Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Kinh nghiệm rèn luyện cho học sinh lớp 7 sử dụng thành ngữ trong khi nói và viết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.8 KB, 15 trang )

PHỤ LỤC
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13

NỘI DUNG
Mở đầu
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
Cơ sở lý luận
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Kết luận và kiến nghị.
Tài liệu tham khảo
Danh mục sáng kiến kinh nghiệm đã được xếp loại.


I.MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài:
1

TRANG
2
2
2
3
3
3
3
4
4
12
13
14
15


Giáo sư Đặng Thai Mai đã viết: “Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ
tiếng đẹp, một thứ tiếng hay. Quả thật, tiếng Việt là một thứ tiếng hài hòa về mặt
âm hưởng, thanh điệu mà cũng rất tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu. Nói
thế cũng có nghĩa là nói rằng: Tiếng Việt có đầy đủ khả năng để diễn đạt tình
cảm, tư tưởng của người Việt Nam và để thỏa mãn cho yêu cầu của đời sống văn
hóa nước nhà qua các thời kì lịch sử”. (Sự giàu đẹp của Tiếng Việt – Đặng Thai
Mai- Sách giáo khoa Ngữ văn 7- Tập II- Nhà xuất bản Giáo dục)
Là người Việt Nam ai cũng phải hiểu và biết sử dụng Tiếng Việt để giao
tiếp. Thế mà, hiện nay tình trạng học sinh nhiều em chưa hiểu hết được nghĩa
Tiếng Việt. Có hiểu được tiếng mẹ đẻ thì mới giữ gìn được bản sắc văn hoá dân

tộc mình. Có hiểu rõ, hiểu sâu sắc Tiếng Việt mới tiếp thu tốt được những kiến
thức các môn học trong chương trình quy định nhất là môn Ngữ văn. Đây cũng
là một vấn đề đặt ra không những đối với giáo viên mà trong toàn xã hội cần
phải quan tâm. Vì vậy, giáo viên Ngữ văn đóng một trò quan trọng trong việc
giúp học sinh hiểu đúng nghĩa Tiếng Việt.
Trong kho tàng phong phú của dân tộc ta về ngôn ngữ có một bộ phận
không thể thiếu được, nó gắn bó với con người với cha ông ta từ xa xưa, phản
ánh đời sống văn hoá tinh thần. Đó là thành ngữ. Đây chính là lời ăn tiếng nói sử
dụng hàng ngày của nhân dân ta. Nó là tinh hoa văn hoá dân tộc. Đây là cách nói
bằng hình tượng, lời ít nhưng ý nhiều, là cách giao tiếp rất hiệu quả mà ông cha
ta đã sử dụng hàng nghìn đời nay. Vì vậy là người Việt Nam chúng ta phải hiểu
được vốn ngôn ngữ vô cùng quý giá này.
Trong chương trình môn Ngữ Văn THCS, thành ngữ được đưa vào
chương trình Ngữ Văn lớp 7, nhằm cung cấp vốn thành ngữ cho học sinh. Tuy
nhiên hiện nay đại bộ phận học sinh nhất là học sinh trung học cơ sở vốn thành
ngữ tiếng Việt rất ít, rất nghèo nàn. Ngoài những thành ngữ cung cấp trong sách
giáo khoa, học sinh không có thêm vốn thành ngữ khác. Không những thế, học
sinh còn nhớ không chính xác và hiểu không đúng ý nghĩa của thành ngữ. Chính
vì vậy việc trang bị cho các em một vốn thành ngữ nhất định để giúp cho việc
tiếp thu kiến thức nói chung và kiến thức Tiếng Việt nói riêng là một điều rất cần
thiết.
Từ lý do trên, bản thân là một giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn trong quá
trình giảng dạy tôi đã tìm tòi thử nghiệm và rút ra được một vài kinh nghiệm:
“Kinh nghiệm rèn luyện cho sinh lớp 7 sử dụng thành ngữ trong khi nói và
viết.”.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Giúp học sinh nắm chắc thành ngữ, hiểu được ý nghĩa của thành ngữ,
vận dụng thành thạo thành ngữ khi nói cũng như tạo lập văn bản.
- Rèn luyện học sinh vận dụng thành ngữ, sử dụng thành thạo Tiếng Việt
trong học tập cũng như giao tiếp.

- Góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học phân môn tiếng Việt
theo quan điểm tích cực, tích hợp.
3.Đối tượng nghiên cứu:
2


- Học sinh lớp 7 trường THCS Lê Quý Đôn
4. Phương pháp nghiên cứu:
a. Phương pháp thống kê :
Căn cứ vào những tư liệu đã thu thập được tại trường THCS Lê Quý Đôn,
kết hợp với những hướng dẫn đã được tham khảo qua sách, tài liệu tham khảo.
Tôi tiến hành thống kê những yếu tố cơ bản về thành ngữ trong chương trình
sách giáo khoa THCS. Từ đó có căn cứ để đề xuất một số biện pháp khi tổ chức
dạy học phân môn này.
b. Phương pháp điều tra.
Sau khi đã thống kê nội dung về thành ngữ trong chương trình sách giáo
khoa THCS, tôi tiến hành điều tra để lấy một số ý kiến của những giáo viên có
kinh nghiệm giảng dạy về thành ngữ trong chương trình sách giáo khoa THCS
để nghiên cứu và lấy căn cứ khi trình bày nội dung.
c.Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
Giáo viên nghiên cứu kiến thức về thành ngữ: khái niệm, chức năng, tác
dụng. Trên cơ sở đó, giáo viên đưa ra các phương pháp học sinh vận dụng thành
ngữ khi nói và viết.
d. Phương pháp tổng hợp:
Sau khi đã có những căn cứ từ thống kê tài liệu và ý kiến của giáo viên, tôi
tiến hành phân tích, tổng hợp các tư liệu về thành ngữ trong môn Ngữ văn
THCS để từ đó tiến hành kết luận và nêu một số ý kiến trong nội dung nghiên
cứu này.
Ngoài ra tôi còn sử dụng thêm một số phương pháp nghiên cứu khác để
thực hiện hoàn thành nội dung của đề tài.

II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN:
1. Cơ sở lý luận:
“Thành ngữ là một loại tổ hợp từ (cụm từ) cố định. Nói như vậy có nghĩa
là các từ trong thành ngữ khó thay đổi, thêm bớt, vị trí của các từ cũng không
thay đổi. Thành ngữ là một vật liệu định hình có sẵn trong kho tàng từ ngữ, dùng
để cấu tạo câu. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp trong sử dụng người ta có
thể thay đổi chút ít kết cấu của thành ngữ.
Có những thành ngữ mà nghĩa của nó có thể dễ dàng suy ra, trực tiếp từ
nghĩa đen, nghĩa bề mặt của các từ tạo nên nó như: bùn lầy nước đọng, năm
châu bốn biển, mẹ góa con côi..nhưng phần lớn thành ngữ mang nghĩa hàm ẩn
như: ruột để ngoài da, đi guốc trong bụng, rán sành ra mỡ… Học thành ngữ
quan trọng là để biết các nghĩa hàm ẩn, để nắm được các mối quan hệ liên tưởng
giữa nghĩa bề mặt và nghĩa hàm ẩn, giữa hình tượng cụ thể và nghĩa hàm ẩn.
Chưa nắm được nghĩa hàm ẩn là chưa nắm được cái thần của thành ngữ.
Giá trị của thành ngữ là ngắn gọn, hàm súc và có tính hình tượng cao.
Ngắn gọn, hàm súc thì kiệm lời mà nhiều ý, có tính hình tượng cao thì lời nói
sinh động, gây ấn tượng mạnh mẽ, tăng thêm hiệu quả giao tiếp”. [1]
Vì vậy, dạy thành ngữ để giúp học sinh thực sự cảm được cái hay, cái đẹp,
sự tinh tế, độc đáo của tiếng mẹ đẻ. Đồng thời, học sinh thấy được vốn ngôn ngữ
3


dồi dào và phong phú của ông cha ta; bồi dưỡng cho học sinh năng lực sử dụng
tiếng Việt đúng và hay; chú trọng rèn luyện cho học sinh cách diễn đạt giản dị,
trong sáng, chính xác. Căn cứ vào Luật Giáo dục (12/1998), Điều 242 ghi
“Phương pháp giáo dục phổ thông phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, rèn luyện kĩ năng
vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tính cảm đem lại niềm vui, hứng
thú học tập cho từng học sinh”. Dạy tốt thành ngữ sẽ giúp cho lời ăn, tiếng nói
của các em sinh động, hấp dẫn; đồng thời các em sẽ vận dụng được thành ngữ

trong việc tạo lập văn bản tự sự, miêu tả, biểu cảm và nghị luận.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
a. Thực trạng chung về học sinh:
- Theo xu thế của thời đại, học sinh được phụ huynh định hướng ngay từ
khi còn nhỏ học theo ban tự nhiên: Toán, Lý, Hóa hoặc Anh, do vậy môn Ngữ
văn không được học sinh yêu thích, các em chưa dành nhiều thời gian cho môn
học, chưa hứng thú với bộ môn này.
- Việc học Tiếng Việt còn xem nhẹ, hời hợt, đặc biệt trong cuộc sống sôi
động, hiện đại, học sinh không quan tâm và ít sử dụng thành ngữ coi đó là “vốn
cổ”. Vốn thành ngữ của học sinh quá ít, học sinh tìm được nhiều nhất cũng chỉ
được 15 thành ngữ, có học sinh chỉ tìm được có 3 thành ngữ. Như vậy số thành
ngữ mà học sinh có không đủ dùng trong giao tiếp hàng ngày chưa nói đến việc
tạo lập văn bản.
- Học sinh nắm chưa chắc về khái niệm thành ngữ, chưa phân biệt được
thành ngữ và tục ngữ.
- Sự lí giải nghĩa của thành ngữ không đầy đủ, không thoả mãn không
những thế có học sinh còn không hiểu nghĩa của thành ngữ kể cả nghĩa đen.
Hoặc đa số học sinh chưa hiểu được nghĩa hàm ẩn của thành ngữ.
- Sự vận dụng thành ngữ để giao tiếp trong cuộc sống còn quá yếu khiến
cho ngôn ngữ giao tiếp của các em khô khan, thiếu tính hình tượng, biểu cảm.
b. Thực trạng về rèn luyện kỹ năng vận dụng thành ngữ trong khi nói và
viết của giáo viên trường THCS Lê Quý Đôn:
- Thành ngữ có giá trị cao trong văn chương cũng như lời ăn tiếng nói
hàng ngày. Nhưng trong chương trình sách giáo khoa THCS bài dạy về thành
ngữ chiếm thời lượng rất ít (chỉ có một tiết- tiết 48).
- Tài liệu viết về phương pháp dạy thành ngữ cho học sinh còn chưa
nhiều, chưa đi sâu.
- Trong quá trình giảng dạy ở trường THCS Lê Quý Đôn, Thị xã Bỉm
Sơn, tôi nhận thấy: Giáo viên chưa hứng thú và nghiên cứu sâu để dạy thành
ngữ. Trong bài “Thành ngữ”(Tiết 48), giáo viên chủ yếu cho học sinh hiểu được

thành ngữ và nhận diện thành ngữ. Giáo viên chưa chú trọng, quan tâm rèn
luyện sử dụng thành ngữ cho học sinh. Sau khi học xong bài học “Thành ngữ”,
học sinh ít vận dụng được thành ngữ khi nói và viết. Học mà không vận dụng thì
chẳng khác nào “Nước đổ lá khoai”.
4


- Bên cạnh đó, các hoạt động của tổ chức Đoàn- Đội chưa tạo ra các sân
chơi tạo hứng thú cho học sinh học tập sáng tạo và tự giác cho bộ môn Ngữ văn.
Chính vì vậy, việc rèn luyện kĩ năng vận dụng thành ngữ khi nói và khi viết là
một việc làm cần thiết của giáo viên dạy Ngữ văn.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
Để thực hiện việc trang bị cho học sinh vốn thành ngữ cần thiết cũng như
việc sử dụng vốn thành ngữ đó vào việc giao tiếp tôi đã phải sử dụng nhiều
phương pháp phối kết hợp như phương pháp cung cấp cho học sinh số vốn
thành ngữ nhất định, hướng dẫn học sinh tìm hiểu nghĩa của các thành ngữ,
hướng dẫn học sinh vận dụng thành ngữ khi nói cũng như tạo lập văn bản
vv..trong đó có phương pháp điều tra đối thoại là những phương pháp chủ yếu
được áp dụng.
3.1. Giúp học sinh phân biệt thành ngữ và tục ngữ:
Có nhiều cách để phân sự biệt khác nhau giữa tục ngữ và thành ngữ, phổ
thông nhất chúng ta căn cứ vào nội dung và hình thức của tục ngữ và thành ngữ.
* Về nội dung:
Tục ngữ diễn đạt trọn vẹn một ý, một nhận xét, một sự phê phán, một kinh
nghiệm, một tâm lí, một phong tục tập quán, một chân lí phổ biến. Tục ngữ đúc
kết những kinh nghiệm nhằm giáo dục khuyên răn, hướng dẫn con người trong
quan hệ tự nhiên, xã hội và tư duy, là hiện tượng rõ nét về ý thức xã hội.
Do nội dung mà không ít tục ngữ sâu sắc, có lúc mang tính triết lí, phải trải
kinh nghiệm sống, hiểu biết thưc tiễn hoặc phải nghiên cứu chu đáo mới hiểu hết
nội dung của nó.

Thành ngữ, riêng nó, không diễn đạt một ý trọn vẹn mặc dù các khía cạnh
của nó có những sắc thái phong phú trong kết hợp với các ý khác. Do nội dung
mà thành ngữ nói chung dễ hiểu.
* Về hình thức:
Tục ngữ thường là câu nói ngắn gọn, có vần hoặc không có vần, có nhịp
điệu hoặc không có nhịp điệu. Với những câu này, học sinh dễ nhầm với thành
ngữ.
* Về ngữ pháp: Tục ngữ là một câu, một mệnh đề hoàn chỉnh. Ta nói:
một câu tục ngữ là vì vậy. Thành ngữ là hiện tượng, hình thức phát triển của từ
ngữ, là từ ghép, từ láy, là cụm cấu tạo thành lời nói hay, văn vẻ màu mè... Thành
ngữ là một hiện tượng ngữ ngôn. Ta nói thành ngữ (chứ không bao giờ nói “ câu
thành ngữ”- như có nhà nghiên cứu đã nhầm). Điều này phân biệt tục ngữ và
thành ngữ về mặt ngữ pháp.
Kết luận chung:
- Tục ngữ là một hiện tượng về ý thức xã hội, hình thành do nội dung mà
nó chứa đựng.
- Thành ngữ là một hiện tượng ngôn ngữ hình thành do hình thức lời nói,
cách diễn đạt.
(Nguyễn Xuân Lạc, Văn học dân gian Việt Nam trong nhà trường- NXB
Giáo dục)
5


Ví dụ: Hãy chia các dòng sau thành hai cột thành ngữ và tục ngữ:
a. An cư lạc nghiệp
b. Ác giả, ác báo
c. Nghiêng nước nghiêng thành
d. Người sống đống vàng
e. Lừ đừ như ông từ vào đền
g. Áo gấm đi đêm

h.Tấc đất tấc vàng
i. Ở hiền gặp lành
k. Gần nhà, xa ngõ.
* Lưu ý: Thành ngữ trong các trường hợp trên là: c,e, g,k. Còn lại: a,b,d,h,i là
tục ngữ.
3.2. Giúp học sinh có vốn kiến thức về thành ngữ.
Trước hết là giáo viên dạy ngữ văn phải có nhiệm vụ cung cấp trang bị
cho học sinh một vốn kiến thức về thành ngữ nhất định thông qua các tiết học
trên lớp. Ở đây người thầy phải luôn có ý thức lồng ghép trong việc giảng dạy
bằng cách luôn có ý thức sử dụng thành ngữ trong khi giao tiếp với học sinh
cũng như trong khi giảng dạy.
Ví dụ khi khuyên học sinh có ý thức tích luỹ dần kiến thức tôi đã sử dụng
thành ngữ “Các em không nên nóng vội muốn mình có đủ ngay những thành
ngữ mà cần có thời gian nhất định “Mưa dầm thấm lâu”, “Kiến tha lâu cũng đầy
tổ” hay khi có nhiều ý kiến trái ngược nhau về một vấn đề trong lớp tôi dùng
câu “Bách nhân bách khẩu “ vv...Cứ như vậy học sinh mỗi ngày được trang bị
dần những thành ngữ chẳng bao lâu vốn thành ngữ của các em đã khá hẳn lên.
Mặt khác tôi còn cho học sinh sưu tầm thành ngữ theo các chủ đề như Nông
nghiệp, Nhà trường, Quân đội, Gia đình và những thành ngữ thể hiện cách đối
nhân xử thế vv...
Ngoài việc cung cấp vốn kiến thức về thành ngữ trong các tiết học, người
thầy giáo còn phải hướng đẫn học sinh sưu tầm các thành ngữ trong dân gian,
trong sách vở đặc biệt là sưu tầm trong các tác phẩm văn học .
Để thực hiện được điều này, tôi đã giúp học sinh có thói quen sưu tầm
thành ngữ trong sách vở, trong giao tiếp với mọi người và trong đời sống xã
hội.Tôi đã hướng đẫn học sinh sưu tầm các thành ngữ được sử dụng trong giao
tiếp hàng ngày của ông bà, bố mẹ, của nhân dân .
Ví dụ “Gãi đúng chỗ ngứa”,“Gà tức nhau tiếng gáy”, “Gan cóc tía”, “Gạo
chợ nước sông”, “Gạn đục khơi trong”,“Giàu nứt đố đổ vách”,“Kính lão đắc
thọ”, “Mặt se mày sém” vv...

Đồng thời xem thành ngữ đó được sử dụng như thế nào qua đó để học
cách sử dụng.
Để có vốn thành ngữ tốt ngoài việc sưu tầm trong giao tiếp hàng ngày tôi
còn hướng dẫn học học sinh cần tiếp xúc với một số tác phẩm văn học có giá trị
lớn: Thơ Hồ xuân Hương, “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, “Tắt Đèn” của Ngô
Tất Tố, “Lão Hạc” của Nam Cao, Truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, và đặc
6


biệt là tìm đọc và tích luỹ qua cuốn “Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam”
của Nhà xuất bản Văn hoá. Đây là một kho thành ngữ đồ sộ gồm 8000 thành
ngữ Tiếng Việt và thành ngữ gốc Hán đã được các tác giả của Viện ngôn ngữ
sưu tầm sẽ giúp các em học sinh tìm tòi tích luỹ tốt.
Qua đó, học sinh không những có thêm nhiều vốn thành ngữ mà còn có
nhiều nội dung sử dụng thành ngữ ở nhiều trường hợp, nhiều đối tượng khác
nhau.
3.3. Giúp học sinh hiểu được ý nghĩa và giá trị của thành ngữ.
Sau khi đã có một vốn thành ngữ nhất định tôi tiến hành hướng dẫn học
sinh nắm bắt khái niệm, hiểu được giá trị của thành ngữ. Mỗi thành ngữ đều có
ít nhất là hai tầng ngữ nghĩa đó là nghĩa gốc hay còn gọi là nghĩa đen và
nghĩa chuyển hay còn gọi là nghĩa bóng. Đây cũng chính là cái hay, cái đẹp của
thành ngữ.
Giúp học sinh thấy được cái hay cái đẹp trong thành ngữ tiếng Việt là một
nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Bởi vì có hiểu được ý nghĩa của thành ngữ thì học
sinh mới biết giá trị của thành ngữ và biết sử dụng nó trong hoàn cảnh nào.Từ
trước tới nay học sinh có thói quen, không biết sử dụng thành ngữ hoặc sử dụng
không đúng thành ngữ đều xuất phát từ nguyên nhân không hiểu nghĩa của
thành ngữ nên sợ dùng sai.
Thành ngữ tiếng việt mang tính giáo dục thẩm mĩ cao. Mọi người có thể
tìm thấy trong thành ngữ cái đẹp, cái xấu, cái ác, cái thiện, cái hài... gắn liền với

lối sống, tính cách của dân tộc Việt Nam.
Để hiểu nghĩa bóng trong thành ngữ, trước hết giáo viên phải hướng dẫn
học sinh tìm hiểu nghĩa của thành ngữ. Nếu cứ hướng dẫn học sinh tìm hiểu
ngay nghĩa của cả thành ngữ thì học sinh rất khó tiếp nhận vì vậy tôi đã tiến
hành cho học sinh tìm hiểu về nghĩa của từng yếu tố trong thành ngữ đó.
Ví dụ: Thành ngữ “Voi điếc dạn súng”. Để tìm hiểu thành ngữ này tôi đã cho
học sinh tìm hiểu từng yếu tố :
-Voi : loài vật to lớn
-Điếc : Loại bệnh mất cảm giác âm thanh
-Dạn : Quen, coi thường nguy hiểm
-Súng: Loại vũ khí bắn bằng đạn phát ra tiếng nổ.
Từ việc hiểu được nghĩa của từng yếu tố đó, học sinh sẽ dễ dàng nhận biết
được định nghĩa bao quát, nghĩa đen của thành ngữ.
Sau khi học sinh đã nắm được nghĩa đen giáo viên gợi mở cho học sinh để
hiểu được nghĩa bóng, nghĩa chuyển của thành ngữ đó.
Voi : Chỉ người cao thượng.
Điếc: Không để ý tới
Dạn súng: Không sợ những lời châm chọc
Vậy nghĩa của thành ngữ này là: Người cao thượng không sợ gì những lời
châm chọc của kẻ hèn mọn.
Hoặc thành ngữ: “Châu chấu đá voi”. Để tìm hiểu thành ngữ này, tôi cũng
lần lượt cho học sinh tìm hiểu từng yếu tố.
7


Về nghĩa đen:
Châu chấu: bọ cánh thẳng, đầu tròn, sống thành bầy, đàn, nhảy giỏi.
Voi: con vật to lớn.
Từ đó, học sinh sẽ nắm được nghĩa bóng: Kẻ sức yếu nhưng có ý chí kiên
quyết chống lại kẻ mạnh. Sự đối địch không cân xứng, không cân sức.

Giáo viên tổ chức cho học sinh luyện tập để nhận diện được thành ngữ,
nghĩa của thành ngữ và giá trị của thành ngữ trong tác phẩm văn chương:
Bài tập 1 (SGK Ngữ văn 7- Tập I) Tìm và giải thích nghĩa của các thành
ngữ trong những câu sau:
a) Đến ngày lễ Tiên Vương, các lang mang sơn hào hải vị, nem công chả
phượng tới, chẳng thiếu thứ gì. (Bánh chưng, bánh giầy)
b) Một hôm, có người hàng rượu tên là Lí Thông đi qua đó. Thấy Thạch
Sanh gánh về một gánh củi lớn, hắn nghĩ bụng: "Người này khoẻ như voi. Nó về
ở cùng thì lợi biết bao nhiêu". Lí Thông lân la gợi chuyện, rồi gạ cùng Thạch
Sanh kết nghĩa anh em. Sớm mồ côi cha mẹ, tứ cố vô thân, nay có người săn sóc
đến mình, Thạch Sanh cảm động, vui vẻ nhận lời.
(Thạch Sanh)
c)
Chốc đà mười mấy năm trời,
Còn ra khi đã da mồi tóc sương.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Gợi ý: Tìm và tra Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt để nắm được
nghĩa cũng như cách dùng các thành ngữ. Các thành ngữ: sơn hào hải vị, nem
công chả phượng, khoẻ như voi, tứ cố vô thân, da mồi tóc sương.
Bài tập 3 (SGK Ngữ văn 7- Tập I). Điền vào chỗ trống các yếu tố để khôi
phục các thành ngữ:
(1) Lời ... tiếng nói
(2) Một nắng hai ...
(3) Ngày lành tháng ...
(4) No cơm ấm ...
(5) Bách ... bách thắng
(6) Sinh ... lập nghiệp
Gợi ý: (1) - ăn; (2) - sương; (3) - tốt; (4) - cật; (5) - chiến; (6) - cơ.
Đồng thời giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu vai trò, tác dụng của
thành ngữ. Thành ngữ có tính hàm súc và giá trị biểu cảm cao. Trong bài thơ

“Bánh trôi nước” (Hồ xuân Hương), nhà thơ có viết:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi, ba chìm với nước non.
Học sinh sẽ nhận ra thành ngữ trong hai câu thơ là “Bảy nổi ba chìm”.
Thành ngữ trong câu này diễn tả sự chìm nổi, bấp bênh của một sự vật. Qua câu
thành ngữ quen thuộc của dân gian, tác giả Hồ Xuân Hương đã làm rõ được
cuộc đời, số phận chìm nổi, bấp bênh, luôn phải đối mặt với sóng gió của cuộc
đời, bị ách trị của người phụ nữ. Đó là một cuộc đời đau khổ, đầy gian nan.
Đồng thời, nhà thơ thể hiện sự đồng cảm, cảm thông với số phận của họ. Nhờ
8


thành ngữ này đã chứng tỏ được nữ sĩ Hồ Xuân Hương là một nhà thơ đỉnh cao
của nền văn học trung đại Việt Nam.
3.4. Hướng dẫn học sinh vận dụng thành ngữ khi nói và tạo lập văn bản:
Sau khi học sinh đã có vốn thành ngữ và hiểu rõ nghĩa của các thành ngữ,
tôi tiếp tục hướng dẫn các em vận dụng vào trong khi nói và tạo lập văn bản.
Giúp học sinh sau khi đã nắm được thành ngữ và nghĩa của nó sẽ ứng
dụng vào việc tạo văn bản và sử dụng thành ngữ trong đời sống giao tiếp hàng
ngày. Đó chính là việc thực hiện “Học đi đôi với hành”. Đây là một bước rất
quan trọng. Bởi vì có vốn thành ngữ mà không đem vào sử dụng cũng như
không có, đồng thời nếu không được sử dụng hoặc không biết sử dụng thì vốn
kiến thức đó cũng dần dần bị mai một và đến một ngày nào đó sẽ không còn.
Chính vì vậy người thầy phải hết sức coi trọng bước này.
a. Trước hết là hướng dẫn học sinh ứng dụng thành ngữ vào việc tạo văn bản
Đây là một vấn đề đặt ra nếu biết sử dụng thành ngữ vào việc tạo văn bản
là một vấn đề cần thiết vì nó ngắn gọn, xúc tích và mang tính nghệ thuật cao.
Sử dụng thành ngữ vào việc tạo văn bản sẽ làm cho văn bản trở lên sinh
động hơn, có hồn hơn. Người đọc dễ nhớ, dễ thuộc.
Để thực hiện được điều này, tôi đã cho học sinh viết những đoạn văn có

sử dụng các thành ngữ theo các chủ đề. Từ đó tạo cho học sinh thói quen sử
dụng thành ngữ khi viết văn.
Ví dụ:
Sân trường em trong giờ ra chơi rất náo nhiệt . Em hãy viết một đoạn văn
có sử dụng các thành ngữ để tả lại cảnh đó.
Từ yêu cầu này học sinh có thể sử dụng các thành ngữ như “Vui như trẩy
hội” “Vui như tết “ để tả không khí trên sân trường hoặc các thành ngữ “Mồm
năm miệng mười “Chen vai sát cánh”, “Chân guốc chân dép “ hay “ Ba bề bốn
bên”…
Hoặc giáo viên tổ chức cho học sinh viết đoạn văn: Phát biểu cảm nghĩ
của em về người thân. Trong đó có có sử dụng thành ngữ. Các em đã vận dụng
được một số thành ngữ để nói về người thân như: một nắng hai sương, thắt lưng
buộc bụng, an cư lạc nghiệp, da mồi tóc sương, chân lấm tay bùn…
“À ơi, cái bống là cái bống cái bống bang, khéo sậy khéo sàng cho mẹ nấu
cơm…”. Mỗi khi nghe câu hát ngọt ngào và trìu mến ấy, tôi lại nhớ về bà tôi. Bà
tôi- người phụ nữ vất vả “một nắng, hai sương” với công việc đồng áng. Bà là
người đã nuôi dưỡng tôi khôn lớn, trưởng thành, là người mà tôi yêu thương và
mang ơn, kính trọng suốt cả cuộc đời. Tôi yêu bà! Bà luôn chăm sóc, bảo vệ tôi
khỏi mọi sự đau khổ, tổn thương. Người luôn an ủi, chia sẻ những niềm vui, nỗi
buồn của tôi. Ngày bà ra đi là ngày đau đớn nhất trong đời tôi. Lúc bà “nhắm
mắt xuôi tay”, tôi như đứt từng khúc ruột. Tôi đã tự hứa với bà: tôi phải đứng
lên, bước tiếp trên con đường đời dù bà không còn ở bên tôi nữa”.
(Bài làm của em Trần Mai Dung- Học sinh lớp 7A)
b. Hướng dẫn học sinh vận dụng thành ngữ vào thực tế cuộc sống:
9


Không chỉ hướng dẫn học sinh vận dụng thành ngữ vào tạo văn bản mà
tôi còn tiến hành giúp học sinh vận dụng thành ngữ tiếng Việt vào thực tế đời
sống vốn phong phú đa dạng, có như vậy thì việc sử dụng thành ngữ của học

sinh không những được sử dụng trong học tập mà còn được sử dụng trong cuộc
sống thường nhật chính vì lẽ đó mà vốn ngôn ngữ của các em ngày càng được
bổ sung .
Muốn làm tốt được điều này tôi đã cho các em được tham gia trải nghiệm
tiếp xúc với nhiều đối tượng. Bởi vì càng tiếp xúc được nhiều đối tượng các em
càng có nhiều điều kiện để sử dụng ngôn ngữ của mình đồng thời tạo ra thói
quen sử dụng thành ngữ. Qua đó mà vốn thành ngữ của học sinh ngày càng được
củng cố và khắc sâu.
Cụ thể là tôi đã hướng dẫn các em nếu đối tượng giao tiếp là nông dân có
thể dùng những thành ngữ gần gũi với nông nghiệp như việc cày bừa đồng áng.
Ví dụ: “Đầu tắt mặt tối”: Nghĩa của thành ngữ là làm lụng quần quận suốt ngày.
“Bán mặt cho đất bán lưng cho giời”: Nghĩa của thành ngữ là làm ruộng
vất vả cực nhọc.
Hoặc thành ngữ: “Ngày rộng tháng dài”: Chỉ thời gian nhiều, nhàn rỗi.
Hay “Bóc áo tháo cày”: chỉ việc bóc lột hoặc tìm cách chèn ép ăn cướp ăn
chặn của người khác.
Nếu đối tượng giao tiếp là bộ đội có thể sử dụng những thành ngữ như:
“Chân cứng đá mềm”: chỉ trí bền lực khoẻ vượt qua mọi gian khổ hiểm
nguy.
“Băng rừng vượt suối”: chỉ sự quyết tâm vượt qua gian khó nguy hiểm.
“Bom rơi đạn nổ”: chỉ sự nguy hiểm dễ bị chết chóc vì có chiến sự.
“Tiến thoái lưỡng nan”: chỉ tình thế tiến hay lùi cũng khó.
Nếu đối tượng giao tiếp là học sinh có thể sử dụng những thành ngữ :
“Bia đá tượng đồng”: chỉ người thi cử đỗ đạt được mọi người ngưỡng mộ
ghi nhớ.
Thành ngữ “Vinh quy bái tổ”: chỉ người được vua ban cờ biểu mũ áo sau
khi thi đậu tiến sĩ trở về cúng gia tiên trong sự đón rước của dân làng.
Hay “Học một biết mười” nghĩa là thông minh đầu óc sáng tạo,
“Học như vẹt” học thuộc làu mà không hiểu gì như con vẹt bắt chước nói
theo người mà không hiểu gì.vv...

Trong giao tiếp với những người thân trong gia đình hướng dẫn học sinh
sử dụng những thành ngữ
Khi giao tiếp với cha mẹ: Sử dụng thành ngữ “Thắt lưng buộc bụng”
nghĩa là tiết kiệm dè xẻn trong chi tiêu chịu đựng đói khổ để giành dụm tiền làm
việc gì đó. Giao tiếp với anh em có thể sử dụng những thành ngữ: “Nhường cơm
sẻ áo”, chỉ sự đùm bọc giúp đỡ nhường nhịn san sẻ cho nhau trong khó khăn
hoạn nạn.
Giao tiếp với ông bà tổ tiên có thể sử dụng thành ngữ “Ba đời bảy họ”
nghĩa là cả dòng giống họ hàng từ đời này sang đời khác.
Hay “Kẻ kính người nhường” nghĩa là được kính trọng vị nể.
10


Hoặc giáo viên có thể đặt ra các tình huống, sau đó yêu cầu học sinh tìm
ra các thành ngữ phù hợp:
-Một người lao động vất vả cực nhọc ngoài đồng ruộng mà vẫn không đủ
ăn. -> Học sinh học tìm được thành ngữ: Bán mặt cho đất bán lưng cho trời.
- Hai bên tương đương nhau, không thua kém nhau? ->Học sinh tìm
được thành ngữ: Kẻ mười, người chín.
- Hiểu rõ tình hình, tài sức của người và của mình để xử sự đúng mức.
->Học sinh: Biết người, biết ta.
3.5. Tổ chức cho học sinh hoạt động ngoại khóa:
Dưới hình thức là các cuộc thi về môn Ngữ văn ở nhiều nội dung đa dạng
như đố vui, triển lãm, trò chơi, kịch vui… Nội dung các hoạt động mang tính
tìm tòi, chứa đựng các yếu tố bất ngờ, vui nhộn. Học sinh được kiểm tra đánh
giá, củng cố và tổng kết những kiến thức đã học. Không những thế, hoạt động
ngoại khóa còn là nơi các em học sinh được thể hiện chính mình, giao lưu, học
hỏi những kỹ năng xã hội cũng như những kĩ năng cần thiết trong môn Ngũ văn.
Trong mỗi học kì tôi thường tổ chức hoạt động ngoại khóa. Các em thực
sự “học mà chơi, chơi mà học”. Qua các hoạt động ngoại khóa, học sinh yêu

thích hơn bộ môn ngữ văn. Mỗi học kì, tôi lựa chọn chủ đề, hình thức tổ chức.
Năm học 2016-2017, tôi đã cho học sinh ngoại khóa về thành ngữ.Trong buổi
hoạt động ngoại khóa, tôi tổ chức cho học sinh các hoạt động nhằm nâng cao
vốn kiến thức về thành ngữ cũng như kĩ năng sử dụng thành ngữ:
a. Thi đọc nhanh các câu thành ngữ:
Học sinh đọc nhanh các câu thành ngữ được sử dụng trong chương trình
ngữ văn lớp 6,7. Hai đội thi bằng cách viết lên bảng các câu thành ngữ trong
thời gian qui định. Đội nào viết được nhiều thành ngữ đúng sẽ thắng.
Ví dụ: Học sinh sẽ tìm được các thành ngữ: Nem công chả phượng, Sơn
hào hải vị (Bánh chưng, bánh giầy); Khỏe như voi; Tứ cố vô thân (Thạch Sanh);
Bảy nổi ba chìm (“Bánh trôi nước” Hồ Xuân Hương); Mèo mả, gà đồng (Chèo
“Quan âm Thị Kính”)…
b. Thi hái hoa dân chủ:
Tìm năm thành ngữ có sử dụng hình ảnh con chuột và năm thành ngữ có
sử dụng hình ảnh con voi. Hai đội thi viết lên bảng các câu thành ngữ trong 2
phút, đội nào viết đúng và đủ và nhanh hơn sẽ thắng.
Gợi ý:
* 5 thành ngữ có sử dụng hình ảnh con chuột:
- Chuột sa chĩnh gạo.
- Chuột chạy cùng sào.
- Chuột gặm chân mèo.
- Chuột chù lại có xạ hương.
- Cháy nhà ra mặt chuột.
*5 thành ngữ có hình ảnh con voi:
- Mười voi không được bát nước xáo.
- Theo voi hít bã mía.
11


- Đầu voi đuôi chuột.

- Lấy thúng úp voi.
- Lên voi xuống chó.
c. Tìm thành ngữ thích hợp:
Phần thi này dành cho tất cả học sinh tham dự. Giáo viên đưa lần lượt các
hình ảnh lên máy chiếu. Mỗi hình ảnh sẽ ứng với một câu thành ngữ. Học sinh
nhìn vào tranh để đoán thành ngữ sao cho phù hợp. Em nào đoán đúng sẽ có
phần thưởng.
Từ những việc làm trên tôi thấy việc học tập và sử dụng thành ngữ của
học sinh đã có hiệu qủa rõ rệt.
4. Hiệu quả cuả sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục:
Qua một năm thực hiện phương pháp hướng dẫn học sinh học tập và sử
dụng thành ngữ Tiếng Việt ở trên tôi thấy kết quả thu được rất khả quan. Cụ thể
là số thành ngữ mà các em có đã tương đối khá. Nếu như trước kia học sinh
không hiểu được nghĩa những thành ngữ quen thuộc thì đến nay các em đã hiểu
được nghĩa của các thành ngữ mà các em sưu tầm được và sử dụng các thành
ngữ đó có hiệu quả. Kết quả đó được thể hiện rõ qua bảng thống kê so sánh sau:
Kết quả thu được

Trước khi thực hiện
phương pháp
Số lượng
Tỷ lệ %

Sau khi thực hiện
phương pháp
Số lượng
Tỷ lệ %

1-Học sinh tìm được nhiều
15/45

33,3
40/45
88,9
thành ngữ nhất
2-Học sinh tìm được ít
30/45
66,7
5/45
11,1
thành ngữ nhất
3-Số thành ngữ được giải
7/15
46,6%
35/40
87,5
nghĩa nhiều nhất
4-Số thành ngữ không được
8/15
53,4
5/40
12,5
giải nghĩa
5-Số học sinh biết sử dụng
7/45
15,5
45/45
100%
thành ngữ
Qua bảng thống kê trên, ta thấy sau khi thực hiện phương pháp này kết
quả của học sinh tăng lên rõ rệt. Số thành ngữ của các em tích luỹ được đã tăng

nhanh, các em đã hiểu được nghĩa của từng thành ngữ, biết sử dụng nó vào trong
giao tiếp cũng như trong việc tạo lập văn bản. Các em đã dần có thói quen sử
dụng thành ngữ và thích được sử dụng thành ngữ trong giao tiếp. Đó là một điều
đáng mừng.

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận:
12


Thành ngữ là kho tàng ngôn ngữ quý giá của ông cha, biết sử dụng văn
bản hay, lời hay ý đẹp, lời ít ý nhiều hàm xúc, dễ nhớ dễ thuộc. Vì vậy học sinh
đang học trong nhà trường cần phải trau dồi vốn ngôn ngữ quý giá này. Muốn
vậy ngoài việc học sinh có ý thức trang bị cho mình vốn thành ngữ cần thiết để
sử dụng trong giao tiếp cũng như trong việc tạo lập văn bản, giáo viên giảng
dạy môn Ngữ văn cần phải định hướng và trang bị cho các em những cách giao
tiếp trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, trong việc tiếp thu các kiến thức sách vở để
giữ gìn được bản sắc văn hoá dân tộc. Chính vì vậy việc học tập tìm hiểu thành
ngữ và hướng dẫn học sinh tìm hiểu tích luỹ vốn thành ngữ cần thiết là một việc
cấp thiết trong việc giảng dạy ở nhà trường nói chung và trường THCS nói riêng
nhất là với học sinh lớp 7. Chính vì vậy người thầy giáo Ngữ văn càng phải cố
gắng giúp đỡ các em học sinh đó thấy được giá trị của thành ngữ Tiếng Việt. Có
như vậy mới tạo cho các em có lòng ham mê, thói quen sử dụng và sử dụng tốt
thành ngữ. Đó cũng là mục tiêu và trách nhiệm đặt ra cho mỗi chúng ta trong
việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
2. Kiến nghị:
Qua kinh nghiệm hướng dẫn học sinh học thành ngữ tôi thấy:
Một là: Muốn làm tốt được việc này trước hết người thầy phải là người
say mê ngôn ngữ Tiếng Việt và có ý thức trau dồi và giữ gìn sự trong sáng của
ngôn ngữ Tiếng Việt.

Hai là: Phải hiểu được học sinh, nắm được vốn ngôn ngữ nói chung và
vốn thành ngữ nói riêng của từng học sinh có như vậy mới có những biện pháp
thích hợp để giáo dục học sinh có hiệu quả.
Ba là : Người thầy phải biết kích thích học sinh tạo được lòng ham mê tìm
hiểu ngôn ngữ cũng như việc sử dụng thành ngữ Tiếng Việt. Đồng thời phải có ý
thức trau dồi tích luỹ thường xuyên trong quá trình học tập không dừng lại ở
một cấp nào.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Bỉm Sơn, ngày 12 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác.
Người viết

Nguyễn Thị Hương

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

13


TT

1
2
3
4
5
6

7

Tên tài liệu :
Ghi chú
Ngữ văn- sách giáo viên 7- Tập I,II- Nhà xuất bản Giáo dục
Ngữ văn 7- Tập I,II- Nhà xuất bản Giáo dục
Ngữ văn 6 – Tập I,II - Nhà xuất bản Giáo dục
Vũ Dung, Vũ Thúy Anh, Vũ Quang Hào, Từ điển thành
ngữ và tục ngữ Việt Nam, Nhà xuất bản văn hóa, 1997.
Nguyễn Như Ý,Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt,
Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội năm 1996.
Hoàng Văn Hành, Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ, NXB
khoa học xã hội, Hà Nội tập I, II, 1988, tập III, 1991.
PTS. Nguyễn Xuân Lạc Văn học dân gian Việt Nam trong
nhà trường. Nhà xuất bản giáo dục 1998.

DANH MỤC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC XẾP LOẠI
14


TT

Tên sáng kiến kinh nghiệm

1

Đề xuất biện pháp đánh giá kết quả học
tập Ngữ văn lớp 6.
2 Đề xuất biện pháp đánh giá kết quả học
tập Ngữ văn lớp 6.

3 Một số suy nghĩ khi dạy Tiếng Việt cho
học sinh lớp 6
4 Rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh
lớp 6
5 Một số phương pháp dạy làm văn tự sự
lớp 8
6 Phương pháp dạy truyện dân gian cho học
sinh lớp 6
7 Rèn kĩ năng miêu tả cảnh cho học sinh
lớp 6
8 Dạy làm văn biểu cảm cho học sinh lớp 7
9 Dạy làm văn biểu cảm cho học sinh lớp 7
10 Kinh nghiệm dạy cho học sinh lớp 9 viết
văn nghị luận xã hội
11 Kinh nghiệm dạy viết đoạn văn tự sự cho
học sinh lớp 6

15

Năm học

Xếp
loại

Cấp đánh
giá

2002-2003

A


Cấp thị xã

2002-2003

A

Cấp tỉnh

2003-2004

B

Cấp thị xã

2004-2005

B

Cấp thị xã

2005-2006

B

Cấp thị xã

2007-2008

B


Cấp thị xã

2011-2012

B

Cấp thị xã

2012-2013
2012-2013
2014-2015

A
C
B

Cấp thị xã
Cấp tỉnh
Cấp thị xã

2015-2016

B

Cấp thị xã




×