Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Một số kinh nghiệm dạy học nâng cao chất lượng môn tiếng việt cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 35 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THẠCH THÀNH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

KINH NGHIỆM DẠY HỌC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
MÔN TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH LỚP 1

Người thực hiện: Quách Thị Yến
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học thị trấn Kim Tân
Huyện: Thạch Thành
SKKN thuộc môn: Tiếng Việt

THANH HÓA, NĂM 2016

1


Mục
I.
1.
2.
3.
4.
II.
1.
2.
3.
4.


4.1
4.2
4.3
4.4
4.5
4.6
4.7
4.8
4.9
III
1.
2.
3.

MỤC LỤC
Nội dung
LỜI MỞ ĐẦU
Lí do chon đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG
Cơ sở lí luận
Thực trạng
Các giải pháp thực hiện
Các biện pháp tổ chức thực hiện
Tìm hiểu tình hình học tập của học sinh. Rèn cho học sinh thói
quen và phương pháp học tập tốt.
Kiểm tra phân loại đối tượng học sinh.
Kích thích nhu cầu nhận thức, tạo niềm tin trong học tập cho

các em.
Sử dụng đồ dùng dạy học trong tiết dạy một cách hợp lí.
Làm việc với sách giáo khoa, bảng con và các đồ dùng phục vụ
cho tiết học.
Phát huy tính tích cực, tự giác cho học sinh trong giờ học
Tổ chức trò chơi học tập trong các tiết học.
Tổ chức phong trào “Đôi bạn cùng tiến”.
Phối kết hợp giữa giáo viên chủ nhiệm với phụ huynh học sinh
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Kết luận
Bài học kinh nghiệm
Ý kiến đề xuất

Trang
3
3
3
4
4
4
4
4
6
7
7
8
8
10
11
12

12
13
13
13
13
14
14

2


I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chúng ta biết rằng học sinh ở bậc Tiểu học là nhân vật trung tâm của nhà
trường. Một bậc học rất quan trọng cho việc đặt nền móng trong việc hình thành
nhân cách của học sinh sau này, trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban
đầu về tự nhiên và xã hội.
Với lứa tuổi tiểu học thì hoạt động chủ đạo của các em là hoạt động học, mà
yêu cầu trước hết để các em thực hiện tốt hoạt động này là các em phải biết đọc
thông, viết thạo, biết tính toán, một yêu cầu tưởng chừng như đơn giản nhưng lại
rất quan trọng đối với các em. Bản thân tôi là một giáo viên chưa có nhiều kinh
nghiệm dạy lớp Một, mặt khác là năm thứ hai đi vào thực hiện thông tư 30, tôi tự
thấy rằng nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt là vấn đề được đặt ra, phải
thực hiện có hiệu quả trong năm học 2015 - 2016. Để đạt được điều đó tất cả các
lớp cần phải quan tâm đến từng đối tượng học sinh. Mục tiêu trước mắt của giáo
viên là làm sao đó nâng cao chất lượng dạy và học. Đặc biệt là chất lượng môn
Tiếng Việt.
Riêng đối với lớp 1 là lớp đầu tiên của bậc Tiểu học, nó có vị trí vô cùng quan
trọng, là lớp tạo nền móng cho những lớp trên, cấp học trên.
Song trong thực tế, trong một lớp chất lượng học sinh không đồng đều, có em

đọc tốt nhưng chữ viết xấu hoặc chữ viết đẹp thì khả năng tiếp thu bài lại chậm.
Do đâu? Vì sao? Đó là những băn khoăn của bản thân tôi trong quá trình giảng
dạy, làm thế nào để học sinh tiếp thu một cách có hiệu quả. Nhận thức được tầm
quan trọng của vấn đề này, bản thân tôi mạnh dạn đưa một số kinh nghiệm: “
Dạy học nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 1B” trong năm
học 2015 – 2016.
2. Mục đích nghiên cứu
- Dạy học nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 giúp học sinh
luyện tập, củng cố, vận dụng các kiến thức và thao tác thực hành, rèn luyện kĩ
năng học tập có hiệu quả, đồng thời từng bước tập vận dụng kiến thức và kĩ năng
thực hành vào thực tiễn học tập và đời sống.
- Nâng cao chất lượng dạy học là nguồn thông tin ngược giúp giáo viên nhìn rõ
hiệu quả của việc dạy học, từ đó điều chỉnh quá trình dạy học cho phù hợp.
- Nâng cao chất lượng dạy học, giáo viên có điều kiện dạy học sinh đạt được các

3


kiến thức, kĩ năng cơ bản, tối thiểu của môn học, các hoạt động giáo dục. Từ đó,
phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và rèn luyện kĩ năng suy luận,
khêu gợi và tập dượt khả năng quan sát, phỏng đoán, tìm tòi.
3. Đối tượng nghiên cứu
Dạy học nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 1B do tôi chủ
nhiệm.
4. Các phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp thực hành ở lớp trực tiếp phụ trách giảng dạy.
- Nghiên cứu qua thực tế giờ dạy, qua dự giờ, trao đổi kinh nghiệm.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Nâng cao chất lượng văn hóa, rèn luyện và giáo dục kĩ năng sống tốt cho học

sinh sẽ hạn chế được học sinh yếu kém, học sinh lưu ban. Do đó sự giúp đỡ của
giáo viên đối với học sinh là rất quan trọng, làm sao cho các em từng bước học
tập có kết quả, từ đó xây dựng lòng tự tin, hứng thú, cố gắng học tập. Những học
sinh phát triển bình thường đều có khả năng tiếp thu chương trình học tập và đạt
yêu cầu qui định.
2. Thực trạng
Trường Tiểu học thị trấn Kim Tân là trường chuẩn quốc gia đầu tiên của huyện
và là một trong những trường nằm trong tốp đầu xếp loại về chất lượng giáo dục
của huyện Thạch Thành. Cơ sở vật chất của nhà trường tương đối đầy đủ. Song
trong các cuộc giao lưu do phòng tổ chức gần đây về chất lượng văn hóa, chữ
đẹp, văn nghệ, các phong trào bề nổi chưa có tính vượt trội. Điều đó một phần do
nguyên nhân khách quan như: Đa số học sinh có bố mẹ đi làm ăn xa, phải ở nhà
với ông bà hoặc học sinh từ nơi khác chuyển về để ở lại bán trú. Mặt khác số học
sinh thuộc Liên Sơn – Thành Kim theo học ở Tiểu học Thị trấn, đây là số học
sinh đa số thuộc con em gia đình nông nghiệp hoặc buôn bán nhỏ, không có điều
kiện để quan tâm đến việc học của con cái. Điều đó cũng ảnh hưởng không nhỏ
đến chất lượng của nhà trường và khó khăn cho việc dạy học của giáo viên.
Được Ban giám hiệu phân công lớp Một, là lớp đầu cấp và cũng là năm học
thứ hai tôi giảng dạy lớp 1. Mặc dù chưa có nhiều kinh nghiệm trong công việc,
nhiều nỗi lo lắng nhưng tôi đã cố gắng hết mình, qua thời gian giảng dạy tôi thấy
được một số vấn đề sau:

4


- Khả năng tiếp thu và đạt các yêu cầu đặt ra chưa đồng đều, vẫn còn nhiều học
sinh đạt kết quả thấp.
- Sự phát triển nhận thức của học sinh cùng lứa tuổi không đồng đều, hoạt động
tư duy có nhiều nét riêng.
- Việc lĩnh hội kiến thức trước đó có nhiều lỗ hổng.

- Thái độ học tập chưa tốt, chưa được định hướng rõ.
- Do một số em khi đã học qua lớp mẫu giáo nhưng các em nhận thức còn non
nớt, tiếp thu bài còn gặp rất nhiều khó khăn. Có thể các em chưa quen với cách
học mới ở trường Tiểu học.
Do đó, tác động của một số yếu tố trên mà một số học sinh hứng thú học tập
kém, thiếu tự tin, thiếu cố gắng vươn lên trong học tập, kết quả học tập kém,
không ổn định. Quan sát tôi thấy từ những nguyên nhân đó mà học sinh yếu có
những biểu hiện sau:
- Tư duy thiếu linh hoạt.
- Sự chú ý, óc quan sát, trí tưởng tượng đều phát triển chậm.
- Diễn đạt bằng ngôn ngữ khô khan, lúng túng, nhiều chỗ còn lộn xộn.
- Biểu hiện bề ngoài là thờ ơ với thái độ học tập, giáo viên giảng bài hỏi lại học
sinh trả lời ngập ngừng không tin ở chính mình, thái độ tiếp thu thụ động.
- Nghịch ngợm, có tính ham chơi, lười học dẫn đến học kém và rất ngại học.
- Nhiều em có bố mẹ đi làm ăn xa, phải ở nhà với ông bà hoặc bác ( Phúc An,
Ngọc Anh, Duy Anh, Khánh Linh,….). Do đó, các em được nuông chiều vì nghĩ
rằng các em thiếu thốn tình cảm, dẫn đến việc không sát sao hoặc không nghiêm
khắc để các em hoàn thành nhiệm vụ học tập. Mặt khác, nếu quan tâm thì phụ
huynh lại không biết cách hướng dẫn các em học tập, nhất là hướng dẫn viết chữ
không đúng mẫu (thiếu về độ cao hoặc không đúng về độ rộng), cách đánh vần
không đúng (ví dụ đánh vần tiếng “hồng” hờ - ô – hô –ngờ - hông – huyền –
hồng).
Qua khảo sát chất lượng đầu năm học 2015 – 2016, kết quả cụ thể như sau:
Sĩ số học sinh
31 em

Chất lượng đọc
Đạt
Chưa đạt
18 = 58%


13 = 42%

Chất lượng viết
Đạt
Chưa đạt
14 = 45%

17 = 55%

Sau khi kiểm tra khảo sát chất lượng, tôi thấy số học sinh nhớ được bảng chữ
cái thì tương đối cao nhưng khi vào các bài học, các em thường không biết ghép
5


tiếng, từ (đánh vần). Một số em đọc được nhưng lại đọc sai do tiếng địa phương,
hoặc do còn nói ngọng. Tuy nhiên, có những em biết đọc nhưng khi viết thì tay
yếu, viết không đúng mẫu, không đúng ô li, dòng kẻ. Đứng trước thực tế đó, tôi
băn khoăn và tự đặt ra câu hỏi là: Phải làm gì và làm như thế nào để giúp học
sinh học tập tốt hơn? Với trách nhiệm của người giáo viên chủ nhiệm tôi không
thể nào yên tâm được, tôi nghĩ rằng nếu để tình trạng này kéo dài thì chất lượng
của lớp tôi sẽ kém đi không đạt được yêu cầu về chất lượng mà lớp cũng như nhà
trường đề ra, nhất là sẽ ảnh hưởng tới toàn bộ quá trình tiếp thu kiến thức của học
sinh.
Vì thế thông qua quá trình dạy học, qua việc tìm hiểu nguyên nhân và những
biểu hiện của học sinh yếu, tôi đã mạnh dạn cải tiến tìm ra những biện pháp giáo
dục phù hợp với nhận thức của từng đối tượng, từng học sinh.
Từ thực trạng trên, để nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt cho học sinh lớp
1B đạt kết quả tốt hơn, tôi mạnh dạn đưa ra các giải pháp và biện pháp sau:
3. Các giải pháp thực hiện

3.1.Công tác tuyên truyền thông qua thông tin điện thoại, sổ liên lạc hoặc trao
đổi trực tiếp, qua buổi họp phụ huynh đầu năm và cuối học kì 1. Từ đó, nâng cao
nhận thức cho phụ huynh trong việc quan tâm, chăm sóc, hỗ trợ cùng với giáo
viên chủ nhiệm nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt cho học sinh. Kêu gọi phụ
huynh cùng tham gia các phong trào do nhà trường, Đội thiếu niên tổ chức.
3.2. Tổ chức các hoạt động dạy học trên lớp linh hoạt, kết hợp với tổ chức giáo
dục ngoài giờ lên lớp, tăng cường kĩ năng giao tiếp cho học sinh. Ngoài một số
hoạt động như múa hát, kể chuyện hoặc các phong trào thi đua: giữ vở sạch, viết
chữ đẹp, ngàn hoa việc tốt, đôi bạn cùng tiến...càng giúp các em tự tin, mạnh dạn
đạt kết quả tốt trong học tập.
3.3. Khích lệ, động viên tinh thần học tập bằng lồng ghép tổ chức các trò chơi
trong các tiết học Tiếng Việt nhằm nâng cao vốn kiến thức Tiếng Việt cho các
em.
3.4. Tăng thời lượng dạy học môn Tiếng Việt nhằm củng cố kiến thức cho học
sinh một cách vững chắc vào các buổi chiều trong tuần.
3.5. Quan tâm, tìm hiểu hoàn cảnh đến từng đối tượng học sinh giúp các em có
thêm niềm tin trong học tập.
4. Các biện pháp tổ chức thực hiện

6


4.1. Tìm hiểu tình hình học tập của học sinh. Từ đó rèn luyện cho học sinh có
những thói quen và phương pháp học tập tốt.
Để rèn luyện cho học sinh có những thói quen và phương pháp học tập tốt, đáp
ứng với yêu cầu đặt ra, giáo viên phải tìm ra những biện pháp phù hợp, kết hợp
với lòng yêu nghề mến trẻ, hiểu được tâm lí của trẻ và bản thân phải nhiệt tình
trong công tác giáo dục, phải thật sự là người mẫu mực, là tấm gương sáng cho
học sinh noi theo.
Giáo viên phải nắm bắt được hoàn cảnh, tình hình học tập của từng em, nắm rõ

được những em học yếu, yếu ở mức độ nào? Do đâu? Từ đó tìm ra những phương
pháp giáo dục để thu hút tuyệt đối sự chú ý của các em, cố gắng tạo niềm tin
trong lúc học không để các em nhàm chán.
Ví dụ: Trường hợp của em Lê Khánh Linh, gia đình sống ở miền Nam, bố mới
mất, Khánh Linh được mẹ đưa về ở nhà với bác. Vào đầu năm học tôi thấy Linh
có phần nhút nhát, ít giao tiếp với thầy cô, bạn bè. Khi tôi hỏi bài hoặc trao đổi
vấn đề khác ngoài giờ học thì trả lời rất nhỏ có vẻ sợ sệt hoặc ngồi im. Tìm hiểu
được nguyên nhân do em chưa quen nói tiếng Bắc (vì học Mầm Non trong Nam),
một phần vì nhớ mẹ và em, phải sinh hoạt và học tập ở môi trường mới nên em tự
ti, mặc cảm. Từ những nguyên nhân này, tôi đã cử một số học sinh có cá tính
mạnh mẽ, nhanh nhẹn trong mọi hoạt động, cởi mở với bạn bè tiếp xúc và giúp
đỡ Linh trong giờ ra chơi, kể cả trong giờ học. Ngoài ra, tôi thường cởi mở hỏi
thăm, tổ chức sinh nhật tại lớp ....Từ đó, Linh có nhiều tiến bộ về mọi mặt, giao
tiếp với thầy cô, bạn bè mạnh dạn, cởi mở hơn.
Đó có thể là phương pháp tốt mà tôi đã áp dụng đầu tiên bằng cách luôn động
viên khuyến khích các em kịp thời. Do đặc điểm tâm sinh lí của các em là hiếu
động thích vui chơi. Mọi cái đối với các em đều gò bó vì ở nhà các em được
chiều chuộng, chưa quen với nề nếp học tập ở Tiểu học, thích gì đều được hay
nhõng nhẽo, nhưng khi đến lớp với tôi lại rất nghiêm khắc nhưng lại vừa nhẹ
nhàng động viên gần gũi các em.
Ví dụ: Trong giờ học, sau câu trả lời của các em tôi thường khen ngợi ngay “Em
rất cố gắng, cô luôn hi vọng vào em rất nhiều” hay “Lần này bạn rất giỏi cả lớp
khen bạn nào”. Hoặc “ Cô nhận thấy em có ý trả lời hay cần cố gắng nhé!”.
Hoặc: “Em làm bài đúng rồi nhưng lần sau cô muốn em hoàn thành bài nhanh
hơn, chúc em thành công”

7


Sau mỗi lần khen là tôi đã gây được lòng tin cho các em. Có những lúc các em

viết chưa đúng, đọc chưa đúng, tôi không phê bình mà vẫn khen động viên
khuyến khích rằng “Em cần cố gắng hơn nữa”, hay “Em chắc chắn sẽ đạt thành
tích cao trong học tập nếu em chăm chỉ học tập”, tránh có thái độ lời nói chạm
lòng tự ái hoặc mặc cảm đối với các em.
4.2. Kiểm tra phân loại đối tượng học sinh:
Tôi phân loại học sinh ra nhiều đối tượng: Đọc kém, viết kém. Khi đã nắm được
điểm yếu kém của học sinh tôi lập ngay kế hoạch theo dõi thường xuyên cụ thể
kết quả học tập, kết quả kiểm tra thật chặt chẽ. Tôi phân loại học sinh theo hai
khả năng: Đọc và viết.
+ Với những em trí tuệ chậm thì bản thân tôi luôn phải kiên trì, thật kiên trì và
tìm nhiều biện pháp thích hợp khắc sâu kiến thức cho các em.
Ví dụ: Trường hợp em Nguyễn Phúc An, bố mẹ bỏ nhau, mẹ đi làm xa phải ở
nhà với ông bà ngoại. Phúc An đọc kém, chưa nhớ hết bảng chữ cái, viết phải
nhìn từng nét. Tôi thiết nghĩ trường hợp này phải tích cực rèn đọc. Ngoài việc
kèm cặp vào các giờ ra chơi, tôi giao cho cán bộ lớp kèm trong giờ sinh hoạt 15
phút. Mặt khác, tôi động viên gia đình giúp đỡ cháu trong thời gian ở nhà. Đến
đầu học kì 2, Phúc An có tiến bộ nhưng đọc chậm, tôi đã thưởng cho em những
quyển truyện tranh, khích lệ em đọc để tìm hiểu truyện nói về ai? Về vấn đề gì?
Kết thúc câu chuyện ra sao?
+ Với những học sinh không nắm chắc kiến thức, trong tiết dạy ôn luyện tôi phải
tìm hiểu các em thường đọc sai, làm sai ở những phần nào? Thuộc mảng kiến
thức nào? Từ đó tôi có biện pháp kèm cặp và gọi các em đọc, viết, trả lời các câu
hỏi, luyện nói theo chủ đề.
4.3. Kích thích nhu cầu nhận thức tạo niềm tin trong học tập cho các em:
Giáo viên nên tạo ra niềm vui trong học tập cho các em thông qua trò chơi để
các em tiếp thu bài, khắc sâu kiến thức dễ dàng hơn (vì khi đọc đã kém các em
thường hay chán nản, ít có hứng thú học tập không chú ý nghe giảng).
Hoặc đối với các giờ học vần: Tổ chức cho các em viết vần mới, tiếng mới vào
hai mảnh giấy cắt hình bông hoa để trên bàn sau đó gọi hai em cùng lên chơi trò
chơi “Hái hoa” bạn nào hái được bông nào thì thì đọc to cho cả lớp vần, tiếng

mới đó. Ai đọc đúng thì cả lớp cùng khen ngợi.
Đối với những bài dạy trên lớp (không phải giờ ôn luyện) tôi luôn tìm tòi biện

8


pháp giảng dạy thích hợp, có trọng tâm như tự điều chỉnh nhịp độ bài giảng, tổ
chức việc học tập bằng phương pháp phát huy tính tích cực chủ động của học
sinh. Tổ chức hướng dẫn dìu dắt các em để các em được tiếp cận, chiếm lĩnh
hoàn toàn tri thức không áp đặt, các câu hỏi được sắp đặt rõ ràng, có hệ thống
trong từng bài, từng đối tượng cụ thể trong kế hoạch bài dạy.
Trong khi giảng bài tôi thường xuyên theo dõi sự chú ý của những học sinh yếu
để kiểm tra kịp thời sự tiếp thu bài của học sinh.
Ví dụ: Khi đọc xong vần mới nên hỏi: Hôm nay ta vừa học vần gì? Vần gồm mấy
âm? Âm nào đứng trước? Âm nào đứng sau? Đối với những câu hỏi như thế tôi
dành phần trả lời cho một số em chậm hơn, khi các em trả lời được tôi thường
khen ngay trước lớp, như vậy sẽ giúp các em thấy phấn khởi và có hứng thú để
học tập.
Phần hướng dẫn bài tập cần cụ thể hơn với học sinh kém, bài tập có nội dung
yêu cầu rõ ràng. Khi giao nhiệm vụ tôi kiểm tra cụ thể để phân tích và sửa chữa
kịp thời nếu các em còn lúng túng. Có thể tôi sẽ làm riêng việc đó với từng học
sinh, khuyến khích động viên đúng lúc khi các em tiến bộ hoặc khi đạt một số kết
quả dù chưa cao, đồng thời động viên nhằm khích lệ một số em có thái độ thờ ơ
đối với nhiệm vụ được giao.
Ngay từ đầu năm học, tôi hướng dẫn cho các em về khái niệm đường kẻ dọc,
đường kẻ ngang, ô, li. Khi hướng dẫn viết, để học sinh viết đúng tôi luôn nhắc
nhở các em không được viết thiếu nét của các con chữ, nét nối giữa các con chữ
sao cho đúng về khoảng cách và kĩ thuật. Vì một số học sinh khi viết hay tùy tiện,
có thói quen dựa vào đường kẻ dọc nên chữ viết thường sai mẫu, không đúng về
khoảng cách và độ rộng của con chữ. Tôi luôn chú ý đến điểm đặt bút và dừng

bút giữa các nét, các con chữ, vị trí của dấu phụ và dấu thanh. Mặc dù chữ viết
của học sinh trong thời gian nửa đầu học kì 1 còn run nét, chưa mượt mà. Song
các em viết đúng mẫu, nét chữ ngay ngắn thì nhìn bắt mắt hơn, dễ có cảm tình
với bài viết hơn.
Ví dụ: Khi viết con chữ M các em thường viết hai nét móc xuôi và nét móc hai
đầu dựa vào đường kẻ dọc. Nhưng khi hướng dẫn tôi nhắc nhở các em khoảng
cách giữa các nét là 1 ô rưỡi, vì vậy nét móc xuôi thứ hai phải viết vào giữa ô,
tiếp đến là nét mọc hai đầu độ rộng một ô rưỡi nên phải dựa vào đường kẻ dọc và
điểm dừng bút là ở góc liền kề bám đường kẻ thứ 2.

9


Hình 1: Hướng dẫn viết đúng chữ m
Hoặc khi viết các chữ có nét khuyết trên các em thường viết sai, nét chữ thường
lép hoặc to quá. Tôi hướng dẫn các em cách tìm góc tương ứng, dựa vào góc có
thể viết nét khuyết đẹp hơn.

Hình 2: Hướng dẫn viết đúng nét khuyết
4.4. Sử dụng đồ dùng dạy học trong các tiết dạy một cách hợp lí:
Việc sử dụng đồ dùng dạy học trong các tiết dạy một cách hợp lí là thu hút

10


được sự chú ý của học sinh đặc biệt là những học sinh yếu. Để làm được điều đó
đạt hiệu quả, trước khi lên lớp tôi nghiên cứu kĩ bài dạy và đặc biệt chú ý đến đồ
dùng dạy học cho các hoạt động một cách hợp lí, tham khảo tìm mượn thư
viện.Vì đồ dùng dạy học rất phong phú, có nhiều các loại tranh ảnh, mô hình đa
dạng rất thuận lợi cho học sinh trong quá trình tiếp thu kiến thức. Đồ dùng dạy

học đảm bảo cho học sinh lĩnh hội tốt các biểu tượng, khái niệm, qui ước; hình
thành các kĩ năng, giúp các em nắm vững bài học từ sự hứng thú đó. Giáo viên sử
dụng bộ dạy học vần giúp học sinh ghép tiếng, từ và đọc nhanh hơn. Hay sử
dụng bộ tranh truyện hoặc tranh luyện nói sẽ giúp học sinh phát triển lời nói một
cách tự nhiên và mạnh dạn hơn.
Ví dụ: Cho học sinh cài vần ai, yêu cầu học sinh phân tích vần ai gồm mấy âm
ghép lại, hướng dẫn cách đọc, viết dựa vào trực quan để phân tích: vần ai có
trong tiếng gái, trong từ bé gái. Có thể giáo viên cho các em hình thành tiếp các
vần tiếp theo.
4.5. Làm việc với sách giáo khoa, bảng con và các đồ dùng học tập phục vụ
cho tiết học:
Đây là việc hết sức quan trọng đối với các em lớp đầu cấp, nên trong giờ học
tôi đã dành thời gian để các em được xem hình vẽ, mô hình minh họa.
Ví dụ: Trong giờ học vần các em thực hiện phần luyện nói theo tranh, học sinh có
thể quan sát vào tranh minh họa để tự nói một câu về tranh đó. Đặc biệt tôi luôn
khuyến khích các học sinh yếu được nói nhiều hơn trong giờ học, mặc dù có thể
các em nói chưa hay, chưa đúng trọng tâm nhưng đó cũng là một yếu tố giúp các
em cố gắng trong học tập.
Dựa vào tranh phóng to phần luyện nói theo chủ đề Bữa cơm. Khi tôi yêu cầu
học sinh quan sát tranh sách giáo khoa thì đa phần các em không phát huy hết
tính tích cực, nhưng khi cho các em quan sat tranh phóng to thì các em tỏ ra thích
thú. Dựa vào tranh các em thảo luận và đưa ra các câu hỏi thú vị như: Bạn thấy
trong tranh vẽ gì? Một ngày nhà bạn ăn mấy bữa cơm? Mỗi bữa ăn thường có
những món gì? Nhà bạn ai nấu cơm? Mỗi bữa bạn ăn mấy bát? Bạn thích ăn món
gì nhất?....
Hoặc khi học sinh viết bảng con, viết vào vở, tôi có thể kiểm tra và sửa sai cho
học sinh một cách tương đối nhiều, bao quát nhanh những học sinh viết chưa
đúng, chưa đẹp để kịp thời uốn nắn.

11



4.6. Phát huy tính tích cực, tự giác của học sinh trong giờ học.
Khắc phục được hiện tượng một số học sinh không làm việc trong giờ học, đó
là những học sinh không có đủ đồ dùng học tập, không thích ứng với nhịp độ bài
giảng. Tôi thường tranh thủ hướng dẫn thêm cho các em đọc kém, viết kém vào
những giờ ra chơi hay những buổi học ôn luyện. Giáo viên cần lôi cuốn học sinh
bằng cách nhắc lại câu hỏi của cô hay câu trả lời của bạn, đưa ra hệ thống câu hỏi
trong mỗi bài thật cụ thể vừa phải với mọi đối tượng học sinh, tránh tình trạng
không cho các em tham gia hoạt động học tập vì không được giao nhiệm vụ.
Để làm tốt biện pháp này tôi phải tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của những học
sinh yếu. Vì hầu hết ở lớp tôi thường học sinh yếu lại rơi vào những gia đình có
hoàn cảnh khó khăn, bố mẹ đi làm ăn xa con cái ở nhà với ông bà già yếu, hoặc
bố mẹ trước đây đều chưa học hết cấp Tiểu học. Sự quan tâm đến việc học của
con cái có hạn. Vì thế tôi nhờ đến ban đại diện hội phụ huynh của lớp đến động
viên các em đó hoặc bản thân tôi đến tận gia đình các em cũng là tạo ấn tượng tốt
cho các em để các em có niềm tin ở trường, lớp, thầy cô, bạn bè từ đó có ý chí
phấn đấu vươn lên trong học tập.
4.7. Tổ chức trò chơi học tập trong các tiết học:
Ngoài những biện pháp trên tôi còn thường xuyên tổ chức các trò chơi, văn
nghệ, kể chuyện và những hoạt động khác vào tiết học, có thể trò chơi được tổ
chức đầu tiết, giữa tiết hoặc cuối tiết học để tạo dựng nơi các em lòng tin yêu
trường lớp, tha thiết học tập, thích gần gũi với thầy cô, bạn bè... Để tổ chức trò
chơi có hiệu quả, giáo viên cần nêu rõ phương thức chơi, luật chơi một cách rõ
ràng, trò chơi phải phù hợp với đối tượng học sinh và nội dung tiết học.
Ví dụ: GV tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “ Ai nhanh, ai đúng” trong tiết Học
vần – Bài 42: ưu, ươu. Đây là một trong những vần khó đọc và học sinh ít gặp
tiếng chứa vần (ươu). Khi học xong vần mới và đọc từ ứng dụng, để học sinh tìm
được tiếng chứa vần vừa học, tôi đã tổ chức trò chơi bằng cách cho hai học sinh
đại diện cho hai tổ có nhiệm vụ lựa chọn tiếng có chứa vần vừa học ưu, ươu để

gắn lên bảng, bạn nào tìm đúng và gắn đúng trong thời gian ít hơn thì thắng cuộc.
Trò chơi này giáo viên cần tổ chức cho học sinh thực hiện vào phần củng cố
bài, nhằm giúp các em có hứng thú trong học tập, giúp các em nhớ lâu kiến thức.
Từ đó các em luôn chấp hành tốt nhiệm vụ và kỉ luật của buổi học.
4 . 8.Tổ chức phong trào “Đôi bạn cùng tiến”:

12


Tổ chức cho học sinh khá giỏi thường xuyên giúp đỡ học sinh yếu bằng cách bố
trí cho học sinh khá giỏi ngồi gần học sinh yếu kém, hay đọc sai, đọc chậm. Tôi
thường cho những học sinh yếu kém đó ngồi đầu bàn để các em dễ chú ý và giáo
viên cũng tiện thường xuyên giúp đỡ các em kịp thời hơn. Khi những học sinh
yếu có sự tiến bộ dù là ít nhưng tôi luôn thưởng nóng các em, kể cả những học
sinh được giao kèm cặp bạn yếu một số đồ dùng học tập như quyển vở, cái bút,
thước kẻ, quyển truyện tranh.... nhằm khích lệ các em tích cực giúp đỡ lẫn nhau.
4.9. Phối kết hợp giữa giáo viên chủ nhiệm với phụ huynh:
Phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm với gia đình, bằng cách thông tin
qua sổ liên lạc hay trao đổi trực tiếp với phụ huynh để gia đình tạo điều kiện mua
sắm đầy đủ đồ dùng học tập cho các em, đôn đốc các em thực hiện tốt kế hoạch ở
trường, ở nhà. Thậm chí có những phụ huynh khi đọc lời nhận xét của giáo viên
trong vở học sinh thì khó hiểu. Ví dụ: Em cần viết đúng độ cao của nét khuyết
hoặc Cần chú ý điểm đặt bút của nét móc hai đầu em nhé. Như vậy phụ huynh
chưa hiểu như thế nào là nét móc hai đầu, nét khuyết... trong trường hợp như thế
tôi đã hướng dẫn để phụ huynh hiểu để cùng con em học một cách dễ dàng hơn.
Ngoài ra tôi luôn kêu gọi phụ huynh cùng hưởng nhiệt tình các phong trào do nhà
trường, Đội thiếu niên tổ chức nhằm khuyến khích phụ huynh cùng chỉa se những
kết quả mà lớp đạt được, từ đó tạo điều kiện để tôi gần gũi phụ huynh hơn, có
thời gian để trao đổi việc học tập cũng như trao đổi về nhu cầu của học sinh hơn.
Hơn thế nữa bản thân tôi cũng đã gắn bó với học sinh, từng thấy trách nhiệm

của mình đối với học sinh là cả một bước quan trọng không thể nhìn sau mỗi giờ
học, buổi học, mà nhìn thấy học sinh của mình có nhiều em vẫn chưa hiểu bài
nên tôi đã tự cố gắng học hỏi, tìm tòi những phương pháp giảng dạy phù hợp như
đã nêu ở trên để ứng dụng và thực hiện với học sinh của mình.
Tóm lại, tùy vào từng đối tượng để giáo viên có biện pháp cụ thể thích hợp để
tổ chức dạy học chứ không theo phương pháp cứng nhắc, áp đặt. Đó là biện pháp
thiết thực nhất để nâng cao chất lượng học tập, hạn chế được tối đa học sinh yếu
kém, không có học sinh lưu ban đẩy nhanh tiến độ theo kế hoạch năm học đề ra.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua một thời gian tìm tòi, nghiên cứu ra những biện pháp để thực hiện vào
việc dạy học nâng cao chất lượng đại tà cho học sinh. Với lòng yêu nghề mến trẻ

13


và những kinh nghiệm ít ỏi của mình tôi đã mạnh dạn áp dụng trong thời gian
qua. Kết quả cho thấy rằng học sinh lớp tôi sau những lần kiểm tra thường xuyên
chất lượng tăng lên rõ rệt. Những học sinh từ không biết đọc, viết xấu hoặc chưa
đúng tốc độ bây giờ đã tiến bộ đáng khen ngợi. Kết quả kiểm tra vào thời điểm
cuối tháng ba như sau:
Sĩ số học sinh
31 em

Hoàn thành môn học
31= 100%

Chưa hoàn thành môn học
0


Kết quả trên đã chứng minh được một số kinh nghiệm của tôi đã thực hiện
trong thời gian qua đã có hiệu quả. Học sinh hoàn thành môn Tiếng Việt đạt
100%, không có học sinh chưa đạt, các em đều đọc thông, viết thạo, trình bày
đẹp. Vinh dự hơn, tham gia dự thi trưng bày vở sạch, chữ đẹp cấp huyện lớp 1B
có 4 em đạt danh hiệu “Giữ vở sạch - Viết chữ đẹp” cấp huyện (đạt 100% số học
sinh tham gia). Xếp loại vở chung của lớp loại A đạt trên 80% cấp trường. Tôi
tiếp tục phát huy những mặt đã đạt được, khắc phục những mặt còn tồn tại để
nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt. Tiếp tục áp dụng các giải pháp và biện
pháp, thực hiện trong những năm học tiếp theo đạt hiệu quả cao.
2. Bài học kinh nghiệm
Từ những kết quả đạt được trong quá trình giáo dục. Tôi tự thấy dạy học nâng
cao chất lượng môn Tiếng Việt ở những lớp đầu cấp là vô cùng quan trọng. Để
nâng cao chất lượng cho học sinh, giáo viên phải thực hiện tốt những yêu cầu
sau:
- Trước hết người giáo viên phải thực sự là người yêu nghề mến trẻ, phải hết
lòng vì nghề nghiệp, vì học sinh, tìm tòi phương pháp giảng dạy thích hợp, bồi
dưỡng vốn sống năng lực, nghiệp vụ chuyên môn cho bản thân.
- Giáo viên phải nắm được từng đối tượng để có phương pháp giáo dục cụ thể.
- Giáo viên phải gần gũi giúp đỡ các em vượt qua moi khó khăn để từ đó các em
có chỗ dựa vững chắc trong quá trình học tập.
- Trong quá trình giảng dạy giáo viên cần động viên, nhắc nhở kịp thời để các
em cố gắng khắc phục.
3. Ý kiến đề xuất
- Nhà trường, hội phụ huynh có biện pháp tuyên truyền tới từng phụ huynh
để phụ huynh quan tâm đến việc học của con cái, mua đầy đủ đồ dùng học tập tạo
điều kiện thuận lợi cho quá trình dạy và học được tốt hơn.
14


- Đối với Ban giám hiệu và Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh tiếp tục,

thường xuyên tổ chức các sân chơi trí tuệ, các hoạt động phong trào nhằm khích
lệ tinh thần học tập của học sinh.
Trên đây là kinh nghiệm tôi đã áp dụng trong việc dạy học nâng cao chất
lượng môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 1B trong năm học 2015 - 2016. Đó là
những kinh nghiệm nhỏ xuất phát từ tình hình dạy học thực tế, tôi rút kinh
nghiệm cho bản thân mình và cũng mang lại những kết quả tốt đóng góp vào
công tác giảng dạy và giáo dục thế hệ trẻ. Kính mong sự góp ý và chỉ đạo của hội
đồng khoa học các cấp để quá trình giảng dạy của bản thân tôi đạt kết quả cao
hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thạch Thành, ngày 04 tháng 6 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của bản
thân, không sao chép nội dung của
người khác.

Người viết

Quách Thị Yến

PHỤ LỤC

15


Các hình ảnh minh họa.

Hình 3: Học sinh tham gia trò chơi: Ai nhanh, ai đúng


16


Hình 4: Học sinh đạt thành tích cao trong phong trào “Đôi bạn cùng tiến”

17


Hình 5: Phụ huynh cùng tham gia vui tết trung thu

Hình 6: Phụ huynh cùng tham gia bày cỗ trung thu

18


Hình 7, 8:Phụ huynh cùng tham gia cổ vũ các hoạt động tập thể

19


20


21


22



23


24


25


×