Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 học tốt thể loại văn miêu tả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.66 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
TT
I
1
2
3
4
II
1
2
2.1
2.2
3
3.1
3.2
3.3
3.4
4
III
1
2

Nội dung
MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG
Cơ sở lí luận
Thực trạng của việc dạy văn miêu tả của trường Tiểu học


Thịnh Lộc
Việc dạy văn miêu tả của giáo viên
Việc học văn miêu tả của học sinh.
Các giải pháp thực hiện
Xây dựng lòng yêu phân môn Tập làm văn cho học sinh.
Giúp học sinh biết cách quan sát và ghi nhận những điểm
tiêu biểu của đối tượng miêu tả.
Giúp học sinh viết câu văn hay giàu hình ảnh.
Dạy tích hợp qua các phân môn Tiếng Việt và các môn học
khác
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
Kết luận
Kiến nghị.

Trang
1
1
1
2
2
3
3
4
4
4
5
5
5
7

11
17
18
18
18

I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
1


Tập làm văn là một phân môn được hội tụ tất cả kiến thức và kĩ năng của
các phân môn khác. Trong môn Tiếng Việt dạy Tập làm văn cho học sinh là cả
một nghệ thuật, thông qua đó để giáo dục tình cảm, thẩm mĩ và hình thành nhân
cách cho học sinh. Bên cạnh đó, chúng ta cũng dễ nhận thấy rằng, một học sinh
có năng khiếu làm văn, lại được sự quan tâm, đầu tư của gia đình, sự bồi dưỡng,
phát triển của nhà trường thì học sinh đó luôn có sự ứng xử nhanh nhẹn trong
giao tiếp, giàu cảm xúc và mạnh dạn, tự tin khi nói trước đông người. Ngược lại,
những học sinh không có năng khiếu làm văn thường lúng túng, dùng từ thiếu
chính xác trong giao tiếp.
Ở tiểu học, phân môn Tập làm văn là nơi thử thách ở học sinh các kĩ năng
Tiếng Việt, vốn sống, vốn văn học, năng lực cảm thụ văn học một cách tổng
hợp. Văn miêu tả là loại văn có vị trí quan trọng trong chương trình Tập làm văn
ở Tiểu học. Việc dạy học sinh làm tốt bài văn miêu tả là một vấn đề được đặt ra
từ nhiều năm nay. Trong đời sống, mọi người ai cũng nhận ra những điều mình
đã thấy nhưng làm thế nào để nói hoặc viết lại những điều đó cho mọi người
cùng hiểu thì chúng ta phải miêu tả. Vì vậy, dạy học văn miêu tả là một vấn đề
thiết yếu.
Văn miêu tả ở bậc Tiểu học nói chung và ở lớp 5 nói riêng mang tính thông báo
thẩm mĩ chứa đựng tình cảm của người viết. Bài văn miêu tả giúp các em thể hiện tình

cảm và tổng hợp các kiến thức đã học ở các phân môn như: Tập đọc, Chính tả, Luyện
từ và câu, Kể chuyện,... đồng thời tạo đà để các em học tốt các thể loại văn khác. Các
em có thể “vẽ lại” các sự vật một cách sinh động về dáng vẻ, tính cách, khung cảnh
của thiên nhiên phong phú qua ngôn ngữ của mình giúp người nghe, người đọc hình
dung được các sự vật ấy. Bằng cách miêu tả các em trau dồi ngôn ngữ nói và viết cho
mình từ đó mà phát triển tư duy.
Qua tìm hiểu và trực tiếp giảng dạy, tôi thấy khả năng quan sát, tìm ý và làm
văn của các em học sinh còn nhiều hạn chế, trong khi đó để giúp học sinh học tốt Tập
làm văn, đặc biệt là văn miêu tả lại chưa có giải pháp hữu hiệu. Từ thực tế trên đây, tôi
nhận thấy vấn đề bồi dưỡng kiến thức và cách làm văn cho học sinh là rất cần thiết.
Bản thân tôi cũng luôn trăn trở về vấn đề dạy như thế nào để học sinh làm văn tốt
hơn đồng thời phát huy được khả năng làm văn của mình. Vì vậy, trong phạm vi hẹp
của sáng kiến này, tôi xin được mạnh dạn trình bày một số kinh nghiệm nhỏ của
mình về “Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 học tốt thể loại văn miêu tả”.
2. Mục đích nghiên cứu.
- Giúp học sinh tiểu học hiểu Tập tập làm văn là một phân môn thực hành.
Nhiệm vụ quan trọng của nó là hình thành năng lực viết văn cho học sinh. Năng
lực đó thể hiện ở các yêu cầu: bài văn có bố cục rõ ràng, chọn chi tiết miêu tả
hợp lý, dùng từ chính xác, câu văn viết đúng ngữ pháp, có hình ảnh.
- Giúp cho học sinh tiểu học có lòng yêu phân môn tập làm văn, thường
xuyên có thói quen trau dồi ngôn ngữ, biết cách quan sát đối tượng khi miêu tả.
2


- Giúp học sinh hiểu được thế nào là những câu văn hay và cách viết những
câu văn hay, biết sử dụng những biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa và bộc
lộ cảm xúc trong khi viết.
- Bản thân tôi phải đi sâu tìm hiểu thực tế, thực trạng việc dạy và học có
liên quan đến việc viết văn miêu tả của học sinh lớp 5 để xác định một số khó
khăn, hạn chế trong quá trình dạy học, từ đó giúp học sinh phát hiện ra các sai

sót thường gặp khi viết văn để đưa ra một số biện pháp nhằm giúp học sinh lớp
5 học tốt được thể loại văn miêu tả.
- Trau dồi thêm kiến thức cho bản thân và là tài liệu tham khảo cho các
đồng nghiệp.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Năm học 2016-2017, tôi tìm hiểu, nghiên cứu cách dạy thể loại văn miêu tả
cho học sinh lớp 5. Đồng thời áp dụng các giải pháp nhằm giúp học sinh lớp 5
học tốt thể lọai văn miêu tả.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để tìm ra kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 học tốt thể loại văn miêu tả, tôi
đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp thống kê số liệu, nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp.

II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận:
3


Trong chương trình Tiểu học, Tiếng Việt là một môn công cụ. Tiếng Việt
nhằm trang bị kiến thức và rèn luyện các kĩ năng làm văn. Mỗi đoạn văn các em
sản sinh ra thể hiện cảm xúc, ngôn ngữ riêng của mình về cách nhìn, quan sát
thiên nhiên sinh động, làm phong phú tâm hồn các em. Quan sát và cảm nhận thế
giới xung quanh là lẽ tự nhiên của con người nhưng tái hiện lại điều đã quan sát
và cảm nhận ấy là chuyện không đơn giản chút nào, nhất là khi phương tiện để tái
hiện ấy lại là ngôn ngữ, là cách thể hiện ngôn ngữ riêng của mình.
Bài văn miêu tả được xây dựng trên cơ sở những hình ảnh, ấn tượng về đối
tượng miêu tả mà người viết thu lượm, cảm nhận được, nó mang tính nghệ thuật

cao, tính sáng tạo, tính cá thể của người viết. Ngôn ngữ trong văn miêu tả là ngôn
ngữ nghệ thuật, là ngôn ngữ giàu sức gợi tả, gợi cảm, là ngôn ngữ của những biện
pháp tu từ. Văn miêu tả mang tính chất thông báo thẩm mĩ, dù miêu tả bất kì đối
tượng nào, dù có bám sát thực tế đến đâu thì miêu tả cũng không bao giờ là sự sao
chép, chụp ảnh lại những sự vật hiện tượng một cách máy móc mà là kết quả của
sự nhận xét, tưởng tượng, đánh giá hết sức phong phú. Đó là sự miêu tả thể hiện
được cái riêng biệt của mỗi người.
Nhà văn Phạm Hổ cho rằng: "Cái riêng, cái mới trong văn miêu tả phải gắn
với cái chân thật". Văn miêu tả không hạn chế sự tưởng tượng, không ngăn cản
sự sáng tạo của người viết nhưng như vậy không có nghĩa là cho phép người viết
“bịa” một cách tùy ý. Để tả hay, tả đúng thì phải tả chân thật, người giáo viên cần
uốn nắn để học sinh tránh thái độ giả tạo, giả dối, bệnh công thức sáo rỗng, thói
già trước tuổi.
Quá trình thực hiện các kĩ năng phân tích đề, tìm ý, quan sát, viết đoạn là
những cơ hội giúp trẻ mở rộng kiến thức về cuộc sống theo chủ điểm đã học.
Việc phân tích đề bài, lập dàn ý, chia đoạn bài văn kể chuyện, miêu tả, biên bản,
góp phần phát triển khả năng phân tích, tổng hợp, phân loại cho học sinh. Tư
duy trừu tượng của trẻ cũng được rèn luyện nhờ vận dụng các biện pháp so sánh,
nhân hoá khi miêu tả cảnh và người.
Trong chương trình Tập làm văn lớp 4,5, văn miêu tả là thể loại chiếm tỷ
lệ cao (50% số tiết). Đây là thể loại văn nghệ thuật sử dụng lời văn có hình ảnh
và có cảm xúc làm cho người nghe, người đọc hình dung một cách rõ nét, cụ
thể, sinh động về sự vật, hiện tượng ... trong đời sống. Có thể nói rằng: Mỗi bài
văn miêu tả là sự kết tinh của những nhận xét tinh tế, là sản phẩm, là sự đúc kết
của việc tiếp thu và vận dụng những kiến thức đã học.
Quá trình dạy học sinh viết văn miêu tả sẽ mang lại kết quả khả quan nếu
như thầy biết tổ chức đúng đắn và khơi gợi được những hoạt động cần thiết ở
các em, vì tư duy của trẻ ở lứa tuổi tiểu học thường thiên về tính cụ thể. Ở lứa
tuổi này có những yếu tố của tư duy trừu tượng nhưng còn hạn chế nhiều so với
học sinh ở các lớp trên. Quá trình nhận thức của học sinh lớp 5 khi viết văn miêu

tả đều thông qua thực tiễn các em thấy gì viết nấy.Vì thế người giáo viên cần
4


phải quan tâm đúng mức và khơi gợi để học sinh cảm nhận được cái hay, cái
đẹp trong viết văn miêu tả.
2. Thực trạng việc dạy học văn miêu tả của trường Tiểu học Thịnh Lộc
2. 1. Việc dạy văn miêu tả của giáo viên:
Đối với việc dạy văn miêu tả cho học sinh, giáo viên đều cho rằng: Qua hệ
thống bài tập giáo viên đã giúp học sinh quan sát đối tượng miêu tả, lựa chọn
sắp xếp ý, dựng đoạn và viết bài văn miêu tả. Song để học sinh biết dùng khả
năng của mình để miêu tả một sự vật, một cảnh đẹp ... lại là rất khó, đòi hỏi giáo
viên phải có biện pháp phù hợp để đạt kết quả cao. Qua dự giờ, trao đổi, thống
kê tôi thấy: Các tiết dạy theo chương trình nhìn chung giáo viên luôn chú ý để
đạt được mục tiêu của tiết học. Việc đổi mới phương pháp dạy học đã được giáo
viên quan tâm, giảm hẳn lối dạy học một chiều.
Mặc dù vậy việc dạy văn miêu tả của giáo viên bộc lộ những hạn chế sau:
Giáo viên thường coi trọng lý thuyết, xem nhẹ kỹ năng thực hành. Trong quá
trình dạy, giáo viên chưa chú ý đến việc rèn kỹ năng ở các tiết khác để làm điểm
tựa cho tiết Tập làm văn... Một số tiết học, GV chưa khơi gợi huy động vốn hiểu
biết, cách sử dụng từ ngữ mà bắt HS học nhiều, yêu cầu HS nhớ nhiều để bắt
chước rồi “ làm Văn”.
2. 2. Việc học văn miêu tả của học sinh.
Học sinh hầu như không có hứng thú với phân môn Tập làm văn. Qua dự
giờ, khảo sát chất lượng tôi nhận thấy: Số bài làm khá, có bố cục rõ ràng, chọn
chi tiết miêu tả hợp lý, câu văn viết đúng ngữ pháp, dùng từ chính xác câu văn
có hình ảnh còn rất ít và có những hiện tượng phổ biến như :
- Học sinh thường dễ dàng thuộc một đoạn văn, bài văn mẫu. Khi giáo viên
chấm bài rất có thể khen nhầm bài văn của người khác mà cứ tưởng là bài văn
của HS mình. Khi đọc bài văn của nhiều em cứ na ná nhau. HS còn lúng túng

trong cách viết văn thông thường các em bắt chước theo bạn, theo thầy cô. Mà
bản chất của làm văn không phải là sự bắt chước máy móc, nếu bắt chước mãi
thì bài văn không còn gì là của riêng mình như vậy dần biến mình thành người
máy.
- Miêu tả hời hợt, chung chung, không trung thực, không có sắc thái riêng
biệt nào của đối tượng được miêu tả. Vì thế bài văn ấy có thể gắn cho đối tượng
miêu tả cùng loại nào cũng được. Còn thụ động tiếp thu bài giảng, không sáng
tạo, còn rập khuôn văn mẫu. Kĩ năng liên kết, sắp xếp các ý trong đoạn bài còn
rất hạn chế. Kĩ năng sử dụng ngôn từ, diễn đạt ý thành câu văn còn vụng về.
Ngay từ thời điểm cuối tháng 9 năm 2016, tôi trực tiếp khảo sát chất lượng
học sinh. Qua khảo sát chất lượng và điều tra về học tập đối với phân môn Tập
làm văn của lớp chủ nhiệm tôi đã thu được kết quả như sau:
Kết quả đạt được của học sinh

5


Tổng
số HS

Viết
đúng
chính tả

Dùng từ
chính
xác

Câu văn
Sắp xếp

Biết sử
Bố cục
diễn đạt
ý phù
dụng các
chặt chẽ
gãy gọn,
hợp, có biện pháp
rõ ràng
hình ảnh nghệ thuật
21
10
6
4
3
5
9
Kết quả khảo sát trên, cho ta thấy một số học sinh chưa thực hiện được
các yêu cầu của một bài văn như:
- Bố cục bài viết không rõ ràng.
- Sắp xếp ý còn lộn xộn, diễn đạt câu văn chưa sáng sủa, dùng từ thiếu
chính xác.
- Bài văn nghèo ý, sơ sài.
- Mắc nhiều lỗi chính tả, sử dụng dấu câu chưa phù hợp.
Trước thực trạng này tôi đã tìm tòi, nghiên cứu và sau đây là các giải pháp
mà bản thân đã thực hiện có hiệu quả.
3. Các giải pháp đã sử dụng giúp học sinh lớp 5 học tốt thể loại văn miêu tả.
3.1. Xây dựng lòng yêu phân môn Tập làm văn cho học sinh.
Học văn miêu tả, học sinh cũng có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của con
người, thiên nhiên qua các bài văn, đoạn văn miêu tả điển hình. Khi phân tích đề

văn miêu tả, học sinh lại hướng tới cái chân, cái thiện, cái mĩ, được định hướng
trong các đề bài. Khi quan sát đối tượng miêu tả, học sinh được rèn luyện cách
nhìn đối tượng trong quan hệ gần gũi giữa con người với thiên nhiên. Những cơ
hội đó làm cho tình cảm yêu mến, gắn bó với thiên nhiên, con người và sự vật
xung quanh của trẻ được nảy nở, tâm hồn, tình cảm của trẻ thêm phong phú. Đó
là những nhân tố quan trọng góp phần hình thành nhân cách tốt đẹp của trẻ.
Trong quá trình dạy tôi đã đọc cho học sinh nghe một số bài văn mẫu
“miêu tả về cảnh đẹp vào buổi sáng (trưa, chiều) trong vườn cây (hay trong
công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, trên dòng sông...)”, rồi kể cho học
sinh nghe những câu chuyện xưa, những chuyện về những nhân vật mà các em
yêu quý. Mặc dù, các em chưa được đến những nơi đó nhưng vẫn cảm nhận
được những vẻ đẹp đó. Và cho học sinh thấy được mặc dù ta không sống cùng
thời với những nhân vật đó nhưng ta vẫn biết về họ, được nghe những câu nói
rất hay, rất ý nghĩa của họ. Lưu giữ được những câu chuyện đó là nhờ có các nhà
văn, nhà thơ... Từ đó, các em sẽ yêu môn học, mới ham thích, say sưa học tập,
tâm hồn các em được “chất dồn” những lời hay, ý đẹp, những cảm xúc và những
hiểu biết trẻ thơ góp phần làm cho các bài văn bay bổng hơn, dễ đi vào lòng
người hơn.
3.2. Giúp học sinh biết cách quan sát và ghi nhận những điểm tiêu biểu của
đối tượng miêu tả.
Để giúp học sinh viết tốt bài văn miêu tả tôi hướng dẫn học sinh quan sát
từ xa đến gần, từ bao quát đến cụ thể và bằng nhiều giác quan.
6


Việc quan sát này tôi có thể tiến hành bằng nhiều hình thức nhưng quan
sát trực tiếp vẫn là cơ bản. Quan sát thì phải dùng nhiều giác quan thì mới nhìn
nhận sự vật đó một cách chính xác và sinh động.
Nhờ có thị giác (mắt) ta nhìn thấy hình khối, màu sắc, đường nét…
Nhờ có thính giác (tai) mà ta nghe được những âm thanh, nhạc điệu.

Nhờ có khứu giác (mũi) mà ta phân biệt các mùi thơm khác nhau.
Nhờ vào xúc giác (da) mà ta có cảm giác nóng, lạnh.
Nhờ vào vị giác (lưỡi) ta thấy vị mặn, ngọt, chua chát.
Khi các em sử dụng nhiều giác quan để quan sát một vật nào đó thì chắc
chắn vật đó sẽ được nắm bắt rất kĩ, cụ thể, chi tiết thì khi đó các em sẽ có nhiều
thông tin để viết.
Tuy nhiên trong khi quan sát, tôi hướng dẫn các em tìm nét riêng biệt và
nét tiêu biểu của sự vật, tìm được trọng tâm cần viết, tránh viết lan man không
đúng trọng tâm mà phải trải qua sự sàng lọc.
Ví dụ: Tả bà em.
Trong bài: “Tả bà em” các em phải sử dụng nhiều giác quan quan sát để
có được nhiều chi tiết nhất cho bài văn: Dùng mắt để quan sát hình dáng, nước
da mái tóc, khuôn mặt của bà. Dùng tai để nghe giọng nói của bà. Dùng mũi để
ngửi thấy mùi thơm gội đầu bằng lá xả, lá bưởi của mái tóc bà. Dùng tay nắm
bàn tay bà để thấy sự ấm áp từ đôi bàn tay của bà như truyền thêm sức mạnh cho
cháu và mỗi khi bà để dành quả chín thơm ngon ta lại dùng lưỡi để thưởng thức
vị ngọt ngào ấy. Có được nhiều chi tiết như thế bài văn sẽ hay sinh động và giàu
hình ảnh.
Ví dụ: Tả quê em khi mùa xuân về.
Tôi hướng dẫn các em sử dụng các giác quan để quan sát và cảm nhận mùa
xuân xinh đẹp trên quê em: Dùng mắt để quan sát cảnh vật: cây cối đâm chồi nảy
lộc, hoa đua nhau khoe sắc. Dùng mũi để thấy mùi hoa thoang thoảng bay theo làn
gió. Dùng tai để nghe tiếng chim hót líu lo, tiếng mọi người cười đùa vui vẻ. Và qua
làn da ta cảm nhận được sự mát mẻ ấm áp khi mùa xuân về.
Khi các em sử dụng nhiều giác quan để quan sát các em thu thập được
nhiều tư liệu và giúp các em làm bài văn tả cảnh mùa xuân hay.
Tuy nhiên, quan sát có thể là trực tiếp, cũng có thể là gián tiếp. Đó là có
thể các em quan sát và ghi chép luôn kết quả quan sát (một cơn mưa, cảnh
trường em, một cây ăn quả, một bạn học cùng lớp...), phục vụ cho bước tìm ý,
lập dàn bài và làm bài hoàn chỉnh. Cũng có thể là các em hồi ức lại một cảnh vật

(cảnh đẹp đã được đến thăm, một cơn mưa đã qua...), một nhân vật nào đó (thầy,
cô giáo cũ; một bà cụ; một em bé gặp trên đường...) đã từng được quan sát và
giờ miêu tả lại.
3.3. Giúp học sinh viết câu văn hay giàu hình ảnh.
3. 3.1.Giúp học sinh hiểu thế nào là câu văn hay và cách viết những câu văn hay.
7


Thực tế hiện nay phần lớn học sinh viết câu mới đúng ngữ pháp chứ chưa
hay, câu văn khô khan chưa có hồn.
Ví dụ: - Tả cây: Cây bàng ở sân trường to và cao. Lá bàng xanh tốt.
- Tả em bé: Đôi mắt em to và đen. Tóc thưa và mỏng.
- Tả ông (bà): Ông em thích nhất uống trà. Ông em rất thích uống trà,
thích yên tĩnh và không thích ồn ào.
Qua phân tích tôi thấy rõ: Sở dĩ có tình trạng như vậy vì các em chưa biết
cách sử dụng các thủ pháp để tạo ra câu văn hay. Vì vậy, những câu văn ấy còn
nặng nề về giá trị thông báo, kể lể chứ chưa có giá trị miêu tả và không tạo được
hứng thú cho người đọc, người nghe, chưa diễn tả chính xác được cảnh hoặc sự
vật, con người.
Từ đó, tôi tiến hành giúp các em khắc phục những nhược điểm đó như
sau: Để có một bài văn hay tất yếu phải có những câu văn hay. Tôi giúp học sinh
hiểu như thế nào là câu văn hay, để từ đó các em có thể viết được câu văn hay:
Tôi cho học sinh đối chiếu các câu văn cụ thể để các em thấy rõ điều đó:
Ví dụ: - Mùa xuân, bầu trời rất trong và rất cao.
- Mùa xuân, bầu trời trong xanh, cao vời vợi.
Ví dụ: - Nước sông rất trong.
- Nước sông trong xanh như một tấm gương khổng lồ phản chiếu mây trời.
Từ những thực tế đó để các em thấy rõ nếu viết câu văn có hình ảnh, có từ gợi
tả thì câu văn sẽ hay hơn nhiều, qua đó giúp các em thấy được cần phải viết ra sao.
Câu văn hay phải là những câu văn diễn tả được một cách sinh động,

chính xác những điều mà mình muốn diễn đạt (hình ảnh, màu sắc, có sức truyền
cảm…)
Muốn viết được những câu văn hay như vậy thì ta phải biết sử dụng
những từ gợi tả (gợi hình, gợi thanh) biết sử dụng những biện pháp nghệ thuật
như: So sánh, nhân hoá, ẩn dụ, đảo ngữ và dùng những từ bộc lộ rõ cảm xúc,
tâm trạng của mình.
3.3.2. Giúp học sinh biết cách sử dụng các biện pháp tu từ.
Để bài văn sinh động, tôi thường khuyến khích các em để các em sử dụng
các biện pháp nghệ thuật trong khi miêu tả; rèn cho các em có cách nhìn cảm
nhận thiên nhiên như những người bạn thân thiết đáng yêu. Sự cảm nhận đó dần
trở nên quen thuộc trong ngôn ngữ và cách sử dụng của các em.
Các biện pháp tu từ: nhân hoá, so sánh cũng là thế mạnh đặc trưng, là
phương tiện miêu tả hữu hiệu. So sánh là biện pháp nghệ thuật tạo hình, khiến
sự vật được so sánh trở nên đẹp đẽ, sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn và gợi liên
tưởng cho người đọc. So sánh có giá trị gợi âm thanh, hình ảnh. Sử dụng so sánh
trong bài văn miêu tả còn là cách thức làm đẹp ngôn từ. Trong văn miêu tả có rất
nhiều hình ảnh so sánh, cách so sánh khác nhau. Nhân hoá là biện pháp miêu tả
sinh động, hấp dẫn, lí thú các sự vật, hiện tượng, làm cho những đối tượng này
8


không phải là người nhưng lại mang dấu hiệu, thuộc tính của con người. Nhân
hoá là con đường thú vị nhất, ngắn nhất đưa những vấn đề trừu tượng đến với
nhận thức của con người. Khi sử dụng nhân hoá, người viết thả sức vùng vẫy,
lựa chọn ngôn từ để làm tăng sự uyển chuyển, mềm mại khi diễn đạt. GV cần
hướng dẫn và khuyến khích học sinh có thói quen sử dụng biện pháp nghệ thuật
trong viết văn miêu tả.
Ví dụ 1: “Tả cảnh mùa xuân”:
Tôi cho học sinh nêu câu văn các em miêu tả về mùa xuân.
Học sinh 1 nêu: “Mùa xuân đến cây cối đâm chồi nảy lộc.”

Học sinh 2 nêu: “Những hạt mưa xuân thường là mưa nhỏ và lất phất bay”.
Tôi gợi ý câu văn của học sinh 2: Nội dung được, câu văn gọn, rõ ý nhưng để
sinh động hơn ta có thể trình bày như thế nào?
Học sinh khác trả lời có thể sửa là: “ Những hạt mưa xuân bé nhỏ, mềm mại,
rơi mà như đang nhảy nhót trong không gian.” Rõ ràng câu văn này đã hay hơn.
Với cách làm như vậy, tôi thấy cách vận dụng linh hoạt phù hợp với biện pháp
nghệ thuật khi viết văn miêu tả, góp phần tạo nên sự hòa đồng, vừa dễ nhận thấy
vừa gợi tả.
Ví dụ 2: Học sinh đã viết: “Hàng cây được trồng xung quanh hồ”.
Đây là một câu đúng ngữ pháp, đúng cả về ý nghĩa nhưng chưa có sức gợi
cảm. Vậy ta có thể sửa lại như thế nào? để hình ảnh của hàng cây, hồ nước hiện
lên cụ thể hơn. Giữa hàng cây và hồ nước có sự gắn bó hơn.
Tôi gợi ý để học sinh sửa lại bằng cách thêm từ ngữ.
- Hàng cây như thế nào?
(Hàng cây xanh tốt. Hàng cây cao vút. Hàng cây sum sê cao vút)
- Hồ nước thế nào? Mặt hồ thế nào?
(Mặt hồ như một tấm gương cực lớn. Mặt hồ trong xanh. Mặt hồ lấp lánh
mặt trời. Mặt hồ trong veo).
Và cuối cùng sửa lại cả câu:
- Một hàng cây xanh tốt, cành lá sum sê ôm lấy mặt hồ trong xanh gợn sóng.
- Hàng cây xanh tốt nghiêng mình soi bóng xuống hồ nước trong veo.
Ví dụ 3: Khi tả con đường có học sinh viết:“Con đường rất thẳng, rất rộng, rất
dài”.
Tôi gợi ý để các em có thể tìm những từ ngữ thay thế cho từng nhóm từ
trong câu sao cho gợi tả hơn.
Thay “rất thẳng” bằng “thẳng tắp”...
Thay “rất rộng” bằng “rộng rãi ”, “rộng thênh thang”.
Thay “rất dài” bằng “chạy xa mãi nhưng không có điểm cuối cùng”, “chạy
tít mãi đến chân trời”, “vươn dài mãi về phía Bắc”.
Cuối cùng từ những gợi ý để các em hoàn chỉnh câu:


9


- Con đường nhựa thẳng tắp, rộng thênh thang, chạy mãi về phía chân trời phía
Bắc.
- Con đường nhựa rộng rãi vạch một đường thẳng tắp về phía chân trời.
- Con đường nhựa rộng thênh thang như một đường kẻ vươn mãi đến chân trời
phía xa.
Ví dụ 4: Trong một câu văn học sinh đã viết: “Lá tràm nhỏ, cong cong màu
xanh”.
Tôi đã gợi ý để các em tìm ra được sự lên tưởng, so sánh:
Nhìn lá tràm nhỏ, cong cong em liên tưởng tới những vật gì?
Học sinh: Liên tưởng tới: Quả chuối còn non. Vầng trăng khuyết. Trăng
đầu tháng. Cái lưỡi liềm. Con thuyền.
Từ những liên tưởng ấy em đã dùng phương pháp so sánh để viết lại câu
văn trên sao cho hay hơn.
Học sinh viết:
- Lá tràm màu xanh, cong cong như một vành trăng khuyết.
- Lá tràm giống hệt như một vầng trăng đầu tháng màu xanh.
- Lá tràm như những vầng trăng đầu tháng treo lơ lửng trên cành cây.
- Mỗi chiếc lá tràm là một lưỡi liềm xanh bé xíu.
Tương tự như vậy, học sinh đưa ra những suy nghĩ, nhận xét, cảm xúc của
mình trước sự vật, sự việc. Bài văn sẽ không đơn giản là sự liệt kê nữa. Nó thấm
đẫm suy nghĩ, cảm xúc của người viết tạo nên cái “hồn” chất văn của bài làm.
3.3.3. Giúp học sinh biết cách thể hiện tình cảm, cảm xúc.
Giúp học sinh viết được những câu văn bộc lộ cảm xúc, tâm trạng của
người viết cũng là một cách để góp phần thông báo chính xác điều mà các em
nói, muốn diễn tả, muốn thể hiện. Không chỉ có vậy, đây là một biện pháp tạo
sức nặng, sức rung động cho bài văn, muốn viết được những câu văn như thế

học sinh có thể dùng nhiều cách khác nhau. Bộc lộ qua một từ ngữ nào đó có giá
trị tương đương nhưng có sắc thái biến cảm.
Ví dụ: Cũng là“ nhìn” ta có thể dùng các từ khác để bộc lộ thái độ khác
nhau:
+ Yêu thích: Ngắm.
+ Tò mò hoặc thờ ơ: Ngó, liếc.
+ Bình thường: Nhìn, trông.
- Bộc lộ bằng cách thêm một từ chỉ tâm trạng, trạng thái.
Ví dụ: + “Nói”: bình thường không có sắc thái.
+ “Ân cần nói”: sự quan tâm.
+ “Dịu dàng nói”: yêu thương.
- Bộc lộ bằng cách thêm một tập hợp từ diễn tả cụ thể trạng thái, tình cảm của
người viết.
Ví dụ: Nhìn nước da ngày một sạm đi của mẹ, tôi càng thương mẹ hơn.
Hàng ngày mẹ phải nắng mưa vất vả làm lụng vì anh em tôi.
10


Từ những suy nghĩ ấy, trong quá trình lên lớp giảng dạy tôi đã giúp các em
làm quen dần với cách viết những câu văn có cảm xúc.
Ví dụ: Từ câu học sinh viết: “Mẹ hỏi em: Con ăn cơm chưa?”
Tôi gợi ý để các em thêm từ tả tâm trạng vào để chuyển thành những câu có
cảm xúc.
Học sinh viết: + Mẹ dịu dàng hỏi em: Con ăn cơm chưa?
+ Mẹ ân cần hỏi em: Con ăn cơm chưa?
+ Mẹ trìu mến hỏi em: Con ăn cơm chưa?
Hoặc ở câu: “Em nhìn những cánh diều đang bay trên bầu trời”. Tôi gợi ý
để các em viết lại sao cho khi đọc lên người ta thấy rõ những cánh diều ấy đẹp
và em rất thích chúng.
Học sinh viết lại:

+ Em say sưa ngắm nhìn những cánh diều đang bay lượn trên bầu trời.
+ Em nhìn những cánh diều đang bay trên trời lòng tràn ngập niềm vui,
chính những cánh diều ấy đã nâng cánh ước mơ cho em.
Hoặc có học sinh viết: “Đôi tay của bà rất gầy guộc”. Đây là một câu chỉ có
giá trị thông báo do đó tôi hướng dẫn các em có thể viết lại để câu văn không chỉ
có giá trị thông báo mà còn có giá trị về mặt tình cảm. “Nhìn đôi tay gầy guộc
của bà em có suy nghĩ gì?”
Học sinh viết:
+ Nhìn đôi tay gầy guộc, em cảm thấy thương bà vô cùng.
+ Mỗi khi nhìn đôi tay gầy gò của bà lòng em lại trào lên một sự thương
yêu kì lạ.
+ Em yêu biết mấy đôi tay gầy guộc của bà.
- Từ những câu cảm xúc theo một đề tài định sẵn.
Ví dụ: Hãy viết một câu thể hiện tâm trạng, suy nghĩ của em khi được bà
yêu thương chăm sóc.
Học sinh viết:
+ Em thấy mình thật là hạnh phúc khi được bà yêu thương chăm sóc.
+ Em vui sướng biết bao khi được sống trong sự yêu thương chăm sóc của
bà, em thấy mình mới hạnh phúc làm sao.
+ Em thật sung sướng khi được bà yêu thương chăm sóc, mai đây dù có đi
xa tới chân trời góc bể thì tình yêu thương vô bờ bến của bà vẫn mãi sưởi ấm
tâm hồn em.
Bằng cách làm trên tôi đã giúp học sinh bước đầu biết bộc lộ cảm xúc, tâm
trạng của mình khi miêu tả.
3.3.4. Tập cho học sinh viết những đoạn văn ngắn có sử dụng câu gợi tả, gợi
cảm.
Đây là một hình thức cao hơn để giúp các em viết được những câu văn liền
mạch theo dụng ý rèn luyện của tôi. Qua loại bài này để các em được tiếp tục
11



rèn luyện kĩ năng viết câu gợi tả, gợi cảm và nâng lên tạo đà cho viết bài văn
hay. Để rèn luyện cho học sinh một đoạn văn gồm những câu chỉ có giá trị thông
báo:
Ví dụ: “Em đứng nhìn biển, biển rất rộng, rất xanh. Ngoài xa, những chiếc
thuyền đang ra khơi. Gió thổi mạnh. Sóng vỗ mạnh. Bọt sóng tung lên. Em rất thích
hít thở không khí ở đây. Trên bờ biển, mọi người đi tắm rất đông. Họ mặc quần áo
đủ màu, cảnh rất đẹp”.
Ở loại bài này, tôi tiến hành như sau:
- Cho học sinh nhận xét đoạn văn để các em biết được đoạn văn trên: Miêu tả
cảnh biển. Cảnh mọi người tắm trên biển. Mang tính thông báo. Người viết chưa bộc
lộ rõ tâm trạng, câu văn chưa hay, chưa logic, lặp từ, diễn đạt khô khan.
- Yêu cầu học sinh sửa chữa, bổ sung đoạn văn.
- Gọi học sinh nêu đoạn văn đã bổ sung trước lớp và chỉ rõ những nội dung đã
sửa chữa.
- Cho lớp nhận xét và rút ra được đoạn văn hay.
Kết quả học sinh đã viết như sau: “Em say sưa đứng nhìn biển mà không
biết chán. Ôi! Biển mới đẹp làm sao. Mặt biển rộng mênh mông, một màu xanh
ngát trải ra vô tận. Xa xa, mấy con thuyền đang lướt sóng ra khơi. Những cánh
buồm như những cánh bướm đang rập rờn chao liệng. Gió thổi lồng lộng. Sóng
vỗ ào ào, bọt tung trắng xoá. Không khí ở đây trong lành quá. Em khoan khoái
hít vào cho đến khi căng phồng lồng ngực mới thôi. Trên bãi biển, mọi người
đang đùa giỡn với những con sóng thật hạnh phúc. Trang phục đủ màu sặc sỡ
trông thật đẹp. Thật tuyệt vời!”
3.4. Dạy tích hợp qua các phân môn Tiếng Việt và các môn học khác.
Phân môn Tập làm văn mang tính chất tổng hợp, có quan hệ chặt chẽ với
các phân môn học khác như: Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Kể chuyện. Đây là
nơi tiếp nhận và cũng là nơi luyện tập nhuần nhuyễn các kiến thức, các phân môn nói
trên. Chính vì vậy mà chúng ta không thể cho rằng để các em làm văn tốt chỉ cần
thông qua tiết dạy Tập làm văn là đủ. Hay nói cách khác, dạy Tập làm văn chỉ qua

tiết Tập làm văn thì chưa được. Theo tôi, để cho các em làm văn tốt chúng ta cần dạy
tích hợp qua các phân môn học khác như: Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Lịch
sử và Địa lý, Toán… Trong 2 năm liên tục dạy lớp 5, tôi thấy chương trình SGK
hiện hành rất hay, được cấu trúc theo một chủ điểm, chủ đề và phân bố ở tất cả
các môn trong cùng một thời gian. Chính vì vậy, các em sẽ hiểu sâu về một chủ
điểm, chủ đề đó và các môn học sẽ bổ sung cho nhau cho nên dạy Tập làm văn
tích hợp qua các môn học khác là vô cùng quan trọng.
3.4.1. Phân môn Tập đọc.
3.4.1.1- Trau dồi ngôn ngữ qua phân môn Tập đọc.
Phân môn Tập đọc không chỉ giúp các em đọc hiểu văn bản mà còn giúp các

12


em trau dồi ngôn ngữ rất nhiều cho bản thân. Khi dạy phân môn Tập đọc ngoài việc
giải nghĩa từ ở mục chú giải tôi còn giải nghĩa những từ trong bài mà các em chưa
hiểu có như thế các em mới có thể hiểu sâu sắc nội dung bài Tập đọc và góp thêm
vào hành trang ngôn từ còn nghèo nàn của mình.
Ví dụ: Dạy bài Tập đọc “Quang cảnh làng mạc ngày mùa”. (Tập đọc 5- Tập 1)
Câu hỏi 1 SGK: Kể tên các sự vật trong bài có màu vàng? (Các sự vật trong
bài có màu vàng là: lúa vàng xuộm, nắng vàng hoe, xoan vàng lịm, tàu lá chuối
vàng ối, bụi mía vàng xọng, rơm thóc vàng giòn, lá mít vàng ối, tàu đu đủ vàng
tươi, gà chó vàng mượt, mái nhà rơm vàng mới).
Câu hỏi 2 SGK: Chọn một từ chỉ màu vàng trong bài và cho biết từ đó gợi
cho em cảm giác gì?
Nếu với câu hỏi này giáo viên chỉ dừng lại ở việc giúp học sinh hiểu nghĩa
một vài từ chỉ màu vàng thì chưa đủ mà theo tôi cần giúp các em giải nghĩa tất
cả các từ này và lấy một số ví dụ để các em hiểu sâu hơn qua tiết ôn Tiếng Việt
(ôn Tiếng Việt – học 2 buổi/ ngày)
Vàng xuộm: màu vàng đậm.

Vàng hoe: màu vàng nhạt, tươi, ánh lên.
Vàng lịm: màu vàng của quả chín, gợi cảm giác rất ngọt.
Vàng ối: vàng đậm, đều trên khắp mặt lá.
Chín vàng: màu vàng đẹp của quả chín.
Vàng giòn: màu vàng của vật được phơi già nắng có cảm giác giòn đến gãy ra.
Vàng mượt: màu vàng của những con vật béo tốt, có bộ lông óng ả, mượt mà.
Vàng mới: vàng và mới.
Vàng trù phú: màu vàng gợi cảm giác ấm no hạnh phúc.
Khi các em hiểu các từ này sẽ giúp các em hiểu nội dung bài Tập đọc sâu
sắc và các em hiểu rõ hơn các sắc thái của màu vàng và để từ đó các em có thể
làm văn hay hơn. Cụ thể khi làm bài văn: Tả buổi sáng (trưa, chiều) trên cánh
đồng (công viên hoặc vườn cây) (TV5- T1); các em có thể sử dụng các từ chỉ
màu vàng mà các em đã được học ở bài Tập đọc “Quang cảnh làng mạc ngày
mùa” để làm vào bài văn của mình một cách dễ dàng.
Ví dụ: Một đoạn văn tả buổi sáng trên cánh đồng.
“Buổi sáng, khi ông mặt trời rải ánh nắng vàng nhẹ xuống cánh đồng, cả
cánh đồng ánh lên như một biển vàng rực rỡ, lấp lánh. Những bông lúa chín
vàng ươm ngả đầu vào nhau chờ tay người gặt mang về. Những giọt sương mai
long lanh đọng trên những lá lúa màu vàng tươi như những viên pha lê trong
suốt cài trên chiếc áo vàng lộng lẫy càng làm cho cánh đồng lúa chín vào buổi
sáng đẹp hơn…”.
3.4.1.2- Dạy Tập Làm văn thông qua môn Tập đọc.
Các bài tập đọc thường là những văn băn hay mang tính nghệ thuật cao, bố
cục chặt chẽ và được chọn lọc kĩ càng để đưa vào chương trình. Qua các bài tập
13


đọc các em sẽ được tiếp cận với các câu văn hay, bài văn hay. Khi đi sâu tìm
hiểu bài các em sẽ hiểu sâu hơn nội dung về nghệ thuật cấu trúc của văn bản và
từ đó các em được từ từ tiếp nhận để biết được như thế nào là một bài văn hay.

Vì vậy, người giáo viên là người thầy dẫn dắt các em tiếp nhận điều đó. Nếu ta
cho rằng các bài Tập đọc là những bài để cho các em luyện đọc thì thật là một
thiếu sót và vô hình dung chúng ta đã bỏ lỡ đi một nguồn “Tài nguyên” lớn để
các em có thể học tốt phân môn Tập làm văn.
Ví dụ: Bài Tập đọc: Quang cảnh làng mạc ngày mùa (TV 5-Tập 1).
Sau khi tìm hiểu xong các câu hỏi trong bài tôi chốt: Đây là một bài văn tả
cảnh rất hay. Để được bài văn hay như thế này tác giả phải có sự quan sát tinh tế,
cách dùng từ gợi cảm, chính xác và đầy sáng tạo. Tác giả đã vẽ nên một bức
tranh về làng quê vào ngày mùa toàn màu vàng với vẻ đẹp đặc sắc và sống động.
Bài chứa đựng tình yêu tha thiết với con người, với đất, với quê hương. Với cách
chốt bài như thế này giúp học sinh nhận biết được đây là một bài văn hay, để có
bài văn hay thì cần có sự quan sát tinh tế, dùng từ gợi cảm và bài văn ấy phải
chứa đựng tình cảm sâu sắc của người viết có như vậy bài mới hay, sâu sắc, có
hồn. Và đây cũng là bước đầu dẫn dắt các em vào làm văn tả cảnh một phần vô
cùng quan trọng Tập làm văn lớp 5.
Ví dụ: Bài tập đọc: Kì diệu rừng xanh (TV5-Tập1).
Câu hỏi 1: Những cây nấm rừng khiến tác giả có sự liên tưởng thú vị gì?
Trả lời: Tác giả thấy vạt nấm rừng như một thành phố nấm; mỗi chiếc nấm
như một lâu đài kiến trúc tân kì; bản thân mình như một người khổng lồ đi lạc
vào kinh đô của vương quốc những người tí hon với những đền đài miếu mạo,
cung điện lúp xúp dưới chân.
Tôi hỏi thêm: Em có thích sự liên tưởng ấy không? Và em hãy nêu tác dụng
của sự liên tưởng ấy.
Trả lời: Em rất thích sự liên tưởng ấy, vì sự liên tưởng ấy làm cho cảnh vật
trong rừng trở nên lãng mạn, thần bí như trong truyện cổ tích.
Tôi chốt: Tác giả liên tưởng những cây nấm rừng rất thú vị và độc đáo làm
cho cảnh vật trong rừng trở nên lãng mạn, thần bí như trong truyện cổ tích và
câu văn trở nên hay và giàu hình ảnh. Khi làm văn các em cũng cần chú ý đến sự
liên tưởng như thế này thì câu văn, bài văn sẽ hay hơn rất nhiều.
Với cách dẫn dắt như thế này các em sẽ thấy được sự liên tưởng sẽ hay

hơn, giàu hình ảnh lôi cuốn người đọc để từ đó các em sử dụng biện pháp liên
tưởng vào làm văn.
3.4.2. Phân môn Luyện từ và câu.
3.4.2.1-Trau dồi ngôn ngữ qua phân môn Luyện từ và câu.
Học sinh sẽ được cung cấp rất nhiều ngôn ngữ qua phân môn Luyện từ và
câu. Chính vì thế người giáo viên phải mở rộng rất nhiều vốn từ cho học sinh ở

14


các tiết học thông qua chủ điểm chủ đề, trong các tiết học đó nếu các em hiểu
được nhiều từ đó là một thành công của tiết dạy.
Ví dụ: Bài Mở rộng vốn từ: Thiên nhiên (TV5- T1).
Bài tập 3: Tìm từ miêu tả không gian. Đặt câu với từ tìm được?
Với bài tập này tôi cho học sinh thảo luận theo tổ để các em cộng tác tìm
được nhiều từ miêu tả không gian. Các tổ thảo luận và thi xem tổ nào tìm được
nhiều từ hơn. Sau đó tôi nhận xét, chốt và cung cấp thêm cho các em từ miêu tả
không gian nếu các em chưa tìm được.
Tả chiều rộng: bao la, mênh mông, bát ngát,…
Tả chiều dài: xa tít, tít mù, muôn trùng, thăm thẳm, vời vợi, ngút ngàn.
Tả chiều cao: chót vót, chất ngất, vòi vọi, vời vợi.
Tả chiều sâu: hun hút, thăm thẳm, hoăm hoắm.
Bài tập 4: Tìm từ miêu tả sóng nước.
Với bài tập này tương tự bài tập 3: Học sinh thảo luận nhóm - trình bày kết
quả - Tôi nhận xét chốt kết quả đúng ngoài ra cung cấp cho các em những từ mà
các em chưa tìm được để cho vốn từ các em thêm phong phú.
Tả tiếng sóng: ì ầm, ầm ầm, ầm ào, rì rào, ào ào, ì oạp, oàm oạp, lao xao, thì thầm.
Tả làn sóng nhẹ: lăn tăn, dập dềnh, lững lờ, trườn lên, bò lê, đập nhẹ lên.
Tả những đợt sóng mạnh: cuộn cuộn, trào dâng, ào ạt, điên cuồng, điên khùng, dữ
tợn, dữ dội, khủng khiếp.

Hoạt động nối tiếp củng cố bài: Tôi tổ chức cho các em chơi trò chơi tìm các
câu thành ngữ, tục ngữ về thiên nhiên hoặc tìm những từ ngữ chỉ đồng ruộng,
rừng cây để cung cấp thêm vồn từ, thành ngữ, tục ngữ về thiên nhiên cho các
em. Có được vốn từ phong phú về chủ đề này sẽ giúp các em làm văn tốt, đặc
biệt là văn tả cảnh.
Ví dụ: Viết một đoạn văn miêu tả cảnh sông nước (Tiết 14, TV5- Tập1).
Các em có thể sử dụng các từ đã được học ở bài Mở rộng vốn từ: Thiên
nhiên để viết đoạn văn “Những ngày đẹp trời dòng sông như một tấm gương
khổng lồ phản chiếu mây trời. Nước sông lững lờ trôi, từng cơn sóng nhẹ lăn
tăn đập nhẹ vào hai bên bờ như đang thì thầm trò chuyện. Sông dịu dàng, duyên
dáng thật đáng yêu. Những ngày dông bão, nước sông cuồn cuộn trào dâng. Nó
mang theo bao nhiêu rác rưởi từ thượng nguồn ầm ầm đổ về. Nước sông đỏ
ngầu giận dữ làm ngập cả ruộng đồng.”
3.4.2.2- Dạy Tập làm văn qua phân môn Luyện từ và câu.
Chương trình Luyện từ và câu lớp 5 ngoài phần mở rộng vốn từ còn cung
cấp cho các em một lượng vốn từ lớn để các em có thêm vốn từ cho cuộc sống
và giúp các em làm văn còn có thêm phần liên kết các câu, liên kết đoạn. Đây là
phần mới và vô cùng quan trọng giúp các em viết câu văn, đoạn văn hay và lô
gic. Chính vì thế, tôi giúp các em nhận biết và sử dụng kiến thức qua phân môn
Luyện từ và câu để làm văn.
15


Ví dụ: Bài liên kết các câu trong bài bằng từ ngữ nối (TV5- tập 1).
Qua tiết học này các em biết thế nào liên kết câu bằng từ nối, biết tìm các
từ ngữ nối trong đoạn văn dùng các từ ngữ nối để liên kết câu.
Đó là yêu cầu của tiết học. Ngoài ra, tôi hướng học sinh biết sử dụng những điều
này vào trong giao tiếp và làm văn. Một bài văn đọc lên sẽ thấy rời rạc khi
không sử dụng những từ ngữ nối, ngược lại khi dùng từ ngữ nối câu văn, đoạn
văn bài văn sẽ liên kết chặt chẽ và hay hơn. Vì vậy, khi làm văn các em cần sử

dụng các từ nối để liên kết câu, đoạn trong bài văn (có thể nói thêm điều này ở
phần củng cố dặn dò).
Ví dụ: Bài liên kết các câu trong bài bằng thay thế từ ngữ (TV5- Tập 2).
Trong đoạn văn sau, người viết đã dùng những từ ngữ nào để chỉ Trần Quốc
Tuấn? việc dùng từ ngữ thay thế cho nhau như vậy có tác dụng gì?
Trả lời: Đoạn văn trên, người viết đã dùng từ chỉ Trần Quốc Tuấn là: Hưng
Đạo Vương, Ông, Quốc Công Tiết chế, Vị Chủ Tướng tài ba, Người. Việc dùng
nhiều từ ngữ thay thế cho nhau như vậy có tác dụng tránh được sự lặp từ và tạo
ra mối liên kết giữa các câu.
Sau khi các em trả lời đoạn văn có dùng từ thay thế hay hơn tôi chốt: Tác
giả đã sử dụng các từ ngữ khác nhau chỉ cùng một đối tượng nên tránh được sự
lặp lại đơn điệu, nhàm chán nặng nề nó giúp cho câu văn sinh động, cung cấp
thêm nhiều thông tin, rõ ý hơn, hay hơn. Cách dùng từ thay thế này tránh được
cách lặp từ mà là một trong những lỗi mà các em thường hay mắc phải khi làm
văn. Vì thế các em cần chú ý sử dụng biện pháp thay thế từ ngữ cho hiệu quả.
Với cách dẫn dắt như thế này các em sẽ nhận ngay ra lỗi mà các em thường hay
mắc phải đó là lỗi lặp từ. Và từ bài học này các em biết sử dụng từ thay thế để
cho bài văn hay hơn.
Ví dụ: Một đoạn văn tả một bạn mà em yêu thích trong lớp, trong đó sử
dụng biện pháp thay thế từ ngữ để liên kết câu.
Qua ví dụ này các em sử dụng lí thuyết vào thực hành tôi hướng cho các em tả
một vài tấm gương tiêu biểu hoặc một bạn nào đó ở lớp. Các em dễ dàng nhận biết ra
ngay đây là bài tả một bạn nào đó trong phân môn Tập làm văn. Trong bài tập này
các em sẽ sử dụng những từ thay thế như đại từ hoặc từ chỉ cùng đối tượng để tả về
một bạn nào đó.
“Mai là một lớp trưởng và cũng là người mà em yêu quý nhất. Bạn có nước
da đen bánh mật, nước da ấy càng nhìn lâu càng thấy duyên. Cô gái đáng yêu này
có đôi mắt tròn và đen láy. Mỗi khi nhìn vào ánh mắt ấy, em thấy ánh lên sự thân
thiện, trìu mến và thông minh khó tả… Người lớp trưởng ấy không chỉ xinh đẹp mà
còn là tấm gương sáng về học tập cho chúng em noi theo”

Trong đoạn văn trên đã sử dụng từ bạn, cô gái đáng yêu này, người lớp
trưởng ấy ở các câu sau để thay thế cho từ Mai ở câu đầu. Việc sử dụng từ thay
thế này đoạn văn trên sẽ tránh được việc lặp đi lặp lại từ Mai và đoạn văn sẽ trở
16


nên hay hơn. Một lần nữa qua bài tập này tôi lại củng cố cho các em thấy rằng
sử dụng từ thay thế trong làm văn sẽ làm cho bài văn hay, sinh động, tránh được
lặp từ và còn cung cấp thêm thông tin cho đối tượng đang tả để các em biết cách
sử dụng vào làm văn.
3.4.3. Các môn học khác.
3.4.3.1. Trau dồi ngôn ngữ qua các môn Lịch sử và Địa lí, Khoa học, Toán...
Ngoài phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu, các môn khác cũng góp phần
cung cấp rất nhiều vốn từ cho các em về lĩnh vực đó như Lịch sử và Địa lý,
Khoa học, Kỹ thuật,...
Ví dụ: Bài Địa lý: Khí hậu (Lịch sử và Địa lý 5- Tr 72).
Hoạt động nối tiếp của bài: Tôi cho các em chơi trò chơi “phóng viên
phỏng vấn”. Bạn thích mùa nào nhất trong năm? Vì sao? để một lần nữa các em
củng cố được các đặc điểm của các mùa trong năm. Cuối cùng tôi chốt và cung
cấp thêm một số đặc điểm khí hậu của các mùa: Miền Bắc có mùa xuân, khí hậu
mát mẻ, mưa phùn.Với khí hậu thuận lợi nên mùa xuân cây cối đâm chồi nảy
lộc, đất trời cũng tràn đầy sức xuân. Mùa hè nắng nóng, oi bức, gây nên hạn hán
và thường có những cơn mưa rào chợt đến rồi chợt đi. Và như thế là các em hiểu
sâu hơn về đặc điểm của các mùa trong năm. Khi đã hiểu sâu và có nhiều từ ngữ
và thông tin, đặc điểm về mùa đó sẽ giúp các em làm văn tốt hơn.
Ví dụ: Một đoạn mở bài tả cơn mưa mùa hạ.(TV5-Tập một).
“Trời đang nắng nóng, ai nấy ngột ngạt đến khó thở, bỗng một đám mây đen
từ đâu bay tới vắt ngang bầu trời. Bỗng trời tối sầm lại, gió thổi ầm ầm, cơn mưa ập
tới bất ngờ xua đi cái nóng oi ả của mùa hè.”
Vì vậy, phải cung cấp thêm từ ngữ cho các em để các em viết văn hay và

phong phú. Muốn làm tốt vấn đề này, theo tôi bản thân giáo viên phải giàu vốn từ
ngữ, hình ảnh để cung cấp cho các em và từ đó giúp học sinh của mình có một vốn
ngôn ngữ thật phong phú để làm văn tốt hơn.
3.4.3.2- Dạy Tập làm văn qua phân môn Chính tả, Lịch sử và Địa lí, Khoa học, Toán,

Một bài văn sẽ không hay khi bài văn đó sai quá nhiều lỗi chính tả, vì thế
để có một bài văn hay hoàn hảo thì yếu tố chính tả vô cùng quan trọng, cho nên
môn chính tả sẽ giúp học sinh khắc phục được điều đó. Ngoài ra, bài tập chính tả
còn cung cấp cho các em một lượng từ ngữ rất lớn để các em có thêm ngôn ngữ
khi làm văn.
Chúng ta đừng tưởng rằng môn Toán không giúp ích gì cho phân môn Tập
làm văn. Khi chúng ta sửa lời giải cho đúng đó là chúng ta đang sửa câu, từ cho
các em.
Môn Lịch sử và Địa lí khi các em kể về một di tích lịch sử hoặc một địa danh
nào các em phải dùng câu từ, hình ảnh để tả cụ thể, hay một di tích lịch sử hoặc địa
danh nhằm lôi cuốn người nghe …và như thế là các em đang luyện cách viết văn.
17


Ví dụ: Bài ôn tập Lịch sử nước ta từ giữa thế kỉ XIX đến nay (Lịch sử 5).
Câu hỏi 3: Viết một đoạn văn nói lên cảm nghĩ của em về công lao của Bác
Hồ đối với lịch sử dân tộc?
Tôi cho học sinh làm việc cá nhân: Viết một đoạn văn ngắn nói lên cảm
nghĩ của mình về công lao của Bác Hồ đối với lịch sử dân tộc.
Hai học sinh làm bảng nhóm – cả lớp làm vở. Sau khi học sinh làm xong
tôi cho học sinh trình bày bảng nhóm kết quả.
Tôi cùng học sinh cả lớp nhận xét về nội dung, câu văn trong đoạn văn và sửa
lỗi cho các em. Như thế qua bài Lịch sử này các em lại có đoạn văn hay viết về Bác
Hồ - một đề tài mà các em sẽ thường gặp nhiều trong làm văn.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:

Với những suy nghĩ biện pháp của bản thân được đúc kết thành các kinh
nghiệm trong giảng dạy Tập làm văn 5, tôi đã tận dụng thời gian và mọi cơ hội có
đựơc để rèn luyện cho các em, thông qua những tiết Tập làm văn, tiết Luyện từ và
câu, thậm chí giờ Tập đọc, nếu có câu văn hay giàu sức gợi tả, gợi cảm là tôi cũng
tranh thủ nhắc nhở học sinh cần chú ý ngay vì vậy những thiếu sót của các em giảm
dần và đã thu được kết quả như sau:

Tổng
số HS

Viết
đúng
chính tả

21

18

Kết quả đạt được của học sinh
Dùng từ Câu văn Sắp xếp
Biết sử
chính
diễn đạt
ý phù
dụng các
xác
gãy gọn, hợp, có biện pháp
rõ ràng
hình ảnh nghệ thuật
26

14
13
14

Bố cục
chặt chẽ

21

Qua bài viết của học sinh, tôi đã kiểm tra và đánh giá: Bài viết bố cục rõ ràng,
viết ít sai lỗi chính tả, sắp xếp ý theo đúng trình tự miêu tả; Câu văn diễn đạt gãy
gọn, rõ ràng, giàu hình ảnh, biết dùng từ chính xác trong miêu tả. Biết liên kết
các câu, sử dụng các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, liên tưởng và bước
đầu có sự sáng tạo trong bài viết.

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:

18


Qua quá trình tìm hiểu nghiên cứu và thực hiện đề tài, bản thân tôi đã rút
được một số kinh nghiệm sau:
- Phương pháp giảng dạy của giáo viên có tác động và ảnh hưởng rất lớn đến
chất lượng bài văn nói chung và văn miêu tả nói riêng của học sinh. Bởi vậy, đổi
mới phương pháp dạy học nói chung hiện nay và phân môn tập làm văn cho học
sinh cuối bậc tiểu học nói riêng là một yêu cầu rất cần thiết, đòi hỏi rất nhiều
công sức của cả giáo viên và học sinh. Yêu cầu phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo được đặt lên hàng đầu. Khi chúng ta coi trọng óc sáng tạo, cá tính, suy
nghĩ riêng của các em thì các em mới tạo ra các sản phẩm chân thực, thể hiện

đúng nhận thức và tình cảm của mình.
- Giáo viên trên cơ sở nắm vững mục đích, yêu cầu của bài học, hình dung
tưởng tượng giờ học văn miêu tả sẽ diễn ra như thế nào để phối hợp nhịp nhàng,
linh hoạt khéo léo, đúng lúc, đúng chỗ các phương pháp và hình thức tổ chức
dạy học, sao cho lôi cuốn được tất cả học sinh trong lớp tham gia học tập với
thái độ hào hứng, đạt được mục đích đặt ra.
- Mỗi giáo viên cần phải say mê với nghề nghiệp, không ngừng tìm tòi,
nghiên cứu để nâng cao kiến thức cũng như trình độ. Người thầy phải là chỗ
dựa, là niềm tin vững chắc cho mỗi học sinh. Trong quá trình giảng dạy cần đa
dạng hoá các hoạt động học tập để gây sự hứng thú trong học tập của mỗi học
sinh, giúp các em tiếp thu kiến thức một cách chủ động và thoải mái, không khô
khan, nhàm chán. Mỗi học sinh cần phải tích cực, chủ động chiếm lĩnh kiến
thức, kiên trì, không nản chí và lùi bước trước khó khăn, cần phải ôn tập, nhào
nặn để biến tri thức của loài người thành của riêng mình.
Tóm lại: Để dạy tốt văn miêu tả ở lớp 5, giáo viên vừa phải giúp học sinh
thực hiện được những yêu cầu làm văn miêu tả nói chung vừa phải chú ý đến
những đặc điểm riêng của từng loại đối tượng để hướng dẫn học sinh miêu tả
cho phù hợp. Học sinh tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc viết văn
miêu tả. Đọc thêm nhiều tài liệu để tích luỹ vốn từ, vốn hiểu biết vận dụng trong
quá trình làm bài. Biết quan sát kĩ các đối tượng cần miêu tả, biết sử dụng cùng
một lúc các giác quan để đối tượng được miêu tả trở nên sinh động. Ghi chép
những chi tiết điển hình làm cẩm nang cho các bài văn khi mình có thể bất chợt
quan sát được. Có thói quen sử dụng các biện pháp tu từ trong quá trình làm
bài.
2. Kiến nghị:
* Đối với nhà trường:
- Cần có đủ sách tham khảo cần thiết và các thiết bị dạy học cho bộ môn.
- Tổ chức hội thảo, chuyên đề trong tổ chuyên môn để phân tích thống nhất
điều chỉnh nội dung, phương pháp phù hợp với học sinh.
* Đối với các cấp quản lí:


19


- Tổ chức nhiều chuyên đề trong phạm vi rộng hơn để giáo viên có dịp học tập
và nâng cao chuyên môn nghiệp vụ.
Trong quá trình nghiên cứu và thực hành giảng dạy đối với lớp chủ
nhiệm, bản thân tôi đã thu được những kết quả rất khả quan. Tuy nhiên kinh
nghiệm của tôi vẫn còn nhiều những hạn chế, thiếu sót kính mong sự góp ý của
bạn bè đồng nghiệp và các cấp lãnh đạo.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
Hậu lộc, ngày 12 tháng 3 năm 2017
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người thực hiện

Trần Thị Nga

DANH MỤC
20


CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Trần Thị Nga

Chức vụ và đơn vị công tác: Tiểu học Thịnh Lộc

TT

1
2

3

4

Tên đề tài SKKN

Kết quả
đánh giá
Năm học
xếp loại đánh giá xếp
(A, B,
loại
hoặc C)
Phòng GD&ĐT C
2001 - 2002
Cấp đánh giá
xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)

Một vài kinh nghiệm dạy
môn lao động kỹ thuật lớp 4
Một số biện pháp rèn kỹ năng Phòng GD&ĐT B

đọc diễn cảm cho học sinh
lớp 4
Phát hiện và bồi dưỡng học
Phòng GD&ĐT B
sinh có năng khiếu viết văn
lớp 4,5
Phát hiện và bồi dưỡng học
Phòng GD&ĐT A
sinh có năng khiếu viết văn
lớp 4,5

2003 - 2004

2010 - 2011

2012 - 2013

21



×