hoa có lợi ích gì?

Bài 4. Quan sát tranh và trả lời câu hỏi:
a) Tranh vẽ cây gì?
b) Hãy kể tên các bộ phận của cây?
c) Lá cây có màu gì? Hình thù ra sao?
d) Quả cà chua khi chín có màu gì?
e)Quả cà chua dùng để làm gì?

9


Bài 5. Quan sát tranh
và trả lời câu hỏi:
a) Tranh vẽ con gì?
b) Con vật đó có bộ
lông màu gì?
c) Hai cái tai nó trông

thế nào?
d)Hai mắt nó như thế
nào ?
đ) Cái mũi nó màu gì?
e) Nó đang làm gì?
g)Chúng ta cần làm gì
để bảo vệ nó?
Bài 6. Quan sát tranh và trả lời câu hỏi:
a) Tranh vẽ ai?
b) Người đó thường làm ở đâu?
c) Dáng người đó như thế nào?
d) Trên đầu người đó đội mũ
màu gì?
e) Người đó mặc quần áo màu gì?
g) Cổ người đó đeo đồ vật gì?
h) Hãy kể tên công việc mà người
đó thường làm?

10


Bài 7. Quan sát tranh và
trả lời câu hỏi:
a) Tranh vẽ con gì?
b) Những bộ phận nào của
con vật làm em chú ý?
c) Bộ lông của nó có màu
gì?
d) Nó thường làm gì vào
mỗi đêm?


Bài 8. Quan sát em bé nhà em
(hoặc em bé nhà hàng xóm) trả lời
các câu hỏi sau:
a) Em bé khoảng mấy tuổi?
b) Thân hình bé thế nào?
c) Trên gương mặt bé có những
nét gì đáng yêu?
(Nước da? Đôi mắt?...)
d) Khi muốn ăn, bé có thái độ,
cử chỉ đáng yêu nào?
+ Bài tập luyện tập sử dụng các giác quan trong quan sát
Bài tập nhận diện.
Bài 1. Đọc đoạn văn sau:
Ôi chao! Chú chuồn chuồn nước
mới đẹp làm sao! Màu vàng trên lưng
chú lấp lánh. Bốn cái cánh mỏng như
giấy bóng. Cái đầu tròn và hai con mắt
long lanh như thủy tinh. Thân chú nhỏ
và thon vàng như màu vàng của nắng
mùa thu. Chú đậu trên một cành lộc
vừng ngả dài trên mặt hồ. Bốn cánh
khẽ rung rung như còn đang phân vân.
a) Em hãy tìm từ ngữ chỉ đặc điểm từng bộ phận chú chuồn chuồn nước và
ghi vào bảng dưới đây:
Các bộ phận

Đặc điểm
11



Đôi mắt
Cái đầu
Bốn cánh
Thân chú
b) Tác giả đã quan sát những bộ phận của chuồn chuồn nước bằng giác
quan nào (nhìn hay nghe)?
Bài 2. Đọc đoạn văn sau:
Cái cặp của em lại có quai chắc để em xách cho đỡ mỏi tay. Thích nhất là
nó có hai ổ khóa bằng sắt mạ kền sáng loáng để đóng vào, mở ra. Mặt khóa lấp
lánh như gương. Mỗi lần em đóng cặp, khóa kêu tanh tách nghe rất vui tai.
(Theo Trần Mạnh Hưởng)
a) Tìm những từ ngữ chỉ đặc điểm của cái cặp.
b) Viết tên các giác quan mà người viết đã dùng để quan sát vào chỗ chấm
trong mỗi câu sau:
Để nhìn thấy ổ khóa của cặp được làm bằng sắt mạ kền sáng loáng, người
viết đã quan sát bằng………………………………………………………….
- Để nhìn thấy ổ khóa mới, mặt khóa sáng lấp lánh, người viết đã quan sát
bằng ……………………..……………………………….......................
- Để nghe thấy tiếng kêu “tanh tách” của khóa khi mở ra mở vào, người
viết đã lắng nghe bằng…………………………………………………………
Bài 3. Đọc đoạn văn sau:
Trong các loại quả em thích nhất là quả chuối. Quả chuối dáng cong
cong, màu vàng xuộm trông thật thích mắt. Bóc lượt vỏ đi, ruột chuối màu
trắng ngà hiện ra mới hấp dẫn làm sao! Cắn nhẹ một miếng, ta thấy vị ngọt mát
lan tỏa.
Em hãy viết tên các giác quan được tác giả dùng để quan sát vào chỗ chấm
trong mỗi ô sau:
Để nhận ra hình dáng của quả
chuối tác giả quan sát bằng:

…………………….

Để nhận ra màu của ruột chuối
tác giả đã quan sát bằng:
……………………

12


Để nhận ra màu vỏ chuối tác giả
quan sát bằng:………….

Để biết chuối có vị ngọt tác giả
quan sát bằng: ……….

Bài 4. Đọc đoạn văn sau:
Hoa mận vừa tàn thì mùa xuân đến. Bầu trời ngày thêm xanh. Nắng vàng
ngày càng rực rỡ. Vườn cây lại đam chồi, nảy lộc. Rồi vườn cây ra hoa. Hoa bưởi
nồng nàn. Hoa nhãn ngọt. Hoa cau thoảng qua. Vườn cây lại đầy tiếng chim và
bóng chim bay nhảy. Những thím chích chòe nhanh nhảu. Những chú khướu lắm
điều. Những anh chào mào đỏm dáng. Những bác cu gáy trầm ngâm.
a) Hãy ghi tên các sự vật và đặc điểm của từng sự vật được tác giả miêu tả
khi mùa xuân đến theo mẫu sau
Tên sự vật
Đặc điểm sự vật
M: bầu trời
Trong xanh

b) Tác giả phát hiện ra đặc điểm của sự vật bằng giác quan nào?
Bài 5. Đọc đoạn văn sau:

Ánh nắng ban mai trải xuống cánh đồng vàng óng, xua tan dần hơi lạnh
mùa đông. Lúa nặng trĩu bông, ngả đàu vào nhau, thoang thoảng hương thơm.
Từng cơn gió nhẹ làm cả biển vàng rung rinh như gợn sóng. Đàn chim gáy ở
đâu bay về gù vang cánh đồng, như hòa nhịp với tiếng hát trên các thửa ruộng.
Các tổ lao động đang thoăn thoắt đưa tay hái, xén ngang từng bụi lúa…
a) Tìm những từ tả màu sắc của cánh đồng lúa chín.
b) Ngoài màu sắc (nhìn thấy), đứng ở cánh đồng lúa chín, tác giả còn ngửi
thấy mùi gì và nghe thấy âm thanh như thế nào?
Bài 6. Đọc các câu văn sau (chú ý các từ ngữ in nghiêng).
1. Sáng sớm, chú gà trống nhà tôi đã cất tiếng gáy ò…ó…o.
2. Cô chổi rơm khoác chiếc áo vàng óng.
3. Hương lúa nếp thơm nồng nàn.

13


Em hãy nối những từ ngữ chỉ giác quan được sử dụng dùng để quan sát
với từ ngữ chỉ đặc điểm tương ứng:
Mắt (nhìn)

Thơm nồng nàn

Tai (nghe)

Gáy ò…ó…o

Mũi (ngửi)

Vàng óng


Bài 7. Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi ghi ở bên dưới:
Đêm về khuya lặng gió. Sương phủ trắng mặt sông. Những bầy cá nhao lên
đớp sương tom tóp, lúc đầu còn loáng thoáng, dần dần tiếng tũng toãng xôn xao
quanh mạn thuyền.
(Lê Lựu)
a) Đoạn văn tả cảnh gì?
b) Tác giả chọn tả những sự vật nào trong cảnh đó?
c) Để thấy được đặc điểm của từng sự vật, tác giả đã sử dụng giác quan nào
để quan sát?
Bài 8. Em chọn câu trả lời nào dưới đây:
Để phát hiện ra đặc điểm từng sự vật, ta thường sử dụng:
a) Mắt ( thị giác)
b) Tai (thính giác)
c) Mũi ( khứu giác)
d) Lưỡi ( vị giác)
e) Kết hợp tất cả các giác quan trên
- Câu trả lời em chọn: ……………………………………………………..
+Bài tập vận dụng
Bài 1. Em hãy sử dụng thị giác (mắt) để quan sát một số đồ vật trong ở nhà
hoặc ở lớp và ghi các đặc điểm nổi bật của chúng vào các cột phù hợp trong
bảng dưới đây.
STT Tên đồ vật
1
2
3

Cái bàn học
Cái chổi quét
nhà
Cái thước kẻ


4

Cái tủ đứng

Hình dáng

Chất liệu

Màu sắc

Công dụng
(dùng để làm gì?)

14


Bài 2: Em hãy vận dụng các giác quan để quan sát hình dáng và các hoạt
động của con mèo nhà em (nhà hàng xóm), ghi kết quả quan sát theo gợi ý sau:
(chú ý sử dụng các từ chỉ đặc điểm, màu sắc).
Ria…………………………
Đầu:……………………
.. ……………..mép:………………
Bộ lông :………..………
Mũi:……………………
Tiếng kêu:……..………
Lúc bắt chuột:
Lúc được ăn:
………………
………………


Bài 3. Em hãy sử dụng vị giác (lưỡi), thị giác (mắt), xúc giác (mũi) để quan sát
một loại quả trái cây mà mình yêu thích và ghi kết quả quan sát theo gợi ý sau:
Màu sắc:……………………….
QUẢ

Mùi vị:…………………………
Hương thơm:…………………..

Bài 4. Em hãy sử dụng thị giác (mắt), thính giác (tai nghe) để quan sát bầu trời,
con người, cảnh vật khi cơn mưa sắp đến theo gợi ý sau (Chú ý sử dụng từ chỉ
đặc điểm, màu sắc,…)
Người đi trên đường:……………...
Cơn mưa
rào sắp
đến

Mây: ………………………………
Gió:………………………………..
Cây cối: …………………………

Trên đây là hệ thống bài tập tôi xây dựng để giúp học sinh làm quen với
miêu tả. Với một tổ hợp bài tập như trên, tôi hi vọng sẽ đáp ứng nhu cầu nhận
thức của học sinh lớp 2-3, đồng thời kích thích được sự say mê, hứng thú của
15


các em trong quá trình học tập để nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học Tập làm
văn nói chung và văn miêu tả nói riêng. Từ đó, các em sẽ có những kiến thức
vững chắc về ngôn ngữ và sử dụng chúng như một công cụ đắc lực trong quá

trình học tập.
4.Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường
Căn cứ vào thực trạng dạy học văn miêu tả trong nhà trường Tiểu học, tôi
đã tiến hành thiết kế một số bài tập giúp học sinh lớp 2-3 rèn kĩ năng quan sát,
tìm ý trong văn miêu tả. Tuy nhiên, các bài tập này có đáp ứng được nhu cầu
nhận thức hay không, nó có thực sự mang lại hiệu quả cao rèn kĩ năng quan sát,
tìm ý trong dạy học văn miêu tả hay không, tôi cần có thực tế để kiểm nghiệm.
Tôi đã tiến hành thực nghiệm kiểm tra tính khả thi của các bài tập được xây
dựng ở chương III trên đối tượng học sinh lớp 2-3. Trong phạm vi đề tài này, tôi
kiểm tra một phần vấn đề nghiên cứu như sau:
- Kiểm tra tính vừa sức của các bài tập đối với học sinh lớp 2-3
- Kiểm tra hiệu quả của hệ thống bài tập
Nếu giả định rằng các bài tập phù hợp với học sinh, các em làm bài tập đạt
hiệu quả cao thì các bài tập đó có thể đưa vào nhà trường dạy bổ trợ để rèn luyện
các kĩ năng quan sát, tìm ý trong văn miêu tả cho học sinh lớp 2-3 vào các buổi
thứ hai (với các lớp học 2 buổi/ngày).
+ Nội dung thực nghiệm.
Để đạt được mục đích thực nghiệm đã nêu trên, tôi tiến hành soạn các bài
kiểm tra đầu vào, bài kiểm tra đầu ra và sử dụng các bài tập được thiết kế ở
chương II để dạy thực nghiệm.
- Bài kiểm tra đầu vào:
1. Hãy đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:
Nhà em có một chú mèo rất đáng yêu. Lông chú mượt mà như được chải
bằng dầu chải tóc. Trên khuôn mặt tròn trĩnh là đôi mắt sáng, mở to. Trông
dáng điệu chú thế thôi nhưng chú bắt mèo rất giỏi. Có một hôm, em thấy chú
khum bốn cái chân lại, ngoe nguẩy cái đuôi lấy đà.Chỉ trong một lát con chuột
đã nằm gọn trong nanh vuốt của chú. Có chú nhà em yên tâm vì chẳng có con
chuột nào đến quấy phá.


16


a) Ghi lại các từ chỉ đặc điểm hình dáng của chú mèo.
b) Tìm câu văn miêu tả hoạt động đáng yêu của chú mèo.
2. Em hãy đánh dấu X vào ô trống trước ý mà em lựa chọn.
Một con vật cần tả theo trình tự:
Từ hình dáng đến hoạt động.
Từ hoạt động đến hình dáng.
3. Em hãy ghi lại những từ chỉ đặc điểm, màu sắc thường nói về hình dáng
của con vật.
- Bộ lông:……………………………………………...……………………
- Mắt:………………………………………………………………………
- Mũi:………………………………………………………………………
- Tai:………………………………………………………………………
4. Đọc đề bài sau và thực hiện các yêu cầu ở dưới:
Đề bài: Hãy viết một đoạn văn ngắn (5-7 câu) tả một con vật mà em thích nhất.
a) Trả lời câu hỏi sau:
- Đề yêu cầu em làm gì?
- Em chọn tả con vật nào?
b) Hãy tả một con vật em thích theo yêu cầu đề bài.
1.3. Đối tượng dạy thực nghiệm
Đối tượng: học sinh 2 lớp 2A, 2B Trường Tiểu học Dân Lý, huyện Triệu
Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Tiêu chuẩn để lựa chọn các lớp dựa vào một số căn cứ sau:
- Số lượng học sinh ở lớp thực nghiệm và lớp đối chứng phải tương đương
nhau.
- Trình độ nghiệp vụ và năm công tác của các giáo viên chủ nhiệm lớp 2 là
tương đương nhau.
Trong các tiêu chuẩn này thì tiêu chuẩn về học lực và khả năng nhận thức

của học sinh ở môn Tiếng Việt được tôi chú ý hơn cả. Bởi lẽ yếu tố này có tính
17


quyết định trong việc đảm bảo tính chính xác, khách quan của quá trình thực
nghiệm. Do vậy, trước khi tiến hành thực nghiệm, tôi đã tiến hành điều tra kết
quả xếp loại học lực của học sinh lớp 2 ở hai lớp.
+ Tổ chức thực nghiệm
Chuẩn bị thực nghiệm
- Tôi tiến hành cho 30 học sinh ở lớp thực nghiệm mà tôi đã chọn vào
phòng học riêng. Lớp đối chứng vẫn học như bình thường.
- Tôi tiến hành dạy các bài tập, sau đó, kiểm tra bài tập mà học sinh làm.
- Các bài tập dùng để thử nghiệm ở lớp thực nghiệm được tôi in sẵn trên
giấy, các em đều được làm trực tiếp trên bài.
Tiến hành thực nghiệm
* Các bước thực nghiệm
- Bước 1: Thành lập tổ chức thực nghiệm gồm: giáo viên dạy thực nghiệm
(khối trưởng khối 2)
- Bước 2: Trình bày ý đồ thực nghiệm và hai hệ thống bài tập mà tôi dự
định sẽ tiến hành thực nghiệm tại các lớp thực nghiệm cho các giáo viên trực
tiếp giảng dạy nghiên cứu để tiến hành dạy trong thời gian thực nghiệm.
- Bước 3: Tiến hành dạy thực nghiệm và đối chứng
Lớp thực nghiệm: Giáo viên nghiên cứu và dạy theo hệ thống bài tập thực
nghiệm.
Lớp đối chứng: Giáo viên dạy bình thường theo hệ thống bài tập trong
SGK.
- Bước 4: Phát phiếu kiểm tra đầu ra cho lớp thực nghiệm và lớp đối chứng.
- Bước 5: So sánh, nhận xét, đánh giá kết quả thực nghiệm và rút ra kết luận.
Kết quả thực nghiệm
Đánh giá về mặt hứng thú của học tập của học sinh

+ Mức độ thích: Chăm chú nghe giảng, hăng hái phát biểu, giờ học sôi nổi.
+ Mức độ bình thường: Nghe cô giáo giảng bài, phát biểu ý kiến.
+ Mức độ không thích: Không chăm chú nghe giảng, không phát biểu ý
kiến, không hợp tác làm việc, thảo luận cùng nhóm.
Đánh giá kết quả kiến thức (sự hiểu biết về trình tự tả, cách tả, ngôn từ
trong văn miêu tả), kỹ năng viết đoạn văn ngắn. Thang điểm đánh giá kiến thức,
kỹ năng miêu tả của học sinh chúng tôi dựa vào quy định chung về mức điểm
mà Bộ giáo dục đưa ra:
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
Phân tích kết quả thực nghiệm
Dựa vào tiêu chí đánh giá trên, tôi thu được kết quả như sau:
a) Bảng thống kê kết quả kiểm tra đầu vào và đầu ra:

18


HTT
HT
CHT

Lớp thực nghiệm- Lớp 2A
Đầu vào
Đầu ra
SL
%
SL
%
12

40
16
53
13
43
12
40
5
17
2
7

Lớp đối chứng- Lớp 2B
Đầu vào
Đầu ra
SL
%
SL
12
40
13
14
47
14
4
13
3

%
43

47
10

Như vậy, nhìn vào bảng thống kê kết quả kiểm tra đầu vào và kiểm tra đầu
ra của học sinh ta thấy kết quả học văn miêu tả tăng đáng kể. Tỉ lệ học sinh đạt
điểm giỏi ở lớp thực nghiệm tăng 13%, trong khi đó ở lớp đối chứng tỉ lệ học
sinh giỏi chỉ tăng 3%.
Tỷ lệ học sinh đạt điểm khá ở lớp thực nghiệm giảm 3%. Số học sinh khá
giảm sút là do số học những em đạt mức khá ở bài kiểm tra đầu vào đã vươn lên
đạt điểm giỏi. Điều đó chứng tỏ số học sinh trung bình ở lớp thực nghiệm đã
giảm đi đáng kể. Trong khi đó, ở lớp đối chứng số học sinh giỏi tăng không
đáng kể, số học sinh trung bình vẫn giữ vững.
Từ kết quả thực nghiệm trên, ta thấy các bài tập giúp học sinh làm quen với
văn miêu tả đã mang lại hiệu quả đáng mừng.
Để kiểm nghiệm lại điều này, tôi đã xem xét lại bài kiểm tra của học sinh
và tìm hiểu hứng thú của học sinh. Kết quả cho thấy các em học sinh ở lớp học
đối chứng thường sai ở chỗ không biết cách vận dụng những từ ngữ chỉ đặc
điểm, màu sắc vào viết đoạn văn. Tuy nhiên, sau khi tiến hành thực nghiệm thì
tôi nhận thấy học sinh lớp thực nghiệm không mắc các lỗi trên và khả năng quan
sát, tìm ý viết các câu văn miêu tả tiến bộ hẳn.
Để kiểm nghiệm lại điều này, tôi đã xem lại bài kiểm tra của hai lớp để tìm
hiểu lí do dẫn đến sự chênh lệch này. Kết quả tôi thu được đó là: ở lớp thực
nghiệm, trong quá trình dạy, học sinh được cung cấp những kiến thức về đối
tượng miêu tả, trình tự miêu tả, cách vận dụng các từ ngữ, biện pháp nghệ thuật
vào viết văn miêu tả nên nhận diện các kiến thức về miêu tả tốt hơn, viết đoạn
hay hơn.
III, PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận:
Dạy văn miêu tả cho học sinh đầu bậc tiểu học là rất quan trọng. Đây
chính là yếu tố tạo nên nền tảng ban đầu giúp học sinh học văn miêu tả ở lớp

trên tốt hơn. Tuy nhiên, ở lớp 2-3 các bài tập dạy văn miêu tả cho học sinh đã
được chú trọng nhưng chưa đồng đều và thường xuyên; giáo viên chưa nhận
thức được tính hướng đích của các bài tập; học sinh gặp nhiều khó khăn trong
việc tập viết đoạn văn miêu tả, học sinh chỉ quan sát đối tượng miêu tả theo cách
cảm tính. Cho nên việc xây dựng hệ thống bài tập rèn kĩ năng quan sát, tìm ý
trong văn miêu tả cho học sinh lớp 2-3 là điều cần thiết.
Học sinh quan sát tìm ý trước khi làm bài tập làm văn thực sự là một vấn đề
cần thiết và quan trọng. Giáo viên phải tạo điều kiện cho các em luyện tập trình
tự quan sát, cách quan sát đối tượng miêu tả - là một công việc thuộc nguyên tắc
19


dạy học làm văn miêu tả. Giáo viên rèn tốt kĩ năng quan sát - tìm ý, học sinh
phải tập quan sát bằng nhiều giác quan khác nhau. Tuy vậy giáo viên cũng cần
hướng dẫn các em quan sát, phải huy động vốn sống, khả năng tưởng tượng và
cảm xúc rồi chép lại. Trong giờ học, giáo viên phải hướng dẫn các em, nhận xét,
uốn nắn, chuẩn bị ứng phó với các tình huống sư phạm. Giờ Tập làm văn đảm
bảo theo hướng đổi mới phương pháp dạy học, lấy học sinh làm trung tâm, các
em được học tập tích cực, chủ động và sáng tạo suy nghĩ độc lập, tự nhiên,
không gò bó, rập khuôn máy móc. Tuy nhiên học sinh vẫn còn một số khó khăn
khi quan sát tìm ý. Vì vậy đòi hỏi giáo viên phải linh hoạt và sáng tạo trong việc
rèn kĩ năng quan sát, tìm ý cho học sinh. Giáo viên phải động viên và khuyến
khích các em mạnh dạn, tích cực hơn. Có như vâỵ học sinh mới có thể học tốt
môn tập làm văn ở lớp 2,3 cũng như ở bậc tiểu học.
Giáo viên phải có năng lực chuyên môn vững vàng, phải có vốn kiến
thức, có vốn từ ngữ, vốn hiểu biết phong phú để có thể giúp đỡ hoặc cung cấp
thêm kiến thức cho các em.
Khi học các giờ Tâp đọc, Luyện từ và câu, các đoạn văn bài văn miêu tả,
giáo viên không ngừng sáng tạo, vận dụng linh hoạt hệ thống bài tập khi giảng
dạy sao cho phù hợp với trình độ năng lực của học sinh, phù hợp với điều kiện

vùng miền nơi các em sinh sống.
Giáo viên phải có tinh thần tự học tự nhằm nâng cao năng lực bản thân.
Giáo viên phải có tinh thần trách nhiệm, luôn quan tâm đến học sinh, hết
lòng vì học sinh. Trong từng tiết dạy giáo viên phải hướng dẫn học sinh hết sức
cụ thể, nhận xét sửa chữa bài làm của học sinh một cách tỉ mỉ, rõ ràng.
Giáo viên phải có sự chuẩn bị bài tốt, có đồ dùng dạy học đầy đủ sinh động.
Thường xuyên động viên khuyến khích học sinh.
Đối với học sinh: Các em phải có tinh thần và ý thức học tập tốt, luôn có ý
thức vươn lên trong học tập.
Các em phải có sự chuẩn bị bài chu đáo, phải trau dồi để có được vốn từ ngữ
và vốn hiểu biết phong phú qua các phân môn các bài học trong chương trình
hoặc tham khảo thêm qua sách báo, tài liệu tham khảo.
Trong giờ học các em phải chú ý nghe thầy cô giảng bài, tích cực phát biểu
xây dựng bài, lắng nghe lời nhận xét của thầy cô để tiếp thu những ưu điểm và
biết sửa chữa những tồn tại của mình.
2. Kiến nghị:
Đối với nhà trường, Phòng Giáo dục và Đào tạo nên thường xuyên mở
các đợt chuyên đề, hội thảo về phương pháp dạy phân môn Tập làm văn ở tất cả
các khối lớp để các giáo viên được tham gia dạy cũng như dự giờ nhằm nâng
cao năng lực chuyên môn.
Nhà trường nên trang bị thêm nhiều tài liệu, sách tham khảo,bộ tranh
Tiếng Việt cho giáo viên và học sinh để giáo viên và học sinh có thể tham khảo
thêm.
Tạo điều kiện cho các em được dã ngoại, giao lưu các câu lạc bộ về Tiếng
Việt.
20


Nên tổ chức các kì thi học sinh giỏi văn các cấp nhằm khuyến khích động
viên cũng như phát hiện, bồi dưỡng và phát triển những tài năng của học sinh.

Trên đây là một số suy nghĩ tìm tòi của tôi trong quá trình nghiên cứu hệ
thống bài tập rèn kĩ năng quan sát và trả lời câu hỏi trong phân môn Tập làm văn
cho học sinh lớp 2-3, mong được cùng chia sẻ với các bạn đồng nghiệp. Tôi
mong nhận được những bổ sung, góp ý của các bạn đồng nghiệp để tôi có nhiều
kinh nghiệm hơn nữa trong dạy học.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Dân Lý, ngày 15 tháng 4 năm2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết

Lê Thị Tình

Tài liệu tham khảo
1.GS-TS Lê Phương Nga: “Phương pháp dạy học Tiếng Việt”-Nhà xuất bản GD.
2.GS-TS Lê Phương Nga-Nguyễn Trí: “Phương pháp dạy học Tiếng Việt”-Nhà
xuất bản GD.
3.GS-TS Bùi Văn Duệ: “Tâm lí Tiểu học”-Nhà xuất bản GD.
4.Sách giáo khoa lớp 2,3.
5.Sách giáo viên lớp 2,3.
6.Sách thiết kế lớp 2,3.

21




×