SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH THANH HOÁ
PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
MÔN TIN HỌC 6 Ở TRƯỜNG THCS TRẦN MAI NINH
Người thực hiện:
Nguyễn Thị Thúy Vân
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Trần Mai Ninh
SKKN môn:
Tin học
THANH HOÁ NĂM 2016
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
MỤC LỤC
1
PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
1
2
2. Mục đích nghiên cứu
2
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
2
4. Phương pháp nghiên cứu
3
PHẦN 2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
3
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
4
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
4
1. Thuận lợi
4
2. Khó khăn
4
III. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Biện pháp sử dụng các thiết bị vật lí máy tính để mô tả
trực quan
2. Biện pháp thiết kế bài giảng điện tử để mô phỏng các quá
trình, kiến thức bài học
3. Biện pháp “Bàn tay nặn bột”
4. Biện pháp chia đối tượng học sinh
5. Biện pháp kết hợp đánh giá của giáo viên với tự đánh giá
của học sinh
IV. KẾT QUẢ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
4
9
11
13
14
15
15
1. Kết quả
16
2. Bài học kinh nghiệm
18
Phần 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
18
1. Kết luận
18
2. Kiến nghị
19
2
PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài:
Trong thời đại hiện nay, thời đại của nền kinh tế tri thức. Trong đó yếu tố
con người trở thành nguồn nhân lực quan trọng cho sự phát triển của đất nước
và phương tiện cho sự phát triển đó chính là tri thức công nghệ. Tin học đóng
vai trò then chốt cho sự sáng tạo, mở đường, thúc đẩy cho sự phát triển các
ngành các lĩnh vực khác. Nhận thức được điều đó Đảng và Nhà nước đã chính
thức đưa bộ môn tin học vào các nhà trường giảng dạy từ năm 2006 cho đến
nay.
Môn Tin học cũng giống như nhiều môn học khác ở trường THCS, nó có
một vị trí đặc biệt không thể thiếu được trong thời đại hiện nay. Tin học 6 là cơ
sở để hình thành kiến thức, kỹ năng thực hành máy tính của bộ môn Tin học ở
cấp THCS, giúp các em tìm kiếm được kiến thức và kỹ năng mới, bài tập thực
hành tin học là công cụ hữu hiệu để kiểm tra kiến thức, kỹ năng của học sinh.
Giúp giáo viên phát hiện được trình độ của học sinh, làm bộc lộ những khó khăn
sai lầm của học sinh trong học tập tin học. Đồng thời có biện pháp giúp các em
mở mang kiến thức, giáo dục tư tưởng đạo đức, kỹ năng cho học sinh ngay từ
những ngày đầu tiên. Như vậy thông qua môn Tin học 6 học sinh được rèn về
kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, về đạo đức và tư duy thực hành, từ đó gây hứng thú
học tập và nghiên cứu bộ môn đối với học sinh trong những năm tiếp theo.
Qua các năm giảng dạy, tôi nhận thấy bộ môn Tin học là một bộ môn mới
ở trường THCS, các trường THCS trên địa bàn hầu như coi Tin học chỉ là môn
học tự chọn và chưa được quan tâm đến vì nhiều lí do khách quan. Trong dạy
học môn tin, tôi nhận thấy nếu có một phương pháp tốt sẽ rất dễ gây hứng thú
cho học sinh vì học sinh luôn muốn học những điều mới lạ, học sinh rất thích
làm quen và khám phá máy tính, có thể nhận thấy đây là một điều kiện thuận lợi
cho giáo viên. Tuy nhiên với chương trình tin học đòi hỏi sự linh hoạt rất cao
của các giáo viên, sự nhạy bén, tư duy có sự quan sát và sáng tạo và kỹ năng sử
dụng máy tính của học sinh để giải quết vấn đề. Vì vậy đòi hỏi phải tìm ra
phương pháp giảng dạy để học sinh dễ hiểu, dễ dàng tìm được sự móc nối giữa
các kiến thức, kỹ năng thực hành, như học sinh ở trường THCS Trần Mai Ninh.
Với những lí do như trên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp nâng
cao chất lượng môn Tin học 6 ở trường THCS Trần Mai Ninh”.
3
2. Mục đích nghiên cứu:
Xác định cơ sở thực tiễn của một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo
dục đổi mới phương pháp dạy học – lấy người học làm trung tâm.
Tìm ra những phương pháp mới dựa trên cơ sở khoa học để truyền thụ kiến
thức cho học sinh thêm sinh động và thực tế hơn, đặc biệt đối với chương trình Tin
học là phần kiến thức mới và trừu tượng đòi hỏi học sinh phải có sự tư duy, sáng
tạo và kỹ năng thực hành trong giải quyết vấn đề cho học sinh trường THCS Trần
Mai Ninh.
Để nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường, thì phải nâng cao được
chất lượng từ các bộ môn, trong đó có môn tin học. Làm thế nào để học sinh lĩnh
hội được kiến thức từ nhiều hướng, nhiều khía cạnh khác nhau từ lý thuyết và từ
thực tế thực hành học sinh hiểu được kiến thức, có những tư duy, sáng tạo dẫn
tới ham học hỏi, yêu thích môn học, mà học sinh trường THCS Trần Mai Ninh
đang cần. Từ thực tế đó ta thấy được việc cần thiết phải có sự đổi mới phương
pháp trong giảng dạy và đó cũng là điều cần để có sáng kiến “Một số biện pháp
nâng chao chất lượng môn Tin học 6 ở trường THCS Trần Mai Ninh”.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
- Phạm vi: Nghiên cứu thực tế học sinh lớp 6 trường THCS Trần Mai Ninh.
- Đối tượng: Nghiên cứu biện pháp nâng cao chất lượng môn Tin học 6 ở trường
THCS Trần Mai Ninh.
4. Phương pháp nghiên cứu:
-
Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu các văn bản,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các tài liệu sách báo có liên quan
đến vấn đề nghiên cứu để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
-
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp điều tra, khảo
sát, phỏng vấn, trao đổi, phương pháp quan sát sư phạm.
-
Phương pháp thống kê...
4
PHẦN 2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Công nghệ thông tin là một trong các phương tiện quan trọng nhất của sự
phát triển, đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục
của thế giới hiện đại, trong đó có Việt Nam. Chúng ta đang ở thời đại thông tin
kĩ thuật số, thời đại Internet. Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương chính
sách đầu tư và phát triển về ứng dụng công nghệ thông tin như:
- Chỉ thị số 58-CT/TW của bộ chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát
triển CNTT trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đã chỉ rõ: “Ứng
dụng và phát triển CNTT là một nhiệm vụ ưu tiên trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, là phương tiện chủ lực để đi tắt đón đầu, rút ngắn khoảng cách
phát triển so với các nước đi trước”.
- Chỉ thị số 29/2001/CT-BGD&ĐT của Bộ GD&ĐT về tăng cường giảng
dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục đã chỉ rõ: Nâng cao nhận
thức về vai trò của CNTT; ứng dụng và phát triển CNTT trong giáo dục và đào
tạo sẽ tạo một bước chuyển cơ bản trong quá trình đổi mới nội dung, chương
trình, phương pháp giảng dạy, học tập và quản lí giáo dục.
Phấn đấu thực hiện các mục tiêu cụ thể của ngành là: Tổ chức tốt việc dạy
và học tin học ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học nhằm phổ cập tin học
trong nhà trường,...
Đặc trưng của môn Tin học là khoa học gắn liền với công nghệ, do vậy
dạy học Tin học một mặt trang bị cho học sinh kiến thức khoa học về Tin học,
phát triển tư duy thuật toán, rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề, mặt khác phải
chú trọng đến rèn luyện kĩ năng thực hành, ứng dụng, tạo mọi điều kiện để học
sinh được thực hành, nắm bắt và tiếp cận những công nghệ mới của Tin học
phục vụ học tập và đời sống. Nội dung chương trình của môn Tin học hiện hành
ở các trường phổ thông đã đáp ứng được những yêu cầu trên.
Bên cạnh đó, ứng dụng CNTT vào giảng dạy là những chủ chương của
ngành Giáo dục, trong đó có thể kể đến như giáo án điện tử, mô phỏng các ví dụ, thí
nghiệm trực quan... như đã từng áp dụng, trên cơ sở đó kết hợp với thao tác trên các
thiết bị thực tế với kỹ năng thực hành trên thiết bị máy tính như bộ môn Tin học. Từ
5
kết quả thao tác thực tế, thực hành của học sinh qua mỗi tiết học, học sinh có thể tự
mình đánh giá kiến thức tiếp thu bài của mình, của bạn kết hợp tự đánh giá của giáo
viên đối với mỗi học sinh. Qua đó học sinh có thể tự điều chỉnh quá trình học tập
của mình để lĩnh hội tri thức một cách đầy đủ và tốt nhất, giáo viên cũng điều chỉnh
được hoạt động dạy của mình, dẫn đến nâng cao chất lượng bộ môn Tin học trong
nhà trường.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
1. Thuận lợi:
- Được sự quan tâm của Phòng Giáo dục và Đào tạo thành phố Thanh
Hóa, Đảng bộ, Ban Giám hiệu nhà trường trong công cuộc đổi mới phương pháp
dạy học; tạo mọi điều kiện thuận lợi về CSVC trang thiết bị dạy học.
- Giáo viên giảng dạy được đào tạo theo đúng chuyên ngành.
- Phần lớn các em học sinh có ý thức tự học cao, luôn tìm tòi học hỏi
những kiến thức mới trong học tập và rất hứng thú với môn Tin học.
2. Khó khăn:
- Số tiết thực hành trong chương trình sách giáo khoa còn chưa đủ, học sinh
chưa kịp làm quen với thao tác thực hành máy tính thì thời lượng dành cho tiết thực
hành đã hết, nên chưa đáp ứng được yêu cầu về kỹ năng, dẫn đến học sinh cảm
thấy không hứng thú học dẫn đến chán học, lười học, không hiểu bài, kết quả
học tập thấp.
- Một bộ phận học sinh chưa coi trọng môn học, xem đây là một môn phụ
nên chưa có sự đầu tư thời gian cho việc học.
III. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
Để đạt được mục đích dạy học của mỗi bài học đó là niềm trăn trở của mỗi
người làm nghề dạy học: để làm được điều đó mỗi giáo viên đều có một cách truyền
thụ phương pháp riêng, nhưng điều quan trọng đầu tiên là làm thể nào để học sinh
hào hứng trong mỗi tiết giảng, từ đó yêu thích môn học của mình, say mê học tập
nghiên cứu, sáng tạo.... Dưới đây là một số biện pháp nâng cao chất lượng môn Tin
học 6 ở trường THCS Trần Mai Ninh.
1. Biện pháp sử dụng các thiết bị vật lí máy tính để mô tả trực quan:
Tin học là một môn không chỉ học kiến thức khoa học về Tin học mà còn
gắn liền với kỹ năng sử dụng thiết bị là máy tính. Máy tính là công cụ không thể
6
thiếu được của tin học. Do vậy để đạt được kiến thức cũng như kỹ năng sử dụng
thiết bị là máy tính, chúng ta phải làm chủ được thiết bị này.
Khi dạy bài 4 “Máy tính và phần mềm máy tính”, nếu chỉ giới thiệu về
cấu trúc máy tính theo sách giáo khoa thì học sinh rất mơ hồ và trừu tượng về
máy tính không biết hình thù máy tính, các thiết bị như thế nào, nhất là khi giáo
viên thực hiện phương pháp dạy học mới, phương pháp “Lấy học sinh làm trung
tâm”. Đối với bài học này, giáo viên có thể đưa ra sơ đồ cấu trúc máy tính dưới
đây:
Bộ nhớ ngoài
Bộ xử lí trung tâm
Bộ điều khiển
Bộ số học/logic
Thiết bị vào
Thiết bị ra
Bộ nhớ trong
Sơ đồ cấu trúc máy tính
Từ sơ đồ cấu trúc máy tính trên ta minh họa các thiết bị cụ thể như sau:
Bộ nhớ
ngoài
CPU
Thiết bị vào
Thiết bị ra
Bộ nhớ
trong
7
Bên cạnh đó, giáo viên giới thiệu các thành phần bên trong vỏ case máy
tính gồm bộ nhớ trong, bộ nhớ ngoài, CPU, có hình ảnh như thế nào. Cụ thể, tôi
giới thiệu sơ qua những thành phần đó để học sinh được tận mắt thấy được:
MỘT SỐ THIẾT BỊ BÊN TRONG MÁY TÍNH
Mainboard
Bộ nhớ ngoài
DVD-ROOM
Bộ nhớ trong
CPU
Nguồn máy tính
(Các thiết bị được lắp trong vỏ máy)
8
Khi dạy bài học này giáo viên có thể hỏi học sinh một số câu hỏi như sau:
Câu hỏi 1: CPU là gì? Tầm quan trọng của CPU như thế nào? Em biết các
hãng sản xuất CPU hiện nay không?
Tất nhiên là học sinh sẽ trả lời như khái niệm trong sách giáo khoa: CPU là
bộ xử lí trung tâm có thể được coi là bộ não của máy tính. CPU thực hiện các chức
năng tính toán, điều khiển và phối hợp mọi hoạt động của máy tính theo sự chỉ dẫn
của chương trình. Các hãng sản xuất CPU như Intel, AMD, IBM.
Theo kiểu trả lời này thì học sinh chưa thực sự hiểu biết về CPU, càng
mang tính học vẹt. Nhiệm vụ của giáo viên là phải diễn giải thêm cho học sinh
để học sinh nắm vững hơn khái niệm CPU, nhưng chỉ diễn giải và mô tả bằng
hình ảnh trong sách giáo khoa thì học sinh càng khó nắm bắt được kiến thức về
CPU. Vậy ta có thể lấy một chiếc CPU nào đó (CPU hỏng) để cho học sinh quan
sát trực quan không? Thực tế tôi đã lấy vài chiếc CPU cho học sinh quan sát, kết
quả là học sinh rất chăm chú và đặt ra rất nhiều câu hỏi xoay quanh vấn đề này.
CPU (Bộ xử lý trung tâm)
Có nhiều người gọi mỗi case (hộp thân máy) máy tính này là một CPU điều đó
đúng hay sai?
Nếu như học sinh không được tận mắt nhìn thấy một chiếc CPU thì ta sẽ
nhận được câu trả lời của đa số học sinh là “đúng”.
Nhưng nếu học sinh đó được nhìn thấy chiếc CPU thực tế và hình ảnh
một số case máy tính như hình dưới đây thì học sinh sẽ trả lời là “không đúng”.
9
Một số case máy tính
Câu hỏi 2: Em hãy cho biết các loại bộ nhớ, chức năng chính của các loại
bộ nhớ trên?
Đa phần học sinh trả lời bộ nhớ gồm bộ nhớ trong và bộ nhớ ngoài. Bộ
nhớ trong là bộ nhớ nằm bên trong, Bộ nhớ ngoài là bộ nhớ nằm bên ngoài. Câu
trả lời lấp lửng là do học sinh chưa được thấy một chiếc máy tính như thế nào?
Nếu nói nằm bên trong vỏ máy thì cả hai Bộ nhớ trong và Bộ nhớ ngoài đều
nằm bên trong vỏ máy.
Như vậy, học sinh đã trả lời đúng về các loại bộ nhớ. Tuy nhiên các em
chưa hiểu đúng bản chất về chức năng của chúng.
Giáo viên giới thiệu cụ thể bằng các thiết bị như sau:
Bộ nhớ trong
ROM
RAM
10
USB
CD-ROM
HDD
Bộ nhớ ngoài
Trả lời câu hỏi trên phải là “Bộ nhớ trong được dùng để lưu chương trình
và dữ liệu trong quá trình máy tính làm việc còn Bộ nhớ ngoài thì lưu trữ lâu
dài dữ liệu và chương trình”.
Như vậy, đối với bài học này, nếu chỉ quan sát hình ảnh trong sách giáo
khoa thì học sinh sẽ rất khó hình dung ra các bộ phận đó như thế nào. Chính vì
thế tôi đã sử dụng các thiết bị vật lí máy tính để mô tả trực quan giúp học sinh
tiếp thu bài tốt hơn.
2. Biện pháp thiết kế bài giảng điện tử để mô phỏng các quá trình, kiến thức
bài học:
Để đạt được mục đích, yêu cầu của bài dạy theo đúng chuẩn kiến thức kỹ
năng của môn học là việc mà tất cả các nhà giáo đặc biệt là những người đang trực
tiếp đứng trên bục giảng trăn trở với từng trang giáo án, làm sao để học sinh hiểu
được nội dung của bài học, hiểu được những kiến thức mà thầy cô muốn truyền tải
đến học trò của mình. Việc đơn giản hóa kiến thức như: ít trừu tượng, ít phải tư
duy... để học sinh dễ hiểu và vận dụng ngay được kiến thức bài học.
Với bộ môn Tin học không chỉ yêu cầu học sinh nắm được kiến thức môn
học, mà còn có kỹ năng trong thực hành, vì vậy thiết kế bài giảng điện tử đã giải
quyết được phần nào yêu cầu truyền đạt kiến thức cho học sinh.
Trong môn Tin học 6 có nhiều bài sử dụng giáo án điện tử để giảng dạy
đem lại sự hứng thú học cho học sinh và đã đạt kết quả cao trong sự tiếp thu bài
của học sinh.
Ví dụ 1: Khi học bài các thao tác với tệp tin văn bản. Giáo viên dạy phần
lưu văn bản, mở văn bản. Khi học lý thuyết để học sinh hiểu và làm được thì các
11
thao tác phải được hướng dẫn tập trung ngay trên máy, học sinh phải thực hành
tại chỗ, thông qua một số học sinh đại diện của từng nhóm. Các thao tác mở,
lưu… đều sử dụng các từ tiếng Anh và một số hộp thoại giáo viên không thể vẽ
được trên bảng, nếu chỉ giáo viên đọc ghi thì rất khó hiểu đến khi thực hành học
sinh lúng túng, nhưng nếu ta trình chiếu nút lệnh
lên bảng vài ba lần học
sinh sẽ ghi nhớ ngay đến khi thực hành sẽ không bỡ ngỡ.
* Giáo viên nên tận dụng những phương tiện sẵn có của môn tin học áp
dụng vào trong giảng dạy lý thuyết để học sinh dễ quan sát và nhận biết, giúp
cho buổi học thực hành của học sinh hiệu quả hơn. Ta có thể cho một số học
sinh thực hành ngay trong tiết lí thuyết để các học sinh khác theo dõi rút kinh
nghiệm, có thể những em này hướng dẫn lại các em khác trong tiết thực hành.
* Trong giờ thực hành giáo viên nên trình chiếu hướng dẫn trên bảng để
học sinh nắm bắt thao tác và yêu cầu thực hành.
Ví dụ 2: Trong bài thực hành số 3 Tin học 6: Các thao tác với thư mục
việc trình chiếu hướng dẫn thực hiện thao tác trên bảng có tác dụng rất lớn đối
với học sinh. Nếu không trình chiếu ta phải hướng dẫn bằng cách ghi bảng rất
dài dòng khó hiểu, còn để học sinh tự nghiên cứu thực hành thì học sinh vừa
nghiên cứu sách giáo khoa vừa thực hành rất khó.
Tạo thư mục mới
12
* Tận dụng những phần mềm chụp hình quay phim lại các thao tác thực
hành để trong qua trình giảng giáo viên đưa các hình ảnh, đoạn phim vào minh
họa cho quá trình dạy và học làm học sinh hứng thú, tập trung hơn.
Ví dụ: Bài 21 Tin học 6 - Trình bày cô đọng bằng bảng:
Soạn giáo án điện tử mô phỏng các quá trình kiến thức của bài dạy theo từng
đối tượng học sinh và tiến hành giảng dạy ngay tại phòng máy tính của nhà trường.
Qua mỗi bước, mỗi thao tác giới thiệu cho học sinh, tiến hành cho học
sinh thực hành ngay tại chỗ để học sinh cảm nhận được thực tế của kiến thức
bằng cách: gọi một học sinh lên làm trực tiếp và chiếu lên máy chiếu, các học
sinh khác thực hiện trực tiếp trên máy tại vị trí ngồi của mình. Sau khi thực hiện
thao tác xong tất cả các học sinh lại chú ý lên bảng để đến với nội dung tiếp theo
của bài. Như vậy học sinh vừa được nghe, vừa được thấy, vừa được làm, khi đó học
sinh sẽ khắc nghi được kiến thức đồng thời cũng rèn luyện thêm kỹ năng thực hành
cho học sinh.
13
* Trong các tiết bài tập: là các tiết không có nội dung bắt buộc tùy theo
từng bài, những tiết bài tập ôn tập nên sử dụng Violet hoặc kết hợp Violet với
PowerPoint để thiết kế tiết ôn tập đa dạng kiểu bài tập tạo không khí sinh động,
không nhàm chán, học sinh học tập tích cực trong tiết bài tập. Có thể kết hợp các
trò chơi để gây hứng thú và học tập sôi nổi hơn.
3. Biện pháp “Bàn tay nặt bột”:
"Bàn tay nặn bột" là một biện pháp dạy học tích cực, thích hợp cho việc
giảng dạy các kiến thức khoa học tự nhiên, trong đó có môn tin học. Đặc điểm
của lứa tuổi trung học cơ sở là đang ở giai đoạn bắt đầu tìm hiểu mạnh mẽ các
kiến thức khoa học, hình thành các khái niệm cơ bản về khoa học. Chính vì vậy,
việc tập trung phát triển khả năng nhận thức của học sinh, giúp các em tìm ra lời
giải đáp cho những thắc mắc trẻ thơ bằng cách tự đặt mình vào tình huống thực
tế, từ đó khám phá ra bản chất vấn đề.
Ví dụ khi dạy bài 8 tin học 6 – Quan sát trái đất và các vì sao trong hệ mặt
trời, tôi đã áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” như sau:
Bước 1: Tình huống xuất phát và đặt câu hỏi nêu vấn đề của toàn bài học:
- Các em có biết Hệ Mặt Trời gồm những hành tinh nào? Trái đất của
chúng ta quay xung quanh Mặt Trời như thế nào? Vì sao lại có hiện tượng nhật
thực, nguyệt thực? Phần mềm nào hỗ trợ việc tìm hiểu các vấn đề trên?
Bước 2 : Trình bày ý kiến ban đầu của học sinh
- Học sinh làm việc cá nhân: ghi lại những hiểu biết của mình về Hệ Mặt
Trời, Trái đất quay xung quanh Mặt Trời, các hiện tượng nhật thực, nguyệt thực
bằng cách vẽ ….
Bước 3: Đề xuất các câu hỏi
- Tổng hợp các ý kiến cá nhân để đặt câu hỏi theo nhóm về Hệ Mặt Trời,
Trái đất quay xung quanh Mặt Trời, các hiện tượng nhật thực, nguyệt thực.
(Vì sao lại có hiện tượng nhật thực, nguyệt thực? Trái đất của chúng ta
quay xung quanh Mặt Trời như thế nào? Hệ Mặt Trời của chúng ta có bao nhiêu
hành tinh và gồm những hành tinh nào? Sao Kim và sao Hỏa, sao nào ở gần Mặt
trời hơn? )
- Giáo viên chốt các câu hỏi của các nhóm (nhóm các câu hỏi phù hợp với
nội dung bài học).
14
Bước 4: Đề xuất các phương án nghiên cứu
- Giáo viên hướng dẫn, gợi ý học sinh đề xuất các phương án nghiên cứu
để tìm câu trả lời cho các câu hỏi ở bước 3.
- Giáo viên giới thiệu phần mềm Solar System 3D Simulator, hướng dẫn
cách khởi động phần mềm và các lệnh điều khiển quan sát.
- Các nhóm lần lượt làm thực hành, khám phá để trả lời các câu hỏi trên.
- Các nhóm đánh giá kết quả của nhau. Giáo viên nhận xét chung.
Bước 5: Kết luận, rút ra kiến thức:
- Học sinh hoàn thành các kết luận về các nút lệnh của phần mềm vào
phiếu học tập .
- Học sinh so sánh lại với hình tượng ban đầu xem thử suy nghĩ của mình
có đúng không.
- Học sinh kết luận về Hệ Mặt Trời và các hiện tượng như nhật thực,
nguyệt thực, sao nào ở gần Mặt Trời hơn, Trái đất nặng bao nhiêu, nhiệt độ trung
bình trên Trái Đất là bao nhiêu độ, ...
Bài học này xuất hiện một số khái niệm mới đối với học sinh, vì vậy giáo
viên cần giải thích qua hoặc đặt câu hỏi để học sinh thảo luận về quỹ đạo, hành
tinh, hệ Mặt Trời, ... Việc sử dụng phần mềm này tôi đã để học sinh tự khám
phá, quan sát.
Như vậy, qua việc tìm hiểu và vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”
trong dạy học môn Tin học tôi nhận thấy đây là một phương pháp có thể phát
huy tối đa khả năng tự học và sáng tạo của học sinh, giúp các em tự phát hiện và
giải quyết vấn đề thông qua thực hành, quan sát, nghiên cứu tài liệu. Nhờ đó học
sinh hình thành khả năng suy luận theo phương pháp nghiên cứu từ nhỏ, góp
phần hình thành tác phong và phương pháp làm việc của một nhà khoa học khi
các em trưởng thành.
4. Biện pháp chia đối tượng học sinh:
4.1. Với học sinh học khá bộ môn tin học:
Với học sinh có nhận thức, có tư duy tốt giáo viên tạo điều kiện cho các
em khám phá tìm hiểu sâu hơn so với yêu cầu đạt được của bộ môn. Chương
soạn thảo văn bản đây là chương hầu như chủ yếu hướng dẫn học sinh biết và sử
dụng phần mềm vào trong công việc thực tế - sách giáo khoa chỉ giới hạn những
15
kiến thức kỹ năng cơ bản để học sinh bước đầu biết về soạn thảo văn bản.
Nhưng với học sinh đã có kỹ năng sử dụng máy tính các em hầu như rất hào
hứng được khám phá với trí tò mò của mình, khi đó giáo viên có thể hướng dẫn
các em một số chức năng cao hơn chẳng hạn như: định dạng chữ to đầu dòng,
chia cột trong văn bản, chèn ảnh, ký hiệu đặc biệt, các đường nét trong bảng
biểu.... và có thể cho các em tự hướng dẫn các học sinh yếu hơn lúc đó các em
mạnh dạn hơn trong học hỏi “học thầy không tày học bạn”.
4.2. Với học sinh học yếu:
Học sinh chưa có kỹ năng sử dụng máy tính giáo viên cũng nên tạo điều
kiện cho các em thực hành nhiều hơn để làm chủ được với thao tác trên máy
tính, khi các em đã làm được những điều mà trước đó các em chưa làm được thì
học sinh có suy nghĩ rất hào hứng và muốn khám phá nhiều hơn tạo ấn tượng tốt
cho bộ môn. Hơn nữa các em mạnh dạn hơn khi hỏi một số bạn biết hơn chỉ rõ
cho mình, hơn là hỏi các thầy cô giáo vì: theo tâm lý các em càng không biết thì
càng không dám hỏi thầy, cô.
5. Biện pháp kết hợp đánh giá của giáo viên với tự đánh giá của học
sinh.
Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận
định thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều
kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.
Trong quá trình đánh giá học sinh nhiều giáo viên thường yêu cầu học
sinh học thuộc lòng các định nghĩa các khái niệm của sách giáo khoa, tôi thấy
việc này là rất không nên và không cần thiết vì tin học là một môn học với đặc
tính công nghệ cao, các khái niệm đi liền với công nghệ và thay đổi rất nhanh.
Những khái niệm rất cơ bản như thông tin, khái niệm tệp, thư mục, khái niệm bộ
nhớ, mạng máy tính... đều đã thay đổi rất nhiều.
Vậy thì làm thể nào để kiểm tra được kiến thức về lý thuyết đối với học sinh?
Kiểm tra lý thuyết của môn tin học bằng việc mô tả khái niệm lý thuyết
bằng tình huống, hình ảnh và thao tác trên máy tính. Do vậy cần được tiến hành
một cách linh hoạt thông qua các câu hỏi tình huống, các thao tác cụ thể trên
máy tính. Như khi hỏi về khái niệm Tệp, Thư mục học sinh không cần học thuộc
16
lòng định nghĩa trong sách. Giáo viên sẽ đưa ra các tình huống, câu hỏi và học
sinh trả lời, ví dụ: Trên màn hình Desktop là tệp hay thư mục? Thư mục LOP6A
có nằm trong thư mục DATA không? Những câu hỏi tình huống kiểu như vậy
vừa là các gợi ý vừa là cách tốt nhất để học sinh hiểu rõ hơn các khái niệm.
Ví dụ: Trong một giờ thực hành đầu tiên giáo viên thường đưa ra mục
đích yêu cầu của bài thực hành, sau đó hướng dẫn lại các kiến thức, kỹ năng mà
giờ lý thuyết đã học. Để thực hiện được mục đích đó học sinh phải có kiến thức
và kỹ năng nhất định nào đó mới đạt được. Cuối mỗi buổi thực hành giáo viên
dành khoảng 3 – 5 phút gọi 1, 2 học sinh tự đánh giá lại xem, em đã làm được
những gì qua buổi thực hành so với yêu cầu của thầy/cô, cuối cùng giáo viên
đánh giá khái quát lại và chỉ ra những chỗ học sinh chưa làm được và nguyên
nhân vì sao? Qua đó bản thân học sinh đó và các học sinh khác thấy được mình
còn yếu ở phần nào, vì sao? để tiếp tục điều chỉnh, khắc phục ở giờ tiếp theo, từ
đó thúc đẩy ý thức học tập của học sinh.
Giáo viên nên hướng dẫn và khuyến kích học sinh phát triển kĩ năng tự đánh
giá để tự điều chỉnh cách học. Giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi để học sinh
được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp
thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang
bị cho học sinh. Để đào tạo theo hướng phát triển những con người năng động, sớm
thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh giá không thể dừng lại ở yêu
cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã học mà phải khuyến khích trí
thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống thực tế.
IV. KẾT QUẢ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Kết quả:
Từ thực tế dạy học của bản thân những năm gần đây các lớp 6 tại THCS
Trần Mai Ninh, tôi nhận thấy phương pháp này có những mặt tích cực sau đây:
Giờ học trở nên sinh động, giảm bớt kiến thức trừu tượng, không xa vời
thực tế mà thiết thực với học sinh, gây hứng thú thực sự cho học sinh, sự yêu
thích môn học tăng lên rõ rệt. Phát huy được sự tích cực chủ động của học sinh
trong nắm bắt kiến thức từ thực tiễn và từ kỹ năng thực hành.
Kết quả: Sau khi học xong các bài được áp dụng thực tế, học sinh được thực
hành ngay, tôi đã thu được kết quả khá khả quan. Có 90% học sinh ở những lớp tôi
17
giảng dạy trả lời là rất hứng thú với bài học, hiểu bài hơn, dễ nhớ hơn, yêu thích môn
học hơn tuy có vất vả hơn.
Đánh giá cụ thể kết quả bộ môn các lớp 6 với phương pháp khác nhau
năm học 2014-2015 như sau:
Lớp 6E, 6F (lớp thực nghiệm): được đánh giá cao hơn, áp dụng phương
pháp mới.
Lớp 6G, 6H (lớp đối chứng): được đánh giá thấp hơn, không áp dụng
phương pháp mới.
Xếp loại học lực bộ môn Tin học
Lớp
Số học sinh
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
6E
45
100%
26
57,8%
14
31,1%
5
11,1%
0
0%
0
0%
6F
41
100%
25
61%
12
29,3%
4
9,7%
0
0%
0
0%
6G
45
100%
10
22,2%
13
28,9%
22
48,9%
0
0%
0
0%
6H
43
100%
10
23,3%
13
30,2%
20
46,5%
0
0%
0
0%
2. Bài học kinh nghiệm
Khi soạn giảng, dạy bằng các biện pháp trên tôi nhận thấy một số điểm
như sau:
Giáo viên cần chuẩn bị bài giảng tốt, sưu tầm và lựa chọn các thiết bị máy
tính đã hỏng, phòng máy, máy chiếu cho từng bài học.
Qua các tiết giảng dần dần học sinh sẽ có thao tác kỹ năng thực hành ngày
càng tốt lên. Từ đó kích thích sự tò mò khám phá của học sinh khắc phục điều
kiện bản thân tự học, tự tin để vươn lên trong học tập.
Việc học thông qua các thiết bị thực tế và các thao tác kỹ năng thực hành
tin học có ý nghĩa quan trọng: không chỉ đơn thuần là tiếp thu kiến thức của bài
giảng trong Tin học 6 mà còn nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của học sinh dưới dự hướng dẫn của giáo viên. Qua đó tạo sự hứng thú niềm tin
đối với môn học, phát huy năng lực tư duy, sáng tạo độc lập của học sinh. Trang
18
bị cho cho học sinh kỹ năng thực hành sử dụng máy tính và mạng máy tính phục
vụ học tập, bước đầu vận dụng vào cuộc sống, đó cũng chính là một phần hành
trang tương lai của học sinh sau này.
Trong môi trường dạy học với điều kiện đổi mới phương pháp, ứng dụng
CNTT vào giảng dạy là một trong các chủ trương của Đảng, Nhà nước, Bộ giáo
dục Đào tạo, các cơ sở giáo dục đều được trang bị phòng máy tính và máy chiếu.
Giáo viên hầu như đều có máy tính cá nhân. Các thiết bị máy tính hỏng dễ dàng
tìm kiếm được ở các cửa hàng máy tính, do đó với giáo viên tin học đều có thể
thực hiện được.
Nhờ vận dụng biện pháp này trong những năm qua ở trường THCS
Trần Mai Ninh tôi đã đạt được một số kết quả nhất định. Học sinh cởi mở, hứng
thú, lĩnh hội kiến thức dễ dàng hơn làm cho học sinh tự tin hơn vào việc học tập
của bản thân, tạo cơ hội cho học sinh khám phá tri thức tương lai.
19
PHẦN 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Vấn đề đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục là chủ chương của Đảng, Nhà nước và của Ngành Giáo dục trong các năm
gần đây, do vậy ta thấy được sự cần và cấp thiết đổi mới phương pháp giảng dạy
của từng giáo viên, từng bộ môn, từng thời kỳ.
Bản thân là một giáo viên đứng lớp, đứng trước chủ chương của ngành,
của đơn vị tôi luôn trăn trở rằng làm thế nào để nâng cao chất lượng của bộ môn
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục chung của nhà trường. Từ đó tôi đã áp
dụng các biện pháp như đã trình bày ở trên. Sau một thời gian thực hiện đã cho
kết quả khả quan. Học sinh hứng thú học, ham học, yêu thích môn học, tiếp thu
bài tốt hơn và kết quả cao hơn và điều quan trọng là kỹ năng sử dụng máy tính
của học sinh cao hơn rõ rệt.
2. Kiến nghị:
Vấn đề đổi mới phương pháp trong giờ học đang là vấn đề cần thiết. Để
dạy học Tin học trong nhà trường có hiệu quả, tôi đề nghị một số vấn đề như
sau:
- Vì đây là một môn học mang tính đặc thù riêng nên cần phải có phòng
học chức năng riêng biệt, môi trường trong lành, thoáng mát, đầy đủ máy tính và
đồ dùng dạy học.
- Cần trang bị thêm một số tranh ảnh, tài liệu phục vụ cho môn học để
việc dạy và học ngày càng hiệu quả hơn.
Với thực trạng học Tin học trong nhà trường và yêu cầu đổi mới phương
pháp hạy học Tin học, có thể coi đây là một quan điểm của tôi đóng góp ý kiến
vào việc nâng cao chất lượng môn Tin học 6 nói riêng và Tin học nói chung.
Mặc dù đã cố gắng song không thể tránh được các thiếu sót, rất mong
được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, của các đồng nghiệp để đề tài
của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 12 tháng 3 năm 2016
CAM KẾT KHÔNG COPY
Người viết
Nguyễn Thị Thúy Vân
20
21