Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Một số biện pháp rèn kỹ năng làm bài văn tả người cho học sinh lớp 5b trường tiểu học đông sơn bỉm sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.67 KB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỈM SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG LÀM BÀI VĂN TẢ
NGƯỜI CHO HỌC SINH LỚP 5B - TRƯỜNG TH ĐÔNG SƠN

Người thực hiện: Nguyễn Thị Nhiên
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Đông Sơn
SKKN môn: Tiếng Việt

THANH HÓA NĂM 2017


MỤC LỤC
TT

NÔI DUNG

TRANG

1

A. MỞ ĐẦU

1

2



Lí do chọn đề tài

1

3

Mục đích nghiên cứu

1

4

Đối tượng nghiên cứu

2

5

Phương pháp nghiên cứu

2

6

B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIÊM

2

7


Cơ sở lí luận

2

8

Thực trạng

3

9

Kết quả của thực trạng

3

10

Giải quyết vấn đề

4

11

Các giải pháp thực hiện

4

12


Các biện pháp tổ chức thực hiện

4

13

Biện pháp 1

4

14

Biện pháp 2

10

15

Biện pháp 3

14

16

Biện pháp 4

15

17


Biện pháp 5

16

18

Kết quả nghiên cứu

18

19

C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

19

20

Kết luận

19

21

Kiến nghị:

20



MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG LÀM BÀI VĂN TẢ NGƯỜI CHO
HỌC SINH LỚP 5B – TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐÔNG SƠN
A. MỞ ĐẦU:
I. Lí do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết, môn Tiếng Việt ở trường Phổ thông có nhiệm vụ hoàn
thiện các năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh, tương ứng với việc hình thành
và thực hành tốt bốn kĩ năng: nghe, đọc, nói, viết trong các hoạt động giao tiếp.
Đồng thời ngôn ngữ còn là phương tiện của tư duy. Song song với quá trình
hoàn thiện các thao tác của tư duy thì việc giúp trẻ hoàn thiện hệ thống các kiến
thức về ngôn ngữ Tiếng Việt là vô cùng quan trọng. Vì vậy việc dạy Tiếng Việt
trong nhà trường một cách cẩn thận, khoa học, có hệ thống, phù hợp với thực tiễn
và thực hành vận dụng tốt là rất quan trọng với học sinh Tiểu học.
Trong đó, phân môn Tập làm văn có vị trí đặc biệt quan trọng trong dạy và
học Tiếng Việt. Đó là phân môn tổng hợp các kiến thức kĩ năng của các phân môn
khác trong môn Tiếng Việt. Qua việc học và thực hành làm văn, học sinh được: mở
rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ và hình
thành một nhân cách tốt. Mỗi bài Tập làm văn của học sinh lớp 5 nói riêng, của các
em học sinh Tiểu học nói chung là một sản phẩm của sự vận dụng tổng hợp các kiến
thức, kĩ năng mà do chính các em tạo ra trên cơ sở các em được tiếp nhận từ thực tế
cuộc sống và vốn kiến thức Văn - Tiếng Việt tích lũy được trong quá trình học tập.
Học sinh lớp 5 dù khá quen với văn miêu tả song bây giờ các em mới bắt
đầu thực hiện làm bài văn tả người. Trong quá trình giảng dạy thực tế của học
sinh lớp 5B trường Tiểu học Đông Sơn, tôi nhận thấy hầu hết các bài văn tả
người của các em còn viết lan, chưa tập trung tả những nét đặc trưng của nhân vật.
Lời văn của các em còn nghèo nàn, thiếu hình ảnh, sử dụng các từ ngữ miêu tả chưa
phù hợp với đặc điểm hình dáng và tính cách của nhân vật, làm cho nhân vật trở nên
méo mó, thiếu tính chân thật trong bài viết của các em. Phần đông các em viết mở
bài theo kiểu trực tiếp nêu chưa hấp dẫn người đọc và phần kết bài các em thường
viết theo kiểu không mở rộng nêu chưa thể hiện hết cảm xúc của người viết đối với
nhân vật được miêu tả. Giáo viên giảng dạy thường chú trọng lý thuyết coi nhẹ

kỹ năng thực hành. Vì vậy các em ít được khai thác và tính sáng tạo trong bài
viết.
Để giải quyết những vấn đề trên đây hay nói cách khác là để giúp học
sinh lớp 5B nói riêng, học sinh lớp 5 Tiểu học Đông Sơn nói chung có kỹ năng
viết bài văn tả người hay, chân thật, giàu hình ảnh. bài văn có giá trị nội dung
và nghệ thuật cao. Với những lý do trên, tôi chọn và viết sáng kiến “Một số biện
pháp rèn kĩ năng làm bài văn tả người cho học sinh lớp 5”
II. Mục đích nghiên cứu:
Tìm ra biện pháp rèn kĩ năng làm văn tả người cho học sinh lớp 5B trường
Tiểu học Đông Sơn để các em viết các bài văn tả người hay hơn, hấp dẫn hơn.
3


- Góp phần đổi mới phương pháp dạy học phân môn tập làm văn về thể loại
văn tả người, theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh
lớp 5 trường Tiểu học Đông Sơn. Để góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn
Tiếng Việt nói chung của trường tiểu học Đông Sơn.
III. Đối tượng nghiên cứu:
Một số biện pháp rèn kĩ năng làm bài văn tả người cho học sinh lớp 5B
Trường Tiểu học Đông Sơn - Bỉm Sơn - Thanh Hóa”
IV. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu: + Nghiên cứu các tài liệu như nội dung chương
trình giảng dạy phân môn tập làm văn lớp 5, đọc tạp trí, sách báo văn học tuổi trẻ,
đọc tài liệu trên In-to- nét (như trang vantieuhoc.com…..)
- Phương pháp điều tra:
+ Điều tra, khảo sát học sinh lớp 5B trường Tiểu học Đông Sơn nhận diện và
vận dụng làm tập làm văn tả người.
+ Ra đề kiểm tra cho học sinh lớp 5B làm vào tuần 16.
- Phương pháp quan sát: Dự giờ đồng nghiệp trong trường giáo viên dạy
khối 5, các tiết dạy tập làm văn tả người.

- Phương pháp hỏi đáp: Trao đổi với đồng nghiệp về phương pháp dạy học
tập làm văn tả người.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Dạy thực nghiệm theo phướng pháp
mới cho học sinh lớp 5B trường tiểu học Đông Sơn.
- Phương pháp đối chứng: Kiểm tra đối chứng kết quả trước và sau khi dạy
tập làm văn tả người theo phương pháp mới.
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
I.Cơ sở lí luận:
Tập làm văn là một phân môn mang tính tổng hợp và sáng tạo cao. Hệ
thống các kiến thức, kĩ năng từ các phân Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và
câu,... là tiền đề để giúp học sinh viết được một bài Tập làm văn hiệu quả.
Theo quan điểm tích hợp, các phân môn được tập hợp lại xung quanh trục chủ
điểm và các bài đọc. Nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng gắn bó chặt
chẽ với nhau. Như vậy, muốn dạy- học có hiệu quả Tập làm văn miêu tả (tả cảnh, tả
người) nhất thiết người giáo viên phải dạy tốt Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện
từ và câu.Vì trong các bài đọc, trong câu chuyện, trong các bài tập luyện từ- câu
thường xuất hiện các đoạn văn, khổ thơ có nội dung miêu tả rất rõ về cảnh vật, thiên
nhiên, con người,...[2]
Bài Tập làm văn nếu không sáng tạo sẽ trở thành một bài văn khô cứng, góp
nhặt của người khác, nội dung bài văn sẽ không hồn nhiên, trong sáng, mới mẻ như
tâm hồn của các tác giả nhỏ tuổi.
Chất lượng Tập làm văn là chất lượng của cảm thụ văn học, của các kĩ năng
nghe, nói, đọc, viết tiếng mẹ đẻ. Cho nên, thầy và trò phải soạn giảng và học tập
tích cực, nghiêm túc, hiệu quả, mới mong nâng cao một cách bền vững chất lượng
môn Tiếng Việt ở lớp cuối cấp Tiểu học.
4


Dạy Tập làm văn lớp 5 phải đảm bảo mục tiêu yêu cầu cần đạt về kiến thức, kĩ
năng của Chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học theo Chuẩn kiến thức, kĩ

năng của từng môn học (ban hành kèm theo quyết định số 16 của Bộ GD-ĐT) và
phù hợp trình độ của từng học sinh trong lớp mà “Hướng dẫn 896” của Bộ GD-ĐT
đã đề ra.
Tôi tin rằng đề tài này nếu được áp dụng và vận dụng hợp lý sẽ đem lại hiệu
quả cao cho việc dạy phân môn Tập làm văn, góp phần nâng cao chất lượng môn
Tiếng Việt lớp 5.
II. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến:
1. Thực trạng:
Năm nay (2016 – 2017), tôi được phân công phụ trách lớp 5B với 27 học
sinh. Hầu hết 27 học sinh của lớp 5B tôi chủ nhiệm còn rất hạn chế khi làm bài
Tập làm văn tả người. Học sinh lớp 5 dù khá quen với văn miêu tả song bây giờ
các em mới bắt đầu thực hiện làm bài văn tả người.Trong quá trình giảng dạy
thực tế của học sinh lớp 5B, tôi nhận thấy hầu hết các bài văn tả người của các
em còn viết lan man, chưa tập trung tả những nét đặc trưng của nhân vật. Lời
văn của các em còn nghèo nàn, thiếu hình ảnh, sử dụng các từ ngữ miêu tả chưa
phù hợp với đặc điểm hình dáng và tính cách của nhân vật, làm cho nhân vật trở
nên méo mó, thiếu tính chân thật trong bài viết của các em. Phần đông các em
viết mở bài theo kiểu trực tiếp nêu chưa hấp dẫn người đọc và phần kết bài các
em thường viết theo kiểu không mở rộng nêu chưa thể hiện hết cảm xúc của
người viết đối với nhân vật được miêu tả.
2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên:
Qua thực tế khảo sát (tuần 16 năm học 2016 - 2017 với đề bài văn "tả
người" ở lớp 5B do tôi chủ nhiệm và giảng dạy. Kết quả đạt mức như sau:

Tổng
số
học
sinh

27


Bài viết hay,
giàu
hình
ảnh, dùng từ
ngữ miêu tả
phù hợp, ….

Bài viết dùng từ
ngữ miêu tả phù
hợp, giàu hình
ảnh, mở bài hay

Bài viết dùng từ
ngữ miêu tả phù
hợp, kết bài hay,
mở bài chưa hay

Bài viết dùng
từ ngữ miêu tả
chưa phù hợp,
viết còn lan
man, mở bài và
kết bài chưa
hay.

SL

%


SL

%

SL

%

SL

%

1

3.7

6

22.2

6

22.2

14

51.9

kết bài chưa hay


5


Đứng trước thực trạng trên để học sinh viết được bài văn tả người hay, độc
đáo có nét riêng biệt của mỗi bài viết tôi hết sức lo lắng và đã cố gắng tìm tòi
cách dạy nhằm hướng dẫn cho học sinh làm bài văn tả người được tốt hơn.
Để giải quyết những vấn đề trên đây hay nói cách khác là để giúp các em
có kỹ năng viết bài văn hay, bài văn có giá trị nội dung và nghệ thuật cao cần
giải quyết những vấn đề sau:
III. Giải quyết vấn đề:
Từ thực trạng trên của lớp 5B tôi đang dạy, để giúp các em đạt hiệu quả tốt
hơn trong học tập phân môn Tập làm văn nói chung và văn tả người nói riêng tôi đã
tìm ra các giải pháp để giúp học sinh làm tốt các bài văn tả người.
1. Các giải pháp thực hiện
1.1/ Giúp học sinh biết dùng miêu tả phù hợp với đặc điểm hình dáng, tính tình của
nhân vật và sử dụng các từ ngữ gợi tả khi làm văn tả người.
1.2/ Giúp học sinh biết cách chọn các chi tiết đặc trưng để tả trong bài văn tả người.
1.3/ Học sinh biết sử dụng các biện pháp tu từ khi làm bài văn tả người.
1.4/ Giúp học viết được mở bài hay, hấp dẫn cho bài văn tả người.
1.5/ Giúp học viết được những kết bài hay, giàu cảm xúc cho bài văn tả người.
2. Các biện pháp để tổ chức thực hiện:
2.1. Biện pháp1: Giúp học sinh biết dùng từ ngữ miêu tả phù hợp với đặc
điểm hình dáng, lứa tuổi, tính tình, hoạt động của nhân vật và sử dụng các từ
ngữ gợi tả khi làm văn tả người.
Thực trạng trong lớp 5B, có nhiều học sinh khi viết bài văn tả người dùng từ
ngữ chưa phù hợp với đặc điểm hình dáng, lứa tuổi, tính tình của nhân vật và chưa
biết sử dụng các từ ngữ gợi tả. Để khắc phục tình trạng trên tôi đã tìm ra các giải
pháp sau:
a) Giúp học sinh hiểu: Tả người là ghi lại những nét riêng về hình dáng và tính
tình của một người mà em đã nhìn thấy bằng cách sử dụng các từ ngữ miêu tả phù

hợp.

6


Ví dụ: Khi tả về người bà
- Bà em đã già.
- Bà ngoài tám mươi tuổi.
- tóc bà bạc trắng.
- Da nhăn nheo.
- Trên làn da nhăn
nheo đó có nhiều nốt chấm
màu nâu.
- Khuôn mặt có nhiều nếp nhăn
- Răng rụng hết,
- miệng cười móm mém ....

Ví dụ: Khi tả một em bé:
- Đó là một em bé chưa tròn
một tuổi.
- khuôn mặt tròn, bầu bĩnh
thật đáng yêu.
- Đôi mắt to, tròn, đen láy,
nhìn ngơ ngác....
- Nước da trắng hồng ....
* Tóm lại: Ở mỗi lứa tuổi, con người có những đặc điểm về hình dáng và tính
tình khác nhau.
Ví dụ: Người trẻ tuổi thì tóc chưa bạc, là da căng tràn đầy sức sống. Người
già thì tóc bạc, da nhăn. Mỗi người có hoàn cảnh khác nhau, kẻ thì giàu có, người
lại nghèo sơ xác, người thì làm nghề nông... Mỗi người lại có trình độ văn hoá khác

nhau. Tất cả những đặc điểm ấy đều có ảnh hưởng đến sinh hoạt toàn diện của họ.
Chính vì vậy phải hướng cho các em dùng từ ngữ phù hợp với những nét
riêng của người mình tả. Cụ thể những từ ngữ thường dùng để tả người như:
+ Tuổi tác:
- Chừng tám tuổi (Tả một bạn nhỏ)
- Tuổi ngoài ba mươi (Tả người Trung tuổi)
- Tám mươi tuổi thọ. (Tả người già)
- Đây là khoảng hai lăm đến ba mươi.
7


- Mới sinh ra chưa tròn một tuổi. (Tả em bé)
+ Tầm vóc:
- Dáng người nhỏ bé.
- Thân hình cao lớn, ngoại khổ.
- Vóc dáng mảnh khảnh, thanh tú.
- Dáng người cân đối, thướt tha.
- Lưng còng.
+ Cái đầu, trán:
- Đầu tròn, tóc đem mượt.
- Đầu dài tóc đem huyền.
- Đầu hói, vài cọng tóc bạc phất phơ.
- Trán vồ, trán thấp, đỉnh trán sáng sủa.
- Trán rộng.
+ Khuôn mặt:
- Khuôn mặt tròn.
- Khuôn mặt vuông.
- Khuôn mặt trái xoan.
- Khuôn mặt dài, xương xương.
- Khuôn mặt tươi tỉnh.

- Khuôn mặt xanh xao.
- Khuôn mặt buồn ủ rũ.
- Đó là một em bé có khuôn mặt hồng hào, tròn quay, bầu bĩnh.
Trên đầu có mấy sợi tóc đem ngả màu nâu, phất phơ xuống đỉnh trán rộng
trông thật ngộ nghĩnh thông minh và dễ thương.
+ Diện mạo:
- Con người chững chạc.
- Con người cở mở
- Con người kín đáo.
- Con người nghiêm khắc.
- Con người có duyên.
8


- Con người cau có.
- Con người chỉ mới nhìn là đã có thiện cảm. [1]
+ Cái mũi:
- Cái mũi hếch ngược.
- Cái mũi cao.
- Cái mũi tẹt.
+ Đôi mắt:
- Đôi mắt to đen, sắc sảo
- Đôi mắt trũng sâu.
- đôi mắt lờ đờ.
- Đôi mắt thông minh.
- Đôi mắt đen trong sáng.
- Đôi mắt nhìn ngây thơ.
- Đôi mắt có nét nhìn ngay thẳng trung thực.
- Đôi mắt có nét nhìn đáng mến.
- Đôi mắt nhìn đầy âu yếm.

- Đôi mắt đầy quyến rũ.
- Đôi mắt nhìn đầy quả quyết.
- Đôi mắt đã có dấu chân chim.[1]
+ Đôi má:
- Đôi má hồng đầy đặn
- Đôi má hồng mũm mỉm
- Đôi má hồng có lún đồng tiền trông thật có duyên.
- Đôi gò má cao.
+ Đôi môi:
- Miệng răng:
- Đôi môi mỏng
- Đôi môi dày
- Đôi môi hình quả tin làm cho cái miệng trở nên duyên dáng ....
- Hàm răng sứt
- Đôi hàm răng đã rụng gần hết nên cái miệng móm.
- Hai hàm răng đều như hạt bắp khiến nụ cười của cô càng đẹp,
càng dễ nế hơn.
9


+ Cái cằm- râu:
- Cái cằm nhọn
- Cái cằm dài
- Cái cằm tròn
- Cái cằm vuông ...
- Cái cằm vuông có chòm râu trắng khiến ông nội đáng kính, đáng trọng
+ Thân mình - nước da:
- Thân mình tròn trịa
- Thân mình gân gốc với làn da đen sạm.
- Thân hình mảnh mai với làn da trắng hồng.

- Thân mình mập ú, béo phệ như dưới lớp da trăng kia chứa đầy cả mỡ.
- Thân mình khỏe mạnh, đôi tay, đôi chân cân đối.
+ Dáng điệu vẻ mặt:
- Vẻ mặt tươi tỉnh, dễ thương.
- Dáng điệu hòa nhã, dễ mến.
- Dáng điệu oai vệ, vẻ mặt quả quyết.
- Vẻ mặt xảo trá.
- Dáng điệu ngượng nghịu.
- Dáng điệu rụt rè, dáng điệu quý phái, nhiều mơ mộng.
- Dáng điệu trang nghiêm nhưng vẻ mặt lại vô cùng hiền từ.
- Vẻ mặt chất phác.
+ Lời nói - giọng nói:
- Lời nói lịch sự, giọng nói nhẹ nhàng chứng tỏ chị là một người hòa nhã.
- Lời nói dịu dàng, nhỏ vừa đủ nghe.
- Giọng nói truyền cảm, êm đềm.
- Giọng nói khàn khàn.
- Giọng nói vâng vang, lanh lảnh vang dến tận nơi xa.
+ Trang phục:
- Quần áo lịch sự bảnh bao.
- Áo dài đên, quần trắng.
- Áo quần được ủi cẩn thận.
- Đội mũ lưỡi trai.
- Đeo nữ trang.... đánh phấn thoa son.
- Chân đi đôi dép da.
- Đi đôi giày đúng mốt.
- Cổ có đeo sợi dây chuyền vàng.[1]
b) Khi dạy Thể loại văn tả người giáo viên chẳng những cung cấp cho học sinh một
số từ ngữ hay về tả hình dáng mà còn phải bồi dưỡng cung cấp cho các em một số
vốn từ “đắt” về tả tính tình của một người để bài văn hoàn hảo và có hồn.
10



Giáo viên cần hướng dẫn học sinh sử dụng các từ ngữ tả tính tình phù hợp, chính
xác với nhân vật được miêu tả. Từ cần dùng để tả tính tình của một người đó là:
+ Một đứa trẻ có thể:
- Một đứa trẻ hiền lành, thông minh, sáng trí.
- Một đứa trẻ chậm chạp, lười biếng.
- Một đứa trẻ hiếu thảo, đáng thương.
- Một đứa trẻ biết vâng vâng lời, ngoan ngoãn.
- Một đứa trẻ có những cử chỉ tàn nhẫn, bội bạc.
- Một đứa trẻ tinh nghịch, xấc xược.
+ Một học sinh có thể:
- Một học sinh có kỉ luật.
- Một học sinh siêng năng chăm chỉ, thông minh hoạt bát, ngăn nắp.
- Một học sinh lười biếng, kém kiêm tốn, khoe khoang, kiêu ngạo.
- Một học sinh lơ đễnh, đẵng trí, nhẹ dạ.
+ Một cụ già có thể:
- Có tính hòa đồng, thích sống giản dị, một người hiền lành, khoan dung, độ
lượng, rộng rãi, hiền hậu biết thương người.
+ Một thanh niên có thể có:
- Khôn ngoan, tháo vát, từng trải.
- Một người thật thà, chất phác, đứng đắn.
- Một người tận tâm với nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng
- Một người có tình dè dặt, kín đáo, thích phiêu lưu.
+ Một bà mẹ có thể có:
- Một người mẹ hiền lành, dịu dàng.
- Một người mẹ bao dung.
- Một người mẹ có cái nhìn âu yếm.
- Một người mẹ tận tụy với con cái.
- Một người mẹ cẩn thận.

- Một người mẹ can đảm.
Để cung cấp thêm vốn từ cho học sinh, trước tiên phải dạy tốt các tiết Luyện
và câu, Tập đọc, Kể chuyện, chính tả để các em có vốn từ vững chắc là tiền đề cho
phân môn Tập làm văn. Khi dạy cần chú ý xây dựng vốn từ cho học sinh ngoài
những từ đã có trong sách giáo khoa các em có thể tự bổ sung thêm một số từ ngữ
khác đưa vào bằng sự hiểu biết của mình.
Để học sinh viết được bài văn tả người giàu hình ảnh và sinh động, tôi đã
hướng dẫn các em cách sử các từ cần thiết và có giá trị nhất là từ láy, từ tượng
thanh, từ tượng hình.

11


Ví dụ: - Tả màu da có thể dùng: xanh xao, hồng hào, trắng trẻo.
- Tả về đôi mắt có thể dùng: lay láy, long lanh.
- Tả hình dáng: lênh khênh, mập mạp, gầy gầy, thon thả, thướt tha, dong dỏng.
- Tả tiếng cười, giọng nói: thỏ thẻ, ríu rít, khúc khích, thì thào…
Với cách vận dụng biện pháp trên vào việc dạy tập làm văn tả người, tôi thấy
hầu hết các em không những sử dụng các từ ngữ miêu tả phù hợp với nhân vật được
tả trong bài mà nhiều em còn biết sử dụng các từ láy tượng hình, tượng thanh phù
hợp trong bài viết của mình, làm cho bài văn trở nên sinh động hơn.
2. 2. Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh chọn một số nét đặc trưng để tả:
Tôi nhận thấy hầu hết các bài văn tả người của các em học sinh lớp 5B còn
viết lan, chưa tập trung tả những nét đặc trưng của nhân vật. Vậy để khắc phục tình
trạng trên tôi đã hướng dẫn học sinh chọn tả những nét đặc trưng của nhân vật bằng
cách sau.
- Trong giờ tập làm văn tả người tôi đã tổ chức để hầu hết học sinh được nói
về các đặc điểm riêng của nhân vật mình định tả.
+ Trước tiên là yêu cầu các em nói cho bạn trong nhóm nghe về đặc điểm
riêng của nhân vật mình định tả. (Thảo luận nhóm đôi)

+ Sau đó tổ chức cho học sinh thi nói về đặc điểm riêng của nhân vật mình
định tả trước lớp. Cả lớp nhận xét. Bình chọn bạn nói đúng, nói đủ, nói hay. Giáo
viên nhận xét, kết luận.
Giáo viên lưu ý học sinh: Tả người không cần thiết bao giờ cũng tả đẹp, tả
những nét tốt, mà cần tả những nét tiêu biểu, nét riêng biệt, vài nét nổi bật của nhân
vật mình tả.
Ví dụ: Khi tả về người mẹ kính yêu của em.
Mỗi người mẹ của từng em có những đặc điểm về hình dáng khác nhau và do
tính chất nghề nghiệp khác nhau, hoàn cảnh sống khác nhau dẫn đến sự khác biệt về
cách ăn mặc, đặc điểm về ngoại hình, về tính cách, về thói quen, về tính chất công
việc ....
Dưới đây là hình ảnh ba người mẹ với ba nghề nghiệp khác nhau: Một người
mẹ làm nghề nông, một người làm nội chợ, một người là giáo viên.

12


Mẹ làm nghề nông

Mẹ làm nội trợ

Mẹ làm giáo viên

Giáo viên giúp học sinh lựa chọn những nét tiêu biểu, nét riêng biệt, vài nét
nổi bật của nhân vật mình tả.

- Đối với người mẹ làm nghề nông: [2]
Ví dụ: Cùng tả về một người mẹ: Một em học sinh viết: "Mẹ của em phải làm
lụng vất vả, các ngón tay của mẹ gầy gầy, xương xương. Mái tóc của mẹ đã điểm
bạc và làn da có nhiều nếp nhăn".

13


- Có em chỉ chọn nét đặc trưng đó là đôi vai của mẹ, em viết: "Đôi vai của mẹ
đã thành chai sạn từ bao giờ không biết, chỉ thấy cái u chai đã dày cộm lên do suốt
đời mẹ chỉ biết gánh và gánh. Mấy chiếc đòn gánh rời vai mẹ, mẹ gánh thóc, gánh
gạo… gánh đến lúc mất da rớm máu. đôi vai ấy con tin rằng suốt đời không bao giờ
trở lại lành lặn như đôi vai người thường đâu mẹ ạ. Nhưng chính vì đôi vai chai sạn,
bé nhỏ mỏng manh ấy lại gánh được bao nhiêu thứ mà người thường không thể làm
được".
"Cái nắng héo hắt đặt mình lên những đôi vai gầy. Những người nông dân
đang cặm cụi công việc đồng áng. Mẹ tôi - Người đàn bà gánh cả những tia nắng
gắt cùng những cơn mưa giông đang miệt mài gặt lúa. Mùi hương lúa, cái mùi vị
ngòn ngọt thoang thoảng trong cơn gió như làm dịu đi nỗi vất vả của mẹ trong cơn
say nắng. Đến giữa trưa, nắng càng gắt gao hơn, nắng đậu lên tấm thân gầy của mẹ
đang lom khom đưa liềm lảng ngang thân cây lúa, mẹ thoăn thoắt bó thành từng bó
vàng ươm....."
Khi tả một đôi vai của người mẹ ở đoạn 2, đoạn 3 chúng ta thấy hiện lên một
hình ảnh bà mẹ làm nghề nông vất vả, chịu thương, chịu khó, dù không nói một lời
yêu thương mẹ nhưng chúng ta lại thấy tác giả bài viết bộc lộ qua bài viết yêu mẹ
biết nhường nào.

- Đối với người mẹ làm nội trợ: [2]
14


Một em học sinh viết: " Mẹ rất đảm đang,chu đáo lo mọi việc trong gia đình
từ việc nấu nướng đến quần áo,…tất tần tật mọi thứ trong nhà đối với người nội trợ
mẹ đều hoàn thành tốt. Mọi món ăn mẹ nấu đều mang sự ngọt ngào cho tôi, thực
đơn hằng ngày dựa theo sở thích của mỗi người nên ngày nào cũng được ăn rất đa

dạng.
Mẹ em năm nay đã ngoài ba mươi tuổi, nước da mẹ không còn được trắng
trẻo nữa mà đã ngăm ngăm đen vì vất vả chăm sóc chúng em. Mẹ có mái tóc đen
dài đến ngang lưng và luôn luôn được búi gọn gàng ở đằng sau. Hàm răng đều,
trắng bóng và luôn nở nụ cười mỗi khi có điều gì làm mẹ vui. Mẹ em không cao
lắm, hơi gầy, dáng đi rất nhanh nhẹn. Mẹ lúc nào cũng tất bật với công việc nào là
đi chợ, việc nhà, …nhưng mẹ không bao giờ kêu vất vả hay mệt mỏi. Mặc dù bận
rộn nhưng mẹ vẫn dành thời gian cho các con. Mẹ dạy em học, dạy làm những công
việc nhà, mẹ chỉ bảo tận tình ngay từ những công việc nhỏ nhất, mẹ bảo phải học
tính cẩn thận ngay từ những công việc nhỏ trở đi thì về sau những việc lớn hơn mới
có thể làm tốt được. Em luôn nhớ lời dặn của mẹ và cố gắng làm thật tốt."

- Đối với người mẹ là giáo viên: [2]
Một em học sinh viết: " Năm nay, mẹ em hơn bốn mươi tuổi nhưng trông
mẹ vẫn còn khá trẻ. Mái tóc mẹ đen óng mượt dài ngang. Đôi mắt mẹ hiền từ ấm
áp. Khuôn mặt mẹ hình trái xoan với nụ cười tươi rạng rỡ luôn nở trên môi. Mỗi
khi mẹ cười, em cảm thấy rất vui vì nụ cười của mẹ rạng rỡ như ánh nắng ban
mai. Đôi bàn tay mẹ thuôn dài và trắng trẻo. Mẹ em là giáo viên dạy văn nên
15


giọng nói của mẹ rất hay và truyền cảm. Lúc giảng bài cho em, giọng nói của mẹ
truyền cảm và ngọt ngào như tiếng ru. Nhưng khi em làm điều gì đó sai, giọng nói
của mẹ trở nên đầy nghiêm nghị. Khi đi dạy, mẹ thường mặc những bộ đồ gọn
gàng,nhưng trông thật duyên dáng, sang trọng. Ở nhà, mẹ là người nội trợ đảm
đang của gia đình. Em rất thích những món ăn mẹ nấu. Mẹ phân công những công
việc nhẹ nhàng cho hai bố con làm việc như nhặt rau, sắp cơm,quét nhà chứ
không bao giờ ôm đồm hết các việc. Mẹ bảo”Cả nhà mình cùng giúp đỡ nhau, các
con cũng cần học cách sống tư lập”. Trong gia đình, họ hàng hay ở trường, mẹ
luôn được mọi người yêu quý. Buổi tối, mẹ thường dành khoảng bốn mươi phút

để giảng bài cho em, sau đó mẹ bắt đầu làm việc đến tận khuya. Chắc đó là lý do
mẹ đạt được giáo viên giỏi cấp tỉnh."
Với biện pháp trên đã đem lại hiệu quả trong việc dạy tập làm văn tả người
của học sinh lớp 5B. Bài văn tả người của các em không còn viết lan man mà các
em đã biết chọn những nét tiêu biểu, nét riêng biệt, nét nổi bật của nhân vật mình tả.
Bài viết thể hiện chân thật hình ảnh của nhân vật được miêu tả.
2.3. Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh sử dụng các biện pháp tu từ:
Để học sinh biết sử dụng thuần thục những biện pháp tu từ khi làm bài văn tả
người thì ngay từ những tiết tập đọc giáo viên phải dạy tốt và phải chỉ rõ những biện
pháp tu từ mà tác giả đã sử dụng trong các tác phẩm để khi học sinh làm văn, học
sinh biết cách sử dụng những biện pháp tu từ cho bài văn sinh động.
Ví dụ: Tóc bà trắng tựa mây bông.
Truyện bà như giếng cạn xong lại đầy.
Muốn viết được những câu văn miêu tả chứa đầy hình ảnh và giàu cảm xúc,
chúng ta không thể không sử dụng các biện pháp so sánh, tưởng tượng, điệp từ, điệp
ngữ … Nhưng cái khó ở đây là hướng dẫn các em cách so sánh, tưởng tượng sao
cho phù hợp sát thực như những câu sau:
" Mái tóc bà trắng như cước"
"Em bé có đôi mắt hạt nhãn"
Để giúp học sinh sử dụng các biện pháp so sánh, tưởng tưởng phù hợp,
sát thực, thì giáo viên phải dạy tốt các tiết luyện từ và câu từ. Khi dạy cần chú ý
xây dựng vốn từ cho học sinh ngoài những từ đã có trong sách giáo khoa các
em có thể tự bổ sung thêm một số từ ngữ khác đưa vào bằng sự hiểu biết của
mình.Trong các tiết Luyện từ và câu, giáo viên hướng dẫn để các em có thể sử
dụng từ ngữ để đặt câu đúng, câu hay câu có hình ảnh so sánh...Để các em nắm
được giá trị gợi tả, và sử dụng các hình ảnh so sánh phù hợp
16


Ví dụ:."Bà tuy già nhưng cặp mắt vẫn còn đen, chưa mất vẻ tinh nhanh, hồi

ức không làm cho cặp mắt ấy sáng như hồi còn trẻ. Da cổ, da tay, da mặt chằng chịt
những nết nhăn như những nếp khứa. Mỗi khi bà cử động tưởng như làn da khô ấy
sẽ rách tả tơi."
Qua cách viết trên ta thấy bài làm hiện rõ một người bà đã già nua.
"Mẹ là ngọn gió của con suốt đời."
"Mẹ là ngọn lửa sưởi ấm con trong những lúc đêm đông, là ngọn gió thổi
mát cho con trong những lúc trưa hè."
- Giáo viên tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “Thi nói câu có hình ảnh so
sánh”. Các nhóm thi với nhau mỗi em nói một câu. Sau đó cho học sinh nhận xét
xem nhóm nào có nhiều câu hay và sử dụng hình ảnh so sánh phù hợp. Giáo viên
nhận xét và tuyên dương nhóm chiến thắng.
Biện pháp trên đã giúp học sinh đưa những hình ảnh so sánh, tưởng tượng
phù hợp vào bài viết của mình, làm cho bài văn tả người của các em trở nên sinh
động hơn, hấp dẫn hơn.
2.4. Biện pháp 4: Giúp học viết được mở bài hay, hấp dẫn cho bài văn tả
người.
Để bài văn tả người của các em ngày một hoàn thiện hơn, hay hơn không thể
không kể đến tiết xây dựng mở bài cho bài văn tả người. Thực trạng lớp 5B, đa số
các em viết được mở bài cho bài văn tả người đúng nhưng chưa hay, chưa hấp dẫn
người đọc.
Để giúp học sinh viết được mở bài cho bài hay, hấp dẫn. Thì giáo viên phải
giúp học sinh nắm được hai cách mở bài đó là: Cách mở bài trực tiếp và cách mở
bài gián tiếp. Để có bài văn tả người hay, hoàn hảo, cuốn hút người đọc ngay từ
những câu văn đầu tiên thì học sinh phải viết được mở bài hay.
a. Mở bài trực tiếp: Là giới thiệu ngay người định tả.
Ví dụ: Gia đình em có rất nhiều người thân yêu. Nhưng người đã dành
cho em nhiều tình cảm nhất đó chính là mẹ. Mẹ em tuyệt vời thật.
b. Mở bài gián tiếp: Là có thể dùng một vài câu thơ, câu hát, lời khen hay sự
so sánh hoặc một câu chuyện gì đó có liên quan đến người định để giới thiệu người
đó.

- Có thể mở bài bằng một câu hát.
Ví dụ 1: Khi viết bài văn tả người thân của mình. Có thể viết mở bài như sau:
“Bàn tay mẹ bế chúng con
17


Bàn tay mẹ chăm chúng con
Cơm con ăn tay mẹ nấu
Nước con uống tay mẹ đun.”
Lời hát da diết về công lao của mẹ nuôi con khôn lớn đã làm cho em nghĩ đến
người mẹ thân yêu của em. Mẹ em đẹp lắm.[2]
Ví dụ 2: Khi viết văn tả người bố. Một học sinh đã viết mở bài như sau:
Bố ơi! Bố ơi! Bố là tất cả.
Bố là tất cả, bố ơi! Bố ơi!”
Trong tâm trí em bố là tất cả những gì tốt đẹp nhất, cao quý nhất, bố là người
mà em kính trọng nhất. Bố không những là bố, người trụ cột trong gia đình mà bố
còn là một “người mẹ” đảm đang, chăm sóc và nuôi dạy hai anh em, tôi khôn lớn
nên người. Bởi lẽ từ ngày mẹ đi lao động bên nước ngoài, mọi công việc trong gia
đình đè nặng lên đôi vai bố. Nên em thương bố nhiều, nhiều lắm.
- Có thể mở bài bằng một vài câu thơ:
Ví dụ 1:
“ Những ngôi sao thứ ngoài kia
Chẳng bằng đã thức vì chúng con
Đêm nay con ngủ giấc tròn
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời.”
Mẹ là ngọn gió mát, mãi suốt đời thổi mát cuộc đời con. Trong gia đình em,
mẹ là người mà em kính yêu nhất. [2]
Ví dụ 2: Khi viết bài văn tả người bà kính yêu của mình. Một học sinh đã
viết mở bài như sau:
“Ngôi sao ngủ với bầu trời

Bé nằm ngủ với à ơi tiếng bà.”
Mỗi khi nghe vần thơ ấy, lòng tôi lại nao nao muốn khóc. Bởi vì ngoài tình
yêu thương bao la của bố mẹ, tôi còn được nhận được tình yêu thương ấm áp của
bà. Bà là người đã nuôi dưỡng tôi từ khi tôi còn nhỏ vì bố mẹ tôi phải đi làm ăn xa.
Đêm nào tôi cũng chìm vào giấc ngủ bằng cái ôm ấp áp của bà, mà giờ đây bà đã xa
tôi mãi mãi, nhưng hình ảnh của bà tôi sẽ không bao giờ quên.”
Ví dụ 3: Khi viết bài văn tả người mẹ kính yêu của mình. Một học sinh đã
viết mở bài như sau:
18


“ Đi khắc thế gian
Không ai tốt bằng mẹ.
Mẹ là người con yêu quý nhất
Mẹ có nghĩa là duy nhất
Một bầu trời
Một mặt đất
Một vằng trăng.”
Mỗi lần nghe câu thơ ngọt ngào thiết tha đó, lòng tôi lại nhớ đến người mẹ
kính yêu của mình.
- Có thể mở bài bằng một sự so sánh
Ví dụ: Trong gia đình em ai cũng để lại cho em những tình cảm đẹp. Bà là
kho truyện cổ tích. Ông thì cần cù hiểu biết sâu rộng. Bố cho em lòng dũng cảm.
Nhưng người để lại tình yêu bao la, săn sóc cho em từng bữa ăn giấc ngủ đó chính
là mẹ.
- Có thể mở bài bằng một lời nhận xét, một câu nói.
Ví dụ: Bà nội em thủ thỉ” Đấy cháu xem, mẹ cháu dọn dẹp, nhìn mẹ con mà
học tập cháu ạ.. Mẹ cháu là nàng dâu hiếu thảo đấy!” Ngắm mẹ quét nhà, lúc đấy
em mới thấy mẹ đẹp làm sao! [2]
Khi dạy tiết tập làm văn “ Xây dựng mở bài cho bài văn tả người” Đề bài:

Em hãy viết mở bài theo hai cách (mở bài trực tiếp và mở bài gián tiếp) cho bài văn
tả người mẹ kính yêu của em.
Tôi hướng dẫn học sinh như sau:
- Cho học nối tiếp nhau nêu những câu thơ hoặc hát nói về mẹ.
- Sau đó hướng dẫn các em cách viết mở bài như đã nêu ở trên.
- Học sinh mỗi em viết hai mở bài theo hai kiểu: Mở bài trực tiếp và mở bài
gián tiếp.
- Học sinh viết xong, giáo viên mời một số em đọc hai mở bài mà mình vừa
viết. Cả lớp nhận xét và so sánh hai kiểu mở bài của cùng một học sinh viết thì tất
cả học đều nhận thấy kiểu mở bài gián tiếp hấp dẫn người đọc, người nghe hơn.
Với cách hướng dẫn như trên lớp 5B đã có nhiều em viết được mở bài hay,
hấp dẫn người đọc.
19


2.5. Biện pháp 5: Giúp học viết được những kết bài hay, giàu cảm xúc
cho bài văn tả người.
Thực trạng học sinh lớp 5B đa số các em viết đúng kết bài cho bài văn tả
người nhưng chưa hay, chưa hấp dẫn, các em thường sử dụng kiểu kết bài không
mở rộng.
Ví dụ: Viết kết bài cho bài văn tả mẹ các em viết như sau: “Em rất yêu quý
mẹ của em.”
Để khắc phục thực trạng trên tôi đã tìm ra biện pháp sau:
Để có bài văn tả người hay, hấp dẫn người đọc không chỉ cần đến phần mở
bài hay, phần thân bài miêu tả sinh động, giàu cảm xúc mà cần phải có những kết
bài hay. Chính vì vậy mà giáo viên cần phải dạy tốt những tiết xây dựng kết bài cho
bài văn tả người. Giáo viên phải giúp học sinh nắm chắc hai kiểu kết bài đó là: Kết
bài theo kiểu mở rộng và kết bài theo kiểu không mở rộng. Học sinh nắm chắc lí
thuyết về hai kiểu kết bài và thực hành viết được cả hai kiểu kết bài. Sau đó giáo
viên cho học sinh tự nhận xét trong hai kiểu kết bài mà em vừa viết em thấy kết bài

nào hay hơn. Học sinh hầu hết nhận thấy kiểu kết bài mở rộng hay hơn, hấp dẫn
hơn. Vì vậy khi học sinh viết bài văn tả người hoàn chỉnh thì cần hướng cho các em
kết bài theo kiểu mở rộng.
Ví dụ 1: Khi viết bài văn tả người bà kính yêu của mình. Một học sinh đã
viết kết bài như sau:
a. Kết bài không mở rộng.
Bà em là một người thật đáng kính trọng. Em rất yêu quý bà của em.
b. Kết bài mở rộng.
“ Suốt cả cuộc đời bà hi sinh tất cả vì con, vì cháu. Tôi mong bà sống lâu
trăm tuổi, để dạy tôi những điều hay lẽ phải. Tình yêu thương của bà đối với tôi là
vô bờ bến. Kính yêu bà bao nhiêu tôi lại càng cố gắng học tập thật tốt, ngoan ngoãn,
nghe lời ông bà, cha mẹ bấy nhiêu. Để đền đáp công ơn to lớn ấy của bà, tôi tự nhủ
món quà tôi tặng bà trong ngày mừng thọ sắp tới là kết học tập và rèn luyện tốt của
em cuối năm học lớp 5 này.
Ví dụ 2: Khi viết bài văn tả người mẹ kính yêu của mình. Một học sinh đã
viết kết bài như sau:
“ Mẹ ơi con yêu mẹ lắm! Mỗi khi được mẹ ôm ấp trong vòng tay ấm áp của
mẹ, con thấy mình thật hạnh phúc vì có mẹ. Mẹ ơi! Có mẹ con thấy sướng vui. Có
mẹ con thấy ấm lòng. Trong trái tim con mẹ là tất cả, mẹ là cô tiên tuyệt vời nhất
trong cuộc đời con. Con luôn yêu thương mẹ và tự hào vì được làm con của mẹ.
Tấm lòng của mẹ bao la như biển cả đối với con và con hiểu rằng không ai thương
20


con hơn mẹ. Ôi mẹ kính yêu của con. Con yêu mẹ hơn tát cả mọi thứ trên cõi đời
này vì mẹ chính là mẹ của con. “ Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ….” Con
mong sao cho mình mau lớn để có thể giúp cho mẹ đỡ vất vả hơn. Con hứa sẽ chăm
học, chăm làm, ngoan ngoãn để đền đáp công ơn sinh thành, nuôi nấng con nên
người, mẹ ơi.”
Với cách hướng dẫn trên, học sinh hầu hết chọn kiểu kết bài mở rộng cho bài

văn tả người của mình hay hơn, hấp dẫn hơn. Vì vậy chất lượng bài viết của học
sinh được nâng lên. Nhiều em đã viết được kết bài hay, giàu cảm xúc làm cho người
đọc, người nghe cảm động.
IV/ Kết quả nghiên cứu:
Với một số giải pháp hướng dẫn học sinh viết bài văn tả người: Hướng dẫn
các em từ cách dùng từ ngữ phù hợp với đặc điểm hình dáng, lứa tuổi, tính tình của
nhân vật, cho đến cách dùng từ ngữ gợi tả, gợi cảm, và chọn một số nét đặc trưng
của nhân vật để miêu tả, sử dụng biện pháp tu từ để câu văn chứa đầy hình ảnh và
giàu cảm xúc. Cách viết mở bài hay, hấp dẫn và viết kết bài giàu cảm xúc. Sau một
học kì bản thân tôi đã áp dụng phương pháp trên đã hướng dẫn đưa vào các giờ dạy
có hiệu quả. Qua cách dạy này đã rèn luyện cho học sinh vốn sống, vốn hiểu biết về
kiến thức kỹ năng biết diễn đạt cụ thể, chân thực. Chính vì vậy hiệu quả giờ học tập
làm văn được nâng lên rõ rệt. Nhiều em có bài văn tả người hay, chân thật, giàu cảm
xúc, sinh động.
So sánh với kết quả khảo sát lần đầu (tuần 16 năm học 2016 - 2017) và sau
khi vận dụng các giải pháp trên kết quả lớp tôi thu được kết quả như sau:
Tổng
số
học
sinh
27

Bài viết hay,
giàu
hình
ảnh, dùng từ
ngữ miêu tả
phù hợp, ….

Bài viết dùng từ

ngữ miêu tả phù
hợp, giàu hình
ảnh, mở bài hay

Bài viết dùng từ
ngữ miêu tả phù
hợp, kết bài hay,
mở bài chưa hay

Bài viết dùng
từ ngữ miêu tả
phù hợp, mở
bài và kết bài
chưa hay.

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%


13

48.2

7

25,9

6

22.2

1

3.7

kết bài chưa hay

Sau mỗi đề bài tả người tôi nhận thấy học sinh viết văn thể hiện được tính
sáng tạo trong bài viết và thể hiện được hình ảnh, cảm xúc không sao chép, không
vay mượn văn của người khác như trước nữa.Các em viết được mở bài hay, hấp dẫn
và kết bài giàu cảm xúc. Có nhiều học sinh đã có những cảm nhận tinh tế, các em
khi quan sát đã khái quát được những nét tiêu biểu về tuổi tác, hình dáng, tính nết
của từng đối tượng để tả một cách rõ nét và tiêu biểu.
21


C- KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:
I. Kết luận:

Miêu tả là loại văn khó, nhưng miêu tả người lại càng khó hơn. Bởi chúng ta
phải làm cho nhân vật như đang sống đang trò chuyện với người đọc. Với suy nghĩ
đó, phương pháp trên đã đem lại kết quả rõ rệt khi vận dụng vào văn tả người ở
lớp5. Tập làm văn đúng là phân môn có tính chất tổng hợp và sáng tạo cao. Cho nên
mỗi bài văn của từng học sinh là một tác phẩm văn học của các em, chúng ta phải
tôn trọng nó, giúp đỡ nó để mỗi ngày có được nhiều học sinh viết văn hay. Biết đâu
sau này trong các em, sẽ có người trở thành nhà văn, nhà thơ...
Có thể nói, bước đầu thành công trong việc dạy Tập làm văn tả người cho học
sinh lớp 5B là nguồn động viên rất lớn cho tôi. Tôi sẽ đem kinh nghiệm này tiếp tục
áp dụng để giảng dạy phân môn Tập làm văn ở học kì II và các năm sau, với mong
muốn lớn nhất của tôi là giúp học sinh nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt cấp
Tiểu học.
Tuy nhiên những biện pháp mà tôi đã áp dụng trên, tuỳ đối tượng học sinh
cũng cần có sự vận dụng một cách khéo léo, sáng tạo của giáo viên. Tôi nghĩ rằng
nội dung đề tài này không có nhiều điểm mới, đó chỉ là nhiệm vụ hằng ngày của
giáo viên mà thôi. Nhưng đồng thời tôi cũng tin rằng nếu lâu nay ta làm chưa tốt thì
bây giờ ta dốc hết tâm huyết vào, tận tuỵ với học sinh, soạn giảng nghiêm túc thì
chắc chắn sẽ gặt hái được thành công.
Rất mong được sự góp ý chân thành của các bạn đồng nghiệp và Hội đồng
khoa học các cấp.
II/ Kiến nghị, đề xuất:
Để dạy học có hiệu quả Tập làm văn ở Tiểu học(nhất là văn miêu tả ở lớp 4, 5)
tôi xin có mấy đề nghị sau:
1. Đối với BGH nhà trường: Cần cho áp dụng đối với các lớp khối 4,5 trong
trường, nhằm rút kinh nghiệm chung đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng
dạy phân môn Tập làm văn nói chung và kiểu bài văn tả người nói riêng.
2. Đối với đồng nghiệp dạy lớp 4, 5: Thầy, cô giáo cần phải đầu tư hơn nữa về
phương pháp và biện pháp cho mỗi giờ học phân môn Tập làm văn (từng thể loại,
từng kiểu bài cụ thể) để từng bước giúp các em nắm vững kiến thức, chủ động nói
lên những suy nghĩ hồn nhiên của mình; nói đúng, nói hay, làm giàu thêm vốn từ

ngữ và giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Bỉm Sơn, ngày 30 tháng 3 năm 2017
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

CAM KẾT KHÔNG COPPY

22


Nguyễn Thị Nhiên

XÁC NHẬN CỦA PGD & ĐT BỈM SƠN

23


24



×