Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Bồi dưỡng tâm hồn học sinh qua dạy học tác phẩm thơ trữ tình hiện đại lớp 9 áp dụng với bài “nói với con” của y phương (tiết 122 ngữ văn 9)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164 KB, 19 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm
I. MỞ ĐẦU
- Lí do chọn đề tài
Trong nhà trường, nếu nói người giáo viên là những “kĩ sư tâm hồn” thì
điều đó đúng nhất với các thầy cô giáo dạy văn, vì Ngữ Văn chính là bộ môn dễ
gây xúc động, vui buồn, tác động nhiều nhất đến thế giới nội tâm của con người,
giúp con người phát huy đầy đủ năng lực và phẩm chất để xây dựng cuộc sống.
Chương trình thay sách giáo khoa và đổi mới phương pháp dạy học đã xác
định mục tiêu của môn Ngữ Văn trong nhà trường THCS là nhằm giáo dục cho
học sinh “những tư tưởng, tình cảm cao đẹp, như lòng nhân ái, yêu gia đình,
quê hương đất nước, sự căm ghét cái xấu, cái ác, rèn luyện tính tự lập, biết tư
duy sáng tạo bước đầu có năng lực cảm thụ những giá trị chân- thiện- mĩ
trong nghệ thuật, trước hết là trong văn học…”. Chính vì vậy, người giáo viên
phải có trách nhiệm bồi dưỡng tâm hồn học sinh để đáp ứng những phẩm chất
của người lao động trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên, vấn đề bồi dưỡng tâm hồn học sinh thông qua một giờ dạy học
tác phẩm văn chương cũng tạo ra không ít thử thách đối với người dạy. Làm thế
nào để truyền tải được những tư tưởng xuất phát từ trái tim tác giả đến tâm hồn
của học sinh? Đó là câu hỏi mà không ít giáo viên tâm huyết với nghề từng trăn
trở. Để tìm lời giải cho câu hỏi trên giáo viên hơn ai hết sẽ là người tìm ra những
phương pháp tối ưu trên cơ sở thực tiễn quá trình dạy học của bản thân. Với
mong muốn tìm cho mình giải pháp phù hợp trong quá trình dạy học, tôi đã
nghiêm túc tìm hiểu bộ sách giáo khoa Ngữ Văn THCS. Đặc biệt trong hai năm
học vừa qua, tôi được phân công giảng dạy lớp 9, tôi rất quan tâm đến những tác
phẩm thơ trữ tình hiện đại trong chương trình Ngữ Văn lớp 9. Đây là loại hình
tác phẩm được cấu trúc bởi một kiểu ngôn ngữ đặc biệt, khác hẳn với ngôn ngữ
đời thường và ngôn ngữ văn xuôi. Tác phẩm trữ tình là tiếng nói của tình cảm
mãnh liệt, nó đến với người đọc một cách tự nhiên mà nồng nàn, giản dị mà sâu
sắc khó quên.
- Mục đích nghiên cứu
Do đặc trưng thẩm mĩ và giá trị của nó mà thơ trữ tình hiện đại chiếm một


vị trí quan trọng trong chương trình Ngữ Văn 9. Qua quá trình tìm hiểu và cũng
xuất phát từ niềm say mê với những tác phẩm thơ trữ tình hiện đại lớp 9, tôi xác
định mục đích: thông qua các tiết dạy học thơ trữ tỡnh để bồi dưỡng tâm hồn
học sinh, làm cho những vẻ đẹp tiềm ẩn trong những tác phẩm thơ trữ tình đến
được với thế giới tâm hồn các em, gợi lên những rung động thẩm mĩ và sự đồng
cảm nơi các em, góp phần thực hiện chức năng giáo dục của văn chương trong
việc hình thành nhân cách con người.
- Đối tượng nghiên cứu
Năm học 2014-2015 tôi mạnh dạn đưa ra vấn đề “Bồi dưỡng tâm hồn
học sinh thông qua dạy học tác phẩm thơ trữ tình hiện đại lớp 9” và áp dụng
với phạm vi các tiết dạy thơ trữ tình hiện đại cho đối tượng là học sinh lớp 9,
trường THCS nơi tôi công tác. Tôi thử nghiệm qua tiết 122, bài thơ “Núi với
con” của Y Phương (Ngữ văn 9 – tập 2). Đến nay sau 1 năm áp dụng đã thu
được những kết quả khả quan.
Năm học 2015- 2016

1


Sáng kiến kinh nghiệm
- Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp nghiên cứu, xây dựng cơ sở lí thuyết: phương pháp này tôi
nghiên cứu hệ thống lí thuyết làm cơ sở lí luận cho đề tài.
+ Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế: với phương pháp này, tôi lấy
được nguồn thông tin chính xác và nhanh nhất để qua đó nắm bắt được thực
trạng của vấn đề.
+ Các phương pháp thực nghiệm dạy học Ngữ văn như: đàm thoại, phát
vấn, đọc diễn cảm, giảng bình, nhận xét, đánh giá… được sử dụng nhuần
nhuyễn để đem lại hiệu quả cho các giờ dạy, phục vụ cho việc đánh giá thành

công của đề tài.
+ Cuối cùng là tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm cho cả quá trình.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Nhà văn Nga Mac-xim Gor-ki từng nói: “Văn học là nhân học”. Thật
vậy, tõ xưa đến nay, trong việc đào tạo con người, văn chương vẫn được sử dụng
như một công cụ đắc hiệu, không ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của văn
chương trong việc xây dựng và giữ gìn đạo đức xã hội. Có thể nói, văn chương
chính là món ăn tinh thần, nuôi dưỡng tâm hồn con người. Đời sống tinh thần
của con người rất đa dạng và phong phú, biểu hiện ở khát khao yêu thương, biết
yêu thương, được ước mơ, được thưởng thức cái hay cái đẹp và được cống
hiến…Và một trong những con đường dẫn con người đến niềm vui trong cuộc
sống là sự thưởng thức cái hay, cái đẹp của cuộc đời qua những áng văn thơ, dù
người đó đã, đang và sẽ theo ngành nghề nào đi nữa.
Tác phẩm nghệ thuật là kết quả của sự thăng hoa về tâm hồn và trí tuệ của
người nghệ sĩ, bởi vậy tác phẩm văn học nào cũng biểu hiện tư tưởng, tình cảm,
song tác phẩm loại trữ tình lại thể hiện tình cảm theo một cách riêng. Nếu như ở
một tác phẩm tự sự, xây dựng bức tranh về cuộc sống trong đó các nhân vật có
đường đi và số phận của chúng, thì ở tác phẩm thơ trữ tình có khác. Nhà văn
Raxun Gamzatôp từng viết “Thơ sinh ra từ tình yêu và lòng căm thù, từ nụ
cười trong sáng hay từ những giọt nước đắng cay”. Thật vậy, thơ trữ tình là
những tác phẩm mà ở đó thế giới chủ quan của con người, cảm xúc, tâm trạng, ý
nghĩ đựơc trình bày trực tiếp và làm thành nội dung chủ yếu. Hay nói cách khác,
thơ trữ tình giúp ta đi sâu vào thế giới của những suy tư, tâm trạng nỗi niềm.
Biết bao câu thơ đã được nâng lên thành lẽ sống như: “Sống là cho đâu chỉ nhận
riêng mình ” hay “Xẻ dọc trường Sơn đi cứu nước - Mà lòng phơi phới dậy
tương lai” (Tố Hữu). Nội dung của tác phẩm thơ trữ tình được thể hiện gắn liền
với hình tượng nhân vật trữ tình. Đó là hình tượng người trực tiếp thổ lộ, suy
nghĩ, cảm xúc, tâm hồn trong tác phẩm. Qua những trang thơ như gặp lại tâm
hồn người, tấm lòng người.

Năm học 2015- 2016

2


Sáng kiến kinh nghiệm
Với chương trình ngữ văn lớp 9, những bài thơ trữ tình đựơc đưa vào dạy
học phần lớn đề cập đến tình cảm đẹp đẽ của con người, rất phù hợp với tâm lí tuổi
mới lớn của các em. Cụ thể là : Tình đồng chí đồng đội, tình cảm gia đình, tình yêu
quê hương đất nước, tình yêu thiên nhiên và khát vọng, lí tưởng sống đẹp.
Chính vì vậy, người giáo viên phải bám sát đặc trưng “tiếng nói tình cảm”
của các bài mà hướng các em vào việc đọc, tìm hiểu và tạo cho các em sự đồng
cảm cùng nhà thơ để từ đó tự hình thành, vun đắp những tình cảm đẹp của mình.
Chúng ta hoàn toàn nhất trí với một trong những mục tiêu của dạy văn
trong nhà trường THCS là đào tạo học sinh trở thành con người tốt, làm con, làm
anh, làm chị, làm em, trong gia đình. Song không thể vì mục tiêu giáo dục mà coi
nhẹ những rung động thẩm mỹ trong giờ học Văn. Bởi vì nói đến văn chương, là
nói đến cuộc sống và con người, hay nói đúng hơn là nói đến cuộc sống của con
người, trong đó có đời sống tình cảm, tâm hồn, yêu hay ghét, vui - buồn, căm giận
hay thương cảm. Có bao nhiêu sắc thái tình cảm trong đời sống con người có thì
bấy nhiêu cung bậc tình cảm trong văn chương.
Có thể nói tài năng của người dạy Văn, không dừng ở mức cảm, mà thực
sự vươn tới nghệ thuật truyền cảm. Vì những lẽ đó việc bồi dưỡng tâm hồn, tình
cảm, cho học sinh qua giờ học văn nói chung và thơ trữ tình nói riêng không chỉ
để thấy ý nghĩa to lớn mà còn để thấy hết những khó khăn, thử thách của nó, từ
đó người giáo viên có phương hướng rèn luyện suốt đời.
2. Thùc tr¹ng của vấn đề:
Hiện nay trong chương trình Ngữ Văn lớp 9, thơ trữ tình hiện đại gồm có
11 bài, trong đó có 9 bài đọc hiểu và 2 bài tự học có hướng dẫn (Bảng thống kê
1-Phụ lục). Đây là những tác phẩm của các tác giả tiêu biểu cho nền văn học

cách mạng được sáng tác trong khoảng thời gian từ sau cách mạng tháng Tám
đến nay, có giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật cao. Từ những kiến thức
được cung cấp khi tìm hiểu các bài thơ này, học sinh có thể hiểu sâu hơn về
những tình cảm, tư tưởng và lí tưởng sống đẹp của con người Việt Nam trong
suốt hai cuộc kháng chiến và trong cuộc sống hoà bình dựng xây đất nước, giúp
các em bồi đắp những tình cảm trong sáng trong tâm hồn, đồng thời cũng tạo
tiền đề cho các em có thể làm tốt kiểu bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ
trong phân môn Tập làm văn lớp 9.
Tuy nhiên, qua điều tra tìm hiểu thực tế tôi nhận thấy việc dạy học tác
phẩm thơ trữ tình hiện đại lớp 9 hiện nay đối với cả giáo viên và học sinh đang
có nhiều lúng túng.

Năm học 2015- 2016

3


Sáng kiến kinh nghiệm
- Về phía học sinh: Trong những năm trở lại đây, do sự phát triển như vũ
bão của khoa học kĩ thuật, cuộc sống con người nói chung dần trở nên thực
dụng. Khi con người ta càng đầy đủ về đời sống vật chất thì lại càng nghèo nàn
về đời sống tâm hồn. Học sinh cũng không tránh khỏi xu thế ấy. Các em lười và
ngại học môn Văn, cho rằng đó chỉ là môn học thuộc, thiên về lí thuyết thông
thường, ít có hứng thú trong học tập. Bên cạnh đó ở địa bàn xã…. nơi tôi công
tác, học sinh phần lớn là con em các gia đình thuần nông, sự định hướng và tạo
điều kiện của cha mẹ đối với việc học của con cái còn rất hạn chế. Ngoài ra, do
đặc trưng sinh lí của lứa tuổi mới lớn, các em học sinh lớp 9 cũng thiếu tập trung
trong học hành. Riêng môn Văn lại càng tỏ ra vội vàng, hấp tấp, ít có chiều sâu.
Tôi đã điều tra vào đầu năm học với việc học thuộc đoạn trích “ Kiều ở
lầu Ngưng Bích” trích truyện Kiều–Nguyễn Du.

Kết quả điều tra khiến tôi không khỏi giật mình.
* Số em học thuộc chính xác đoạn trích: 8/50 em
* Số em thuộc thiếu chính xác: 20/50 em.
* Số em không thuộc: 12/50 em.
Đó là việc học thuộc lòng bắt buộc. Còn việc soạn, chuẩn bị bài trước khi
đến lớp càng đáng buồn hơn, vì “sợ” bị điểm kém, nên các em đọc bài qua loa,
đại khái. Trả lời câu hỏi bằng cách chép đáp án từ sách “Để học tốt môn Văn và
Tiếng Việt 9 ” sao cho đủ bài cốt để đối phó.
Như vậy, với cách học thụ động của các em, cái hay, cái đẹp, của tác
phẩm văn chương nói chung và thơ trữ tình nói riêng sẽ trở thành vô nghĩa.
Đáng buồn, đó lại là thực trạng chung của nhiều trường, nhiều lớp, phản ánh thái
độ thờ ơ, lạnh nhạt với môn văn của học sinh hiện nay.
- Về phía giáo viên:
Trong mỗi giáo án dạy học môn Ngữ Văn của mọi giáo viên đều xác định rất
rõ 3 mục tiêu cần đạt qua bài dạy đó là: Mục tiêu kiến thức, kĩ năng và thái độ. Song
khi triển khai giờ dạy giáo viên chỉ chú ý đến phần kiến thức ít chú ý đến bồi dưỡng
thái độ, tình cảm, tâm hồn. Bởi vậy, việc dạy thơ trữ tình hiện đại cũng sa vào “bệnh
công thức”. Bên cạnh đó, khi phân tích giáo viên thường quá thiên về nội dung hoặc
nghệ thuật mà ít chú ý đến cảm xúc. Cũng nói thêm rằng, nhiều giáo viên khi dạy
học thơ trữ tình còn nói nhiều, thậm chí không thuộc thơ, chưa biết đọc diễn cảm,
câu hỏi phát hiện nhiều hơn câu hỏi cảm thụ. Điều đó khiến cho học sinh ít hứng thú
với giờ học và dần trở nên nghèo nàn cảm xúc và sự nhạy cảm trong tâm hồn. Giáo
viên không tạo cho học sinh sự say mê với ngôn từ trong văn bản một cách độc lập
mà đi theo sự sắp đặt sẵn hướng tìm hiểu mà thầy cô đã chỉ ra. Do vậy ít phát huy
đựơc tính chủ động, tích cực của học sinh. Giờ học không tránh khỏi nhàm chán.
Năm học 2015- 2016

4



Sáng kiến kinh nghiệm
- Kết quả khảo sát thực trạng:
Từ thực trạng trên, đầu năm học 2014 – 2015 khi đựơc phân công giảng
dạy chương trình Ngữ Văn lớp 9, tôi đã tiến hành điều tra cơ bản:
+ Tổng số học sinh khối 9: Bảng 2 – Phụ lục
+ Chất lượng môn Ngữ văn qua khảo sát đầu năm: Bảng 3 – Phụ lục
Sau khi điều tra cơ bản, tôi thấy 2 lớp 9 tôi giảng dạy 9A và 9B, có số
lượng học sinh tương tự nhau, lực học của học sinh trong lớp cũng tương đương.
Các em chưa thực sự hứng thú với môn Ngữ văn, cả hai lớp không có em nào
đạt điểm giỏi, số bài điểm khá chỉ đạt 14,0% trong khi có tới 20,0% bài khảo sát
bị điểm yếu - kém.
3. Các biện pháp để tổ chức thực hiện:
3.1. Gây hứng thú học tập trong giờ dạy học tác phẩm thơ trữ tình :
Đến với thơ trữ tình là đến với thế giới của tâm hồn, tình cảm hình tượng
trong thơ trữ tình là hình tượng tâm tư. Ngoài thông điệp mà tác giả muốn gửi
tới người đọc còn có cả những rung động tinh tế lan toả, thẩm thấu trong tâm
hồn người đọc. Để học sinh có hứng thú đọc tác phẩm, tiếp nhận được những giá
trị trong tác phẩm cũng như có sự tìm tòi phát hiện riêng về tác phẩm, các em
đến với tác phẩm một cách chủ động bằng những nhu cầu tình cảm từ bên trong,
giáo viên phải tác động bằng nhiều hình thức. Mục tiêu của giờ dạy học tác
phẩm thơ trữ tình là làm sao để các em sống với tác phẩm bằng cả tâm hồn
mình, tiếp nhận kiến thức về tác phẩm bằng những rung động sâu xa mãnh liệt
của thế giới nội tâm sâu kín nhất. Để khơi gợi được hứng thú học tập cho các em
khi đến với tác phẩm thơ trữ tình lớp 9, tôi đã thực hiện các biện pháp sau:
3.1.1. Lời giới thiệu vào bài cuốn hút:
Trên thực tế, đây là phần giáo viên ít đầu tư hoặc nếu có thì cũng chỉ qua
loa. Trong phương pháp giảng dạy mới tôi thấy vấn đề này cũng không được đề
cập tới. Theo tôi nghĩ cần phải xem xét lại và có cái nhìn đúng đắn về vấn đề này.
Giờ dạy học văn nói chung và giờ dạy học tác phẩm thơ trữ tình nói riêng sẽ giảm
rất nhiều hứng thú cho người học với cách vào bài như nhiều giáo viên vẫn làm

hiện nay (ngay cả những giáo viên dự thi giáo viên giỏi các cấp), ví dụ như:
“Tiết trước các em đã học bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, hôm nay
chúng ta sẽ tìm hiểu bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương”.
Hoặc cũng có nhiều giáo viên sau khi kiểm tra bài cũ, không giới thiệu gì,
ghi ngay tên bài mới lên bảng và tiến hành tiết học.
Lời vào bài thực chất có ý nghĩa quan trọng trong một giờ dạy học Văn,
đặc biệt là dạy học thơ trữ tình hiện đại. Một lời vào bài cuốn hút với giọng nói
truyền cảm của giáo viên sẽ là khúc dạo đầu tinh tế và hấp đẫn để tạo tâm thế
cho các em bước vào một giờ học tác phẩm.

Năm học 2015- 2016

5


Sáng kiến kinh nghiệm
Muốn làm được điều đó, giáo viên phải thực sự đầu tư cho bước vào bài.
Cũng giống như phần mở bài cho một bài văn, phần vào bài phải giới thiệu được
đôi nét về tác giả, tác phẩm, phong cách nhà thơ. Cũng có thể giới thiệu cho các
em một số bài thơ, câu thơ tiêu biểu của tác giả đó hay của một tác giả khác
cùng chủ để bắt sang bài học. Đồng thời phải đặt bài học trong mối liên hệ với
bài học trước hoặc đặt trong hoàn cảnh lịch sử ra đời của tác phẩm, làm sao gợi
được sự tò mò, thích thú ban đầu của các em đối với bài thơ sẽ học.
Chẳng hạn, khi tôi dạy bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy ở lớp 9A,
tôi vào bài như sau:
“Các em ạ, khi nhắc đến nhà thơ Nguyễn Duy hẳn các em còn nhớ một
bài thơ rất nổi tiếng của ông, bài “Tre Việt Nam”. Rất giản dị, tự nhiên
nhưng cũng đậm chất suy tư triết lí, thơ Nguyễn Duy thường nhẹ nhàng gieo
vào lòng người đọc những ấn tượng và cảm xúc lâu dài, bền vững. Hôm nay
chúng ta cùng đến với một bài thơ khác cũng rất tiêu biểu cho phong cách

thơ Nguyễn Duy, bài “Ánh trăng”.
Hoặc khi dạy học bài “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến
Duật, tôi đã vào bài như sau:
“Dẫu chiến tranh đã đi qua, cuộc kháng chiến chống Mĩ đã khép lại
hơn 30 năm nhưng mỗi khi nhắc lại thời kì oanh liệt ấy trong kí ức của mỗi
người dân Việt nam như sống lại khí thế của tuổi trẻ một thời “Xẻ dọc
Trường Sơn đi cứu nước- Mà lòng phơi phới dậy tương lai”. Trong hơn 20
năm kháng chiến trường kì, tuyến đường Trường Sơn đã trở thành huyết
mạch nối hai miền Nam- Bắc, thành biểu tượng cho sức mạnh tuổi trẻ thời
đại Hồ Chí Minh. Bằng chính sự trải nghiệm của mình cùng đồng đội, Phạm
Tiến Duật đã khắc hoạ chân dung thế hệ trẻ Việt nam qua hình tượng người
chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn khói lửa. “Bài thơ về tiểu đội xe không
kính” tiêu biểu cho phong cách thơ của ông.
Sau mỗi lời vào bài trong mỗi tiết dạy, tôi thấy học sinh đã thực sự chú ý
hơn đến bài mới, không khí lớp học có sự lắng đọng đầy chất văn, cả thầy và trò
đã có tâm thế sẵn sàng bước vào tìm hiểu tác phẩm.
Như vậy, lời vào bài gây được sự tò mò, thích thú đặc biệt là kích thích
được hứng thú học tập của các em sẽ làm cho chất lượng tiết dạy tăng thêm rõ
rệt. Bởi vậy giáo viên cần đầu tư nhiều hơn cho lời vào bài, cần đánh giá đúng
tầm quan trọng và hiệu quả mà nó mang lại.
3.1.2 Hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm:
Đọc diễn cảm cũng có thể gọi là đọc rung động thẩm mĩ bởi đọc diễn cảm
là diễn tả sự cảm thụ chứ không chỉ dừng ở mức thể hiện cảm xúc. Đọc diễn
cảm còn thể hiện cả sự hiểu biết của người đọc, sự tri âm với tác giả. Việc làm
Năm học 2015- 2016

6


Sáng kiến kinh nghiệm

này thường diễn ra vào đầu giờ học, đây là lần đọc quan trọng để mở đầu không
khí của tiết học sao cho thật tự nhiên thoải mái.
Thực chất đọc diễn cảm thuộc nghệ thuật trình diễn, nó có những điểm gần
với ngâm thơ hoặc trình diễn ca khúc. Nếu giáo viên đọc diễn cảm tốt thì sẽ tạo
nên bầu không khí văn chương trong giờ học. Người đọc trong một chừng mực
nào đó có thể thưởng thức giọng đọc và dễ nảy sinh những ấn tượng và cảm xúc
tự nhiên về văn bản. Trên thực tế, học sinh ở nhà đã tiếp xúc với văn bản không
chỉ một lần, việc đọc lại văn bản nếu không tạo được sự khác biệt thì dễ gây nhàm
chán và mất tập trung. Do đó bằng hình thức đọc diễn cảm, giáo viên có thể tạo
cho học sinh những bất ngờ hoặc sự hứng thú có thể khiến các em bỗng nhiên có
cảm nhận mới mẻ về văn bản. Đó là chưa nói nếu như giáo viên yêu cầu học sinh
trình bày thì có thể tạo cơ hội cho các em bộc lộ bản thân. Diễn cảm ở đây hoàn
toàn không phải sự uốn éo đầu lưỡi mà thể hiện những cảm xúc nội tâm của tâm
hồn. Đọc thơ là làm cho thơ vang lên như một bản nhạc, làm cho nó ngân nga
trong hồn người. Với tác phẩm trữ tình, đọc vừa là đồng cảm, vừa là diễn cảm.
Chẳng hạn, một bài thơ như bài “Bếp lửa” của Bằng Việt, nếu việc đọc
không tốt thì khó thu được kết quả. Cả một dòng hoài niệm tuôn chảy theo thời
gian sống dậy trong tâm tưởng nhà thơ, nếu không được tái hiện qua đọc thì khó
thu được cảm xúc. Chính vì vậy, khi dạy học bài thơ này tôi hướng dẫn học sinh
đọc bài trước ở nhà, đọc và hình dung cảnh bếp lửa quê hương có hình ảnh
người bà tần tảo nắng mưa, yêu thương chăm chút cháu, hình ảnh bà luôn gắn
liền với hình ảnh bếp lửa. Đến lớp tôi đọc mẫu cho học sinh đoạn mở đầu, sau
đó hướng dẫn các em đọc và đọc tiếp trong quá trình tìm hiểu bài. Kết hợp việc
đọc của thầy, đọc của trò học sinh đã có cảm nhận bước đầu về bài thơ theo
đúng hướng.
Một ví dụ khác, khi dạy học bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên, việc đọc
đúng giọng điệu của tác phẩm là một thử thách đối với học sinh:
“Con cò bay la
Con cò bay lả
Con cò cổng phủ

Con cò Đồng Đăng
Cò một mình cò phải kiếm lấy ăn
Con có mẹ con chơi rồi lại ngủ”
Giáo viên hướng dẫn đọc đoạn thơ trên sao cho các em cảm nhận được
trong thơ như có nhạc - đó là làn điệu dân ca mượt mà lay động; trong thơ như
có hoạ - có chấp chới cánh cò bay trên nền trời xanh thẳm, trên ruộng đồng xứ
sở quê hương. Đồng thời trong thơ như có cả vị ngọt lành của dòng sữa mẹ
dưỡng nuôi, của tình mẹ yêu thương, che chở, vỗ về.

Năm học 2015- 2016

7


Sáng kiến kinh nghiệm
Như vậy có thể thấy, giáo viên sử dụng thích đáng biện pháp đọc diễn
cảm sẽ tạo cho học sinh những ấn tượng tươi mới, những xúc động mạnh mẽ về
tác phẩm, đồng thời có khả năng kích thích liên tưởng, tưởng tượng tạo sự thâm
nhập thuận lợi vào thế giới nghệ thuật của văn bản. Cho nên đây là biện pháp có
vai trò quan trọng trong việc rèn luyện cảm thụ văn học cho học sinh, gợi sự
hứng thú cho cho các em tiếp nhận văn bản.
3.1.3. Sử dụng đồ dùng trực quan:
Để góp phân gây hứng thú học tập cho học sinh trong dạy học thơ trữ tình
hiện đại, tôi còn sử dụng một số đồ dùng trực quan gắn với đặc trưng của bài
học như tranh ảnh, phim tư liệu, băng đĩa nhạc nhằm tác động trực tiếp đến tri
giác của các em từ đó các em có ấn tượng rõ hơn về văn bản.
Chẳng hạn, khi dạy học bài “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của
phạm Tiến Duật, tôi dùng máy chiếu PowerPoint cho các em xem một đoạn
phim tư liệu ngắn về những đoàn xe vận tải trên tuyến đường Trường Sơn thời
chống Mĩ. Điều này giúp các em hình dung rõ hơn hiện thực chiến tranh và khí

thế của một thời oanh liệt, cũng là giúp các em định hình được cảm xúc khi đến
với bài thơ.
Còn đối với những bài thơ được phổ nhạc như: “Đồng chí” của Chính
Hữu, “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương
và “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm, thì
bên cạnh việc hướng dẫn cho học sinh cách đọc, tôi cho các em nghe ca khúc
qua đài khi mở đầu hoặc kết thúc tiết học. Tôi nhận thấy việc làm này có tác
dụng rõ rệt trong việc gây hứng thú học tập cho học sinh. Công việc này cùng
với đọc diễn cảm có khả năng đánh thức cảm giác về nhịp điệu, giai điệu cho
học sinh và cũng từ đó, các em cảm nhận được những cung bậc cảm xúc của tâm
hồn đang hát lên trong những giai điệu ấy.
3.2. Đặt những câu hỏi cảm thụ, gợi cảm xúc, liên tưởng, tưởng tượng:
Trong cách dạy học Văn mới, hệ thống câu hỏi có tầm quan trọng rất lớn
đối với người giáo viên khi thiết kế bài dạy và thực hiện trên lớp. Đặc biệt khi
dạy học thơ trữ tình, muốn đạt hiệu quả cao, người giáo viên cần phải biết đặt
câu hỏi kích thích sự chủ động tìm tòi, phát hiện của học sinh. Quan trọng hơn là
tạo cơ hội cho học sinh tự bộc lộ những rung cảm và đồng cảm của mình đối với
tác phẩm. Trong quá trình dạy học tác phẩm thơ trữ tình để bồi dưỡng tâm hồn
học sinh, tôi đã chú ý sử dụng những câu hỏi cảm thụ, gợi sự liên tưởng, tưởng
tượng một cách linh hoạt, đúng lúc, đúng chỗ.
Trước hết là những câu hỏi gợi cảm xúc, ở dạng đơn giản nhất là những
câu hỏi trắc nghiệm tình cảm. Những câu hỏi này có thể kiểm tra phản ứng tình
cảm của học sinh, mặt khác nó thúc đẩy sự đồng cảm, khuyến khích các em lắng
nghe tiếng nói của tâm hồn.
Chẳng hạn, sau khi đọc diễn cảm bài thơ “Nói với con”, tôi hỏi các em:
- Em có ấn tượng như thế nào về lời tâm tình của người cha trong bài thơ?
Năm học 2015- 2016

8



Sáng kiến kinh nghiệm
Hay cũng có thể vận dụng những câu hỏi có tính sáng tạo hơn, dựa vào
việc khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng của học sinh mà tạo sự đồng cảm, thể
nghiệm văn bản. Ví dụ để bình giá khổ thơ cuối của bài “Ánh trăng” của
Nguyễn Duy, muốn nhấn mạnh sự day dứt ân hận của một người vừa thức tỉnh,
nhận ra tất cả sự vô tâm bội bạc của chính mình, giáo viên hỏi:
- Em cảm nhận như thế nào về cái “giật mình” của nhân vật trữ tình?
Những câu hỏi dạng này khiến học sinh phải huy động kinh nghiệm của
bản thân để soi sáng cảm xúc của nhân vật trong thơ, từ đó mà có sự đồng cảm
với những cung bậc cảm xúc ấy.
Bên cạnh đó giáo viên có thể dùng những câu hỏi khơi gợi trí tưởng
tượng của học sinh. Văn học dùng ngôn từ làm chất liệu, do tính chất phi vật
thể của ngôn ngữ nên hình tượng của văn học không thể tác động trực tiếp đến
giác quan của người đọc mà chỉ tác động thông qua liên tưởng, tưởng tượng. Bởi
vậy thưởng thức văn học phải huy động trí tưởng tượng. Hình thức tưởng tượng
để làm nên bức tranh đời sống trong văn bản thường được gọi là tưởng tượng tái
tạo, để huy động hình thức tưởng tượng này của học sinh vào việc cảm thụ văn
bản tôi đã đặt các câu hỏi với dạng như sau:
Thí dụ khi dạy bài “Sang thu” của Hữu Thỉnh, tôi hỏi các em:
- Em hình dung thế nào về bức tranh giao mùa từ hạ sang thu được tác
giả thể hiện trong tác phẩm?
Ở đây hoàn toàn không phải việc phân tích bức tranh mà là yêu cầu học
sinh phải có cái nhìn bên trong thầm kín, phải hình dung thấy bức tranh đó trong
đầu mình và trong chừng mực nhất định là phải sống với nó, đồng cảm với nó.
Khả năng tưởng tượng càng cao thì sự thâm nhập vào văn bản càng sâu sắc và
người đọc có xu hướng quên đi thế giới thực tại, sống bằng thế gới tưởng tượng
do văn bản sáng tạo nên.
Nhưng tưởng tượng trong cảm thụ thơ trữ tình còn có hình thức khác, đó
là sự nhập thân vào nhân vật trong thơ trữ tình, làm sống lại trong chính bản

thân mình cảm xúc mà nhân vật trải qua. Với thao tác liên tưởng, học sinh vận
dụng những gì mình đã trải nghiệm, còn hình thức tưởng tượng này, lại yêu cầu
học sinh thể nghiệm những gì chưa hề trải qua. Nó tạo ra sự xúc động, đắm say
mãnh liệt với văn bản. Để huy động hình thức tưởng tượng này đối với học sinh,
giáo viên có thể dùng hình thức đặt câu hỏi kèm theo những gợi ý nhất định.
Chẳng hạn tổ chức tìm hiểu bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu , ở 3 câu
thơ cuối, giáo viên có thể hỏi:
- Theo em, những người lính trong giây phút chờ giặc tới giữa rừng
đêm lạnh giá sẽ có tâm trạng như thế nào? Điều gì đã giúp họ vững tâm hơn?
Như vậy, qua quá trình áp dụng những câu hỏi cảm thụ, liên tưởng tưởng
tượng, tôi nhận thấy học sinh đã chủ động và hứng thú bộc lộ những cảm xúc
của bản thân. Giờ học thơ trữ tình cũng trở nên sinh động và hiệu quả.
Năm học 2015- 2016

9


Sáng kiến kinh nghiệm
3.3. Dùng lời bình đúng thời điểm:
Sau khi cùng học sinh gây dựng cảm xúc bằng việc đọc văn, giáo viên
bước vào phân tích bình giảng tác phẩm. Cảm xúc của người dạy giai đoạn này
gặp nhiều trở ngại. Lớn nhất là giáo viên phải tuân theo một số yêu cầu sư phạm
như: viết bảng, hỏi để gợi suy nghĩ của học sinh, nói chậm cho học sinh ghi
những kiến thức cần thiết…dẫn đến thời gian bị đứt đoạn. Vấn đề đặt ra là: Làm
thế nào để nuôi dưỡng và duy trì cảm xúc trong lòng học sinh? Người giáo viên
Văn trên lớp vận dụng phương pháp trực quan chủ yếu bằng bảng và bằng lời
nói. Ở mức độ nhất định, hai hình thức trực quan này hỗ trợ và bổ sung cho nhau
và bài giảng càng có hiệu quả khi người dạy biết kết hợp chúng một cách có
nghệ thuật. Mỗi hình thức trực quan vốn có một ưu thế riêng: bảng có tác dụng
khắc sâu kiến thức, lời nói có tác dụng kích thích cảm xúc. Nếu quá lạm dụng

trực quan bảng sẽ làm giảm sự cuốn hút của lời nói. Do đó cần chú ý đúng mức
tới trực quan lời nói.
Vấn đề là ở chỗ: giáo viên nói vào lúc nào và nói như thế nào? Nên nhớ
rằng nhiệt tình của giáo viên không thể hiện ở chỗ nói to, nói nhanh, cũng không
chỉ ở tư cách bên ngoài mà ở ngọn lửa nội tâm, ở nhiệt tình tâm huyết của mình.
Dĩ nhiên lời bình của giáo viên phải xác đáng, trong sáng và trôi chảy. Song sức
mạnh của lời nói còn phụ thuộc nhiều vào cảm xúc của người nói. Chỉ khi mang
hơi ấm của lòng người, lời nói mới toả xa, toả sâu và toả sáng. Cảm xúc đó phải
là chân thực xuất phát từ bài thơ. Không có cảm xúc thực sự thì lời nói sẽ giả tạo.
Trong dạy học thơ trữ tình hiện đại lớp 9, tôi thấy việc giáo viên dùng lời
bình hấp dẫn có tác dụng rất lớn trong việc rèn luyện năng lực cảm thụ cho học
sinh. Trước hết nó khiến cho học sinh có những ấn tượng khó phai mờ về vẻ đẹp
văn chương, sau đến biết thẩm định những điểm sáng thẩm mĩ trong văn bản.
Biện pháp này cho phép giáo viên phát huy phẩm chất nghệ sĩ của mình. Và
cũng vì thế kích thích mầm sáng tạo của học sinh, tạo nên sự giao lưu tình cảm
trong giờ Văn. Nhưng tuyệt nhiên giáo viên không lạm dụng biện pháp này bởi
nhiệm vụ chính của giáo viên là tổ chức để học sinh cảm thụ và lĩnh hội giá trị
của văn bản chứ không phải là trổ tài trình diễn để thôi miên học sinh. Do đó,
giáo viên chỉ tung ra lời bình khi cần khắc sâu ấn tượng cho học sinh, tạo nên
những khoái cảm thẩm mĩ. Lời bình vì thế trước hết phải giàu cảm xúc, là sản
phẩm của sự xúc động sâu sắc trước vẻ đẹp của văn bản. Mặt khác nó phải độc
đáo, giáo viên phải chọn cách nói ấn tượng, ưu tiên lối diễn đạt giàu hình ảnh
nhằm tác động mạnh đến học sinh. Hơn nữa giáo viên chọn bình những chi tiết
nào là điểm sáng nghệ thuật của tác phẩm và việc bình giá nó giúp học sinh nắm
được thần thái, linh hồn của văn bản. Tôi muốn nói đến những lời bình có khả
năng đánh thức liên tưởng của học sinh, nó tựa con đường dẫn học sinh thâm
nhập tự nhiên vào thế giới nghệ thuật của văn bản.
Năm học 2015- 2016

10



Sáng kiến kinh nghiệm
Chẳng hạn, khi dạy học bài “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, giáo viên có
thể gợi cho học sinh nhớ đến những cảm xúc khi bất chợt lãng quên đi những kỉ
niệm thân thiết gắn bó với tuổi thơ rồi có khi nào đó bỗng thảng thốt giật mình
hối hận xót xa. Để từ đó cảm nhận được khoảnh khắc “rưng rưng” xúc động như
gặp lại cố nhân khi nhà thơ đối diện với vầng trăng tri kỉ năm nào. Càng đồng
cảm hơn với cái “giật mình” thức tỉnh của một con người tự vấn lương tâm, tự
bước qua lỗi lầm để sống tốt đẹp hơn như sự gạn đục khơi trong trong tâm hồn.
Giáo viên không chỉ bình mà còn hướng dẫn học sinh bình. Nghĩa là phải
gợi lên tình huống của nhân vật, liên hệ với tình huống của bản thân để từ đó có
những lời bình thích đáng, xuất phát từ những rung động sâu xa chân thật trong
tâm hồn. Nó làm cho rung động của nhà văn hiện hình trong tâm hồn các em.
Học sinh nói về nhân vật, về bài thơ mà như đang nói về chính nỗi lòng mình.
Như vậy, từ lời bình của giáo viên đến lời bình của học sinh, vô hình dung
chúng ta đã bồi dưỡng cho các em thái độ sống hay những tình cảm đẹp nảy nở
trong tâm hồn.
Tóm lại: Đối với những tác phẩm thơ trữ tình hiện đại lớp 9, để bồi dưỡng
tâm hồn các em thông qua mỗi bài học, tôi đã vận dụng kết hợp nhiều biện pháp
khác nhau và vận dụng linh hoạt trong giời dạy học sao cho hiệu quả nhất.
Sau đây là một vài hoạt động trong một tiết dạy học cụ thể để minh hoạ
cho sáng kiến của tôi.
* Giáo án minh họa:
Tiết 122 Văn bản

NÓI VỚI CON
(Y Phương)

A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT: Qua bài học, học sinh đạt được.

1. Kiến thức: Giúp hs cảm nhận được tình cảm thắm thiết của cha mẹ đối
với con cái.
- Tình yêu quê hương sâu nặng cùng niềm tự hào với sức sống bền bỉ,
mạnh mẽ của dân tộc mình qua lời nói với con của người cha.
- Bước đầu hiểu được cách diễn tả độc đáo, giàu hình ảnh cụ thể, gợi cảm
trong thơ của tác giả người dân tộc Tày.
2. Kĩ năng: Rèn kĩ năng đọc diễn cảm, tìm hiểu, phân tích thơ tự do, thơ
tiếng dân tộc ít người dịch ra tiếng Việt.
3. Thái độ: Bồi đắp tình cảm gia đình, tình yêu và lòng tự hào về những
truyền thống, bản sắc tốt đẹp của quê hương đất nước.
B. CHUẨN BỊ
- Giáo viên: Soạn giáo án, bảng phụ, chân dung nhà thơ.
- Học sinh: Chuẩn bị bài ở nhà
Năm học 2015- 2016

11


Sáng kiến kinh nghiệm
C.TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
1. Hoạt động khởi động:
* Kiểm tra bài cũ: ? Đọc thuộc lòng và diễn cảm bài thơ “Sang thu”. Nêu
cảm nhận của em về 2 câu thơ :
“Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hang cây đứng tuổi”
* Giới thiệu bài mới:
Tình yêu thương con cái, mong ước thế hệ sau tiếp nối xứng đáng, phát
huy truyền thống của tổ tiên, quê hương là một tình cảm cao đẹp của con người
Việt Nam ta từ bao đời nay. Tình cảm ấy được Y Phương – một tác giả người
dân tộc Tày thể hiện rất chân thực và giản dị qua bài thơ “Nói với con”. Chúng

ta cùng tìm hiểu bài thơ qua tiết học hôm nay.
2. Dạy học bài mới:

Hoạt động của GV và HS

Nội dung cần đạt

I. Tìm hiểu chung
?Dựa vào chú thích trong SGK, nêu 1. Tác giả:
một vài nét về tác giả Y Phương
- Tên thật: Hứa Vĩnh Sước, sinh 1948.
Hs Dựa vào SGK để trả lời.
- Người dân tộc Tày.
- Quê : Trùng Khánh - Cao Bằng.
- Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật,
mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy
giàu hình ảnh của người miền núi.
2. Tác phẩm:
?Nêu thời điểm sáng tác của văn bản a. Hoàn cảnh ra đời: Ra đời sau năm
này?
1975, tiêu biểu cho hồn thơ của Y
GV thuyết trình thêm về hoàn cảnh ra Phương.
đời bài thơ.
?Qua việc chuẩn bị bài ở nhà, em hãy
cho biết bài thơ được sáng tác bằng thể b. Thể thơ: tự do, nhịp, vần theo dòng
thơ nào?
cảm xúc
c. Đọc và tìm hiểu từ khó:
- GV hướng dẫn HS đọc: giọng ấm áp,
yêu thương, tự hào.

- Đọc
- GV đọc mẫu một lần, sau đó gọi HS
đọc lại và nhận xét.
- GV hướng dẫn hs tìm hiểu từ khó.
- Từ khó
?Theo em, căn cứ vào nội dung và d. Bố cục: 2 phần:
Năm học 2015- 2016

12


Sáng kiến kinh nghiệm

Hoạt động của GV và HS

Nội dung cần đạt

mạch cảm xúc, văn bản này có bố cục
như thế nào? Hãy nêu nội dung chính
của mỗi phần đó?
GV gợi dẫn: Bố cục bài thơ thể hiện rõ
ý đồ của nhà thơ. Bố cục đi từ tình
cảm gia đình mà mở rộng ra tình cảm
quê hương, từ kỉ niệm gần gũi mà
nâng lên thành lẽ sống.

+ 11 câu đầu : Cội nguồn sinh dưỡng
của người con.
+Còn lại : Nét đẹp con người quê
hương và mong ước của người cha.


II. Tìm hiểu chi tiết
1. Cội nguồn sinh dưỡng của con:
a. Tình yêu thương của cha mẹ:
- Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.
- Nhịp thơ đều đặn như nhịp chân bước
lên cầu thang, nhịp thơ đặc trưng của
thơ miền núi.
- Cha mẹ yêu thương, chăm chút và vui
mừng đón nhận từng bước đi, tiếng nói
của con trong không khí gia đình đầm
ấm.

GV gọi HS đọc diễn cảm đoạn đầu bài
thơ.
?Nhà thơ đã nói với con về những tình
cảm nào của cội nguồn? Tình cảm ấy
được thể hiện ở những câu thơ nào?
Hs: tình cảm gia đình qua 4 câu đầu.
?Em có nhận xét gì về cách diễn đạt
và nhịp thơ trong 4 câu thơ đầu?
HS: cách nói giàu hình ảnh.
?Từ đó, bốn câu thơ gợi lên hình ảnh
về một gia đình như thế nào?
GV bình: Bốn câu thơ gợi lên hình ảnh
một đứa trẻ đang tập đi từng bước
chập chững đầu tiên trong sự chờ đón,

vui mừng của cha mẹ. Không khí gia
đình tràn đầy hạnh phúc mà ở đó cha
mẹ luôn chăm chút cho con, thể hiện
niềm vui của mình trên từng bước đi
của con. Con lớn lên từng ngày trong
tình yêu thương, nâng đón và mong
chờ của cha mẹ.
b. Sự đùm bọc cuả quê hương:
?Ngoài tình yêu thương của cha mẹ, - Đan lờ cài nan hoa
con còn được nuôi dưỡng trong điều
Vách nhà ken câu hát
kiện nào? Tìm chi tiết nói rõ điều đó ?
Rừng cho hoa
- Hs: Sự đùm bọc của quê hương.
Con đường cho tấm lòng.
?Tác dụng của từ “Cài , ken” trong câu
thơ đó là gì ?
Năm học 2015- 2016

13


Sáng kiến kinh nghiệm

Hoạt động của GV và HS
- Hs: Động từ thể hiện sự gắn bó đoàn
kết.
?Từ “cho” được lặp lại 2 lần có ý
nghĩa gì?
- Hs : Quê hương nuôi dưỡng tâm hồn

lối sống ( nghĩa tình của quê hương ).
?Những chi tiết đó gợi về một cuộc
sống như thế nào?
- Hs : Cuộc sống lao động tươi vui,
thiên nhiên thơ mộng.
- Gv bình: đoạn thơ diễn tả sự trưởng
thành của con trong cuộc sống lao
động giữa thiên nhiên thơ mộng và
nghĩa tình của quê hương. Vẫn bằng
cách diễn đạt mộc mạc, gợi cảm mạnh
mẽ, tác giả đã ngợi ca vẻ đẹp của quê
hương, chính miền quê bình yên thơ
mộng ấy đã chở che và dưỡng nuôi
con cả tâm hồn và lối sống.
- GV chốt ý, nâng cao: Cả đoạn thơ là
những hình ảnh thân thương về sự
đùm bọc và che chở của cha mẹ, của
quê hương đối với người con, đó chính
là cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con
người.
- GV yêu cầu HS đọc diễn cảm đoạn 2.
?Qua lời tâm tình của người cha,
“người đồng mình” đã hiện lên như thế
nào?
?Cha đã kể cho con nghe những đức
tính nào của người đồng mình ? Phân
tích?
- Hs thảo luận. Sau đó cử đại diện các
nhóm trình bày.
- Gv nhận xét, bổ sung, chốt ý bằng

bảng phụ, phân tích một số hình ảnh.

Nội dung cần đạt

- Con được trưởng thành trong cuộc
sống lao động cần cù, vui tươi, giữa
thiên nhiên thơ mộng nghĩa tình.

2. Nét đẹp của con người quê hương
và mong ước của người cha:
a. Những đức tính tốt đẹp của người
đồng mình:
- Cao đo nỗi buồn, xa nuôi chí lớn
Không chê nghèo đói.
→ Sống vất vả mà nghĩa tình, bền bỉ
gắn bó với quê hương dẫu còn cực
nhọc.
- Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh.
→Sống mạnh mẽ, khoáng đạt, nghị lực.

Năm học 2015- 2016

14


Sáng kiến kinh nghiệm

Hoạt động của GV và HS


Nội dung cần đạt

- Thô sơ da thịt mà chẳng hề nhỏ bé.
Tự đục đá kê cao quê hương.
→ Mộc mạc nhưng giàu chí khí, niềm
tin, không nhỏ bé về tâm hồn, ý chí và
mong ước xây dựng quê hương, luôn tự
?Qua đó, người cha muốn nói với con hào về quê hương .
điều gì về “người đồng mình”?
=> Người đồng mình sống tình nghĩa,
thủy chung với quê hương, biết chấp
GV bình: một lần nữa, quê hương lại nhận và vượt qua gian nan thử thách
hiện lên như một nguồn tiếp sức, bằng ý chí và niềm tin mạnh mẽ.
nhưng không phải là sự vỗ về, chăm
bẵm, chở che như thời còn thơ bé. Quê
hương giờ đây cho con một tư thế, một
lẽ sống, một niềm tin, ý chí vững vàng
như đá núi, dài rộng như suối nguồn…
b. Mong ước của cha :
?Khép lại bài thơ, người cha mong - Con phải sống mạnh mẽ, biết chấp
muốn ở con điều gì?
nhận và vượt qua mọi gian nan bằng ý
?Qua những câu thơ trên, tác giả đã sử chí của mình.
dụng những biện pháp nghệ thuật nào?
- Con phải tự hào về truyền thống quê
- Hs: Điệp từ “Sống” 3 lần vang lên thể hương và tin tưởng để vững bước trên
hiện một tâm thế, một bản lĩnh, một đường đời, xây dựng quê hương giàu
dáng đứng của con ngườiViệt nam.
đẹp.
?Nhận xét về giọng điệu thơ và hình

ảnh thơ? (nghe con, con ơi)
?Qua phân tích, em có nhận xét gì về
tình cảm của cha dành cho con? Theo
em, điều lớn nhất mà cha muốn truyền, → NT: Giọng điệu tha thiết, trìu mến,
muốn giáo dục con là gì?
hình ảnh thơ mộc mạc, khái quát. Qua
- Hs: Sống có ý chí, yêu quê hương...
đó người cha muốn trao gửi cho con
GV bình: Nếu phần một bài thơ là niềm tin yêu và khát vọng, mong ước
khúc hát nhẹ nhàng, tươi vui với hoa con tự tin vững bước trên đường đời.
ngan ngát, với tiếng ríu rít nói cười,
với bao nghĩa tình thơm thảo, thì phần
hai là một bản hành khúc vừa thiết
tha, vừa mạnh mẽ mang âm hưởng của
Năm học 2015- 2016

15


Sáng kiến kinh nghiệm

Hoạt động của GV và HS
thác ghềnh, sông suối, mang theo cả
hơi thở, chí khí, niềm tin và sức mạnh
của con người quê hương. Qua đó
người cha muốn trao gửi cho con niềm
tin yêu và khát vọng, mong ước con tự
tin vững bước trên đường đời dài rộng
với chí khí mạnh mẽ và tâm hồn lớn
lao.

?Bài thơ có những đặc sắc nào về
nghệ thuật?
- Hs: Nhắc lại.

?Em hãy khái quát lại nội dung của bài
thơ?
GV bình: “Nói với con” của Y Phương
không chỉ sắp xếp hành trang cho
riêng đứa con yêu quý của mình mà
cũng là hành trang ông muốn trao gửi
cho tất cả những ai đang bước đi trên
đường đời.
- Gv gọi hs đọc ghi nhớ SGK.

Nội dung cần đạt

III. TỔNG KẾT
1. Nghệ thuật:
- Giọng điệu tha thiết, trầm lắng.
- Hình ảnh thơ cụ thể mà có sức khái
quát cao.
- Mạch cảm xúc diễn tiến hợp lí.
- Sử dụng thành ngữ dân gian hay, hình
ảnh ẩn dụ so sánh.
2. Nội dung:
Bài thơ thể hiện tình cảm gia đình ấm
cúng, ca ngợi truyền thống tốt đẹp của
quê hương, gợi nhắc tình yêu quê
hương và ý chí vươn lên trong cuộc
sống.

* Ghi nhớ ( SGK)

D. HƯỚNG DẪN HỌC SINH HỌC BÀI Ở NHÀ
- Học thuộc lòng bài thơ.
- Nắm vững nội dung bài học
- Chuẩn bị bài: Nghĩa tường minh và hàm ý.
E. RÚT KINH NGHIỆM GIỜ DẠY.
**********************************
4. Hiệu quả đạt được.
Sau khi học xong bài thơ “Nói với con”, tôi yêu cầu các em suy nghĩ và
làm bài tập về nhà:

Năm học 2015- 2016

16


Sỏng kin kinh nghim
Bi tp: Trỡnh by nhng suy ngh v cm xỳc ca em v bi th Núi
vi con?
Khi kim tra bi vit ca cỏc em, tụi nhn thy nhiu em ó thc s thm
thu c cỏi hay, cỏi p ca tỏc phm, cm nhn v tỡnh cha con, v p tõm
hn ca ngi ng mỡnh, v tỡnh cm gia ỡnh, quờ hng i vi cuc i ca
mi con ngi.
Sau khi vn dng cỏc bin phỏp trờn õy vo dy hc cỏc tỏc phm th tr
tỡnh hin i lp 9, kim tra nng lc cm th ca hc sinh v thỏi sng,
cm xỳc trong tõm hn cỏc em, tụi ó tin hnh ra bi kim tra Bi Tp lm
vn s 7 nh sau:
Cõu 1(2 im): Vit mt on vn ngn nờu cm nhn ca em v kh th
sau trong bi th Ving lng Bỏc ca Vin Phng:

Bỏc nm trong gic ng bỡnh yờn
Gia mt vng trng sỏng du hin
Vn bit tri xanh l mói mói
M sao nghe núi trong tim
Cõu 2(8 im): Suy ngh ca em v hỡnh tng ngi chin s lỏi xe
trong Bi th v tiu i xe khụng kớnh ca Phm Tin Dut
Kt qu thu c nh sau:
im 9 - 10 im 7 8
im 5 6 im di 5
Lp S s
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
9A
25
03
12,0
16
64,0
5
20,0
01
4,0
9B
25

02
8,0
15
60,0
8
32,0
0
0
Đối chiếu kết qu bi vit s 7 ca hai lớp 9 vi kt qu bi kho sỏt u nm,
tôi nhận thấy kết quả bài kiểm tra s 7 cao hơn hẳn so với kt qu kho sỏt ban
u.
Qua quá trình áp dụng thử nghiệm các biện pháp nhằm bồi dỡng tâm hồn
học sinh thông qua dạy học tác phẩm thơ trữ tình hiện đại lớp 9 và sự nỗ lực
trong suốt quá trình giảng dạy, kết quả chất lợng môn Ngữ Văn khối 9 cuối năm
học 2014 - 2015 nh sau:
Lớp
S
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
ĩ

số
9A
25
02
8,0
12
48,0
10
40,0
01
4,0
9B
25
01
4,0
10
40,0
13
52,0
01
4,0
Tổng 50
03
6,0
22
44,0
23
46,0
02
4,0

Nh vy, vi kt qu cht lng mụn Ng Vn khi 9 cui nm hc
2014 - 2015, so vi kt qu kho sỏt u nm cú nõng lờn rừ rt, iu ú cho
thy ti th nghim ca tụi ó thnh cụng. Bi vy trong nm hc mi
2015 - 2016 ny, tụi trao i vi t chuyờn mụn v kinh nghim qua vic ỏp
Nm hc 2015- 2016

17


Sáng kiến kinh nghiệm
dụng đề tài của năm học trước. Được sự ủng hộ và chỉ đạo của tổ trưởng
chuyên môn, tôi đã tiếp tục vận dụng với cả khối l ớp 9 tôi trực tiếp giảng dạy.
Đến nay kết quả môn Ngữ Văn lớp 9 học kì I cũng rất tiến bộ.
* Kinh nghiệm từ quá trình vận dụng đề tài “Bồi dưỡng tâm hồn học
sinh thông qua dạy học tác phẩm thơ trữ tình hiện đại lớp 9”:
Đề tài của tôi bước đầu có được sự thành công như trên nhờ sự cố gắng
của cả giáo viên và học sinh.
- Về phía học sinh: Đa số các em ngoan, biết vâng lời, ý thức học tập tốt.
Sau khi được cô giáo dặn dò, hướng dẫn cách học bài ở nhà, chuẩn bị bài trước
khi đến lớp, các em chịu khó chủ động học tập theo sự hướng dẫn của cô giáo.
Bởi vậy việc tìm hiểu bài trên lớp diễn ra thuận lợi. Trong giờ học, các em
không còn phụ thuộc sách vở hay tài liệu mà tự tin trình bày cảm nhận, suy nghĩ
của bản thân mình.
- Về phía giáo viên: Có được kết quả như trên, bản thân tôi thực sự tâm
huyết với nghề, tôi luôn trăn trở và suy nghĩ về thiên chức của một cô giáo dạy
Văn: người kĩ sư tâm hồn, người dẫn dắt các em bước vào thế giới của cảm xúc,
của giai điệu thơ ca để làm phong phú vốn sống, vốn hiểu biết và năng lực cảm
thụ của bản thân. Bởi vậy tôi luôn tìm tòi, đọc các tài liệu liên quan đến phương
pháp đổi mới trong dạy học để tìm ra phương pháp dạy học thích hợp với đối
tượng học sinh và đặc trưng bộ môn. Đặc biệt với việc bồi dưỡng tâm hồn học

sinh thông qua dạy học tác phẩm thơ trữ tình hiện đại lớp 9, tôi đã kiên trì học
hỏi rèn luyện khả năng đọc, bình giảng sao cho có thể truyền cảm xúc và thổi
hồn vào bài học, gợi cho học sinh niềm say mê với tiết học. Do bước đầu tôi đã
đạt được mục tiêu khơi gợi sự đồng cảm của các em đối với tác phẩm, phát huy
tính tích cực chủ động của các em, quan trọng hơn các em được tự trải nghiệm
những rung động sâu xa và tinh tế trong tâm hồn.
iii. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Môn Ngữ văn là một môn học mang tính đặc thù, nếu qua một giờ văn mà
tâm hồn học sinh “như không”, trái tim các em không một phút xao động, tình
cảm các em không một lần thổn thức, thì giờ văn đó chưa thể coi là thành công.
Tôi thiết nghĩ, kết quả của đề tài này rất khó có thể cụ thể được bằng những con
số nhưng người trực tiếp đứng lớp và kiểm nghiệm thì nhận thấy rất rõ. Đó là sự
hứng thú học tập của học sinh, là những giờ học vừa sôi nổi vừa lắng đọng đầy
chất văn. Nhiều em thực sự say mê, yêu thích tác phẩm thơ trữ tình. Quan trọng
hơn, sau mỗi bài học, các em lại như được trải nghiệm những tình cảm, cảm xúc

Năm học 2015- 2016

18


Sỏng kin kinh nghim
trong sỏng t ú cỏc em bit sng tt p hn vi tõm hn v tỡnh cm phong
phỳ hn. Ng vn núi riờng, vic dy v hc vỡ th m hiu qu v cú cht
lng hn.
2. Kin ngh:
t hiu qu cao trong mi gi dy hc tỏc phm th tr tỡnh hin i,
tụi cho rng c giỏo viờn v hc sinh phi phi hp thc s nhp nhng: giỏo
viờn hng dn nhit tỡnh, chu ỏo; hc sinh ch ng, tớch cc.

Ngi giỏo viờn dy th phi thc s yờu th, ham thớch v cú k nng
tỡm hiu, phõn tớch, bỡnh giỏ v cú k hoch c th hng dn cỏc em hc tp
cú hiu qu. Bờn cnh ú, ngi giỏo viờn phi khộo lộo tỏc ng vo tỡnh cm
ca hc sinh, khi dy nhng tỡnh cm cú sn trong cỏc em, to iu kin cho
cỏc em nõng cao nng lc cm th v bc l kh nng ca chớnh mỡnh.
Thi lng quy nh trờn lp l bt buc song cha th cho vic dy
hc sõu hn v tỏc phm, bi vy giỏo viờn nờn xin ý kin ch o ca Ban giỏm
hiu nh trng t chc cỏc bui ngoi khoỏ Ng vn theo chuyờn b
sung kin thc v rốn luyn k nng cho hc sinh.
Vi nhng bin phỏp trờn, bc u tụi ó thu c kt qu kh quan.
Nhng do iu kin nghiờn cu cũn hn hp, ti ca tụi chc chn s khụng
trỏnh khi hn ch. Rt mong c s úng gúp ý kin ca cỏc nh chuyờn mụn
v cỏc ng nghip.
Tụi xin chõn thnh cm n!

Xác nhận của thủ trởng đơn vị

Thọ Xuân, ngày 06 tháng 04 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của ngời khác.

Nm hc 2015- 2016

19



×