Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học văn miêu tả ở lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.73 KB, 19 trang )

A.MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong cuộc sống hiện nay, người lao động ở mọi lĩnh vực phải không ngừng
học hỏi, trau dồi tri thức, có tầm nhìn để có thể giải quyết nhanh chóng hơn
những công việc cụ thể, góp phần vào sự nhiệp CNH- HĐH đất nước. Chính vì
vậy, Đảng và nhà nước đã đặt ra cho ngành Giáo dục và Đào tạo cần phải đào
tạo đội ngũ những người lao động tự chủ, năng động, sáng tạo, tiếp cận và làm
chủ được công nghệ tiên tiến, có năng lực giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt
ra. Đảng và nhà nước ta đã đặc biệt coi trọng giáo dục, coi giáo dục là “Quốc
sách hàng đầu”, coi con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển.
Tại hội nghị lần thứ hai BCH Trung ương Đảng khoá VIII đã khẳng định: “
Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một
chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng phương
pháp tiên tiến, phương pháp hiện đại vào quá trình dạy học”.
Học Tiếng Việt, học sinh được trang bị những kiến thức cơ bản và cần thiết
giúp các em hoà nhập với cộng đồng và phát triển cùng với sự phát triển của xã
hội. Cùng với môn toán và một số môn khác, những kiến thức của môn Tiếng
Việt sẽ là những hành trang trên bước đường đưa các em đi khám phá, tìm hiểu,
nghiên cứu thế giới xung quanh và kho tàng tri thức vô tận của loài người. Trong
đó phân môn tập làm văn là phân môn thực hành, tổng hợp của tất cả các phân
môn thuộc môn Tiếng Việt ( tập đọc, luyện từ và câu, chính tả, kể chuyện ).
Chính vì thế, việc dạy và học làm văn là vấn đề luôn luôn cần có sự đổi mới.
Không thể cứ áp dụng mãi phương pháp học hôm qua vào hôm nay và mai sau.
Đối với việc dạy cũng thế, trong việc kế thừa cái cũ, cái vốn có đòi hỏi
phải là một sự sáng tạo. Với các phân môn khác của Tiếng Việt trong việc đổi
mới nội dung và phương pháp dạy học có chỉ rõ quy trình các bước lên lớp rất
cụ thể, rõ ràng; Còn với phân môn Tập làm văn, các nhà nghiên cứu chỉ đưa ra
quy trình chung nhất cho mỗi loại bài, chủ yếu vẫn là sự sáng tạo của giáo viên
khi lên lớp. Thực tế dạy học cho thấy: dạy tập làm văn là việc rèn luyện cho học
sinh khả năng tổ chức giao tiếp, tổ chức lời nói ngay từ khi học sinh học sinh bắt
đầu đi học, đây là một việc làm hết sức khó khăn mà không phải giáo viên nào


cũng thực hiện được. Thường thì giáo viên nào cũng dạy đúng, đủ quy trình các
phân môn như tập đọc, luyện từ và câu…, có nhiều giáo viên còn dạy rất tốt các
phân môn này. Nhưng với phân môn Tập làm văn thì rất hiếm khi có giáo viên
nào có đủ dũng cảm chọn nó làm phân môn hội giảng, cũng có rất ít giáo viên
có khả năng dạy một giờ Tập làm văn sinh động, hấp dẫn. Trong thực tế, giáo
viên thường chưa quan tâm, chưa chú trọng lắm đến phân môn này, thường chỉ
hướng dẫn qua loa cho học sinh về nhà tự viết… Còn việc học thì sao?. Ngoài
tài liệu học tập trên lớp, hiện nay có rất nhiều loại sách tham khảo cho HS, giúp
cho HS có có cái nhìn đa dạng, phong phú hơn. Nhưng những cuốn sách tham
khảo của phân môn tập làm văn lại thường đưa ra các bài văn mẫu hoàn chỉnh
nên khi làm văn các em thường dựa dẫm, ỉ lại vào bài mẫu, có khi còn sao chép
y nguyên bài văn mẫu vào bài làm của mình. Cách cảm, cách nghĩ của các em
1


không phong phú mà thường đi theo lối mòn khuôn sáo, tẻ nhạt. Một thực tế nữa
đó là học sinh lớp 4 tuy các em đã được tiếp xúc và thực hành các bài tập làm
văn ở lớp 2, lớp 3 xong các em vẫn viết văn theo kiểu công thức cứng nhắc, câu
văn chỉ dừng ở mức độ có đủ chủ ngữ, vị ngữ rất ít những câu văn có sử dụng
các biện pháp nghệ thuật, bài văn thiếu sinh động, hấp dẫn. Từ những lý do
khách quan và chủ quan trên, để khắc phục những hạn chế trong việc dạy tập
làm văn ở tiểu học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường, tôi
đã chọn nghiên cứu đề tài : “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
dạy- học văn miêu tả ở lớp 4”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Giúp học sinh có kỹ năng làm văn, đặc biệt là văn miêu tả có chất lượng.
Góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở tiểu học.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Nội dung phân môn tập làm văn lớp 4, việc dạy và học của giáo viên và
học sinh lớp 4- Trường Tiểu học Hưng lộc I.

4. Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu tài liệu.
- Điều tra, quan sát, đàm thoại, phỏng vấn.
- Phân tích, tổng hợp.
- Thực nghiệm, kiểm chứng.

B. NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Giao tiếp là giao lưu, trao đổi tư tưởng tình cảm giữa con người với nhau
trong xã hội, có thể diễn ra bằng nhiều hình thức với nhiều phương tiện khác
nhau, phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người là ngôn ngữ.
Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ luôn diễn ra giữa hai đối tượng giao
tiếp: người sản sinh văn bản và người tiếp nhận ( lĩnh hội ) văn bản với sự tham
gia của 5 nhân tố giao tiếp ( điều kiện hoàn cảnh giao tiếp, nội dung giao tiếp,
mục đích giao tiếp, đối tượng giao tiếp, cách thức giao tiếp ) theo một quy trình
khép kín: Người sản sinh văn bản ( người nói, người viết ) tạo lập ra văn bản
ngôn từ và thông qua điều kiện, hoàn cảnh giao tiếp đến với người tiếp nhận văn
bản ( người nghe, người đọc ). Trong quy trình đó, làm văn chính là một khâu
của hoạt động giao tiếp, đó chính là khâu sản sinh, tạo lập văn bản.
Triết học Mác – Lê nin cho rằng ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan
trọng nhất của con người, ngôn ngữ và tư duy có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Vì vậy mục đích của việc dạy Tiếng Việt trong nhà trường là làm cho học sinh
có khả năng sử dụng ngôn ngữ làm phương tiện sắc bén để giao tiếp trong môi
trường hoạt động của lứa tuổi, đảm bảo mối liên hệ giữa lời nói và tư duy, giúp
học sinh nói có nội dung và phải biết diễn đạt một ý thành những cách nói khác
nhau; đặc biệt là giúp học sinh biến ngôn ngữ ấy thành lời văn, thành những văn
bản hoàn chỉnh.

2



Miêu tả là một thể loại văn bản mà trong đó người viết dùng ngơn ngữ có
tính chất nghệ thuật của mình để tái hiện, sao chụp lại hình ảnh chân dung của
đối tượng miêu tả với những đặc điểm nổi bật cả về hình thức bên ngồi lẫn
những phẩm chất bên trong nhằm giúp người tiếp nhận có những hiểu biết và
cảm nhận về đối tượng đó như được trực tiếp tiếp xúc với đối tượng thơng qua
các giác quan của mình.
Bài văn miêu tả được xây dựng trên cơ sở những hình ảnh, những ấn tượng
về đối tượng mà người viết thu lượm, cảm nhận được thơng qua các giác quan
trực tiếp của mình. Bài văn miêu tả là thể loại văn bản mang tính chất nghệ thuật
cao, mang tính sáng tạo, tính cá thể của người viết. Ngơn ngữ trong văn miêu tả
là thứ ngơn ngữ nghệ thuật là ngơn ngữ giàu sức gợi tả, gợi cảm và là ngơn ngữ
của những biện pháp tu từ.
Kết cấu bài văn miêu tả cũng tn thủ kết cấu 3 phần:
Mở bài: Giới thiệu đối tượng miêu tả, thể hiện tình cảm, quan hệ của
người miêu tả với đối tượng miêu tả.
Thân bài: Tái hiện, sao chụp chân dung của đối tượng miêu tả ở những
góc nhìn nhất định.
Kết luận: Nêu những nhận thức, suy nghĩ, tình cảm, thái độ trực tiếp của
người miêu tả và của mọi người nói chung đối với đối tượng miêu tả.
Như vậy, bài văn là một văn bản gồm ngơn từ, nội dung chứa trong ngơn
từ chính là văn. Văn và ngữ ln sóng đơi với nhau: văn cần đến ngữ để biểu
hiện, ngữ cần đến văn để nói lên ý nghĩa.Văn là nghệ thuật của ngơn từ, văn là
cái đẹp, có người lại nói văn học là nhân học, văn học là tình cảm, đạo đức lý
tưởng, là tình u cuộc sống, u thiên nhiên và con người. Văn có được nhờ
cảm xúc của tâm hồn, nó làm cho tâm hồn con người thêm phong phú và sâu
sắc.
2. THỰC TRẠNG VIỆC DẠY- HỌC VĂN MIÊU TẢ Ở LỚP 4 TRƯỜNG
TIỂU HỌC HƯNG LỘC I.
2. 1. §èi víi gi¸o viªn :

Giáo viên đã nắm được quy trình dạy Tập làm văn nói chung và thể loại
văn miêu tả nói riêng.
Giáo viên rất nhiệt tình, trách nhiệm, có đầu tư nghiên cứu.
Xây dựng phiếu bài tập và sử dụng phiếu bài tập cho mỗi giờ linh hoạt.
Giáo viên tiểu học phải dạy hầu hết các mơn, phải chuẩn bị nhiều lĩnh vực
chun mơn khác nhau, hiện nay giáo viên lại phải dạy 2 buổi/ ngày. Bởi vậy
giáo viên khơng thể có nhiều thời gian nghiên cứu sâu cho từng phân mơn, do
đó việc chuẩn bị kế hoạch bài học chưa được sâu sắc, kỹ càng.
Giáo viên thường e ngại, lúúng túng khi dạy tập
làm văn, không dám đăng ký tiết Tập làm văn dự
thi hoặc thao giảng. Thao tác tiến hành cách dạy của
giáo viên nhận xét và nói lại hoặc gặng hỏi, hay
sửa chữa, bổ sung bài của học sinh chưa cao.

3


Kiến thức Tập làm văn của phần lớn giáo viên
chưa vững. Nhiều giáo viên còn mơ hồ về đổi mới
phương pháp dạy học, chưa nắm vững các hình thức tổ
chức dạy học ( hoặc chỉ nắm một cách chung chung,
máy móc ,…). Kỹ năng nói viếtù văn miêu tả kể
chuyện chưa thật tốt .
Giáo viên chưa có khả năng“chế biến” giảm độ
khó các bài tập cho học sinh yếu, soạn câu hỏi bài
tập nâng cao cho học sinh giỏi.Bởi vậy nên trên lớp
thường ít hướng dẫn cho học sinh yếu, chủ yếu gọi học
sinh khá giỏi trình bày kết quả, còn học sinh yếu chép
lại kết quả.
Khả năng bao quát lớp chú ý đến các đối tượng

học sinh ( giỏi , khá , trung bình, yếu ) còn hạn chế, hầu
hết giáo viên chỉ chú ý đến học sinh giỏi và khá .
Đa số các tiết dạy tập làm văn diễn ra buồn tẻ,
không gây được hứng thú cho học sinh. Giáo viên tiến
hành tiết dạy quá máy móc, gần như phụ thuộc
khuôn mẫu vào sách giáo viên chưa có khả năng đưa
ra những vấn đề thiết thực gần gũi với đời sống học
sinh.
Cái khó của giáo viên là ở chỗ làm sao gây hứng thú để học sinh độc lập,
tự giác, tích cực làm việc, làm sao cho học sinh biết làm, biết trao đổi, biết phân
tích, tổng hợp đúng, phát hiện đúng để có tri thức đúng. Đặc biệt khó hơn với
phân mơn tập làm văn ở lớp 4 bởi nó đòi hỏi học sinh phải có tư duy độc lập,
phải hiểu được đối tượng miêu tả, biết tìm từ, đặt câu và diễn đạt thành lời,
thành ý… Từ đó tưởng tượng, liên hệ xây dựng cho mình ý thức, tình cảm với
đối tượng miêu tả, coi đối tượng miêu tả như con người, như người bạn thân.
2. Tình hình chất lượng học tập mơn Tiếng Việt và phân mơn tập làm
văn của học sinh.
Chương trình phân mơn tập làm văn lớp 4 hiện đang học thể loại bài miêu
tả, nhìn chung các em đã nắm được cấu trúc một bài văn miêu tả nhưng bài làm
của các em còn viết theo một lối mòn khn sáo, kém hấp dẫn, ít cảm xúc và
nghèo hình ảnh, đặc biệt là các em chưa biết sử dụng các biện pháp tu từ, các
biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa….
Học sinh nắm được kiến thức cơ bản của phân mơn luyện từ và câu
nhưng khi áp dụng vào viết văn thì các em thường mắc các lỗi dùng từ, đặt câu,
diễn đạt… Kết hợp với việc chưa biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật, vốn từ
lại nghèo nàn nên bài văn miêu tả của các em còn khơ khan, lủng củng, nghèo
cảm xúc. Bài văn trở thành một bảng liệt kê các chi tiết của đối tượng miêu tả.
Kết quả khảo sát tháng 10- Năm học:2015- 2016 như sau:

4



Lớp
4B

Số HS
28

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

SL

TL

SL

TL

21

75 %

7

25 %

Từ thực trạng việc dạy học phân môn tập làm văn nói chung và việc dạy
học làm văn miêu tả ở lớp 4 nói riêng tôi thấy rất cần thiết phải có những giải

pháp sáng tạo trong dạy văn miêu tả lớp 4 góp phần nâng cao chất lượng dạy
học ở tiểu học.
3. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC
VĂN MIÊU TẢ LỚP 4:
3.1. Người giáo viên phải nắm chắc đặc điểm tâm lý của học sinh để từ đó
tìm ra hướng đi đúng, tìm ra những phương pháp phù hợp khi lên lớp:
Chúng ta đã biết, tâm lý chung của học sinh tiểu học là luôn muốn khám
phá, tìm hiểu những điều mới mẻ. Trong con mắt trẻ thơ, với cái nhìn trong trẻo
của mình thì thì sự vật hiện tượng nào trong cuộc sống cũng đầy bí ẩn. Các em
muốn tìm hiểu, khám phá: Tại sao cùng là một sự vật hôm nay là thế này, ngày
mai lại là thế khác? Để trả lời câu hỏi đó trước hết người giáo viên phải giúp các
em nhận thức được sự đa dạng, phong phú của các sự vật hiện tượng và sự sinh
động của cuộc sống. Từ đó hình thành và rèn luyện cho các em cách quan sát,
cách tư duy về đối tượng miêu tả một cách bao quát, toàn diện và cụ thể tức là
quan sát sự vật hiện tượng ở nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau, từ đó các
em sẽ có cách cảm, cách nghĩ sâu sắc khi miêu tả.
Ở tuổi học sinh tiểu học từ hình thức đến tâm hồn, mọi cái mới chỉ là sự bắt
đầu của một quá trình. Do đó những tri thức để các em tiếp thu phải được sắp
xếp theo một trình tự nhất định. Bởi văn chương không phải là phép tính cộng
đơn thuần của các chi tiết mà nó đòi hỏi phải có một sự cảm nhận tinh tế. Sự
cảm nhận ấy bắt đầu từ óc quan sát tốt, từ sự nhạy bén của trí nhớ, từ sự cảm
nhận vẻ đẹp của sự vật qua những rung cảm của tâm hồn sẽ kích thích cho trí
tưởng tượng của các em hoạt động mạnh. Trí tưởng tượng càng phong phú bao
nhiêu thì việc làm văn miêu tả sẽ càng thuận lợi bấy nhiêu.
Mọi suy nghĩ của các em đều rất hồn nhiên, trong sáng. Một tiếng lá rơi,
một ngọn gió nhẹ cũng rất dễ tạo nên những rung động trong tâm hồn các em.
Chính vì vậy mà những gì càng gần gũi, dễ hiểu bao nhiêu thì việc tiếp thu của
các em càng nhanh chóng bấy nhiêu. Hơn nữa nhận thức của các em còn ở mức
độ đơn giản nên giáo viên cần hướng để các em chọn đối tượng miêu tả gần gũi,
quen thuộc với cuộc sống hàng ngày của các em.

Văn miêu tả là loại văn thuộc phong cách nghệ thuật đòi hỏi viết bài phải
giàu cảm xúc, tạo nên cái “hồn”, chất văn của bài làm. Muốn vậy giáo viên phải
luôn luôn nuôi dưỡng ở các em tâm hồn trong sáng, cái nhìn hồn nhiên, một tấm
lòng dễ xúc động và luôn hướng tới cái thiện.

5


3.2. Cần giúp học sinh hiểu rõ những đặc điểm cơ bản của văn miêu tả ngay
từ tiết đầu tiên của thể loại bài này:
Miêu tả là một thể loại văn bản mà trong đó người viết dùng ngôn ngữ có
tính chất nghệ thuật của mình để tái hiện, sao chụp lại hình ảnh chân dung của
đối tượng miêu tả với những đặc điểm nổi bật cả về hình thức bên ngoài lẫn
những phẩm chất bên trong nhằm giúp người tiếp nhận có những hiểu biết và
dung cảm, cảm nhận về đối tượng đó như trực tiếp tiếp xúc với đối tượng thông
qua các giác quan của mình.
Bài văn miêu tả được dựng trên cơ sở những hình ảnh, những ấn tượng về
đối tượng mà người viết thu lượm, cảm nhận được thông qua các giác quan trực
tiếp của mình. Bài văn miêu tả là thể loại văn bản mang tính nghệ thuật cao,
mang tính sáng tạo, tính cá thể của người viết. Ngôn ngữ trong văn miêu tả là
thứ ngôn ngữ nghệ thuật giàu sức gợi tả, gợi cảm và là ngôn ngữ của những biện
pháp tu từ.
Văn miêu tả mang tính chất thông báo thẩm mỹ, dù miêu tả bất kỳ đối
tượng nào, dù có bám sát thực tế đến đâu thì văn miêu tả cũng không bao giờ là
sự sao chép, chụp ảnh lại những sự vật hiện tượng một cách máy móc mà là kết
quả của sự nhận xét, tưởng tượng, đánh giá hết sức phong phú. Đó là sự miêu tả
thể hiện được cái mới, cái riêng biệt của mỗi người.
Chẳng hạn, nhìn bầu trời sao Vich-to Huy-gô thấy giống như “một cánh
đồng lúa chín” mà ở đó người đi gặt đã “để quên lại một cái liềm con” (Vành
trăng non). Đối với nhà văn Nam Cao thì vành trăng và ánh sao lại được nhìn

nhận, được cảm theo một cách hoàn toàn khác: “Trăng là cái liềm vàng giữa
cánh đồng đầy sao, trăng là cái đĩa bạc trên tấm thảm nhung da trời. Trăng
toả mộng xuống trần gian. Trăng tuôn suối mát để những tâm hồn khao khát
ngụp lặn…”. Còn với Trần Đăng Khoa, một tài năng ở tuổi thiếu nhi, thì trăng
không còn là lá lúa, chiếc câu liêm vàng, chiếc đĩa bạc... nữa, mà Trần Đăng
Khoa đã cảm nhận một cách tinh tế bằng tình yêu trăng của tâm hồn trẻ thơ, rất
hồn nhiên trong sáng:
Trăng hồng lơ lửng trước nhà thơm ngon, ngọt mát nơi vườn quê
Trăng hồng như quả chín
Lơ lửng mà không rơi.
Trăng từ biển xanh diệu kì đến, nơi có lắm cá nhiều tôm, trăng tròn lung
linh được so sánh với mắt cá “chẳng bao giờ chớp mi” là một hình tượng ngộ
nghĩnh, giàu chất thơ:
Trăng tròn như mắt cá
Chẳng bao giờ chớp mi
Trăng là quả bóng từ một sân chơi của nhi đồng đã được “Bạn nào đá
lên trời”,... (Trăng ơi...từ đâu đến)
Như vậy cùng là vầng trăng, là bầu trời mỗi người sẽ cảm nhận theo cái
riêng của mình, đó là những gì người khác không thấy hoặc chưa thấy. Với học
sinh, mỗi bài tập làm văn là sản phẩm của từng cá nhân các em trước một đề tài,
sản phẩm này ít nhiều in dấu ấn riêng của từng em trong cách suy nghĩ, cách tả,
6


cách diễn đạt...Thái độ đúng đắn của giáo viên là tôn trọng sự độc lập sự suy
nghĩ sáng tạo đó nếu nó không biểu lộ những lệch lạc.
Nhà văn Phạm Hổ cho rằng: “Cái riêng, cái mới trong văn miêu tả phải
gắn với cái chân thật”. Văn miêu tả không hạn chế sự tưởng tượng, không ngă
cản sự sáng tạo của người viết nhưng như vậy không có nghĩa là cho phép người
viết “bịa” một cách một cách tuỳ ý. Để tả hay, tả đúng thì phải tả chân thật, giáo

viên cần uốn nắn để học sinh tránh thái độ giả tạo, giả dối, bệnh công thức sáo
rỗng, thói già trước tuổi.
Mặt khác giáo viên cần giúp các em nắm được: Trong văn miêu tả, ngôn
ngữ sử dụng phải là ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, giàu nhịp điệu âm
thanh, đây là một trong những điều quan trọng để phân biệt văn miêu tả với
những miêu tả trong sinh học, địa lý ...và các thể loại văn khác.
Từ việc hiểu rõ đặc điểm của thể loại văn miêu tả, hiểu rõ con đường
mình cần đi và đích mình cần tới, chắc chắn học sinh sẽ thận trọng hơn khi chọn
lọc từ ngữ, sẽ gọt giũa kỹ hơn từng lời, từng ý trong bài văn và như vậy chất
lượng bài làm của các em sẽ tốt hơn.
3.3. Biết cách dùng từ đặt câu, sử dụng các biện pháp nghệ thuật khi miêu
tả.
Muốn một bài văn hay, có “hồn”, có chất văn thì các em phải có vốn từ
ngữ phong phú và phải biết cách lựa chọn từ ngữ khi miêu tả cho phù hợp.
Chính vì vậy giáo viên cần chú ý cung cấp vốn từ cho các em khi dạy tập đọc,
luyện từ và câu và cả trong khi dạy các môn khác hay trong những buổi nói
chuyện, trong các tiết sinh hoạt. Hướng dẫn các em lập sổ tay văn học theo chủ
đề, chủ điểm, khi có một từ hay, một câu văn hay các em ghi vào sổ tay theo
từng chủ điểm và khi làm văn có thể sử dụng một cách dễ dàng. Giáo viên cũng
cần khuyến khích các em đọc sách báo để tìm hiểu thêm thông tin tư liệu, có thể
xây dựng tủ sách dùng chung trong lớp để các em trao đổi sách báo cho nhau và
em nào cũng được đọc. Hàng tuần hoặc hàng tháng giáo viên có thể tổ chức cho
các em những cuộc thi vui: thi xem ai đọc được nhiều sách báo nhất ( kể tên
những đầu sách và những tên bài mình đã đọc), thi tìm từ ngữ theo chủ đề ( học
sinh tự chọn một chủ đề bất kỳ và nêu những từ ngữ thuộc chủ đề đó mà mình
đã sưu tầm được),…Sau những cuộc thi, những buổi trao đổi như thế chắc chắn
vốn từ ngữ của các em sẽ tăng lên, khả năng giao tiếp của các em cũng sẽ khá
hơn, điều này giúp ích rất nhiều cho việc làm văn của các em.
Sau khi các em đã có vốn từ phong phú, giáo viên tiếp tục rèn cho các em
cách lựa chọn từ ngữ để đặt câu, viết thành những câu văn có hình ảnh và có sử

dụng cá biện pháp nghệ thuật đã học. Giáo viên cần tiến hành theo mức độ yêu
cầu tăng dần, bước đầu chỉ yêu cầu học sinh đặt câu đúng, sau yêu cầu cao hơn
là phải đặt cầu có sử dụng biện pháp so sánh, nhân hoá, có dùng những từ láy, từ
ngữ gợi tả hình ảnh, âm thanh hay những từ biểu lộ tình cảm
Ví dụ: * Miêu tả một chú gà trống. Một em đặt câu:
- Chú gà nhà em có bộ lông màu đỏ tía.

7


Giáo viên có thể cho các em nhận xét: Câu văn đã dủ chủ ngữ, vị ngữ,
đã rõ nghĩa. Sau đó đặt câu hỏi: Em nào đặt câu khác hay hơn để miêu tả bộ
lông của chú gà trống? - Học sinh có thể đặt câu:
- Chú trống choai thật oai vệ, chú khoác trên mình bộ lông màu đỏ tía,
chen lẫn màu vàng sẫm như một chiếc áo sặc sỡ của những chàng công tử.
Em khác lại có thể so sánh ngắn gọn hơn:
- Chú khoác trên mình một bộ lễ phục màu tía rực rỡ như một võ tướng.
* Hay khi miêu tả con mèo:
Một học sinh tả cái đuôi chú mèo:
- Chú ta có cái đuôi thon dài như một cái măng ngọc. Giáo viên hỏi: Em
nào nhận xét cách đặt câu của bạn? Học sinh có thể nhận xét : bạn đã sử dụng
biện pháp so sánh để so sánh cái đuôi mèo như một cái măng ngọc.
Giáo viên cho học sinh thảo luận nhóm đôi tìm câu khác để miêu tả cái
đuôi của chú mèo sao cho sinh động hơn:
- Lúc chú ngồi, hai chân sau xếp lại, hai chân trước chống lên, đăm
chiêu nhìn và nghe ngóng, cái đuôi mềm mại, phe phẩy như làm duyên.
- Hay: Cái đuôi dài trắng điểm đen phe phất thướt tha cùng với tấm thân
thon dài mềm mại, uyển chuyển trông thật đáng yêu.
Như vậy cùng là miêu tả về bộ lông của chú gà trống, cái đuôi của chú
mèo nhưng những câu văn có sử dụng biện pháp so sánh, nhân hoá, có dùng

những từ gợi tả, gợi cảm như các câu trên thì hiệu quả khác hẳn, ta cảm thấy
miêu tả như vậy vừa sinh động, tinh tế vừa rất tình cảm và sẽ cuốn hút người
đọc người nghe.
Tuy nhiên, không phải học sinh nào cũng biết sử dụng các biện pháp nghệ
thuật khi miêu tả và cũng không phải tự các em có sẵn tâm hồn văn chương như
vậy. Như trong phần thức trạng đã nói: Học sinh khi học về các biện pháp nghệ
thuật thì có thể nhận diện được câu văn nào có sử dụng biện pháp nghệ thuật gì
nhưng lại không biết áp dụng nó khi làm văn.Vậy ta phải làm thế nào để học
sinh có thể vận dụng lý thuyết khi thực hành làm văn? Đây là vấn đề khó có lẽ
nhiều giáo viên trăn trở và cũng không phải việc làm một sớm, một chiều mà
phải là sự tích luỹ lâu dài. Giáo viên có thể đọc cho các em nghe và cho các em
ghi chép vào sổ tay văn học những câu văn, câu thơ có sử dụng biện pháp nghệ
thuật vào cuối mỗi giờ tập làm văn học trong các giờ học buổi. Chẳng hạn có thể
đọc cho các em nghe:
* Nghệ thuật so sánh:
- Thân dừa bạc phếch tháng năm
Quả dừa - đàn lợn con nằm trên cao
Đêm hè hoa nở cùng sao
Tàu dừa - chiếc lược chải vào mây xanh.
- Miệng cười như thể hoa ngâu,
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen
- Lá xoè từng tia nắng
Giống hệt như mặt trời.
8


- Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
- Người rực rỡ như một mặt trời cách mạng
Mà đế quốc là loại rơi hốt hoảng

Đêm tàn bay chập choạng dưới chân Người.
- Trong những giờ học vẽ, cùng với hộp màu, cái bút chì, chiếc tẩy thì
cái thước kẻ đúng là “chiếc đũa thần”.
- Sợi bông trong quả đầy dần, căng lên; những mảnh vỏ tách ra cho các
múi bông nở đều, chín như nồi cơm chín đội vung mà cười, trắng loá. Cây gạo
như treo rung rinh hàng ngàn nồi cơm gạo mới.
* Nghệ thuật nhân hoá:
- Bác nồi đồng hát bùng bong
Bà chổi loẹt quẹt lom khom trong nhà.
- Cái trống trường em
- Cái trống lặng im
Mùa hè cũng nghỉ
Nghiêng đầu trên giá
Suốt ba tháng liền
Chắc thấy chúng em
Trống nằm ngẫm nghĩ
Nó mừng vui quá!
- Bé ngủ ngon quá
Đẫy cả giấc trưa
Cái võng thương bé
Thức hoài đong đưa
- Cổng trường dang tay đón các bạn nhỏ.
- Bông hoa duyên dáng tươi cười trong nắng sớm
- Mùa xuân, sân trường khoác chiếc áo mướt xanh màu lá.
- Những chị gió nhón chân đi nhè nhẹ trên mặt hồ nước.
Khi đọc cho học sinh những câu văn, câu thơ như vậy, ban đầu tôi cho
các en thảo luận và phát hiện các biện pháp nghệ thuật được các tác giả sử dụng,
sau đó cho các em nêu tác dụng của các biện pháp nghệ thuật đó, có thể phân
tích để các em hiểu cái hay cái đẹp trong từng câu văn, câu thơ. Làm như vậy,
dần dần nhiều ngày tích luỹ lại các em sẽ có vốn từ phong phú và sẽ học được

cách miêu tả sinh động của các tác giả, biết vận dụng khi làm văn.
3.4. Tập làm văn là phân môn thực hành, tổng hợp tất cả những phân môn
thuộc môn tiếng Việt, vì vậy muốn dạy tốt tập làm văn cần dạy tốt các phân
môn khác.
- Ta có thể thấy, mỗi bài tập đọc là những đoạn văn mẫu mực cả về câu, từ cả
về cách diễn đạt, những văn bản trong các bài tập đọc đạt yêu cầu lời hay, ý đẹp,
dạy tốt tập đọc sẽ tạo điều kiện cho học sinh tăng thêm vốn từ và biết được khả
năng thể hiện của của Tiếng Việt trong mọi trường hợp rất phong phú, học sinh
sẽ học tập được cách dùng từ, viết câu, diễn đạt.
Trong dạy tập đọc chủ yếu là rèn cho học sinh các kỹ năng, trong đó có kỹ
năng văn hay còn gọi là kỹ năng cảm thụ:

9


Làm cho học sinh thấy được cái hay, cái đẹp trong ngôn từ văn bản: âm
thanh, gieo vần, cách dùng từ, đặt câu, những biện pháp tu từ ( ví von, so sánh,
nhân hoá, từ láy, từ gợi tả, gợi cảm,...)
Khám phá ý nghĩa trong mỗi đơn vị ngôn từ, biết cách giải nghĩa từ nhất là
nghĩa của từ trong từng văn cảnh – ý nhĩa xung quanh nó tạo nên nghĩa của từ:
Ví dụ: Sông hồng bận chảy
Chiếc xe bận chạy
Bận : bận rộn, nhiều việc, việc nọ kế tiếp việc kia, trong văn cảnh này từ
bận là từ dành cho con người được sử dụng cho những đối tượng không phải là
con người như sông Hồng, chiếc xe đó chính là biện pháp nhân hoá mà tác giả
sử dụng nhằm nói mọi sự việc hướng tới con người, vì con người.
Hay trong bài “Chú chuồn chuồn nước” : “Ôi chao! Chú chuồn chuồn
nước mới đẹp làm sao! Màu vàng trên lưng chú lấp lánh. Bốn cái cánh mỏng
như giấy bóng, Cái đầu tròn và hai con mắt long lanh như thuỷ tinh.Thân chú
nhỏ và thon dài như màu vàng của nắng mùa thu.”

Tác giả đã mở đầu bài văn bằng một tiếng reo thích thú, một lời trầm trồ ca
ngợi: “Ôi chao! Chú chuồn chuồn nước mới đẹp làm sao!”. Tình cảm chứa đựng
trong câu mở đầu đã chi phối nội dung cả đoạn, những câu sau với những tính từ
miêu tả, những hình ảnh so sánh gợi lên cái đẹp trong sáng, hấp dẫn của chú
chuồn chuồn nước. Nó khiến cho người đọc những dòng chữ ấy phải thốt lên
tiếng reo, lời thán phục như tác giả đã viết.
Chương trình tập đọc là một chuyến du lịch dài của giáó viên và học sinh
trên khắp đất nước và cả thế giới, mỗi bài tập đọc là một chặng dừng chân trên
cuộc hành trình đó. Vì vậy, qua những bài tập đọc còn giúp học sinh tiếp nhận
được những hiểu biết về cuộc sống về con người, tiếp nhận được những bài học,
những lời khuyên bổ ích, bồi dưỡng cho các em những kiến thức về văn học
giúp tâm hồn các em phong phú, rèn luyện được tư duy lôgíc, tư duy hình tượng
và xây dựng thói quen, hứng thú đọc sách cho học sinh.
- Với luyện từ và câu, học tốt phân môn này sẽ giúp các em có vốn từ ngữ
phong phú, biết viết đúng các kiểu câu và biết sử dụng các biện pháp tu từ khi
viết văn, học tốt luyện từ và câu sẽ gúp các em tránh được những lỗi về cấu tạo
ngữ pháp, lỗi về nghĩa và lỗi về dấu câu.
Ví dụ : Khi học về câu kể Ai là gì? học sinh hiểu tác dụng, cấu tạo của kiểu
câu này, biết nhận ra nó trong đoạn văn và từ đó học sinh biết đặt câu kể Ai là
gì ? để giới thiệu hoặc nêu nhận định về một người, một vật:
Chích bông là con chim rất đáng yêu.
Hoa đào, hoa mai là bạn của mùa xuân.
Sầu riêng là loại trái quý của miền Nam.
- Nội dung của bài văn có hấp dẫn, có lôi cuốn được người đọc hay không
một phần phụ thuộc vào hình thức biểu hiện bên ngoài của nó, đó chính là chữ
viết. Vì vậy muốn có bài làm văn hấp dẫn thì giáo viên cần chú ý rèn kỹ năng
viết cho học sinh trong các giờ chính tả. Chính tả giúp học sinh viết đúng, viết
nhanh, viết đẹp và trình bày rõ ràng, sạch sẽ.
10



- Nếu như tập đọc rèn kỹ năng cảm thụ cho học sinh, chính tả rèn kỹ năng
viết cho học sinh thì phân môn kể chuyện rèn kỹ năng nói, hay nói cách khác là
kỹ năng sản sinh văn bản dưới dạng nói cho học sinh. Kể chuyện vừa bồi dưỡng
tình cảm, giúp học sinh biết quý trọng người tốt, phê phán cái xấu, vừa giúp học
sinh học tập cách miêu tả, cách diễn đạt trong mỗi câu chuyện.
Ví dụ: Khi học sinh học bài kể chuyện Con vịt xấu xí, các em sẽ học được
cách miêu tả của An- đéc- xen khi miêu tả hình dáng và tâm trạng của thiên nga
qua các từ ngữ: xấu xí, nhỏ xíu, quá nhỏ, yếu ớt, buồn lắm, dài ngoẵng, gầy
guộc, vụng về, vô cùng sung sướng, ... Qua câu chyện học sinh cũng có được
lời khuyên: Ai cũng có những cái đẹp riêng, ta phải biết nhận ra cái đẹp của
người khác, phải luôn yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau. Từ đó học sinh biết yêu
thương, giúp đỡ bạn bè và mọi người xung quanh.
Nói tóm lại, các phân môn của Tiếng Việt tuy mỗi phân môn có nội dung
riêng, phương pháp riêng nhưng chúng không hoàn toàn độc lập với nhau mà
luôn bổ sung cho nhau, kiến thức của phân môn này hỗ trợ cho việc học những
phân môn khác. Với phân môn tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp của
những phân môn khác, muốn học tốt tập làm văn học sinh cần học tốt các phân
môn còn lại.
3.5. Hướng dẫn học sinh xây dựng đoạn văn mở bài và kết bài:
Bài văn không thể thiếu phần mở bài và kết bài, những phần này thường
thu hút người đọc, người nghe chú ý cách đặt vấn đề và cách cảm nghĩ về vấn đề
mà người viết trình bày, Chính vì vậy việc rèn luyện cho học sinh xây dựng
đoạn văn mở bài và kết bài là rất cần thiết.
- Đoạn văn mở bài: Có hai cách mở bài mà học sinh được học đó là mở bài
trực tiếp và mở bài gián tiếp. Không nhất thiết phải gò bó học sinh làm mở bài
theo cách nào mà để cho các em tự chọn cho mình cách mở bài hợp lý nhất và
phù hợp với khả năng của từng em. Mở bài gián tiếp có thể xuất phát từ một vấn
đề khác rồi mới dẫn vào vấn đề mình cần nói tới, có thể bắt đầu bằng những câu
thơ, những câu hát,... nhưng phải bám sát vào yêu cầu của đề, không lan man, xa

đề, không rườm rà. Giáo viên có thể cho học sinh làm việc nhóm đôi hoặc cá
nhân tự nêu cách vào bài của mình, sau đó cho các bạn khác nhận xét. Chẳng
hạn với bài tả con mèo, một học sinh mở bài: “Hè vừa rồi, mẹ em đi chợ mua
được một con mèo tam thể. Chú ta là thành viên thứ năm của gia đình em,
nay đã được bốn tháng.”
Giáo viên nêu câu hỏi: đây là cách vào bài nào? ( trực tiếp) – Giáo viên nêu
yêu cầu để học sinh nêu cách mở bài khác sinh động hơn: “Nhà em từ lâu đã
không có một chú chuột nào dám bén mảng tới vì có một chú lính gác cừ
khôi, đó chính là chú Mướp. Mướp ta đã được một năm tuổi, nó thật hiền dịu
nhưng cũng thật tinh nhanh, nó như người bạn thân của em.”
Hay với đề bài miêu tả cây đa cổ thụ nơi làng quê, học sinh mở bài như
sau:

11


“Ở đầu làng em có một cây đa cổ thụ có dễ phải hàng trăm năm tuổi. Cả
làng gọi đó là cây đa ông Đài, vì ông Đài là người trồng ra nó, nhưng ông
Đài là ai, sống và chết từ bao giờ thì cả làng không ai nhớ cả.”
Học sinh khác lại viết: “Từ bến đò phía xa em đã nhìn thấy làng em.
Phải qua một cánh đồng bao la, một con đường liên xã dài hơn hai cây số, em
đã nhìn thấy làng quê yêu dấu: cây đa cổ thụ in bóng xanh thẫm trên bầu
trời. Mỗi lần đi xa về, em cảm động tưởng như cây đa làng quê đang giơ tay
vẫy chào, đón đợi.” Từ các cách mở bài khác nhau cho các em nhận xét và tìm
ra ý đúng, ý hay để mở bài một cách hợp lý nhất.
- Đoạn văn kết bài: Kết bài tuy chỉ là một phần nhỏ trong bài văn nhưng lại
rất quan trọng bởi đoạn kết bài thể hiện được nhiều nhất tình cảm của người viết
với đối tượng miêu tả. Thực tế cho thấy học sinh thường hay liệt kê cảm xúc của
mình làm phần kết luận khô cứng, gò bó, thiếu tính chân thực. Chủ yếu các em
thường làm kết bài không mở rộng, kết bài như vậy không sai nhưng chưa hay,

chưa hấp dẫn người đọc.Vì vậy đòi hỏi người giáo viên phải gợi ý để học sinh
biết cách làm phần kết bài có mở rộng bằng cảm xúc của mình một cách tự
nhiên thông qua những câu hỏi gợi mở, sau đó cho các em nhận xét, sửa sai và
chắt lọc để có được những kết bài hay.
Ví dụ:
+ “Mới ngày nào vào học lớp Một, nghe tiếng trống trường ngày khai
giảng mà hồi hộp. Thế mà nay em đã là cậu học sinh lớp Bốn rồi. Càng thấy
yêu, càng thấy nhớ cái âm thanh rộn ràng ấy mỗi buổi mai khi hừng đông
rực đỏ.”
+ “Trống trường quả là người bạn thân thiết của tuổi học trò. Mai đây
lớn lên, chúng em dù có đi bất cứ nơi đâu cũng không thể quên tiếng trống
trường. Tùng! Tùng! Tùng!... Trống gọi em về với những bài giảng của thầy
cô, với những nụ cười, ánh mắt của bạn bè.”
+ “Cây gạo có thể sống đến nghìn năm. Nó là nhân chứng thầm lặng
của dòng đời. Cô giáo em nói thế. Đi học về, đứng trên bến đò, hoặc đi xa về,
ngắm nhìn ba cây gạo, em thấy lòng bồn chồn xôn xao. Cây gạo là hồn quê,
là tình quê vơi đầy.”
Văn chương không phải là sự đúng, sai, với làm văn đúng thôi chưa đủ mà
phải thấm đượm cảm xúc của người viết. Song tình cảm không phải là thứ gò ép
bắt buộc, tình cảm ấy phải chân thực, hồn nhiên, xuất phát từ chính tâm hồn các
em. Bài văn không thể hay nếu thiếu cảm xúc của người viết, cảm xúc không chỉ
bộc lộ ở phần kết bài mà còn thể hiện ở từng câu, từng đoạn của bài. Vì vậy giáo
viên cần chú ý rèn cho học sinh cách bộc lộ cảm xúc trong bài văn một cách
thường xuyên liên tục, từ tiết đầu tiên của mỗi loại bài đến những tiết luyện tập
xây dựng đoạn văn, tiết viết bài và ngay trong tiết trả bài nữa.
3.6. Chuẩn bị kỹ càng phần củng cố bài trong các tiết tập làm văn:
Củng cố bài là phần chiếm không nhiều thời gian trong cả tiết học nhưng
lại là lúc giáo viên tóm tắt toàn bộ nội dung kiến thức của bài và mở ra hướng

12



kiến thức mới cho tiết học sau, vì vậy cần chú ý để phần củng cố bài hấp dẫn,
thu hút được sự chú ý của các em.
- Như trên đã nói, cần giúp học sinh nhìn nhận mọi vật ở nhiều khía cạnh,
góc độ khác nhau, kích thích trí tưởng tượng, sáng tạo của các em nên ở phần
củng cố bài, giáo viên không nên đưa ra những bài văn mẫu hoàn chỉnh làm các
em bắt chước, sao chép, dễ tạo cho các em cách làm văn sáo rỗng, na ná như
nhau mà nên đưa ra những đoạn văn khác nhau. Cùng trong một tiết học, có thể
đưa ra nhiều đoạn văn miêu tả của những tác giả khác nhau, giúp các em nhìn
nhận đối tượng miêu tả toàn diện, phong phú hơn và từ đó các em sẽ biết chắt
lọc, tìm tòi những chi tiết đặc sắc, học tập được các câu, các từ hay, cách diễn
đạt hợp lý cho bài làm của mình.
Chẳng hạn, trong tiết luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật, phần
củng cố bài, giáo viên có thể đọc cho các em nghe một vài đoạn như sau:
“Tô-ny lớn nhanh như thổi. Giờ đây, nó đã là một chú chó trưởng thành với
hình dáng cân đối và đẹp đẽ. Toàn thân nó phủ một lớp lông dày màu vàng nâu.
Hai tai luôn dỏng lên nghe ngóng động tĩnh. Đôi mắt to, sáng. Lỗ mũi đen, ướt,
đánh hơi rất thính. Cái lưỡi màu hồng thè dài và hàm răng trắng bóng với bốn
răng nanh cong và nhọn. Tô-ny có dáng như chó săn. Cái ức nở đầy đặn, bụng
thon, bốn chân cao gân guốc và vững chãi. Cái đuôi xù cuốn tròn thành chữ “O”
trên lưng”.
“Con Rô sạch sẽ lắm. Mỗi lần mẹ gọi: “Rô đi tắm” là nó vẫy đuôi chạy
theo, ngoan ngoãn như một đứa bé được nuông chiều. Thân hình nó không hề có
một con bọ, con rận nào cả. Không biết mẹ dạy con rô từ bao giờ mà nó biết đi
vệ sinh vào một chỗ phía sau nhà. Nó rất ý tứ. Mỗi khi có khách đến chơi nhà nó
nằm im trên tấm đệm, đôi tai vểnh lên nghe bố mẹ và khách nói chuyện. Khách
đứng dậy ra về, con Rô cũng theo bố mẹ em đi ra cửa như để tiễn chân
khách”. ...
Khi đưa ra những đoạn văn mẫu, giáo viên cần lưu ý sắp xếp theo thứ tự

nhất định, không phải đưa ra đoạn nào trước cũng được. Việc sắp xếp phải theo
hướng gợi mở dần, phải theo một trình tự logích. Có thể là từ những đoạn văn có
kết cấu đơn giản đến phức tạp hoặc từ miêu tả hình dáng bên ngoài tới tả từng
bộ phận hoặc từ tả hình dáng đến tính cách (đối với văn miêu tả con vật). Như
thế sẽ giúp học sinh hiểu đối tượng miêu tả một cách có hệ thống có trình tự và
cũng guíp học sinh vân dụng khi miêu tả là phải miêu tả theo một trình tự nhất
định.
Các đoạn văn mẫu đọc cho học sinh nghe cũng cần lựa chọn kỹ càng, có nội
dung phù hợp, cùng chung một chủ đề, lời văn phải trong sáng, dễ hiểu, cụ thể,
gần gũi với các em. Có thể lấy những đoạn văn của những nhà văn lớn, cũng có
thể lựa chọn những đoạn văn hay của giáo viên, học sinh hoặc là những đoạn
văn của các bài tập đọc mà các em được học trong chương trình. Chẳng han, khi
dạy về văn miêu tả con vật có thể chọn những đoạn văn trong bài “Con chuồn
chuồn nước”, “Con sẻ”, ... Các đoạn văn đưa ra cũng không nên quá dài hay
quá ngắn vì nếu dài quá học sinh sẽ khó tiếp thu, ngắn quá sẽ không đảm bảo
13


nội dung. Đặc biệt đoạn văn cần phải được diễn đạt mạch lạc, đúng cấu trúc ngữ
pháp, lời văn giản dị, câu văn giàu hình ảnh và phải mang tính mẫu mực cả về
nội dung và hình thức.
Khi đưa ra các đoạn văn mẫu cần phải phân tích, đánh giá để học sinh thấy
được cái hay, cái đẹp trong từng đoạn văn, giúp học sinh nhận rõ nội dung miêu
tả, sự khác biệt trong miêu tả và nét đặc sắc trong hành văn.
Ví dụ: Đọc cho học sinh nghe đoạn văn “ Những cánh bướm bên bờ sông” :
“ Ngoài giờ học, chúng tôi tha thẩn ở bờ sông bắt bướm. Chao ôi, những con
bướm đủ màu sắc, đủ hình dáng. Con xanh biếc pha đen như nhung, bay nhanh
loang loáng. Con vàng sẫm nhiều hình mặt nguyệt, ven cánh có răng cưa, lượn
lờ đờ như trôi trong nắng. Con bướm quạ to bằng hai bàn tay người lớn, màu
nâu xỉn, có hình đôi mắt tròn, vẻ dữ tợn. Bướm trắng bay theo đàn líu ríu như

hoa nắng. Loại bướm nhỏ đen kịt, là là theo chiều gió hệt như tàn than của
những đám đốt hương...”
Phân tích: Đoạn văn ngắn gọn nhưng đã miêu tả khá sinh động vô số loài
bướm. HÌnh ảnh những chú bướm hiện lên qua con mắt của mấy cậu học trò vốn
say mê với thiên nhiên. Một từ tha thẩn miêu tả cảnh các cậu ra bờ sông bắt
bướm, một từ chao ôi diễn tả cảm xúc mạnh mẽ trong lòng các cậu đến bật thành
tiếng kêu chứng tỏ sự kinh ngạc và lòng say mê của các cậu học trò đến tột độ,
tạo nền cho bài miêu tả, tạo nền cho hình ảnh những cánh bướm xuất hiện. Liên
tiếp sau đó, mỗi câu văn được tác giả dùng để nói tới một con bướm. Mỗi con
bướm lại được tả bằng các tính từ, các hình ảnh so sánh gợi vẻ đẹp đầy hấp dẫn:
đen như nhung, loang loáng, vàng sẫm, lượn lờ đờ như trôi trong nắng, líu ríu
như hoa nắng,.. Tác giả đã khéo chọn những hình ảnh mới mẻ, độc đáo để so
sánh làm nổi bật dáng bay của từng loại bướm. Nó làm nên vẻ đẹp hấp dẫn riêng
của đoạn văn miêu tả này.
Việc đưa ra đoạn văn mẫu cùng với lời phân tích rõ ràng như vậy sẽ giúp
học sinh hình dung ra đối tượng miêu tả một cách cụ thể, sinh động hơn, giúp
học sinh vận dụng cách dùng từ đặt câu vào bài viết của mình.
3.7. Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài:
Tất cả những công việc, từ những việc làm thông thường hàng ngày đến
việc nghiên cứu khoa học nghiêm túc đều phải thực hiện theo một chu trình nhất
định, bắt đầu từ việc lập kế hoạch đến viếc triển khai thực hiện kế hoạch đó và
cuối cùng là khâu kiểm tra đánh giá lại những việc đã làm so với kế hoạch đề
ra. Để làm việc có hiệu quả, mang lại sự thành công thì không thể bỏ qua bất cứ
khâu nào trong các khâu trên, nhất là với khâu kiểm tra, đánh giá: có kiểm tra
đánh giá thì mới có thể biết được những ưu, khuyết điểm trong công việc đã
thực hiện, để điều chỉnh cho những việc tiếp theo.
Dạy tập làm văn cũng không nằm ngoài chu trình chung đó. Mỗi loại bài
thường dành một tiết kiểm tra để học sinh thực hành viết văn, quá trình thực
hành ấy cần được xem xét, đánh giá rút kinh nghiệm thật cẩn thận, nghiêm túc
thì mới có tác dụng rèn kỹ năng viết văn cho học sinh. Tổ chức rút kinh nghiệm

thực hiện tiết trả bài chính là thực hiện khâu cuối cùng “kiểm tra, đánh giá”
14


nhằm mục đích giúp học sinh hiểu được những nhận xét chung của giáo viên về
kết quả bài viết của cả lớp để liên hệ với bài làm của mình, giúp học sinh biết
sửa lỗi dùng từ, ngữ pháp, diễn đạt, chính tả, bố cục bài của mình và của bạn, từ
đó học sinh có thể học hỏi những câu văn, đoạn văn hay của bạn. Với mục đích
như vậy thì tiết trả bài không thể làm qua loa đại khái, càng không thể bớt xén
thời lượng ( như trong phần thực trạng đã nêu).
Muốn có được tiết trả bài có hiệu quả cao thì việc chấm bài là rất quan
trọng. Giáo viên cần chấm bài thật kỹ càng, chữa từng lỗi nhỏ trong bài viết cho
học sinh. Khi chấm bài phát hiện ra lỗi của học sinh giáo viên cần ghi lại cẩn
thận các lỗi của học sinh theo từng loại: lỗi về cách dùng từ, lỗi câu, lỗi diễn đạt,
lỗi chính tả,... và cũng cần ghi lại các từ, câu hay đoạn văn hay. Sau khi chấm
bài giáo viên cần thống kê điểm số, đưa ra được nhận xét chung nhất về ưu,
nhược điểm trong bài viết của học sinh, thống kê được các lỗi mà học sinh
thường mắc và những câu văn, đoạn văn hay.
Trong tiết trả bài, ngoài việc tiến hành các trình tự như trong sách giáo
viên đã hướng dẫn, giáo viên cần thay đổi hình thức hoạt động để học sinh đỡ
nhàm chán. Sau phần giáo viên nhận xét chung, giáo viên cần chữa lỗi cho học
sinh theo từng loại lỗi đã thống kê khi chấm bài và nêu các câu văn, đoạn văn
hay đã chuẩn bị trước.Sau đó, giáo viên trả bài và có thể tổ chức cho học sinh
thảo luận theo nhóm bàn để các em trao đổi với bạn về cách làm bài của mình,
đọc cho nhau nghe các câu văn hay hoặc giúp nhau sửa lỗi trong bài làm. Từ đó
học sinh sẽ thấy rõ được ưu, nhược điểm trong bài làm của mình, của bạn và biết
tự sửa chữa hoặc viết lại đoạn văn của mình cho đạt yêu cầu. Sau những trao đổi
như vậy cũng sẽ giúp học sinh tránh được những lỗi không đáng có trong thực
hành viết văn và trong cả giao tiếp hàng ngày.
3.8. Chuẩn bị chu đáo kế hoạch bài học góp phần làm nên sự thành công

trong dạy học:
Trong bất kỳ hoạt động nào việc chuẩn bị cũng hết sức quan trọng, chuẩn bị
cũng chính là lập kế hoạch cho công việc mình định làm, đó là việc làm đầu
tiên, tất yếu của mỗi hoạt động. Soạn bài là việc làm đầu tiên, tất yếu của người
giáo viên. Bài soạn chính là bản kế hoạch của giờ lên lớp, ngày nay được gọi là
kế hoạch bài học.
Để có được kế hoạch bài học cụ thể, rõ ràng có chất lượng, có tác dụng
thiết thực, đem lại hiệu quả cao, người giáo viên phải huy động tối đa tất cả
năng lực, phẩm chất của mình như năng lực hiểu biết và chế biến tài liệu, năng
lực hiểu học sinh, năng lực ngôn ngữ,... lòng yêu nghề, niềm tin, sự nhiệt tình và
lòng đam mê nghề nghiệp. Kế hoạch bài học có chất lượng phải chuyển hoá
được những kiến thức của sách vở đến với học sinh một cách nhẹ nhàng, tự
nhiên tức là giáo án được hiện thực hoá qua bài giảng trên lớp chứ không thể là
tờ giấy vô tri vô giác chỉ để giám hiệu ký duyệt cho “đủ thủ tục”.
Mỗi người giáo viên cần nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của việc chuẩn
bị kế hoạch bài học trước khi lên lớp, kế hoạch ấy có thể được ghi chép lại cẩn
thận trong giáo án, cũng có thể là sự suy nghĩ sắp xếp trong trí óc miễn là nó
15


phải được thực hiện một cách nghiêm túc và hết sức tự giác. Có kế hoạch bài
giảng chu đáo tức là giáo viên đã chuẩn bị tốt mọi nội dung thực hiện trên lớp,
từ tiết lý thuyết đến các tiết thực hành xây dựng đoạn văn và tiết trả bài, từ phần
kiểm tra bài cũ đến phần củng cố bài học. Như vậy giáo viên có thể thực hiện
được bảy biện pháp trên một cách dễ dàng và chất lượng dạy học chắc chắn sẽ
được nâng cao.
Qua nghiên cứu thực tế tôi có thể mạnh dạn đưa ra các giai đoạn của việc
soạn giáo án một bài cụ thể như sau:
- Giai đoạn 1: Xác định mục tiêu bài học.
- Giai đoạn 2: Chuẩn bị đồ dùng, phương tiện dạy học.

- Giai đoạn 3: Lựa chọn phương pháp dạy học.
- Giai đoạn 4: Thiết kế các hoạt động dạy học.
Muốn có đầy đủ thông tin và kiến thức cho một bài giảng, thực hiện được
tốt các giai đoạn trên, người giáo viên cần không ngừng học tập nâng cao trình
độ, tham gia đủ các lớp học chuyên môn, các buổi hội thảo do nhà trường và các
cấp quản lý triển khai, chịu khó sưu tầm các loại sách vở liên quan đến chuyên
môn, tự lập cho mình tủ sách riêng dể tiện tra cứu khi cần thiết. Đặc biệt trong
thời đại mà khoa học công nghệ thông tin đã phát triển mạnh mẽ, người giáo
viên hơn ai hết phải là người đi đầu trong việc tự học tập để tiếp thu khoa học
công nghệ thông tin hiện đại ấy. Việc tra cứu tìm tư liệu trên mạng cũng rất đơn
giản, lại không tốn kém đáng kể về kinh tế, ngoài giờ lên lớp, mỗi ngày ta có thể
dành một giờ để lên mạng tìm những thông tin cần thiết cho các bài giảng, như
vậy vốn kiến thức của chúng ta sẽ phong phú lên rất nhiều và bài giảng chắc
chắn sẽ hấp dẫn hơn, nhất là với việc dạy văn miêu tả thì điều này lại càng cần
thiết.
Dạy văn miêu tả lớp 4 là một việc làm khó, nhất là nếu chúng ta đơn độc
thực hiện lại càng khó hơn nên rất cần sự đóng góp trí tuệ của tập thể, của bạn
bè đồng nghiệp. Vì vậy, chúng ta cần nghiêm túc trao đổi cùng bạn bè đồng
nghiệp về chuyên môn nghiệp vụ trong các buổi sinh hoạt chuyên môn. Mỗi
buổi có thể trao đổi về một chủ đề, về một tiết tập làm văn nào đó, có thể cả tổ
xây dựng mỗi tiết một giáo án mẫu sau đó về nhà mỗi người sẽ tuỳ thuộc vào
đối tượng học sinh lớp mình mà cụ thể hoá thành kế hoạch của riêng mình. Như
vậy sẽ phát huy được sức mạnh của tập thể và mỗi chúng ta cũng học hỏi được
từ đồng nghiệp rất nhiều.
Tóm lại: Dạy như sách đã khó nhưng dạy để sách trở thành vốn tri thức
phát triển của học sinh lại càng khó hơn. Với tập làm văn, người dạy phải gửi cả
tâm hồn mình vào trong bài dạy, thầy trò phải cùng đắm mình vào đối tượng
miêu tả theo một dòng cảm xúc, cùng hoà chung tình cảm để cùng tìm hiểu và
cảm nhận với niềm say mê, thích thú. Muốn vậy người giáo viên phải có sự
chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi lên lớp. Chuẩn bị đầy đủ về tâm thế, về nội dung,

phương pháp, đồ dùng, phương tiện dạy học, mục tiêu, ý nghĩa giáo dục, khả
năng, trình độ của học sinh. Phải tìm tòi, nghiên cứu để có được những câu hỏi
gợi mở phù hợp với trình độ học sinh, chuẩn bị cả những từ, những câu văn
16


thích hợp để sửa sai hoặc để làm mẫu cho học sinh.Nó đòi hỏi giáo viên phải nỗ
lực sáng tạo trong suốt quá trình dạy học. Chỉ có nghiên cứu sáng tạo mới cho
giáo viên có được những giờ dạy văn miêu tả mới mẻ, hiệu quả cao. Nếu không
có những sáng tạo mới trong dạy tập làm văn nhất là văn miêu tả thì giờ dạy văn
miêu tả chỉ là sự liệt kê các chi tiết của đối tượng miêu tả, giờ học sẽ gượng ép,
gò bó, thiếu tâm hồn văn học.
4. Hiệu quả:
Với các giải pháp như trên tôi đã tiến hành thực nghiệm trong 2 tháng với
10 tiết tập làm văn miêu tả. Sau khi tiến hành giảng dạy tập làm văn miêu tả theo
đúng chương trình, tôi đã cho học sinh cả lớp làm bài kiểm tra viết với 2 đề bài :
Đề 1: “ Hãy miêu tả một cây bóng mát ở sân trường em mà em thích
nhất. Chú ý mở bài theo cách gián tiếp”.
Đề 2: “ Hãy miêu tả một cây hoa mà em thích. Chú ý kết bài theo lối
mở rộng”.
Kết quả cụ thể thu được ở tháng 3 như sau:
Lớp

Số
HS

Đề

4B


28

Đề 1
Đề 2

Hoàn thành
SL
TL
28
100
28
100

Chưahoàn thành
SL
TL
0
0
0
0

Rõ ràng chất lượng bài làm hơn hẳn, có tiến bộ rõ rệt, các em đã biết viết văn
miêu tả giàu hình ảnh, giàu cảm xúc. Đặc biệt nhiều em đã biết cách sử dụng
các biện pháp nghệ thuật như: nhân hoá, so sánh, dùng điệp từ, điệp ngữ... bài
làm sinh động, cảm xúc chân thật. Tuy vẫn còn một số ít bài viết khô cứng, liệt
kê các chi tiết của đối tượng miêu tả nhưng không có hiện tượng sao chép văn
mẫu, cũng không có những bài làm na ná như nhau. Mặc dù mới là sự chuyển
biến ít ỏi nhưng trong giảng dạy nhất là dạy tập làm văn thì kết quả như vậy
cũng là điều đáng quý. Mặt khác các phương pháp này mới chỉ được áp dụng
trong 10 tiết tập làm văn - một thời gian quá ngắn. Nếu có thể thực hiện từ khi

dạy tập làm văn ở lớp 2,3 thì tôi tin chắc rằng chất lượng làm văn của các em sẽ
còn khả quan hơn rất nhiều.
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN:
Trước những yêu cầu đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo, thực hiện đổi
mới chương trình sách giáo khoa nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực
trong công cuộc đổi mới đất nước giai đoạn hiện nay. Việc nâng cao chất lượng
dạy học là một trong những yêu cầu trọng tâm của chiến lược phát triển giáo
dục. Một trong những yếu tố quyết định đến chất lượng giáo dục đó là đội ngũ
giáo viên, để đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục, giáo viên phải không ngừng
học hỏi, sáng tạo trong giảng dạy, đem hết khả năng và niềm đam mê, lòng nhiệt
tình cho công tác thì mới có được những kết quả như mong muốn. Với việc dạy
17


tập làm văn, nhất là văn miêu tả lớp 4 thì việc làm này càng cần thiết hơn bởi
việc dạy tập làm văn là rất khó, học sinh lớp 4 tuy đã gần cuối cấp tiểu học
nhưng việc làm văn cũng mới dừng ở mức độ “tập”, nội dung chương trình lại
hoàn toàn mới, năm đầu tiên được thực hiện nên còn nhiều bỡ ngỡ cả với thầy
và trò.
Từ thực tế Trường Tiểu học Hưng Lộc I, tôi thấy để nâng cao chất lượng
dạy tập làm văn người giáo viên cần tìm hiểu kỹ đối tượng học sinh, hiểu đặc
điểm tâm lý của các em, hiểu và nắm chắc đặc điểm, chức năng của văn miêu tả
và cần giúp các em hiểu rõ các đặc điểm ấy ngay từ tiết đầu tiên của thể loại văn
miêu tả. Vì tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp của tất cả các phân môn
thuộc môn Tiếng Việt nên muốn dạy tập làm văn có chất lượng cần thiết phải
dạy tốt các phân môn còn lại, cần chuẩn bị chu đáo trước khi lên lớp, để khi thực
hiện kế hoạch bài học trên lớp giáo viên cần đọc cho học sinh nghe các câu văn,
câu thơ có sử dụng các biện pháp nghệ thuật, cung cấp cho các em những đoạn
văn mẫu,... giúp các em mở rộng vốn từ, mở rộng vốn hiểu biết và từ đó học tập

vận dụng vào bài làm của mình. Cần coi tiết trả bài như một khâu không thể
thiếu của các quá trình hoạt động, đó chính là khâu kiểm tra, đánh giá nhằm điều
chỉnh cho những hoạt động tiếp theo. Trả bài là tiết học mà giáo viên dành nhiều
thời gian để sửa lỗi cho học sinh, giúp học sinh điều chỉnh những sai sót mắc
phải trong bài viết để bài viết sau sẽ hoàn thiện hơn, hấp dẫn hơn.
Không phải ai sinh ra cũng mang sẵn trong mình một tâm hồn văn chương
mà khả năng ấy phải được bồi đắp dần qua năm tháng, qua trang sách và những
bài giảng hàng ngày của thầy cô. Muốn có được khả năng ấy của mỗi học sinh
thì chính mỗi người giáo viên phải định hướng, gợi mở cho các em phương pháp
học tập như những cây non được ươm trồng cần bàn tay con người chăm sóc,
vun xới thì nó sẽ trở lên tươi tốt. Với học sinh lớp 4, các em không thể vừa bắt
tay vào viết văn đã có được những dòng văn hay mà văn hay là kết quả của một
quá trình rèn luyện liên tục, bền bỉ, dẻo dai. Văn hay không thể có được ở những
học trò lơi là đèn sách . Với tinh thần đó, việc rèn kỹ năng làm văn vừa để nhằm
mục đích nâng cao năng lực viết văn vừa nhằm nâng cao ý thức tự rèn luyện
của học sinh. Đó chính là động lực thúc đẩy tôi hoàn thành bài tập nghiên cứu
khoa học này.
2. KIẾN NGHỊ:
Để kết quả của đề tài có thể được áp dụng rộng rãi và có hiệu quả , tôi xin
có một số kiến nghị sau đây:
* Đối với Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT:
- Hàng năm cần tổ chức các phong trào thi đua viết thơ văn, sáng tác nhỏ của
tuổi thơ để các em có điều kiện phát huy tài năng của mình.
- Trong các kỳ hội giảng, hội thi nên khuyến khích giáo viên dạy tập làm văn
để trao đổi tìm ra phương pháp hay.
- Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho nhà trường: Trang bị những phương tiện
thông tin hiện đại, máy tính nối mạng Internet để giáo viên có thể tra cứu, tìm
các thông tin phục vụ cho bài
18



* Đối với Ban giám hiệu nhà trường:
- Nâng cao hiệu quả các giờ chuyên môn, khuyến khích giáo viên đầu tư trao
đổi kế hoạch bài học, cùng thống nhất soạn giáo án tập thể để phát huy sở
trường của từng cá nhân và sức mạnh của cả tập thể.
- Hàng năm thường xuyên tổ chức cho giáo viên và học sinh đi thăm quan du
lịch để nâng cao hiểu biết về cảnh vật, đất nước và con người Việt Nam.
Hậu Lộc, ngày 16 tháng 3 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác
Ngêi

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRUỞNG ĐƠN VỊ.

viÕt

Nguyễn Thị Quyên

19



×