Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số biện pháp nâng cao chất lượng giờ dạy kể chuyện lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.95 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
Trang
1- Mở đầu

1

1.1. Lý do chọn đề tài

1

1.2. Mục đích nghiên cứu

2

1.3. Đối tượng nghiên cứu

2

1.4. Phương pháp nghiên cứu

2

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

3

2.1. Cơ sở lý luận

3

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN



5

2.3. Các giải pháp thực hiện

9

2.4. Hiệu quả của SKKN

16

3. Kết luận và kiến nghị

17

4. Phụ lục

19

5. Tài liệu tham khảo

21

-1-


1- MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài :
Mục tiêu giáo dục tiểu học hiện nay là "hình thành cho học sinh những cơ sở
ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về tình cảm, trí tuệ, thể chất và các

kỹ năng cơ bản để học tiếp trung học hoặc đi vào cuộc sống lao động" .
Trong hệ thống môn học ở tiểu học, Tiếng Việt là môn học rất quan trọng, nó
được coi là môn học công cụ để học tốt các môn học khác. Tiếng Việt gồm nhiều
phân môn trong đó có phân môn Kể chuyện. Các phân môn Tiếng Việt có quan hệ
chặt chẽ với nhau, học tốt phân môn này sẽ giúp cho học các phân môn khác được
tốt hơn.
Với kể chuyện, phải nói nó là một món ăn tinh thần không thể thiếu được
trong cuộc sống mà đặc biệt là với trẻ em. Các em rất thích nghe kể chuyện, từ 3 4 tuổi các em đã được nghe những lời kể của bà , của mẹ, của cô giáo. Niềm say
mê chuyện càng ngày càng lớn dần cùng độ tuổi các em. Tuy đã biết đọc, biết viết
nhưng trẻ vẫn thích nghe kể chuyện. Mỗi câu chuyện lạ, mỗi tình huống hấp dẫn
đều có sức thu hút mạnh mẽ sự chú ý của các em. Do đó phân môn kể chuyện có
trong chương trình tiểu học trước tiên là để thoả mãn nhu cầu muốn nghe chuyện
của các em. Nhưng bên cạnh đó, kể chuyện còn là một phương tiện giáo dục rất
quan trọng và rất có hiệu quả. Qua mỗi tiết kể chuyện tất cả những hiểu biết của
các em về từ ngữ, ngữ pháp, khả năng nghe, đọc , nói, viết Tiếng Việt, vốn hiểu
biết về cuộc sống... đều được vận dụng một cách hợp lý, sáng tạo. Đặc biệt là qua
kể chuyện mà kỹ năng nghe và nói được rèn luyện nhiều hơn. Kể chuyện giúp cho
các em biết diễn đạt vấn đề một cách trôi chảy, lưu loát, biết biến câu chuyện được
nghe (hoặc đọc), thành sản phẩm của mình để kể lại. Mặt khác qua kể chuyện mà
giáo dục tình cảm cho các em, giúp các em biết phân biệt rõ ràng giữa yêu và
ghét, giữa thích hay không thích....biết sống có lý tưởng, vươn tới cái đẹp và hành
động vì cái đẹp.
Nhiệm vụ của môn kể chuyện ở tiểu học là : Bồi dưỡng tâm hồn trẻ,
góp phần hình thành nhân cách và cảm xúc thẩm mỹ lành mạnh, làm giàu
thêm vốn sống và vốn hiểu biết của trẻ, phát triển tư duy và nâng cao trình
độ Tiếng Việt cho trẻ, làm phong phú vốn từ ngữ - giúp các em làm quen
với cách ứng xử ngôn ngữ trong nhiều lĩnh vực giao tiếp khác nhau, cảm
nhận được cái hay cái đẹp của Tiếng Việt.

-2-



Với mục tiêu giáo dục và vị trí, vai trò, nhiệm vụ của phân môn Kể chuyện
như vậy, làm thế nào để nâng cao chất lượng giờ dạy kể chuyện? Liệu có một giải
pháp hữu hiệu nào để các giờ kể chuyện luôn hấp dẫn và lôi cuốn hứng thú của
các em không ? Đó là điều tôi cũng như nhiều người làm công tác giáo dục rất
băn khoăn và lo nghĩ. Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài "Một số biện pháp nâng
cao chất lượng giờ dạy kể chuyện lớp 4”. Với mong muốn góp phần vào việc đổi
mới phương pháp, nâng cao chất lượng dạy học môn kể chuyện.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn nhằm tìm ra biện pháp nâng cao
chất lượng môn kể chuyện ở lớp 4 theo phương pháp tích cực, lấy học sinh làm
trung tâm.
Để đạt được mục đích trên cần tháo gỡ những vướng mắc khó khăn cho
giáo viên, học sinh trong quá trình dạy và học phân môn kể chuyện. Nâng cao
chất lượng và hiệu quả dạy học phân môn này.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tương nghiên cứu: Trong đề tài này tôi tìm hiểu một số nguyên nhân
dẫn đến chất lượng dạy phân môn Kể chuyện đạt hiệu quả thấp và đề ra một số
biện pháp nhằm khắc phục những tồn tại đó góp phần nâng cao chất lượng dạy
phân môn Kể chuyện cho học sinh lớp 4.
Phạm vi nghiên cứu: Là học sinh lớp 4 nơi tôi công tác.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp đọc, nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp điều tra, khảo sát
- Phương pháp phỏng vấn, thu thập số liệu
2. NỘI DUNG nghiªn cøu
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Cơ sở văn học:
2.1.1.1 Đặc trng cơ bản của truyện

Truyện kể trong chương trình Tiểu học chính là tác phẩm văn học. Do đó
truyện kể mang đầy đủ đặc trưng cơ bản của một tác phẩm truyện. Bao gồm :
- Truyện được sáng tác chủ yếu bằng văn xuôi để miêu tả cuộc sống một
cách sinh động trên cơ sở tình tiết của cốt truyện.

-3-


- Truyện có nhân vật và người kể : Trong truyện thường xuất hiện nhân vật
chính, nhân vật phụ, nhân vật tích cực, nhân vật tiêu cực,...
- Truyện phải có lời kể. Lời kể đi đôi với việc lựa chọn ngôn ngữ, điệu bộ
cho phù hợp với nội dung truyện làm cho truyện thêm hấp dẫn.
- Nói đến truyện là nói đến hư cấu . Chính đặc điểm này mới làm cho câu
chuyện thêm sinh động, hấp dẫn.
2.1.1.2. Chức năng văn học của truyện.
- Chức năng nhận thức và dự báo. Giúp người đọc hiểu sâu thêm về cuộc
sống. Qua truyện, người đọc có thể nhận ra những biến động của lịch sử, xã hội.
- Chức năng thẩm mỹ và giải trí:
Khi phản ánh cuộc sống, truyện kể có chức năng làm thoả mãn nhu cầu về
cái đẹp, trau dồi năng lực và thị hiếu thẩm mỹ cho con người. Cái đẹp trong
truyện là cái đẹp được chọn lọc có tính chất điển hình, có chất lượng cao và mới
mẻ hơn đời thường, nó có khả năng nuôi dưỡng những cảm xúc thẩm mỹ cho con
người, giúp con người có khả năng hành động, sáng tạo hướng tới cái đẹp. Ngoài
ra, truyện còn đem đến cho con người khoái cảm thưởng thức, tiếp nhận. Đó
chính là chức năng giải trí của truyện.
- Chức năng giao tiếp và giáo dục:
Văn học giáo dục con người bằng tư tưởng, tình cảm, tính cách nhân vật.
Mỗi câu chuyện có một sự tác động theo một xu hướng đạo đức khác nhau, song
đều nhằm hoàn thiện con người. Đối với trẻ em mỗi bài học đạo đức rút ra từ câu
chuyện đều có tính giáo dục rất lớn. Truyện giúp các em biết trách cái xấu, hướng

tới cái đẹp. Qua việc đọc truyện, kể chuyện, chức năng giao tiếp của các em được
hình thành .
2.1.2..Những cơ sở tâm lý, giáo dục học:
2.1.2.1. Cơ sở tâm lý học
Các nhà tâm lý khẳng định các em là những thực thể hồn nhiên, vô tư, tiềm
tàng một khả năng của mình do người lớn tổ chức. Tiếp xúc với thế giới xung
quanh các em biết nhận xét, đánh giá theo chuẩn mực của các em. Tất cả hiện tại,
tương lai đối với các em đều rất đơn giản và bí ẩn, bởi vậy mà các em rất thích
nghe kể chuyện.
Đối với các em, đến với truyện như đến với sự ly kỳ, hấp dẫn. Nghe kể
chuyện là nhu cầu không thể thiếu được đối với các em, bởi truyện có ảnh hưởng
-4-


rất lớn đến sự biến đổi tâm lý. Trong sự biến đổi đó, đáng chú ý hơn cả là các thao
tác tư duy dần dần được hình thành. Ở lứa tuổi 6 đến 11, 12 tuổi các em có khả
năng tư duy sáng tạo và tư duy tưởng tượng phong phú đa dạng. Chính những khả
năng đó làm cho các em có một cảm xúc thực sự, biết vui, buồn, yêu, ghét những
hình ảnh do chính mình tưởng tượng ra. Mặt khác, các em còn có khả năng cảm
thụ cái hay, cái đẹp của truyện, biết đánh giá nó và lựa ngôn ngữ thích hợp để kể
lại .
2.1.2.2. Cơ sở giáo dục học:
Lứa tuổi từ 6 đến 11, 12 là lứa tuổi nhân cách đang hình thành. Do đó, giáo
dục trẻ trong nhà trường luôn là vấn đề phải được quan tâm.
Có nhiều hình thức giáo dục trẻ song giáo dục trẻ bằng văn học, đặc biệt qua
các tác phẩm truyện là hình thức dễ đi vào tâm hồn trẻ nhất. Tuy nhiên, cần có
phương pháp sử dụng nó sao cho hợp lý và khoa học là việc làm khó, bởi mỗi câu
chuyện nó chứa đựng một tình huống và một bài học đạo đức riêng, vấn đề quan
trọng là người dạy phải giúp các em rút ra được điều cần học tập.
Mặc dù vậy, trẻ em vốn thông minh, giàu tưởng tượng nên các em dễ hoà

nhập với nhân vật, cốt truyện để tìm ra cái hay, cái đẹp trong đó. Đến với tác
phẩm các em sẽ thấy thế giới xung quanh như đẹp hơn, sống động hơn. Sống với
cái đẹp, cái tốt trong truyện, trẻ em sẽ từng bước vươn tới những ước mơ đẹp đẽ,
những tình cảm cao quý, những việc làm đáng khen. Đây chính là chức năng giáo
dục của truyện được dùng để hướng các em vươn tới cái Chân - Thiện - Mỹ. Các
em biết tự điều chỉnh mình để trở thành người có nhân cách hoàn thiện.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Đối với giáo viên
2.2.1.1. Việc dạy môn Kể chuyện ở trường tiểu học hiện nay.
Qua tìm hiểu tôi được biết hầu hết giáo viên đều xác định đúng vai trò, trách
nhiệm của mình đối với học sinh. Song với riêng phân môn Kể chuyện thì chưa
có sự quan tâm đúng mức vì họ cho rằng kể chuyện chỉ để giải trí cho các em, còn
nhiều môn khác quan trọng hơn cần đầu tư nhiều. Từ đó, sự chuẩn bị của giáo
viên và học sinh không chu đáo dẫn đến tiết dạy học kể chuyện kết quả chưa cao.
- Giáo viên chưa chịu khó đọc và tìm hiểu kĩ câu truyện mình định dạy trước
khi lên lớp. Chính vì vậy giọng kể của giáo viên chưa lôi cuốn được HS
- Nhiều giáo viên chưa chú ý khuyên khích, tạo cho học sinh sự say mê đọc
sách, chưa giáo dục học sinh ý thức giữ gìn sách vở, coi sách là bạn và chưa
-5-


- Một số giáo viên lên lớp còn dạy chay, chưa chuẩn bị đồ dùng dạy học để
minh hoa cho tiết dạy thêm sinh động. Chưa tìm hiểu kĩ nên chưa giao được
nhiệm vụ cho học sinh cần chuẩn bị những gì cho tiết học kể chuyện tới.
Thực tế cho thấy nhiều giáo viên rất ngại dạy tiết kể chuyện trong các giờ
thao giảng, dự giờ thăm lớp vì sợ khâu kể chuyện không hấp dẫn, không biết khai
thác đầy đủ nội dung ý nghĩa để rút ra bài học đạo đức cho học sinh và rất ít học
sinh biết kể lại câu chuyện một cách trôi chảy, mạch lạc.
Đối với những giáo viên có tâm huyết với nghề và dày dạn kinh nghiệm thì
họ cho rằng kể chuyện là một môn học hấp dẫn, thú vị nhưng làm sao để khai thác

và chuyển tải hết nội dung, ý nghĩa câu chuyện đến với học sinh là cả một vấn để
khó. Đó chính là vấn đề nan giải mà chúng ta cần tháo gỡ.
2.2.1.2. Quy trình dạy học môn kể chuyện hiện nay.
2.2.1.2.1. Dạy bài kể chuyện nghe thầy cô kể trên lớp.
Quy trình được tiến hành 4 bước:
Bước 1: Giáo viên ổn định lớp, kiểm tra sỹ số, cho học sinh hát .
Bước 2: Kiểm tra bài cũ: Căn cứ vào tình hình của lớp giáo viên gọi
khoảng vài em nhắc lại kiến thức cũ bằng cách:
- Nhắc tên truyện. - Kể một đoạn chuyện và tìm các nhân vật.
- Nêu bài học đạo đức rút ra từ truyện.
Bước 3:

Bài mới:

a) Giới thiệu truyện ( trực tiếp hoặc gián tiếp).
b) Giáo viên kể
- Giáo viên kể lần 1. Kể phân biệt lời của các nhân vật.Học sinh nghe. Giáo
viên kết hợp giải nghĩa từ khó trong truyện.
- Giáo viên kể lần 2, vừa kể vùa chỉ vào tranh minh họa trong sách giáo
khoa. Học sinh nghe kết hợp nhìn tranh minh hoạ. Giáo viên kể lần 3 ( nếu cần).
c) Hướng dẫn học sinh thực hiện các yêu cầu của bài tập.
-Học sinh tập kể chuyện:
+ Kể từng đoạn nối tiếp nhau trong nhóm.
+ Kể cả câu chuyện trong nhóm.
+ Kể cả câu chuyÖn trước lớp.
- Học sinh tìm hiểu nội dung, ý nghĩa của câu chuyện:
+ Nói về nhân vật chính.;
-6-



+ Nói về ý nghĩa câu chuyện.
Bước 4: Củng cố dặn dò.
2.2.1.2.2 Dạy bài kể chuyện đã nghe, đã đọc, đã chứng kiến hoặc tham gia.
Bước1 : Kiểm tra bài cũ.
Bước 2: Giới thiệu bài mới: Giáo viên giới thiệu yêu cầu kể chuyện của tiết học.
Bước 3: Bài mới.
- Học sinh tìm những ví dụ phù hợp với yêu cầu của đề bài( theo gợi ý của
sách giáo khoa)
-

Học sinh tập kể chuyện. Kể trong nhóm; Kể trước lớp.

-

Học sinh trao đổi với nhau về nội dung, ý nghĩa câu chuyện.

+ Nói về nhân vật chính; Nói về ý nghĩa câu chuyện.
Bước 4: Củng cố dặn dò.
Với quy trình này, nó đã trở thành nếp quen thuộc trong giáo viên và học
sinh nên nó đơn giản, dễ thực hiện song chưa đảm bảo phát huy hết tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của học sinh.
Qua thực tế ta thấy rằng, cần có một quy trình và phương pháp dạy kể
chuyện mới hơn, phù hợp với yêu cầu giáo dục hiện nay.
2.2.2. Tìm hiểu tình hình học của học sinh.
Ngay từ đầu năm học, sau khi nhận lớp, tôi đã tiến hành đánh giá phân loại
học sinh trong lớp, nắm bắt tình hình điều kiện gia đình của từng em để dễ dàng
hơn trong việc giúp đỡ học tập cho các em. Cụ thể: lớp tôi chủ nhiệm có 30 HS.
trong đó: 5 em có bố hoặc mẹ là cán bộ, công nhân như em Đức, em Bình, em
Mai, em Hanh, em Thủy; 4 em có bố mẹ làm nghề buôn bán như em Lan, em
Hằng, em Minh, em Hiếu; số còn lại bố mẹ làm nghề nông. Có 4 gia đình điều

kiện kinh tế khó khăn thuộc hộ nghèo như em Linh, em Ánh, em Ly, em Yến; có
11 em bố mẹ đi làm ăn xa phải ở nhà với ông bà.
Để nắm được thực trạng học tập và kết quả đạt được của học sinh, tôi đã
điều tra trên 90 học sinh 3 lớp 4A, 4B và 4C trong trường. Lớp 4B là lớp thực
nghiệm, 2 lớp 4A, 4C là lớp đối chứng. Qua điều tra, khảo sát, dự giờ thăm lớp
phân loại các đối tượng học sinh theo các yêu cầu khác nhau và thu được kết quả
như sau:
Kết quả điều tra đầu năm của cả khối 4 như sau :
2.2.2.1. Khả năng thuộc truyện, kể chuyện lưu loát
-7-


Lớ
p
4B
4A
4C

Sĩ số
30
30
30

Hoàn thành
SL

23
24
23


Chưa hoàn thành
Tỉ lệ

SL

Tỉ lệ

76,7
80
76,7

7
6
7

23,3
20
23,3

2.2.2.2. Khả năng hiểu truyện, biết cách thể hiện giọng kể của các nhân
vật trong truyện
Lớ
p
4B
4A
4C

Sĩ số

Hoàn thành

SL

Chưa hoàn thành
Tỉ lệ

SL

Tỉ lệ

30
21
70
9
30
30
23
76,7
7
23,3
30
22
73,3
8
26,7
Qua tìm hiểu tôi được biết, các em rất thích học phân môn Kể chuyện. Các
em thích đọc nhiều truyện và thích mỗi tuần có nhiều tiết kể chuyện. Trong giờ kể
chuyện, các em thích nghe cô kể hơn là cô giáo đọc truyện vì cô giáo kể hẫp dẫn
hơn đọc. Thích nghe kể nhưng các em không thích kể lại chuyện cho người khác
nghe. Nếu được gọi các em chỉ kể theo gợi ý của giáo viên chứ chưa kể lại được
cả đoạn dài hay cả câu chuyện một cách trôi chảy; trong quá trình kể nhiều em

chưa biết cách ngắt nghỉ, lấy hơi, chưa phân biệt giọng kể các nhân vật có trong
truyện. Một số em thực sự rất yếu về kĩ năng này như em Lan, em Tùng, em
Hùng, em Hiếu, em Minh, em Thắng, em Toàn...
Nguyên nhân là do các em ít thâm nhập truyện, ngại đọc sách, chưa chịu khó
đọc truyện trước khi đến lớp; vì vậy mà các em chưa kịp hiểu chuyện và tổng hợp
ý để kể lại sau khi nghe cô giáo kể; một số khác chưa biết cách lập dàn ý, thâu
tóm nội dung chính của câu truyện nên khó nhớ được truyện. Mặt khác kỹ năng
kể của các em chưa được rèn luyện nhiều, kĩ năng sống rất hạn chế, rụt rè e ngại,
thiếu tự tin nên các em rất ngại kể. Ví dụ: em Lan, em Tùng, em Bình, em Hữu,
em Minh, em Thắng...
Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn có một số em biết kể lại truyện một cách trôi
chảy, hấp dẫn, biết nhập vai của nhân vật trong truyện để kể lại như em Đức, em
Bình, em Mai, em Khánh, em Linh.... Như vậy ta thấy rằng, trong các em vẫn còn
chứa một khả năng tiềm tàng về kể chuyện mà ta chưa giúp các em khai thác hết.
Nếu như có sự đầu tư nhiều hơn về thời gian, công sức và phương pháp dạy thích
-8-


hợp thì chắc chắn các em sẽ rèn luyện được kỹ năng kể chuyện hay hơn , hấp dẫn
hơn.
2.3. Những giải pháp nâng cao chất lượng dạy phân môn kể chuyện
Phân môn Kể chuyện có tầm quan trọng: tạo cho học sinh tư duy, phân
tích tổng hợp, biết cách tóm tắt, diễn đạt kĩ năng nói cho học sinh, giúp học
sinh có vốn từ ngữ, kĩ năng kể rõ ràng, diễn cảm, nhập tâm vào nhân vật khi
kể, hiểu ý nghĩa nội dung từng câu chuyện, từng kiểu bài kể kể chuyện.
Qua thời gian nghiên cứu tôi đã lựa chọn bổ sung các biện pháp sau, nhằm
giúp giáo viên và học sinh thực hiện tốt chương trình của Bộ giáo dục đề ra. Các
biện pháp đó cụ thể như sau:
2.3.1. Đổi mới phương pháp dạy học.
2.3.1.1. Phương pháp dạy học tích cực lấy học sinh làm trung tâm.

Với phương pháp dạy học này, trò tự mình tìm ra kiến thức dưới sự tổ chức,
hướng dẫn của thầy, trò chủ động thực hiện các hoạt động học. Trong giờ học hình
thức đối thoại được sử dụng nhiều. Học sinh được tiến hành đối thoại với bạn, với
thầy, có thể hợp tác với bạn để học. Thầy hướng dẫn học sinh cách làm, cách học,
cách giải quyết vấn đề, học sinh tự tìm ra kiến thức, tự đánh giá, điều chỉnh.
* Ưu điểm của phương pháp này là học sinh phát triển cao hơn về mặt nhận
thức và sáng tạo. Trong các hoạt động các em luôn được chủ động tự tìm ra cái
mới. Như vậy sẽ phát huy được trí thông minh và khả năng còn tiềm ẩn ở các em.
Vì vậy tôi đã lựa chọn phương pháp này nhiÒu hơn trong giờ dạy kể chuyện.
2.3.1.2. Phương pháp dạy học tích cực với việc dạy môn kể chuyện:
Đặc thù chính của môn kể chuyện là việc kể câu chuyện (giáo viên kể - học
sinh kể). Dạy học theo phương pháp tích cực yêu cầu giáo viên phải kể chuyện
một cách hẫp dẫn bằng ngữ điệu thích hợp với từng câu chuyện, từng nhân vật
trong chuyện...để thu hút sự chú ý của các em, từ đó các em học tập cách kể chứ
không phải đọc truyện cho học sinh nghe.
Tôi đã yêu cầu học sinh, sau khi nghe kể, phải biết kể lại câu chuyện sinh
động, hấp dẫn bằng ngôn ngữ riêng của mình . Tôi cho các em kể dưới nhiều hình
thức: kể theo lời tác giả, kể theo lời nhân vật, kể phân vai... Việc tổ chức lớp học
không nhất thiết ở trong lớp học mà có thể ở ngoài trời lồng ghép tiết hoạt động
ngoại khoá, nó có tác dụng tạo tâm thế thoải mái cho học sinh và các em rất hứng
thú với hình thức này. Khi kể chuyện, tôi không yêu cầu học sinh kể một cách
trung thành với nội dung của sách mà tôi khuyến khích các em có thể thay lời, đảo
-9-


ý nhưng phải toát lên được nội dung cốt truyện đã nghe. Với phương pháp dạy
học này, yêu cầu cả giáo viên và học sinh phải nghiên cứu kỹ trước nội dung câu
chuyện, hiểu truyện để từ đó mà tìm ra cách kể cho phù hợp.
2.3.2. Đổi mới phương pháp đối với từng kiểu bài cụ thể
2.3.2.1. Kiểu bài nghe – kể lại câu chuyện vừa nghe thầy, cô kể trên lớp

* Biện pháp 1: Giáo viên đọc và tìm hiểu kĩ câu chuyện sắp kể.
Với mỗi câu chuyện, tôi thường đọc đi đọc lại nhiều lần, nghiền ngẫm,
suy nghĩ về từng nhân vật, từng chi tiết trong truyện để hiểu truyện. Tôi luôn
tự hỏi: Câu chuyện có những nhân vật nào? Tính cách của từng nhân vật ra
sao? Cần làm rõ điều gì ở từng nhân vật? Câu chuyện này nói về điều gì? Có ý
nghĩa như thế nào? Qua câu chuyện, các em học tập được điều gì?…. Khi đã
trả lời được các câu hỏi đó tức là đã hiểu truyện, câu chuyện đã “thấm” vào
mình. Và như vậy là mình đã sống với từng nhân vật, có thế lời kể của giáo
viên (phương tiện trực quan quan trọng nhất) mới có ấn tượng sâu sắc đối với
học sinh.
* Biện pháp 2: Giáo viên chuẩn bị đồ dùng dạy học chu đáo và sử
dụng đồ dùng có hiệu quả.
– Tranh ảnh hay các mẫu vật có sức thu hút đặc biệt lớn đối với học sinh.
Để giúp học sinh nhanh nhớ và hiểu sâu sắc câu chuyện, tôi đã chuẩn bị rất cẩn
thận đồ dùng dạy học. Sử dụng tranh minh hoạ có hiệu quả sẽ có tác dụng rất
lớn đối với học sinh. Các câu chuyện ở kiểu bài 1 đều có tranh minh hoạ trong
bộ đồ dùng của Bộ Giáo Dục. Đó là những tranh vẽ đẹp được phóng to từ tranh
minh hoạ trong SGK của học sinh. Ngoài ra, tôi còn sưu tầm thêm một số bộ
tranh ảnh khác liên quan đến câu chuyện.
Ví dụ: Để phục vụ cho câu chuyện “Sự tích Hồ Ba Bể” ngoài tranh có sẵn
trong bộ đồ dùng, tôi đã sưu tầm thêm một số ảnh chụp cảnh hồ Ba Bể ngày
nay, đưa cho học sinh quan sát thêm khi giới thiệu bài hoặc khi củng cố bài.
– Để phát huy tác dụng của tranh trong SGK của học sinh, trước khi kể
chuyện lần thứ nhất, tôi yêu cầu các em quan sát tranh minh hoạ và gợi ý dưới
tranh cũng như yêu cầu các em đọc yêu cầu của giờ chuyện, nhằm giúp các em
có ấn tượng chung về câu chuyện.
– Khi kể chuyện lần 2, giáo viên vừa kể vừa chỉ tranh (treo trên bảng).
Lúc này tranh minh hoạ như điểm tựa để học sinh phát huy trí tưởng tượng khi
nghe kể chuyện, tạo thêm sức hấp dẫn cho tiết học, giúp các em ghi nhớ nội
dung câu chuyện.

– Khi các em luyện kể chuyện, các em sẽ dựa vào tranh để kể theo từng
đoạn và cả truyện. Đặc biệt những học sinh diễn đạt yếu như em Ánh, em
Minh, em Hiếu..., cùng với lời gợi ý của giáo viên thì tranh minh hoạ giúp các
em rất nhiều trong việc ghi nhớ và tái hiện câu chuyện.
* Biện pháp 3: Giáo viên rèn luyện để có cách kể chuyện hấp dẫn:
Đối với học sinh Tiểu học, thầy cô giáo luôn là “thần tượng“. Các em
luôn muốn được “như cô giáo, thầy giáo”. Vậy nên, những câu chuyện có nội
-10-


dung hấp dẫn, đầy ý nghĩa giáo dục do cô giáo, thầy giáo kể kết hợp với giọng
điệu, nét mặt, cử chỉ sinh động, luôn cuốn hút học sinh và ngay lập tức các em
cũng muốn được thể hiện giống như thế. Vậy nên, người giáo viên cần có cách
kể chuyện để hấp dẫn học sinh. Muốn vậy, trước tiên, người giáo viên cần phải
biết vượt qua sự ngại ngùng vốn có trong mỗi người và cần phải rèn luyện.
Để kể chuyện mẫu thành công, tôi đã làm một số việc sau:
– Đọc kĩ câu chuyện, hiểu câu chuyện.
– Xác định và thể hiện giọng điệu của từng đoạn truyện
Ví dụ: Truyện “Sự tích Hồ Ba Bể” – Tuần 1.
Giọng kể thong thả, rõ ràng, nhanh hơn ở đoạn 4 kể về tai hoạ trong đêm
hội, chậm rãi ở đoạn kết. Nhấn giọng những từ ngữ gợi cảm, gợi tả về hình
dáng khổ sở của bà cụ ăn xin, sự xuất hiện của con giao long, nỗi khiếp sợ của
hai mẹ con bà nông dân, nỗi kinh hoàng của mọi người khi đất dưới chân rung
chuyển.
– Xác định lời của từng nhân vật:
Ví dụ: Truyện “Búp bê của ai” – Tuần 14
+ Lời búp bê lúc đầu: tủi thân, sau sung sướng
+ Lời lật đật: oán trách.
+ Lời Nga: hỏi ầm lên, đỏng đảnh
+ Lời cô bé: dịu dàng, ân cần

– Tập kể: Sau khi đã nắm chắc nội dung, xác định rõ giọng điệu của
từng đoạn truyện, từng nhân vật, tôi tiến hành bước tập kể. Đôi khi phải luyện
kể đi kể lại nhiều lần một đoạn hoặc cả câu chuyện. Cùng với giọng điệu, tôi
cũng cần chú ý tới các yếu tố phụ trợ như cử chỉ, nét mặt, điệu bộ của mình
thay đổi phù hợp với tình tiết, diễn biến câu chuyện.
* Biện pháp 4: Kể chuyện sinh động trước học sinh
Tôi xác định đây là điều cực kỳ quan trọng và có sức thuyết phục lớn, lôi
cuốn được học sinh. Kinh nghiệm cho thấy, khi giáo viên đã chuẩn bị kĩ càng
thì đạt được điều này là điều không hề khó. Do vậy, trước mỗi câu truyện, tôi
thường tập luyện cả giọng kể, kết hợp cử chỉ, điệu bộ cho phù hợp; tôi thường
đứng trước gương để tập kể hoặc tự kể cho các con của tôi nghe để chúng góp
ý. Chính vì thế mà kết quả các tiết kể chuyên của tôi bao giờ cũng đạt hiệu quả
cao, học sinh háo hức, trông chờ để nhanh đến tiết kể chuyện.
2.3.2.2. Kiểu bài kể lại câu chuyện đã nghe, đã đọc .
* Biện pháp 1: Giao nhiệm vụ cụ thể để học sinh tìm, lựa chọn câu
chuyện đã nghe, đã đọc đúng chủ đề.
Sự định hướng của giáo viên về chủ đề của tiết kể chuyện trước đó 1
tuần là vô cùng quan trọng, góp phần không nhỏ cho thành công của tiết dạy.
Vì thế, khi yêu cầu học sinh chuẩn bị bài, tôi luôn luôn chú ý đến học sinh ở
mọi trình độ đều tìm được những câu chuyện phù hợp với khả năng của mình.
Trong một vài trường hợp cụ thể, nếu học sinh không tìm được những câu

-11-


chuyện khác thì có thể gợi ý học sinh kể lại những câu chuyện đã học trong
SGK Tiếng Việt 2, Tiếng Việt 3, Tiếng Việt 4.
* Biện pháp 2: Nhắc học sinh đọc kĩ câu chuyện.
– Học sinh đọc kĩ câu chuyện để nhớ, thâm chí là thuộc, để các em còn
phải kể lại. Theo tôi, nếu quan niệm rằng giờ Kể chuyện đã nghe, đã đọc có

thể thành công mà học sinh không cần chuẩn bị, không cần thuộc truyện thì rất
sai lầm. Dĩ nhiên là giờ kể chuyện đã nghe, đã đọc không rèn kĩ năng học thuộc
lòng. Tuy vậy, khi chuẩn bị cho giờ học, học sinh phải đọc kĩ truyện, nhờ đó
mà nhớ truyện, thuộc truyện. Trẻ em vốn có trí nhớ tốt hơn người lớn rất nhiều
nên nếu có thuộc truyện thì đó cũng là điều bình thường. Ngay cả giáo viên,
muốn kể thật trôi chảy, hấp dẫn cũng phải thuộc, phải hiểu truyện mới kể được.
Vì vậy không nên và cũng không thể cấm học sinh thuộc lòng câu chuyện các
em sẽ kể trên lớp. Tôi thường đặc biệt khen ngợi những học sinh do đọc kĩ mà
thuộc truyện, kể sinh động, biểu cảm như sống với câu chuyện, bởi vì nhờ
thuộc lòng, ngôn ngữ văn học sẽ thấm vào trẻ, dần dần chuyển hoá, đến lúc nào
đó, trẻ sẽ biết dùng lại chúng một cách tự nhiên. Khi trẻ kể được một cách sống
động nghĩa là các em đã sáng tạo, đã đưa được cảm xúc riêng của mình vào
trong câu chuyện, làm cho văn bản truyện trở thành câu chuyện của riêng
mình. Chỉ trong trường hợp kể như đọc văn bản, vừa kể vừa cố nhớ lại một
cách máy móc văn bản. Tôi mới nhận xét kể như thế chưa đạt yêu cầu vì đó là
cố gắng đọc thuộc, không phải là kể.
* Biện pháp 3: Dừng hợp lí.
Trong thực tế giảng dạy kể chuyện, bất kì giáo viên nào cũng từng gặp
trong trường hợp học sinh kể một câu chuyện khá dài. Nếu để các em kể hết
câu chuyện đó thì sẽ mất thời gian của các em khác mà cũng dễ gây ra cảm
giác chán với học sinh nghe. Nếu yêu cầu các em kể tóm tắt là một yêu cầu quá
khó mà học sinh có thể sẽ làm mất đi những chi tiết thú vị, những hình ảnh đẹp
hay từ ngữ gợi cảm. Để tạo điều kiện cho các em kể chuyện dễ dàng, tôi cho
các em dừng hợp lí hoặc cho các em tự chọn một hai đoạn mình thích để kể và
nhắc các em sẽ kể tiếp cho nhau nghe trong giờ ra chơi. Tôi làm như vậy để
nhiều em được kể chuyện, tạo được sự thi đua trong các em và không khí lớp
học sẽ thoải mái, tiết học không bị đơn điệu nhàm chán
* Biện pháp 4: Khuyến khích học sinh ham đọc sách.
Kiểu bài đã nghe, đã đọc ngoài giờ là một hình thức gắn kết chương trình
học tập của nhà trường với đời sống văn học. Chính vì vậy, tôi khuyến khích

học sinh đọc càng nhiều truyện phù hợp với lứa tuổi các em càng tốt. Và đó
cũng là mục tiêu riêng của kiểu bài này. Để tạo ra được thói quen ham đọc sách
ở học sinh cần có sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình.
– Với phụ huynh học sinh, trong những lần gặp gỡ như: họp cha mẹ học
sinh hay đến thăm gia đình, tôi đã đề nghị gia đình mua sách, báo, truyện phù
hợp với lứa tuổi các em như: Báo thiếu niên tiền phong, Truyện cổ tích … cho
các em đọc và rèn cho các em thói quen đọc sách, truyện ở nhà.

-12-


– Ở trường, tôi luôn nhắc nhở học sinh xuống Thư viện để mượn sách,
báo, truyện hay ra Tủ sách dùng chung để đọc và cùng tham gia trao đổi, bình
luận về nhân vật, về ý nghĩa câu chuyện với các em giống như một người bạn.
- Ở lớp, tôi cũng thường có mang đến cho các em đọc những quyển sách,
báo, truyện có nội dung gần gũi với các em mà tôi đã mua hoặc mượn được.
- Học sinh kể những ngoài sách giáo khoa là điều rất đáng mừng và rất đáng
khích lệ. Để khích lệ học sinh ham đọc sách, giáo viên cần có biện pháp động
viên kịp thời như thưởng thêm 1 điểm “ham đọc sách” và coi trọng lời khen,
hướng học sinh trong lớp nhận ra câu chuyện bạn kể là không có trong SGK.
2.3.2.3. Kiểu bài kể lại câu chuyện đựoc chứng kiến hoặc tham gia.
* Biện pháp 1: Giúp học sinh chuẩn bị được câu chuyện đã chứng
kiến hoặc tham gia theo đúng yêu cầu.
Kể chuyện có thực gắn với chủ điểm là một yêu cầu khó nhưng có thể
khắc phục được bằng sự chỉ dẫn của giáo viên. Điều kiện đầu tiên để dạy thành
công tiết kể chuyện chứng kiến hoặc tham gia là giáo viên giúp học sinh chuẩn
bị tốt khâu tìm truyện, khơi gợi suy nghĩ, vốn sống của học sinh, khuyến khích
các em quan sát, nhớ lại những sự việc có thật xảy ra trong đời sống xung
quanh. Tôi luôn yêu cầu học sinh chuẩn bị 1 tuần trước giờ kể chuyện. Mặc dù
đã được chuẩn bị trước một tuần nhưng sự hướng dẫn của giáo viên trong phần

phân tích, tìm hiểu đề là rất quan trọng, Khâu này, tôi sử dụng triệt để những
câu hỏi, gợi ý, dàn bài trong sách giáo khoa để giúp học sinh xây dựng câu
chuyện theo đúng yêu cầu của đề bài. Để tránh khó khăn cho học sinh đại trà,
tôi luôn nhắc học sinh của mình không cần tìm những câu chuyện li kì, phức
tạp. Điều cốt yếu là truyện có nhân vật, có ý nghĩa và phù hợp với chủ điểm.
* Biện pháp 2: Lập dàn ý chi tiết cho câu chuyện
Đây là kiểu bài mang đầy tính sáng tạo nhưng lại phải gắn với chủ điểm
nhất định nên lập dàn ý cho câu chuyện định kể sẽ giúp tôi nắm bắt được câu
chuyện ấy có đúng theo yêu cầu không? Còn học sinh sẽ dựa vào đó để diễn
đạt thành câu chuyện.
Ví dụ: Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia – Tuần 9
Đề bài: Kể một câu chuyện em được nghe chứng kiến hoặc trực tiếp
tham gia thể hiện tinh thần kiên trì vượt khó.
+ Lập dàn ý cho câu chuyện.
- Mở đầu câu chuyện: Giới thiệu nhân vật, hoàn cảnh xảy ra câu chuyện.
- Diễn biến câu chuyện: Trình bày các khó khăn mà nhân vật gặp phải và
lòng kiên trì vượt khó của nhân vật.
- Kết thúc câu chuyện: Nêu kết quả mà nhân vật đạt được hoặc nêu nhận xét
về nhân vật, về ý nghĩa câu chuyện.
* Biện pháp 3: Tăng vốn hiểu biết, vốn sống cho học sinh.
Để học tốt kiểu bài này, yêu cầu học sinh phải biết quan sát cuộc sống
xung quanh và tích cực tham gia các hoạt động, và khi các em đã có thói quen
quan sát cuộc sống xung quanh và tích cực tham gia các hoạt động bổ ích phù
hợp với khả năng thì vốn hiểu biết, vốn sống của các em đã được tăng lên.
-13-


- Đề bài: Em (hoặc người xung quanh) đã làm gì để góp phần giữ
gìn xóm làng (đường phố, trường học) xanh, sạch, đẹp? hãy kể lại câu
chuyện đó. (Tuần 24- tiếng việt 4 tập 2)

Với đề bài này, học sinh có thể kể câu chuyện của chính mình về những
việc mình đã làm góp phần cho xóm làng ….sanh, sạch, đẹp hoặc người xung
quanh làm mà em đã từng quan sát.
Với tôi, để gây ấn tượng tốt cho học sinh về kiểu bài Kể chuyện được
chứng kiến hoặc tham gia thì sự chuẩn bị của giáo viên (và cả học sinh ) là cực
kỳ quan trọng. Ngay từ tiết đầu tiên, tôi muốn cho học sinh thấy rằng: Đây là
kiểu bài kể chuyện khó nhưng không phải mình không làm được. Và quả thực,
cùng với sự chuẩn bị chu đáo, sự cố gắng hết mình của giáo viên và học sinh,
tiết học đã diễn ra hết sức sôi nổi và bước đầu đạt kết quả đáng khích lệ.
2.3.2.4. Đối với giáo viên và học sinh
a, Bước chuẩn bị: Để tiết dạy phong phú và đạt được kết quả tốt thì việc
đầu tiên phải làm tốt là chuẩn bị. Chuẩn bị cả nội dung và hình thức phục vụ tiết
dạy. Việc chuẩn bị tốt sẽ làm cho giáo viên và học sinh chủ động hơn, mạnh dạn
hơn, sắp xếp các hoạt động một cách hợp lý có khoa học.
- Giáo viên cần nắm vững cấu trúc sách giáo khoa, nắm các chủ đề của sách,
chủ đề bài học, nắm mục tiêu của tiết kể chuyện là gì? Đọc kỹ, nghiên cứu kỹ bài,
chọn một số đồ dùng phù hợp phục vụ cho các hoạt động trong tiết đó.
- Giáo viên cần soạn bài đầy đủ, kỹ.
- Giáo viên cần dạy kỹ các bài tập đọc trong các tiết học tập đọc, cho học
sinh khai thác kỹ nội dung bài học, học sinh phải được nêu nội dung chính của
bài. Bên cạnh đó học sinh cần được đọc phân vai, đọc diễn cảm... để qua phần
đọc, học sinh nắm được tính cách nhân vật, đến lúc kể các em sẽ kể thể hiện giọng
đọc tốt hơn.
- Việc chuẩn bị đồ dùng dạy học cũng rất quan trọng: Giáo viên cần sử dụng
hoặc chuẩn bị tốt ví dụ
- Với học sinh: Cần chuẩn bị kể ở nhà, sưu tầm một số tranh ảnh cho bài học
b, Các hoạt động dạy học:
* Kiểm tra bài cũ: Cần kiểm tra được kỹ năng kể và hiểu nội dung chuyện
* Phần giới thiệu bài: cần giới thiệu ngắn gọn, hấp dẫn, giới thiệu theo nhiều
cách: Trực tiếp, gián tiếp, gợi ý, gợi mở, dẫn dắt học sinh để học sinh thích thú

học. Với tính tò mò, học sinh sẽ từng bước thực hiện các hoạt động trong tiết học
một cách hào hứng, sôi nổi. Giáo viên nên thường xuyên thay đổi cách giới thiệu
bài .
-14-


- Giáo viên cần hướng dẫn cụ thể bằng cách cho HS nêu yêu cầu hoặc
GV nêu, HS nhắc lại; khuyến khích HS kể bằng lời của mình, nghe và nhận xét
lời kể của bạn, hướng dẫn từng động tác nhỏ, từng cử chỉ, điệu bộ để học sinh
nhập vai một cách tự nhiên, để đối thoại trực tiếp, thể hiện đúng giọng điệu, cử
chỉ, nét mặt. GV cần sử dụng nhiều tranh minh hoạ để hướng dẫn HS kể một
cách sáng tạo.
- GV cần tìm hiểu kỹ và quan tâm đến các đối tượng HS trong giờ học.
GV cũng cần nắm được ưu, khuyết điểm của từng HS để tháo gỡ, giúp đỡ kịp
thời cho HS đó tiến bộ dần.
- Phải thay đổi cách chia nhóm một cách linh hoạt để HS thoải mái, vui vẻ,
có tinh thần thi đua trong học tập, phát huy khả năng của mình và giúp đỡ nhau
trong học tập.
Ví Dụ:
Chia nhóm ngẫu nhiên: Tạo cảm hứng học tập vui vẻ, hoà đồng với mọi
người, Hs có thể thay GV bảo ban, giúp đỡ bạn, giúp đỡ những em yếu hơn vươn
lên và cố gắng hơn.
+ Chia nhóm theo trình độ : Kích thích tính thi đua, hăng hái học tập vượt
lên chính mình của mỗi HS.
+ Chia nhóm theo giới tính: HS mạnh dạn hơn, thể hiện giọng nhân vật tốt
hơn, tập nhập vai tự nhiên hơn.
+ Chia nhóm theo nguyện vọng: (HS tự chọn bạn cùng nhóm mình): Tạo
điều kiện để HS hiểu bạn mình hơn, HS phát triển tư duy hơn: có thể chọn những
bạn phù hợp với vai trò nhập vai theo nội dung câu chuyện. HS biết sắp xếp và
giao việc cho nhau, quyết đoán hơn trong mọi tình huống nhưng lại tôn trọng bạn

mình hơn.
- Trong các giờ dạy, GV cần có nhiều câu hỏi gợi mở, bắc cầu, chốt ý, chốt
đoạn tạo điều kiện để HS hứng thú kể phần tiếp theo.
- Cần cho HS tự nhận xét, đánh giá lẫn nhau, có thể cho điểm. GV cho HS
biết tiêu chí xếp loại sau:
+ Kể Khá, giỏi: Thuộc chuyện, thay đổi giọng kể phù hợp, diễn xuất khi
sắm vai, biết kể theo tranh, biết kể sáng tạo.
+ Kể trung bình: Thuộc chuyện, hiểu nội dung, biết kể theo tranh, biết kể
dựa vào lời nhân vật, giọng kể chưa thay đổi phù hợp, diễn xuất chưa tốt.
-15-


+ Kể yếu: Không thuộc chuyện, nắm sai nội dung, giọng kể chưa phù hợp,
không biết diễn xuất , không biết kể sáng tạo.
* Củng cố tiết dạy: GV nên gợi ý để HS nêu nội dung, ý nghĩa câu chuyện,
cho HS khá , giỏi phát huy tính sáng tạo của mình vào vai 1 nhân vật và kể lại câu
chuyện xảy ra cho mọi người nghe. GV cần tạo điều kiện để HS được kể nhiều
lượt. Nên cho HS sưu tầm các câu chuyện tương tự về nội dung hoặc chọn, tìm
nhân vật trong câu chuyện khác co tính cách giống nhân vật vừa học.
3.3. Thiết kế một bài dạy
Bài: Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia về ước mơ đẹp của em hoặc
bạn bè, người thân ( Tiếng việt 4, tập 1, tuần9, trang 88).
(Có kế hoach bài học kèm theo- Phần phụ lục)
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Trên đây tôi đã áp dụng một vài biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ
dạy phân môn kể chuyện cùng với một giáo án cụ thể của một tiết kể chuyện lớp
4 theo hướng tích cực, lấy học sinh làm trung tâm. Với các biện pháp này đã phát
triển được kỹ năng nói, nghe, đọc, viết của học sinh. Các em biết kể lại câu
truyện theo các vai khác nhau, biết sử dụng các yếu tố phụ trợ trong giao tiếp.
Biết kể lại những câu chuyện của mọi ngưòi xung quanh hoặc của chính bản

thân. Học sinh hứng thú với môn kể chuyện, thích đọc sách hơn và có thêm thói
quen quan sát ghi nhớ xây dựng cốt truyện.
Sau khi áp dụng các giải pháp trên, tôi đã khảo sát lại chất lượng đến thời
điểm cuối năm và kết quả của phân môn Kể chuyện đạt được như sau:
Khả năng thuộc truyện, kể chuyện lưu loát

Lớp

Sĩ số

4B
4A
4C

30
30
30

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

SL

Tỉ lệ

SL

Tỉ lệ


30
28
29

100
93,4
96,7

0
2
1

6,6
3,3

Khả năng hiểu truyện, biết cách thể hiện giọng kể của các nhân vật
trong truyện
Lớp

Sĩ số

Hoàn thành

Chưa hoàn thành
-16-


4B
4A
4C


30
30
30

SL

Tỉ lệ

SL

Tỉ lệ

30
27
28

100
90,1
93,4

3
2

9.9
6.6

Qua bảng tổng hợp kết quả của lớp thực nghiệm 4B do tôi chủ nhiệm so với
2 lớp đối chứng là 4A và 4C cho thấy: Chất lương phân môn kể chuyện của lớp
thực nghiệm do tôi phụ trách cao hơn hẳn so với 2 lớp đối chứng.cả về tỉ lệ học

sinh khá giỏi đến chất lượng đại trà. Một số học sinh lúc đầu còn nhút nhát, kĩ
năng kể chuyện quá yếu, thiếu tự tin như em Minh, em Ánh,.. giờ đã tiến bộ trông
thấy, Các em không chỉ nhớ chuyện mà còn biết cách thể hiện giong kể của một
số nhân vật hoặc tình tiết trong truyện. Tuy chưa hay bằng các bạn nhưng so với
đầu năm đã có khác biệt rất nhiều. Đặc biệt một số học sinh đầu năm học lực yếu
đã vươn lên xếp loại khá như em Hưng, em Hằng, em Lý, ... một số em khá đã
vươn lên loại giỏi như em Thảo, em Tâm, em An, em Hùng.. và lớp tôi bây giờ
không còn em nào không biết cách kể chuyện. Điều đó chứng tỏ những giải pháp
mà tôi đã áp dụng thực sự đã đem lại hiệu quả rất tốt.
3. KẾT LUẬN VÀ kiÕn nghÞ
3.1. Kết luận
Môn kể chuyện mãi vẫn là môn học hấp dẫn đối với học sinh, đặc biệt là học
sinh tiểu học. Các em đến với truyện như đến với một thế giới mới lạ, đầy hấp dẫn
thú vị. Truyện mở mang thêm tâm hồn các em, giúp các em biết nhìn nhận và
đánh giá sâu sắc mọi vấn đề... Chính vì vậy, môn kể chuyện sẽ góp phần giúp các
em học tốt các môn học khác. Vấn đề được đặt ra hiện nay là tìm phương pháp tối
ưu cho việc dạy môn kể chuyện nhằm phát huy ưu thế của môn học.
Qua những kết quả thực nghiệm trên đây cho thấy các biện pháp được tôi đề
xuất trong đề tài tỏ ra có tính khả thi cao. Nếu được thực nghiệm trong một phạm
vi rộng lớn hơn không chỉ áp dụng trong trường tôi mà có thể nhân rông ra trong
huyện, trong tỉnh tùy theo điều kiện cụ thể từng nơi thì tôi thiết nghĩ vẫn cho một
kết quả tốt, có thể áp dụng một cách phổ biến cho học sinh.
Qua quá trình được nghiên cứu lý luận và tìm hiểu thực tế dạy học môn kể
chuyện hiện nay ở trường tiểu học, tôi đã mạnh dạn đề xuất "Một số biện pháp
nâng cao chất lượng giờ dạy kể chuyện lớp 4”, với mong muốn góp phần tìm hiểu
phương pháp dạy học mới, phù hợp hơn cho môn kể chuyện ở tiểu học. Với các
-17-


biện pháp này sẽ giúp học sinh tự xây dựng cho mình cách học đúng theo ý tưởng

đổi mới phương pháp dạy học hiện nay đối với bậc tiểu học.
Tuy nhiên, những vấn đề tôi trình bầy trên đây mới chỉ là bước đầu tiếp cận,
tìm hiểu vấn đề mà tôi cho là quan trọng nhất và đặc trưng nhất của phương pháp
dạy học kể chuyện.
3.2. Kiến nghị
3.2.1. Đối với SGD&ĐT Thanh Hóa, PGD&ĐT huyện Quảng Xương.
- Cần tổ chức thêm nhiều chuyên đề, xây dựng các tiết dạy thể nghiệm áp
dụng PPDH mới để các trường học hỏi vận dụng tại đơn vị.
- Hỗ trợ và giới thiệu tài liệu để định hướng cho các nhà trường nghiên cứu,
chỉ đạo thực hiện tốt ở các trường
3.2.2. Đối với nhà trường.
- Cần tổ chức sinh hoạt chuyên môn lồng ghép nội dung đổi mới, chỉ đạo các
khối lớp xây dựng các tiết chuyên đề dạy thể nghiệm phân môn kể chuyện cho
GV học tập
3.2.3. Đối với giáo viên.
- Cần tích cực trao dồi kiến thức, chịu khó học hỏi để nâng cao tay nghề cho
bản thân.
- Cần chịu khó tìm tòi, đầu tư thời gian, công sức để nghiên cứu tìm các
PPDH thực sự hiệu quả cho học sinh của mình.
Cần quan tâm, nắm bắt đặc điểm, hoàn cảnh sở thích từng học sinh của lớp
mình để có cách tiếp cận, giúp đỡ các em học tập được tốt hơn.
Mặc dù bản thân đã cố gắng hết sức song với khả năng còn hạn chế và thời
gian nghiên cứu hạn hẹp. Kinh nghiệm chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót. Kính
mong sự góp ý chân thành của ban giám khảo và các đồng nghiệp để đề tài được
hoàn thiện hơn
Xác nhận của nhà trường

Quảng Tân, ngày 27 tháng 4 năm 2016
Người viết.


Dương Thị Chung
Tµi liÖu, t liÖu tham kh¶o
-18-


1. Sách giáo khoa, giáo viên Tiếng việt lớp 4.
2. Phơng pháp dạy học Tiếng việt ở tiểu học II
- Nhà xuất bản đại học s phạm Hà Nội.
3. Dạy kể chuyện ở trờng tiểu học
- Nhà xuất bản giáo dục.
4. Tạp chí giáo dục tiểu học quyển 55.

PH LC
Thit k mt bi dy
-19-


Bài: Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia về ước mơ đẹp của em hoặc
bạn bè, người thân ( Tiếng việt 4, tập 1, tuần9, trang 88).
I. MỤC TIÊU:
1. Rèn kĩ năng nói : HS chọn một câu chuyện về ước mơ đẹp của mình hoặc bạn
bè, ngêi thân. Biết sắp xếp các sự việc thành một câu chuyện. Biết trao đổi với các bạn
về ý nghĩa câu chuyện.
- Lời kể tự nhiên, chân thực, có thể kết hợp lời nói với cử chỉ, điệu bộ.
2. Rèn kĩ năng nghe: Chăm chú nghe bạn kể, nhận xét đúng lời kể của bạn.
II.CÁC KĨ NĂNG SỐNG CƠ BẢN.
-Thể hiện sự tự tin.
-Lắng nghe tích cực.
- Đặt mục tiêu.
- Kiên định.

III. CHUẨN BỊ.
GV: Một tờ giấy khổ to viết ba hướng xây dựng cốt truyện:
-Nguyên nhân làm nảy sinh ước mơ đẹp.
- Những cố gắng để đạt được ước mơ .
- Những khó khăn đã vượt qua, ước mơ đã đạt được.
2.Dàn ý của bài kể.( Tên chuyện, mở đầu, diễn biến, kết thúc)
3. Những bông hoa (Để viết tên HS thi kể chuyện và tên chuyện bên mỗi bông
hoa)
4. Một tờ giấy khổ toviết tiêu chuẩn đáng giá bài kể chuyện:
-Nội dung ( Kể có phù hợp với đè bài không)
- Cách kể(Có mặch lạc, rõ ràng không)
- Cách dùng từ, đặt câu, giong kể.
IV. CÁC HOẠT ĐỘNG DAY HỌC.
HĐ1: Kiểm tra bài cũ ( 4’)
GV kiểm tra 1 HS kể một câu chuyện em đã nghe, đã đọc về những ước mơ đẹp,
nói ý nghĩa câu chuyện.
HĐ2: Giới thiệu bài( 2’)
Tuần trước, các em đã kể những câu chuện đã nghe, đã đọc về ước mơ đẹp. Trong
tiết học này, các em sẽ kể một câu chuyện vè ước mơ đẹpcủa chính mình hay bạn bè
người thân. Cô đã dặn các em đọc trước nội dung bài kể chuyện hôm nay. Các em đã
đọc chưa?( HS trả lời, một số em giới thiệu tranh mình đã vẽ về ước mơ).
-GV: Cô tin rằng bạn nào cũng có ước mơ. Tiết học này sẽ giúp các em biết về ước
mơ của nhau.
HĐ3: Hướng dẫn học sinh phân tích đề.(5’)
- GV: Cô mời đọc đề bài trong sách giáo khoa và gợi ý!(Yêu cầu của đề bài).
- GV: ( gạch chân những từ ngữ quan trọng): “ Kể chuyện về một ước mơ của em
hoặc của bạn bè, người thân”.- Các em cần chú ý kể câu chuyện về một ước mơ có
thực , nhân vật trong truyện chính là các em hoặc bạn bè, người thân.

-20-



HĐ4: Gợi ý bài làm (5’)
a/ HS chọn đề bài: GV: Cần xây dựng chuyện theo hướng nào? Cô mời 3 bạn nối
tiếp nhau đọc gợi ý 2 (Các hướng xây dựng cốt truyện và ví dụ-M). Cả lớp hãy theo dõi
trong SGK.
- GV ( treo bảng ghi 3 hướng xây dựng cốt truyện): Cô mời 1 bạn đọc lại 3 híng
xây dựng cốt truyện. ( 1 HS đọc)
+ Nguyên nhân làm nảy sinh ước mơ đẹp.
+ Những cố gắng để đạt được ước mơ .
+ Những khó khăn đã vượt qua, ước mơ đã đạt được.
- GV: Các em có thể chọn kể theo 1 trong 3 hướng đó. Bây giờ , cô mời một vài
bạn nói về đề tài kể chuyện và hướng xây dựng cốt truyện của mình.
Ví dụ: * HS1: Em muốn kể về một câu chuyện giải thích vì sao em ước mơ trë
thành cô giáo.
* HS2: Tôi muốn kể với các bạn câu chuyện về ước mơ trở thành người lập
chương trình máy tính và những cố gắng tôi đang làm để đạt được ước mơ đó.
* Từ lâu, tôi ước mơ trở thành một kĩ sư nông nghiệp. Tôi luôn mong muốn tìm ra
các giống lúa tốt năng suất cao để giúp bà con nông dân giảm bớt khó khăn và có vụ
mùa bội thu. HS4,HS5,….
b. HS đặt tên cho câu chuyện
- GV : Cô mời 1 bạn đọc gợi ý 3.( Đặt tên cho câu chuyện).
- GV: Các em suy nghĩ, đặt tên cho âu chuyện về ứơc mơ của mình.
- HS 1: Một ước mơ nho nhỏ. HS 2: Mơ ướ của tôi.; HS3,HS4,…
- GV ( dán lên bảng dàn ý bài kể chuện): Cô dán lên bảng dàn ý của bài kể chuyện
để các em chú ý khi kể.
HĐ4:Thực hành kể chuyện ( 20’)
a/ Kể chuyện theo cặp.
b/Thi kể chuyện trước lớp.
- GV: Bây giờ cô sẽ mời các em thi kể chuyện trước lớp.( GV giơ những bông hoa

giấy): Cô sẽ viết tên các bạn tham gia thi kể vào mỗi bông hoa để các em nhớ tên bạn,
tên câu chuyện của mỗi bạn. Sau khi các bạn kể, các em có thể đặt câu hỏi cho bạn,
chấm điểm cho bạn theo các tieu chuẩn sau…( GV dán giấy, mời 1 HS đọc).
- 1 HS đọc 3 tiêu chuẩn đánh giá bài kể.
- GV: Ai xung phong kể trước.( GV mời HS 1).
- HS 1 (kể): GV: Các em hãy nhận xét câu chuyện về ước mơ của bạn.
- HS nhận xét. GV nhận xét.
HĐNT: Củng cố dặn dò (4’)
- GV nhận xét tiết học. Yêu cầu học sinh về nhà kể lại câu chuyện vừa kể trên lớp
cho người thân. Dặn HS chuẩn bị trước cho bài kể câu chuyện Bàn chân kì
diệu( Tuần11) bằng cách xem trước tranh minh họa, đọc gợi ý dưới tranh.

-21-



×