1
2
PHẦN THỨ NHẤT: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài :
Ở bất kỳ đất nước nào, những đổi mới mang tính cải cách trong giáo dục đều
bắt đầu từ việc xem xét điều chỉnh mục tiêu giáo dục với những kỳ vọng mới về
mẫu người học sinh có được sau quá trình giáo dục. Chính vì lý do trên, trong
những năm gần đây, cùng với việc đổi mới chương trình, sách giáo khoa, Bộ Giáo
dục & Đào tạo đã triển khai nhiều hoạt động hỗ trợ giáo viên phổ thông đổi mới
phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá trong dạy học các môn học trong đó có
môn Ngữ văn. Những đổi mới này đã được xác định là trọng tâm của cuộc vận động
"Mỗi thầy cô giáo là tấm gương đạo đức tự học và sáng tạo'' phong trào thi đua
“Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực'' đồng thời với việc thúc đẩy
nâng cao chất lượng mũi nhọn và chất lượng đại trà. Trước những yêu cầu của xã
hội, thời đại và sự phát triển của khoa học kỹ thuật, mục tiêu dạy học môn Ngữ văn
ngày nay không chỉ là cung cấp kiến thức kỹ năng nghe – nói - đọc - viết đơn thuần
mà qua đó phải góp phần cùng các môn học khác đào tạo ra những con người có
năng lực, hành động giải quyết những tình huống, vấn đề của đời sống xã hội.
Trong những năm qua , những thay đổi trong việc kiểm tra đánh giá học sinh đã góp
phần thúc đẩy được quá trình đổi mới phương pháp dạy học. Đánh giá học sinh là
công cụ quan trọng chủ yếu xây dựng năng lực nhận thức của người học để từ đó
điều chỉnh quá trình dạy và học, là động lực để đổi mới phương pháp dạy học, góp
phần cải thiện nâng cao chất lượng đào tạo con người theo mục tiêu giáo dục. Đánh
giá kết quả học tập của học sinh là quá trình thu thập, xử lý kịp thời, có hệ thống
thông tin về hiện trạng nguyên nhân chất lượng, hiệu quả giáo dục, căn cứ vào mục
tiêu dạy học làm cơ sở cho những chủ trương biện pháp giáo dục tiếp theo. Kiểm tra
đánh giá đồng hành và có mối quan hệ chặt chẽ với các thành tố của qúa trình dạy
học như mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức dạy
học. Không thể nói đến kết quả dạy học mà tách rời việc kiểm tra đánh giá (KTĐG).
KTĐG kết quả học tập của học sinh là một mắt xích quan trọng trong quá trình dạy
học ở các nhà trường đồng thời cũng là vấn đề được xã hội chú ý. Kết quả được
phản hồi từ kiểm tra đánh giá có hệ thống và thường xuyên vừa là nguồn thông tin
phản hồi quá trình dạy học vừa có tác động điều chỉnh hoạt động dạy học của giáo
viên, hoạt động của học sinh và các hoạt động chỉ đạo của cấp quản lý nhằm nâng
cao chất lượng dạy học trong nhà trường phổ thông. Về phương diện này chất lượng học tập được xem như chất lượng một sản phẩm đang trong giai đoạn hình
thành và hoàn thiện. Sự điều chỉnh bổ sung những kiến thức kỹ năng và thói
quen còn hời hợt, mơ hồ sẽ giúp cho chất lượng học tập trở thành những tri thức
bền vững cho mỗi học sinh. Việc kiểm tra chất lượng học tập sẽ giúp cho các nhà
giáo dục, các giáo viên bộ môn và bản thân học sinh có những thông tin xác thực
để có tác động kịp thời nhằm điều chỉnh và bổ sung để hoàn thiện sản phẩm của
mình trong quá trình dạy và học. Kiểm tra đánh giá thành tích học tập môn học của
học sinh luôn có những mục đích cụ thể đó là: xác nhận mức độ thành tích mà học
sinh đã đạt được so với mục tiêu bài học đề ra, chỉ ra nguyên nhân đạt được thành
3
tích, phán đoán khả năng phát triển của học sinh. Như vậy, hoạt động kiểm tra đánh
giá chất lượng học tập các môn học của học sinh, ngoài giáo viên dạy học bộ môn
cần có sự tham gia của học sinh. Thực tế hiện nay học sinh (kể cả một số giáo viên)
chỉ mới có được một thông tin về mức độ thành tích của học sinh thông qua điểm số
của bài kiểm tra, còn vấn đề nguyên nhân thì hầu như chưa có tác dụng chỉ ra các
thông tin phản hồi cụ thể giúp học sinh điều chỉnh quá trình học tập của mình.
2.Mục đích của đề tài :
Từ xưa tới nay trong việc đào tạo con người, văn chương vẫn được sử dụng
đắc hiệu, không ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của văn chương trong việc xây
dựng và giữ gìn đạo đức xã hội. Hiện nay ngành giáo dục đang triển khai thực hiện
đồng bộ đổi mới giữa nội dung - phương pháp và việc kiểm tra đánh giá. Nếu chỉ có
đổi mới về nội dung - phương pháp dạy mà không đổi mới kiểm tra đánh giá thì
cũng vô nghĩa bởi không thẩm định được thực chất kiến thức học sinh và bản thân
học sinh cũng không phát huy được khả năng sáng tạo. Có một thời trước cải cách
giáo dục, đề thi và kiểm tra gần như hoàn toàn nghiêng về những câu hỏi có lệnh
dạng công thức của dạng đề nghị luận văn học. Cách kiểm tra đánh giá này dễ tạo ra
một dạng đường mòn cho văn mẫu xuất hiện, học sinh tìm đọc thuộc lòng để rồi sao
chép làm mất đi tính sáng tạo vốn rất cần thiết với người học sinh. Chính nhà văn
Nam Cao cũng đã có một tuyên ngôn nghệ thuật nổi tiếng “Văn chương không cần
những người thợ khéo tay” và tối kỵ nhất trong văn chương chính là việc “Thấy
người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào”. Tôi được biết có rất nhiều thầy cô hiện nay
(kể cả các thầy cô dạy trường chuyên nổi tiếng của tỉnh) dạy học sinh theo dạng đọc
văn mẫu (mang thương hiệu của thầy cô đó) rồi bắt học sinh học thuộc bằng mọi
cách. Phương pháp dạy này có một hiệu quả “tích cực” (nghĩa là như mong muốn
của các thầy cô) nếu học sinh chịu học thuộc lòng - điểm sẽ khá cao nhưng cũng
chính các học sinh đó nếu cho dạng đề khác dạng đã học thì lúng túng không biết
làm thế nào. Thật không biết nên khóc hay cười khi một giáo viên ở trường A khi
chấm bài lại phát hiện ra đúng số học sinh học với cô giáo X tại trường B do các bài
đó giống nhau y đúc từ mở bài đến kết bài dù giáo viên coi thi rất ngặt nghèo. Cách
ra đề và dạy như thế đã tạo nên những nhân bản cừu Dolly vô hồn, không chính
kiến. Đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo chương trình cải
cách giáo dục đã có nhiều khác biệt so với trước như kiểu kiểm trắc nghiệm khách
quan và các bài kiểm tra thực hành vận dụng. Quá trình đổi mới này đã luyện cho
học sinh bớt đi tính thụ động, khuyến khích sự sáng tạo của học sinh bởi việc đổi
mới kiểm tra đánh giá hiện nay phải theo các tiêu chí: phạm vi kiến thức phải toàn
diện, số câu hỏi cần phải bao quát được phạm vi kiểm tra. Mức độ kiểm tra phải theo
chuẩn kiến thức và không nằm ngoài chương trình.
Đổi mới kiểm tra môn Ngữ văn THCS mà cụ thể là đổi mới kiểm tra đánh giá
khả năng làm bài văn nghị luận là kiểu văn bản quan trọng bậc nhất ở năm cuối cấp
THCS và toàn cấp THPT. Đây là kiểu loại văn bản được cho là cơ bản nhất sẽ đi theo
các em trong suốt quá trình học tập và làm việc sau này dù các em có ở môi trưòng làm
việc như thế nào. Tuy nhiên, từ lâu đến nay đa số các em vẫn “ngại'' loại văn bản này
4
vì cho rằng nó rất khó tạo lập. Khi ra đề và chấm bài các thầy cô lại ít đưa ra những
tiêu chí cụ thể, thường chấm theo cảm tính, ít thời gian để chữa bài cụ thể vì thế học
sinh khó có thể tiến bộ. Qua nhiều năm dạy Ngữ văn THCS và làm quản lý phụ trách
chuyên môn lớp 7, 8, 9 tôi đã đúc kết được một số kinh nghiệm để nâng cao chất lượng
dạy - học văn nghị luận đáp ứng yêu cầu về chuẩn kiến thức - kỹ năng theo mục tiêu
giáo dục hiện nay. Trong khuôn khổ đề tài này tôi chỉ xin được trình bày một số kinh
nghiệm nhỏ về Sử dụng lý luận văn học kết hợp đổi mới kiểm tra đánh giá nhằm
rèn luyện kỹ năng làm văn nghị luận nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn
cho học sinh lớp 9 Trường THCS Quảng Đông.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Trong khuôn khổ đề tài này, bản thân tôi trên cơ sở vận những kiến thức cơ bản
nhất về lý luận văn học trong phạm vi chương trình sách giáo khoa THCS và những
yêu cầu về đổi mới kiểm tra đánh giá để rèn kỹ năng làm văn nghị luận cho học sinh
lớp 9 trường THCS Quảng Đông.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Với mục đích và đối tượng nghiên cứu của đề tài như vậy, nên phương pháp
nghiên cứu của tôi chủ yếu là điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin; phương pháp
thống kê xử lý số liệu...
PHẦN THỨ HAI - NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Thực trạng:
Bàn về chuyện dạy văn trong không khí văn chương yếu thế như ở các nhà
trường hiện nay đã khó, bàn về đánh giá khả năng viết kiểu văn bản nghị luận của học
sinh lại càng khó hơn. Đã có không ít bài văn đọc cười ra nước mắt của học sinh được
đưa lên báo mạng. Người ngoài ngành sẽ rất khó tin đó là những câu văn đoạn văn có
thật nhưng là người trực tiếp giảng dạy tôi hoàn toàn tin sự thật chua xót ấy là văn
chương ngày càng bị xem nhẹ, học sinh chỉ học qua loa để đối phó tránh điểm liệt khi
thi tốt nghiệp THPT và đạt điểm số tối thiểu trong quá trình học. Thế nhưng có một
điều mà ai cũng nhận ra đó là người học văn tốt bao giờ cũng có những kỹ năng sống
vững vàng, có khả năng làm chủ tình huống, có độ nhanh nhạy nhất định trước những
biến động mang tính xã hội, có năng lực nhóm, năng lực lãnh đạo... Để nâng cao chất
lượng môn văn mà cụ thể để kiểm tra đánh giá đúng thực chất việc tạo lập văn bản
nghị luận góp phần nâng cao kỹ năng làm văn nghị luận cho học sinh thì việc đầu tiên
ta phải xem xét thực trạng của toàn bộ chương trình. Đó là kết hợp giữa lý luận văn
học trong dạy học và kiểm tra đánh giá khả năng làm bài văn nghị luận ở học sinh lớp
9 THCS.
1.1. Cơ sở lí luận: Kiến thức lý luận là những qui luật hình thành, phát sinh và
phát triển của văn học trong đời sống xã hội, là những đặc điểm cơ bản của hình tượng
văn học ... được các nhà lý luận tổng kết từ thành tựu của văn học nhân loại từ xưa đến
nay. Nắm được các kiến thức cơ bản của lý luận văn học là một cơ sở vững chắc để
5
cảm thụ các tác phẩm văn học và trên cơ sở đó người học văn có thể đạt được những
kết quả tốt trong quá trình học tập. Bên cạnh nắm chắc các kiến thức về tác giả, tác
phẩm, phương pháp làm bài văn nghị luận cả xã hội và văn học thì giáo viên cần
tích cực cho học sinh làm đề, vận dụng kiến thức lý luận để giải quyết phần lý
thuyết, hiểu sâu sắc hơn những luận điểm các em đã học.
Phần tập làm văn Nghị luận lớp 9 có tính tích hợp đồng tâm từ lớp 7 và lớp 8.
Lớp 7 : - Tìm hiểu chung về văn nghị luận.
- Các kiểu nghị luận: chứng minh, giải thích.
Lớp 8 : + Ôn tập, luyện tập về luận điểm.
+ Biểu cảm trong văn nghị luận.
+ Miêu tả và tự sự trong văn nghị luận.
Lớp 9: Nghị luận về vấn đề xã hội, Nghị luận về vấn đề văn học.
Yêu cầu chủ yếu của tập làm văn là củng cố tri thức và kỹ năng đã được học ở
tiết đọc hiểu văn bản và tiết Tiếng Việt. Đặc biệt sách giáo khoa mới coi phần tập
làm văn là sự tổng hợp của ngữ và văn (Tích hợp ngang) và nguyên tắc ôn cũ-hiểu
mới (Tích hợp đồng tâm ) và đảm bảo truyền thụ tri thức có hệ thống khoa học
(Tích hợp dọc).
Khi làm bài tập làm văn, học sinh phải huy động tổng hợp kiến thức Tiếng
Việt để viết đúng chính tả,viết câu đúng ngữ pháp, phù hợp với phong cách văn bản
nhằm đạt được yêu cầu của đề bài và để có một văn bản hoàn chỉnh. Phần văn bản
giúp học sinh có kiến thức để trình bày vốn hiểu biết của mình. Như vậy, tập làm
văn là một môn học mang tính chất thực hành, toàn diện, tổng hợp và sáng tạo. Nó
có một vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình Ngữ văn. Ở nước ta, văn nghị
luận là một thể văn có truyền thống lâu đời, có giá trị và tác dụng to lớn trong
trường kì lịch sử, trong công cuộc dựng nước và giữ nước trong phản ánh nhận thức
thẩm mĩ của dân tộc về văn chương, nghệ thuật … Có thể kể đến các tác giả nổi
tiếng như: Lí Công Uẩn, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh, Hoài Thanh,
Đặng Thai Mai … Đây là các tác giả đã thuyết phục người đọc chủ yếu bằng lí lẽ và
lập luận, giá trị nghệ thuật cao, giá trị nhân văn sâu sắc. Thông qua phần tập làm
văn nghị luận, giáo viên có thể củng cố, hình thành cho học sinh các kỹ năng như:
quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp đồng thời hình thành và phát triển khả năng
lập luận chặt chẽ, trình bày lí lẽ, dẫn chứng nhằm diễn tả suy nghĩ và ý kiến riêng
về vấn đề nào đó trong cuộc sống hoặc trong văn học nghệ thuật.
Đổi mới kiểm tra đánh giá đã góp phần khắc phục được tình trạng học thụ
động theo kiểu chép lại bài giảng, học thuộc lòng kiến thức mà không biết vận dụng
kiến thức đồng thời thay đổi được cách thức học bài trên lớp và ở nhà cho học sinh,
loại bỏ dần lối học tủ, học lệch. Với kiểu bài nghị luận, đổi mới kiểm tra đánh giá
thông qua hệ thống câu hỏi kiểm tra và cách thức kiểm tra yêu câù học sinh phải
chủ động nắm bắt kiến thức một cách toàn diện, tạo điều kiện cho học sinh rèn
luyện tính tự chủ trong suy nghĩ và giải quyết vấn đề hạn chế trong việc sử dụng tài
liệu trong khi làm bài thi, bài kiểm tra. Những chuyển biến về tinh thần, thái độ và
phương pháp học tập sẽ góp phần tưng bước nâng cao kỹ năng làm văn của học
sinh.
1.2: Thực trạng:
6
Thực trạng chung: Những năm gần đây việc dạy và học ngữ văn đã và đang
thành điểm nóng ngày càng thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Dư luận và cả trên
thực tế cho thấy rằng học sinh hiện nay không thích học văn. trong trường THCS
vẫn tồn tại tình trạng một số học sinh học theo kiểu đối phó, lười đọc, lười suy nghĩ,
ngại viết và xem nhẹ kỹ năng diễn đạt. Có thể nói việc học sinh ngại học môn văn
có nhiều lý do trong đó lý do khá quan trọng là do tác động xã hội về việc lựa chọn
ngành nghề vì các ngành khối A, B có nhiều lựa chọn mang tính thời thượng hơn
hẳn các ngành học khối C, D. Như tôi được biết các trường THPT hiện nay số học
sinh theo học ban xã hội hiện nay rất ít. Cụ thể như trường THPT Hàm Rồng, TP
Thanh Hoá nhiều năm liền chỉ có 1 hoặc 2 lớp chuyên KHXH trên tổng số 12 lớp
và cũng chỉ có chục bộ hồ sơ thi vào các trường đại học chuyên ngành xã hội thi
khối C trên gần 600 bộ hồ sơ thi đại học năm học 2013 - 2014. Bên cạnh đó trong
thời đại mà công nghệ số phát triển văn hoá nghe nhìn hiện nay phát triển quá
nhanh lấn át hẳn văn hoá đọc – viết khiến học sinh và cả phụ huynh đều xem nhẹ
môn học này. Chất lượng dạy học phân môn tập làm văn của bộ môn ngữ văn thể
hiện ở chỗ học sinh nắm chắc các đặc trưng kiểu loại, kiến thức cơ bản về các tác
phẩm văn học; kiến thức xã hội đang là những vấn đề nóng hổi, những tư tưởng,
đạo đức, lối sống đáng quan tâm và kỹ năng làm bài để xác lập những tư tưởng,
quan niệm, đạo đức, lối sống, thái độ đúng đắn cho các em. Với môn ngữ văn để
đáp ứng những mục tiêu bộ môn, KTĐG cũng phải theo hướng phát huy tính tích
cực của học sinh nhằm phát triển trí thông minh, sáng tạo của học sinh; khuyến
khích vận dụng linh hoạt kiến thức, kỹ năng đã học vào những tình huống thực tế,
làm bộc lộ những cảm xúc, thái độ của học sinh trước những vấn đề được đặt ra
trọng cuộc sống. Đặc biệt với việc kiểm tra kết quả tạo lập kiểu văn bản nghị luận
theo hướng tích cực – tích hợp theo chuẩn kiến thức – kỹ năng nghĩa là theo những
tiêu chí có thể đánh giá cụ thể, đo đếm được, phù hợp với năng lực học tập Ngữ văn
của học sinh là việc mà từ trước đến nay được xem như khá cảm tính. Văn học là
nhân học - dạy văn là dạy cái đẹp, giúp con người phát huy đầy đủ năng lực phẩm
chất và nâng cao kỹ năng sống cho hoc sinh. Thực trạng kiểm tra trong dạy học
môn Ngữ văn hiện nay còn thiên về kiểm tra khả năng ghi nhớ và tái hiện những
khả năng được học thuộc hoặc kiểm tra năng lực cảm thụ văn học theo những
khuôn mẫu có sẵn. Các dạng bài kiểm tra còn đơn điệu hoặc lặp lại theo lối cũ nên
không có khả năng kiểm tra được nhiều mảng kiến thức, kỹ năng, cũng như không
phát huy tính sáng tạo, năng lực thực hành vận dụng nghe, nói, đọc, viết của học
sinh trong môn học.
Đối với chỉ đạo của chuyên môn, từ nhiều năm nay, Phòng giáo dục đã có
biện pháp kích chất lượng thực chất của môn học qua các đợt kiểm tra nhà trường
lấy kết quả khảo sát làm căn cứ quan trọng để đánh giá giờ dạy nói riêng và chất
lượng học của nhà trường nói chung. Tuy có một số bất cập như trình độ học sinh
không đồng đều ở các lớp, mức độ câu hỏi khó dễ chưa đều, tiêu chí đánh giá khá
khắt khe song không thể phủ nhận tính khoa học của việc đánh giá qua chất lượng
cuối cùng bắt buộc cả giáo viên và học sinh đều phải nỗ lưc hết mình đặc biệt là với
phân môn tập làm văn - phần tạo lập văn bản nghị luận chiếm tới 80% lượng điểm
thi tuyển sinh cũng như thi đại học cao đẳng sau này.
7
Đối với giáo viên, bài kiểm tra viết chủ yếu được tiến hành theo cách làm
bài viết chung trong khối được thực hiện đồng loạt, cùng cách thức cho tất cả các
học sinh trong cùng khối nên khó đánh giá chính xác được năng lực học tập môn
học của học sinh. Việc chấm bài chưa hạn chế được tính chủ quan, cảm tính nhất là
với những bài thể hiện năng lực cảm thụ văn chương nên rất khó đảm bảo sự khách
quan trong đánh giá học sinh. Báo chí đã lên tiếng phê phán quá nhiều về nạn chép lại
văn mẫu, các kỳ thi thầy chỉ chấm lại bài của chính thầy, học sinh không hề động não,
ít sự sáng tạo, hiện tượng học tủ, học lệch là phổ biến.Điểm kiểm tra của học sinh là
rất quan trọng nhưng cái quan trọng hơn là thầy cô phải phát hiện những ưu khuyết
điểm của bài víêt nhằm động viên khuyến khích hoặc nhắc nhở các em rút kinh
nghiệm cho những bài kiểm tra sau. Tôi được biết hầu hết tất cả các giáo viên dạy
Ngữ văn cấp THCS đều ngại dạy chương trrình lớp 7 vì đây là khối học vỡ lòng của
kiểu văn bản nghị luận, học sinh còn non trong nhận thức và lý lẽ, vốn sống quá ít
để có thể thực hành vào bài viết. Lên lớp 9 các em đã bắt đầu định hình về kiểu bài
nhưng thói quen học và làm bài hời hợt vẫn còn tồn tại trong một bộ phận không
nhỏ học sinh.
Về đổi mới phương pháp dạy văn, Bộ Giáo dục đã đưa ra một số phương pháp
đặc thù với việc đa dạng cấu trúc câu hỏi như phát hiện, giảng, bình trong văn bản
để các em có sự thẩm thấu và suy nghĩ về tác phẩm sâu sắc hơn trong quá trình tạo
lập kiểu văn bản nghị luận văn học. Bên cạnh đó, giáo viên cũng cần phải lưu ý
nhiều hơn trong việc đa dạng hoá, hấp dẫn hoá các buổi học lý thuyết về nghị luận
xã hội để học sinh có nhận thức sâu sắc, toàn diện và biện chứng hơn trước những
vấn đề thuộc phạm trù sự việc hiện tượng đời sống và tư tưởng đạo lý nhằm xác lập
chính quan điểm, đạo đức lối sống cho mình và những người xung quanh. Để đổi
mới kiểm tra đánh giá tập làm văn trước hết phải đôỉ mới cách dạy và ngay cả trong
cách chấm, phê và lời phê của giáo viên. Có không ít giáo viên chấm bài cho học
sinh theo kiểu nhìn tên nghi đỉêm sau khi đã chấm kỹ một vài bài đầu năm. Đối với
người dạy thì đây là một cách dạy phản giáo dục, thiếu nhân văn còn với người học
thì tạo cho các em một thói quen dạng mặc định rằng chẳng cần cố lắm cũng vẫn
được từng ấy điểm hoặc có cố thế chứ cố gắng nữa điểm cũng chỉ có thế để rồi cuối
cùng giờ học văn là giờ chán ngắt, bài kiểm tra là buổi thực hiện nghĩa vụ theo yêu
cầu tất nhiên và chất lượng học chắc chắn cũng vì thế mà đi xuống. Mặc dù đã có
nhiều cố gắng nhưng nhìn chung giáo viên vẫn còn tồn tại một số điểm hạn chế chủ
yếu do tư duy cũ đã ăn sâu bén rễ nên rất khó thay đổi hoặc thay đổi chậm. Ví dụ
như thói quen áp đặt, giáo viên ép học sinh hiểu cảm thụ tác phẩm văn chương, lý
giải vấn đề theo cách hiểu, cảm thụ và lý giải của giáo viên. Trong các bài kiểm tra,
nhất là phần tự luận, nếu
học sinh cảm nhận, phân tích theo ý cô thì bị phê phán, chê trách thành ra để lâu các
em sẽ hình thành thói quen học văn mẫu “cho nó lành ’’. Thêm vào đó giáo viên
chưa chú ý rèn kỹ năng phân tích đề, kỹ năng làm bài cho học sinh đại trà nên khi
gặp kiểu đề có câu hỏi khác lạ là học sinh không biết vận dụng để làm bài mặc dù
hiểu khá kỹ về tác phẩm.
Sau khi khảo sát ý kiến đồng nghiệp các trường THCS cùng khu vực thì hầu
như giáo viên không có thời gian bồi dưỡng hoặc ít chú trọng bồi dưỡng phần lý
luận văn học trong khi phần này lại là nền móng trong việc dạy bản chất của tác
8
phẩm văn học cũng như phương pháp nghiên cứu những vấn đề xã hội. Tôi vô cùng
thú vị khi đọc những bài văn có tính sáng tạo của học sinh các trường khu vực Hà
Nội. Các em rất có chính kiến khi thể hiện quan điểm của mình trong bài viết, lý
giải vấn đề một cách thông minh, rõ ràng, rành mạch; câu từ khúc chiết, có tầm nhìn
vượt những học sinh cùng lứa tuổi ở khu vực nông thôn. Có được thành quả tốt đẹp
đó theo tôi đổi mới phương pháp dạy kết hợp với đổi mới kiểm tra đánh giá là vô
cùng quan trọng .
Đối với học sinh, do đặc trưng vùng miền, xã tôi công tác là một xã ngoại ô
thành phố, những năm gần đây bước đầu đã có những bước chuyển biến theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng về cơ bản vẫn là một xã vùng thuần nông, do
đó có một hạn chế rất lớn đó là học sinh nông thôn ít có cơ hội tham khảo tài liệu
cũng như sử dụng Internet khiến tầm nhìn của các em cũng có phần không bằng học
sinh ở thành phố hoặc các khu vực có tốc độ đô thị hoá cao .
Khách quan mà nói, đối tượng học sinh nông thôn vốn có mặc cảm về kinh tế,
gia đình phần lớn còn nghèo, những bậc phụ huynh có ý thức đầu tư cho con đi học
theo định hướng nghề nghiệp vào đại học, cao đẳng không nhiều dẫn đến việc các
em học hành hời hợt nhất là với môn ngữ văn. Trên thực tế học sinh rất ngại học
kiểu văn bản nghị luận bởi theo các em, văn bản nghị luận rất khô khan, trừu tượng,
khó có thể tạo lập một văn bản nghị luận hoàn hảo cho dù đó là kiểu nghị luận xã
hội hay nghị luận văn học.
Năm học 2013-2014 tôi tiến hành khảo sát học sinh của hai lớp 9 kết quả
học tập môn văn ở năm học trước cụ thể như sau:
Số liệu khảo sát chất lượng đầu năm học 2013-2014
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
TB trở lên
số SL % SL % SL % SL % SL % SL %
Lớp Sĩ
9A
30
1
3.3
6
9B
31
2
6.4
6
20
17 56.7
6
19.3 17 54.8
6
20
0
19.3 0
0
24
80
0
25
80.6
2. Những giải pháp:
Từ góc nhìn thực tiễn của giáo dục hiện đại chúng ta thấy rất rõ năng lực tiếp
thu của học sinh không đơn thuần đồng nhất với trình độ học lực mà là một phẩm
chất có tính tổng hợp nhiều yếu tố: nó là kiến thức, là tâm hồn, là lối sống. Có đánh
giá đúng năng lực học sinh, năng lực chung cũng như năng lực từng cá thể GV mới
có thể đề xuất được những yêu cầu vừa sức. Muốn như vậy việc kiểm tra đánh giá
phải mang một tầm mới vượt qua cái lối mòn hiện nay.
Vậy làm thế nào để khắc phục những khó khăn trên? Suốt 18 năm trăn trở,
tìm tòi tôi đã tìm ra một số giải pháp về dạy Tập làm văn theo phương pháp đi từ
góc độ Lý luận văn học kết hợp với kiểm tra đánh giá theo dạng cuốn chiếu bởi
tôi quan niệm LLVH giống như nền móng của một ngôi nhà, không thể xây dựng
9
mà không có nền móng. Vậy để học sinh có thể hiểu bản chất của kiến thức không
gì bằng việc đi từ ôn tập – kiểm tra - ôn tập nâng cao cấp độ để rồi thành quả cuối
cùng chính là tạo lập một văn bản đúng đặc trưng. Theo quan điểm cá nhân, tôi chủ
trương dạy học sinh theo phương pháp hướng dẫn chứ không chọn phương pháp
“Cầm tay viết chữ”. Tôi cho rằng cho các em một chiếc cần câu tốt hơn nhiều so với
cho các em một nồi cá. Sau thời gian dạy theo phương pháp này, điều tra kết quả
học sinh sau các kỳ thi tuyển sinh tôi nhận thấy rất hiệu quả. Trừ những em thực sự
bị thiểu năng trí tuệ thì số còn lại các em có tâm lý thi cử rất tốt vì đủ tự tin và kết
quả ở những em trí tuệ bình thường đạt điểm trung bình trở lên là 100% trong đó số
học sinh đạt điểm khá giỏi đạt tới 45%. Có một kết quả mà tôi vô cùng phấn khởi đó là các em hoàn toàn tự tin khi bước vào các kỳ thi mà không nghĩ tới sự hỗ trợ
của tài liệu. Và sau đây là những giải pháp cụ thể:
2.1 Những giải pháp chung:
2.1.1 : Cho học sinh nắm được thời gian và kết cấu chương trình.
Học sinh được học văn nghị luận ở lớp 7 là 15 tiết và 11 tiết ở lớp 9. Nội dung
của các bài học chỉ rõ đặc trưng của bài văn nghị luận là nêu ý kiến, trình bày lý lẽ,
ba yếu tố của văn nghị luận là luận điểm, luận cứ và lập luận. Chương trình chú
trọng nghị luận xã hội và nghị luận văn học nhằm hướng suy nghĩ của học sinh vào
các vấn đề của đời sống và văn học. Cụ thể như sau:
Lớp 7
Lớp 9
Nội dung :
Nội dung :
+ Tìm hiểu chung về văn nghị luận.
+ Thao tác phân tích và tổng hợp.
+ Đề văn nghị luận.
+ Nghị luận về một hiện tượng,sự việc.
+ Yêu cầu của bài văn nghị luận.
+ Nghị luận về một tư tưởng,đạo lý.
+ Bố cục và lập luận.
+ Nghị luận về nhân vật văn học.
+ Lập luận chứng minh.
+ Nghị luận về một đoạn thơ,bài thơ.
+ lập luận giải thích
Yêu cầu :
Yêu cầu :
- Nghị luận được xem như một kiểu bài - Thấy được sự kết hợp các phương
độc lập.
thức.
- Thao tác đơn giản, chứng minh và giải - Vấn đề nghị luận đa dạng,phức tạp.
thích.
- Dung lượng bài viết nhiều hơn từ 4 –
- Dung lượng bài viết từ 1-4 trang vở 7 trang vở học sinh.
học sinh.
2.1.2 Về sách giáo khoa và sách tham khảo :
Qua bảng trên ta thấy văn nghị luận có sự tích hợp đồng tâm. Ở lớp 7 học
sinh hiểu mục đích, nội dung, bố cục, kiểu bài nghị luận. Đến lớp 8 và lớp 9 học
sinh được nâng cao hơn. Cách xây dựng chương trình đảm bảo tính hợp lý, vừa có
sức khái quát, vừa phong phú đa dạng phù hợp với nguyên tắc vừa sức cho học
sinh. Các tiết Tập làm văn nghị luận theo trình tự: Xây dựng bài qua thực hành, thực
hành nhận biết và thực hành tạo lập văn bản. Sách giáo khoa chú trọng cả lý thuyết
và thực hành. Phần tìm hiểu có nhiều câu hỏi tình huống, phần luyện tập có phần
10
đọc thêm với mục đích cung cấp kiến thức bổ trợ. Đúc kết kiến thức có phần ghi
nhớ. Sách tham khảo cơ bản nhất là sách giáo viên, được biên soạn sát với sách giáo
khoa. Sách có phần lưu ý và phần hướng dẫn cụ thể về phương pháp rất thuận lợi
cho việc giáo viên tham khảo. Sách tham khảo cho học sinh khá phong phú gồm:
các loại sách văn mẫu. Các sách này có giá trị nhưng cũng có phần phức tạp vì có
nhiều cách trình bày mang tính cá nhân.
2.1.3.Về phía giáo viên :
Các thầy cô giáo đã thực hiện nghiêm túc quy định, nề nếp về chuyên môn,
giảng dạy nhiệt tình và có tinh thần trách nhiệm cao. Đặc biệt những người có tâm
huyết với nghề nghiệp đã tìm tòi phương pháp mới để truyền đạt kiến thức cho học
sinh có hiệu quả. Đặc biệt tất cả các giáo viên đã được tập huấn thay sách, đã áp
dụng phương pháp dạy mới vào chương trình.Tuy nhiên vẫn còn có hiện tượng do
không đủ thời gian nên chưa giúp học sinh nắm vững kiến thức nghị luận và vận
dụng kiến thức.Việc giáo viên chấm bài và trả bài cho học sinh chưa chi tiết, khoa
học. Các tiết học văn bản và Tiếng Việt chưa có sự tác động thích đáng cho Tập
làm văn. Quá trình dự giờ, thao giảng để rút kinh nghiệm đối với tiết Tập làm văn
còn hạn chế. Bởi vì phần lớn giáo viên có tâm lý chung là ngại dạy và dự giờ giảng
dạy tiết Tập làm văn.
2.1.4 Về phía học sinh :
Rất ít học sinh say mê học văn. Số học sinh giỏi văn thực sự rất hiếm. Học
sinh không biết phương pháp học do không tìm hiểu và vận dụng lý thuyết để làm
văn.Thậm chí có những em không sử dụng đến sách giáo khoa. Học sinh cũng
không biết vận dụng kiến thức của Tiếng Việt và văn bản vào làm văn. Đặc biệt các
em chưa xác định thế nào là luận điểm, luận cứ và lập luận. Giờ trả bài học sinh chỉ
quan tâm đến điểm số mà không quan tâm đến việc sửa chữa các lỗi để rút kinh
nghiệm. Tệ hại hơn là học sinh không xác định được mình viết đúng hay sai, hay
hay dở, đúng sai, hay dở tới mức nào. Hơn nữa các em sử dụng bút xoá trong bài
làm rất tuỳ tiện.
2.1.5 Về cách kiểm tra đánh giá :
Cấu trúc đề kiểm tra hoặc thi, phần làm văn chiếm 7 điểm ( gọi là phần tự
luận) Đề bài kiểm tra thường là ở kiến thức cơ bản, quen thuộc. Các bài làm văn
theo văn mẫu vẫn phải cho điểm dẫn đến tình trạng học sinh làm bài rập khuôn
máy móc. Khả năng nói và viết Tập làm văn nghị luận của học sinh còn yếu. Học
sinh không đủ trình độ năng lực ứng dụng những kiến thức Tập làm văn vào cuộc
sống. Cách đánh giá một bài làm văn có khi không phản ánh được thực chất, trình
độ khả năng của học sinh. Trong kiểm tra thi cử, học sinh chủ yếu làm được phần
trắc nghiệm, còn phần tự luận (Tập làm văn) đa số chỉ đạt được từ 50-70%.
2.2.6 Cách dạy của giáo viên :
Trong quá trình giảng dạy giáo viên chưa đảm bảo sự kết hợp giữa văn bản Tiếng Việt -Tập làm văn. Giờ học văn bản, sự gợi mở giúp học sinh cảm thụ tác
phẩm chưa đạt kết quả cao. Học sinh học thụ động buộc giáo viên phải thuyết giảng
nhiều. Chính điều này làm tê liệt sự hào hứng học văn bản, các em không nắm
được kiến thức văn chương, từ đó dẫn đến thiếu vốn kiến thức làm Tập làm văn giờ
Tiếng Việt đòi hỏi phải dạy cho học sinh dùng được Tiếng Việt một cách chính xác
để giao tiếp, để cảm thụ được cái đẹp ngôn từ và có cách diễn đạt tốt trong văn bản.
11
Nhưng trong tiết học, học sinh chưa được tận dụng tối đa các tình huống giao tiếp.
Thời gian thực hành, luyện tập chưa nhiều. Từ đó dẫn đến tình trạng học sinh viết
còn sai chính tả, dùng từ đặt câu chưa đúng ngữ pháp. Đây là một nguyên nhân
quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng bài làm văn. Giờ tập làm văn học sinh học
chưa được học đến nơi đến chốn, thực tế sách giáo khoa vẫn còn có một số bài trừu
tượng, khó hiểu đối với học sinh. Trong một tiết học, phần luyện tập quá ít thời
gian. Hơn nữa giáo viên không nhắc lại kiến thức để củng cố cho học sinh. Việc ra
đề kiểm tra nhiều khi cũng chưa đúng mức, thường là yêu cầu quá cao, hoặc vấn đề
quá quen thuộc Việc chấm bài cũng có thiếu sót, thường là giáo viên chỉ cho học
sinh mức điểm trung bình. Có những bài chỉ chấm điểm mà không có một lời phê
nào. Một tiết trả bài làm văn chưa được đầu tư cao.Vì thế học sinh không có nhiều
cơ hội rút kinh nghiệm.
2.1.7 Cách học của học sinh:
Phần lớn học sinh chưa có thói quen chuẩn bị bài trước khi lên lớp. Các sự
kiện, hiện tượng văn học được cung cấp ở lớp, học sinh chưa chịu khó tìm hiểu
thêm để mở rộng kiến thức. Đối với môn Tập làm văn, học sinh học tập một cách
máy móc.Trước một đề bài, các em ít khi nghiên cứu đề, chỉ đọc loáng thoáng và
cứ thế học sinh phóng bút viết tràng giang đại hải, không chốt lại ở một điểm nào.
Nhiều bài làm văn chưa đạt yêu cầu do chưa biết cách viện dẫn, dẫn chứng nghèo
nàn, thiếu chính xác và không theo trình tự. Trong nghị luận văn học thì chưa có sự
phân biệt về thể loại. Các em thiếu năng lực phân tích cần thiết, chưa thấy được cái
hay, cái đẹp có thật trong văn chương do không chú ý trong giờ đọc hiểu văn bản.
Vì vậy khi làm văn phân tích chỉ là sự suy diễn một cách nôm na.
Còn nghị xã hội các em làm bài đại khái chung chung. Khi làm bài, học sinh
chưa có ý thức sắp xếp các luận cứ, luận điểm theo một trình tự nhất định. Đa số
bài làm văn thấp điểm còn do chưa biết cách chuyển đoạn chuyển ý. Và không làm
theo trình tự hướng dẫn các bước: Tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý .
2.2.Những giải pháp cụ thể :
2.2.1 - Kiểm tra lý thuyết dưới hình thức tự luận ngắn:
Chương trình ngữ văn 9 mỗi học kì có 6 điểm kiểm tra thường xuyên, biên
chế theo mô hình 1-2-3. Cụ thể là: kiểm tra miệng đọc hiểu văn bản (1), tiếng Việt
với hình thức trắc nghiệm (2), tập làm văn với hình thức tự luận 15 phút (3).
Vídụ: Đề kiểm tra tự luận 15'- Chú trọng tái hiện kiến thức lí thuyết phần lý luận
văn học
Câu 1: Đặc điểm chức năng của văn bản nghị luận?
Câu 2: Đặc trưng cơ bản của văn bản nghị luận?
Câu 3 : Các thao tác nghị luận?
Câu 4 : Phương pháp làm bài văn nghị luận?
Câu 5 : Phân biệt kiểu bài bình luận với giải thích, chứng minh?
Câu 6: Phương pháp làm bài văn bình luận?
Câu 7 : Phân biệt hai kiểu nghị luận văn học?
Câu 8: Cách làm bài nghị luận văn học?
2.2.2- Kiểm tra vận dụng mức độ thấp dưới hình thức tự luận 45'
12
Với các bài kiểm tra tự luận từ 45' trở lên không chú trọng khả năng tái hiện
tri thức mà chú trọng khả năng vận dụng tri thức khuyến khích trí thông minh, óc
sáng tạo trong những tình huống và dạng đề cụ thể. Yêu cầu của những bài kiểm tra
này là bao quát được chương trình đã học theo chuẩn kiến thức kĩ năng đảm bảo
tính chính xác khoa học, phù hợp với thời gian kiểm tra, góp phần đánh giá khách
quan công bằng trình độ, năng lực học sinh.
Với kiểu bài nghị luận xã hội: Tôi thường đọc cho học sinh nghe một mẩu
chuyện trong cuốn “ Hạt giống tâm hồn” cho học sinh tranh luận tại lớp và về nhà
viết thu hoạch trình bày suy nghĩ của mình về vấn đề (luận đề) mà người viết đặt ra
trong văn bản để học sinh có điều kiện tư duy và trình bày suy nghĩ của mình một
cách độc lập, sáng tạo. Đề ra bám sát vào những vấn đề có tính thời sự xã hội cập
nhật, những vấn đề tư tưởng đạo lý cơ bản có tác dụng nâng cao nhận thức của
người viết nhằm xác lập tư tuởng đúng đắn để bồi dưỡng kĩ năng sống cho các em
dựa trên chính một trong những bài thu hoạch ấy. Đặc biệt chú trọng những vấn đề
có tính địa phương, tính toàn cầu. Cuối học kì 2 đề kiểm tra nghị luận xã hội nên
cho ở dạng mở khuyến khích những tìm tòi sáng tạo riêng của học sinh. Với những
đề này học sinh phải xác định tâm thế của người trong cuộc, không phải chỉ nói về
người khác, cho người khác mà cùng với nhận thức đời sống để vươn tới hoàn thiện
nhân cách của chính mình. Kết quả sau khi khảo sát bài viết cũng như lấy ý kiến
học sinh tất cả các lớp đều rất khả quan, các em rất hứng thú học.
VD:
Đề 1: Có người nói: “Hạnh phúc nhất là người cho chứ không phải người nhận”.
Em nghĩ như thế nào về ý kiến này?
Đề 2: Suy nghĩ của em về bạo lực học đường trong thời điểm hiện tại?
Đề 3: Giữa một vùng sỏi đá khô cằn, có những loài cây vẫn mọc lên và nở những
chùm hoa thật đẹp.
Viết một văn bản nghị luận không quá 400 từ nêu suy nghĩ của em được gợi
lên từ hiện tượng trên.
Với dạng đề nghị luận văn học: đa dạng hoá đề từ phân tích nhân vật đến
phân tích có so sánh theo hệ thống nhân vật cùng chủ đề; phân tích tác phẩm với
các thao tác so sánh tác phẩm này với tác phẩm khác cùng đề tài; từ nghệ thuật đến
đánh giá thành công về tư tưởng; từ các dạng đề có nhận định yêu cầu chứng minh
tính đúng đắn của nhận định đến phân tích, bình giá một chi tiết đặc sắc trong tác
phẩm.
VD-Đề kiểm tra tự luận 45':
Đề 1: Từ đặc trưng của hai kiểu nghị luận sau, em hãy lập dàn ý đại cương cho 2 đề
kiểm tra:
1. Vẻ đẹp của bài thơ Sang thu của nhà thơ Hữu Thỉnh
2. Phẩm chất và số phận người phụ nữ Việt nam thời phong kiến trong truyện
Người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ
Nghị luận về tác phẩm truyện(đoạn trích)
-Trình bày nhận xét, đánh giá về nhân vật,
sự kiện ,chủ đề và nghệ thuật của một tác
phẩm cụ thể.
Nghị luận về một đoạn thơ (bài thơ)
-Trình bày nhận xét, đánh giá về nội
dung và nghệ thuật của bài thơ, đoạn
thơ ấy.
13
-Xuất phát từ ý nghĩa của cốt truyện, tính
cách, số phận của nhân vật và nghệ thuật
trong tác phẩm.
-Nhận xét, đánh giá phải rõ ràng, đúng đắn,
có luận cứ, lập luận thuyết phục; bố cục
mạch lạc, lời văn chuẩn xác gợi cảm.
-Thể hiện qua ngôn từ,hình ảnh,giọng
điệu
-Bố cục mạch lạc,rõ ràng,lời văn gợi
cảm,thể hiện rung động,tình cảm chân
thành của người viết.
Đề 2. Đây là lời của người cha nói với con trong bài thơ của Y Phương:
''Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con!"
(Nói với con - Y Phương , Ngữ văn 9 tập 2)
Là người con, em sẽ nói gì với cha mình để đáp lại những lời dặn dò mong mỏi và
cả niềm lo lắng của cha.
2.2.3. Kiểm tra vận dụng mức độ cao với hình thức tự luận 90'(bài viết
số 1;2;3;4;5…)
VD - Dạng đề tự luận 90'
Đề 1 : 1-Từ câu chủ đề sau, em hãy triển khai thành một đoạn văn nghị luận hoàn
chỉnh có độ dài khoảng 15-20 dòng: Bằng sự am hiểu tâm lý nhân vật và tấm lòng
yêu quí trẻ thơ, bằng tài hoa tạo dựng tình huống truyện và miêu tả diễn biến
tâm lý nhân vật, Nguyễn Quang Sáng đã khắc hoạ thật sinh động hình ảnh bé
Thu, để lai ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn người đọc .
2- Cảm nhận của em về vẻ đẹp của hình ảnh người lính trong hai cuộc kháng
chiến qua hai bài thơ Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính .
Đề 2 :1- Hiện thực xã hội phong kiến Việt Nam được thể hiện sâu sắc qua các tác
phẩm văn học trung đại trong chương trình Ngữ văn 9.
2- " Một bài thơ hay không bao giờ ta đọc qua một lần mà bỏ xuống được. Ta
sẽ dừng tay trên trang giấy đáng lẽ lật đi, và đọc lại bài thơ (….). Cho đến một câu
thơ kia, người đọc nghe thì thầm mãi trong lòng, mắt không rời trang giấy "…
( Tiếng nói của văn nghệ - Nguyễn Đình Thi, Ngữ văn 9 -Tập hai )
Hãy chọn một bài thơ hay trong chương trình ngữ văn THCS mà em đã học,
phân tích và cảm thụ những câu em cho là '' Người đọc nghe thì thầm mãi trong
lòng, mắt không rời trang giấy "
2.2.4. Chú trọng tính phân hoá trong khi kiểm tra:
Một đề kiểm tra phải góp phần phân loại được học sinh theo mục tiêu và mặt
bằng chất lượng chung. Căn cứ trên yêu cầu cần đạt, đề kiểm tra phải đảm bảo đánh
giá được năng lực và thành tích học tập thực sự cử đa số học sinh. Ngay cả trong
những bài viết từ 45 'đến 90' cũng chia ra làm 2 đến 3 câu nhỏ, từ dễ đến trung bình,
khó sao cho điểm số có thể phản ánh trung thực nhất năng lực học tập của mỗi học
sinh để vừa kích thích sự sáng tạo của học sinh khá giỏi vừa khuyến khích sự tiến
bộ của học sinh trung bình.
2.2.5. Xây dựng hướng dẫn chấm (đáp án) và thang điểm chi tiết:
14
Để tạo điều kiện cho việc chấm chữa bài một cách thuận lợi công bằng và đặc
biệt là có độ tin cậy cao không phụ thuộc vào chủ quan của người đánh giá, biểu
chấm phải được xây dựng hết sức chi tiết.
Tuy nhiên để phát huy tính sáng tạo của học sinh thì biểu chấm phải thể hiện
sự linh hoạt tránh đếm ý cho điểm bởi văn không chỉ đúng mà còn phải hay.
2.2.6. Bước chấm bài, trả bài:
Theo tôi, đây là bước quan trọng nhất trong đánh giá học sinh vì giáo viên có
sửa lỗi kĩ học sinh mới rút được kinh nghiệm cho bài sau cũng như phát huy những
ưu điểm mà giáo viên đã đánh giá. Trước khi ra đề kiểm tra tôi đã có quy ước với
học sinh về mức độ đạt ( phần phương pháp làm bài) tương đương với số điểm. Ví
dụ: Mở bài không có luận đề bài văn sẽ không được chấm đợt 1. Làm lại đợt 2 trừ
25% số điểm. Làm bài không đúng quy trình cũng bị phạt tương tự.VD : Với bài
nghị luận về tác phẩm thơ phần thân bài bắt buộc phải theo quy trình: hoàn cảnh
sáng tác cộng mạch cảm xúc; phân tích theo hệ thống luận điểm, luận cứ tuỳ đề
ra; đánh giá chung giá trị nghệ thuật và nội dung. Nếu sai 1 trong các quy trình
trên sẽ bị trừ từ 20% tổng số điểm. Tương tự như vậy, bài nghị luận về 1 sự việc
hiện tượng đời sống nếu không đi theo qui trình thực trạng- hậu quả- nguyên
nhân- giải pháp sẽ bị trừ mỗi qui trình 25%.
* Chấm bài:
Chấm bài là khâu quan trọng để đánh giá kết quả một bài Tập làm văn cũng
như hiệu quả học tập của học sinh. Nội dung của khâu này bao gồm: đọc, sửa lỗi,
phê, ghi điểm.
Giáo viên dựa vào đáp án, biểu điểm để chấm bài. Khi chấm cần có thái độ
tôn trọng bài làm của học sinh. Điều này thể hiện qua cách sửa lỗi, lời phê và sự
công bằng trong ghi điểm.
Giáo viên nên chấm liền một mạch, nhưng cũng không nên vội vàng trong
quá trình chấm. Giáo viên phải sửa lỗi về chính tả, từ, câu và đánh dấu những ý hay
của học sinh. Lời phê cần ngắn gọn. Đặc biệt chú ý tới tính độc đáo của bài văn vì
đó là sự sáng tạo của học sinh.
Nếu bài làm văn của học sinh mà không có lời phê, các em sẽ không đánh giá
được khả năng làm bài của mình.Vì vậy lời phê tuy ngắn gọn nhưng phải chứa đủ
lượng thông tin để học sinh biết được ưu khuyết điểm, rút kinh nghiệm cho bài làm
sau. Cách ghi điểm cần cân nhắc kĩ, tránh sửa đi sửa lại.
Có thể nói tình cảm, lương tâm nghề nghiệp của người giáo viên văn được
thể hiện rõ nhất khi ngồi trước bài văn của học sinh với cây bút đỏ trên tay.
* Trả bài: Thường được tiến hành theo trình tự:
- Chép đề .
- Tìm hiểu đề.
- Hướng dẫn học sinh xây dựng dàn ý (Đáp án)
- Nhận xét ưu khuyết điểm trong bài làm của học sinh.
- Phân tích và sửa chữa lỗi về bố cục, chính tả, ngữ pháp, cách trình bày luận
điểm.
Đây là khâu có vai trò quan trọng trong việc khắc sâu lý thuyết và kỹ năng
thực hành.
15
Giáo viên cần chú ý những lỗi phải sửa và phân phối thời gian cho các loại
lỗi.
- Trả bài và cho học sinh đọc các bài làm khá để biểu dương khích lệ.
Tuy thời gian một tiết trả bài là rất ngắn, nhưng giáo viên không nên quên sử
dụng biện pháp hỏi-đáp để học sinh chú ý tập trung hơn.
2.2.7 Cách học của học sinh :
Học sinh phải nắm vững lí thuyết văn nghị luận để thực hành viết bài tốt. Bên
cạnh đó học sinh phải có vốn kiến thức đầy đủ và chính xác. Bao gồm kiến thức
sách vở và kiến thức đời sống xã hội.
Kiến thức sách vở là bao gồm kiến thức về văn học, đạo đức và các môn khoa
học khác. Kiến thức về đời sống chính là vốn sống, vốn hiểu biết thực tế.
Muốn có hai lĩnh vực kiến thức đó học sinh phải tích cực, tự giác học tập.
Phải rèn luyện kỹ năng thực hành Tiếng Việt, nhằm mục đích để viết câu, dùng từ,
dựng đoạn cho chuẩn mực.
Học sinh phải vận dụng mọi thao tác của trí tuệ như: Phân tích, tổng hợp, liên
tưởng, so sánh, đối chiếu.Thao tác này dẫn người đọc đi từ ý này đến ý khác một
cách lôgíc.
Học sinh cần đặc biệt chú ý rèn luyện các kỹ năng Tập làm văn nghị luận:
- Kỹ năng tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý.
- Kỹ năng lập luận.
- Kỹ năng diễn đạt và vận dụng luận chứng.
Bài văn nghị luận hoàn chỉnh đòi hỏi trình bày mạch lạc, rõ ràng. Thể hiện ở
hệ thống luận điểm, luận cứ, ở cách phân đoạn và chuyển ý. Lời văn giản dị tự
nhiên. Câu văn ngắn gọn, trong sáng, hình ảnh sinh động, dẫn chứng toàn diện tiêu
biểu.
2.2.8 Những yêu cầu để viết một bài văn nghị luận hay:
Một bài văn hay phải đạt những yêu cầu sau:
- Đúng yêu cầu đề bài.
- Viết đúng thể loại, đúng ngôn ngữ.
- Viết đúng kiến thức, đúng phương pháp, đúng quan điểm lập trường.
- Bài viết phải gây ấn tượng cho người đọc.
- Người viết phải tự đánh giá được chất lượng bài làm của mình.
Học sinh phải nhớ rằng học tốt văn nghị luận không phải chuyện dễ. Quốc
gia nào cũng vậy, môn văn là môn học số một của nền học vấn quốc gia ấy. Mỗi
dân tộc muốn phát triển thì phải duy trì và phát triển bản sắc văn hoá của mình.
Trong đó ngữ văn là linh hồn và trí tuệ. Vì vậy học sinh phải quyết tâm học cho
thật tốt văn nghị luận. Muốn vậy lên lớp phải chú ý nghe giảng, biết cảm nhận cái
hay,cái đẹp của bài học. Học sinh cần thuộc lòng nhiều câu thơ, đoạn thơ, thành
ngữ, tục ngữ, ca dao… Học thuộc lòng giúp cho sự “Võ trang” kiến thức và khả
năng sáng tạo. Đây là một phương pháp rèn luyện trí nhớ, bởi vì “Văn ôn võ
luyện”. Người học sinh giỏi văn cần có cuốn sổ ghi chép, tích luỹ kiến thức.
Thêm vào đó người học phải chăm đọc sách, đọc sách giáo khoa, đọc sách
tham khảo. Đọc sách để mở rộng kiến thức, nhưng phải đọc có ý thức.
Văn nghị luận là tiếng nói của trí tuệ, nó thuyết phục người đọc, người nghe
bằng lí lẽ, bằng cách lập luận. Bởi vậy văn nghị luận là kỹ năng trình bày lí lẽ nhằm
16
khẳng định một ý kiến, làm sáng tỏ một vấn đề. Nhưng để viết được một bài văn
nghị luận hay thì cần phải suy nghĩ nhiều, tập viết nhiều theo hướng dẫn của giáo
viên.
Tóm lại muốn giỏi văn nghị luận, học sinh phải thực sự yêu thích môn văn.
Phải tha thiết yêu cuộc sống, yêu cái đẹp; phải biết vui buồn trước cuộc sống của
con người. Toán học là trụ cột của khoa học tự nhiên, văn học là trụ cột của khoa
học xã hội. Một khi đã học tốt toán, văn thì các môn khác chắc chắn sẽ học tốt.
Người học có quyết tâm và trải qua khổ luyện thì hiệu quả sẽ cao.
3. Kết quả đạt được:
Trong những năm qua nhờ sử dụng các giải pháp như trên tôi đã thu được kết
quả bước đầu như sau:
Lớ
p
Số liệu khảo sát chất lượng giữa học kì II năm học 2014-2015
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
TB trở lên
SL
SL
SL
SL
SL
%
%
%
%
% SL %
số
Sĩ
9A
30
3
10
10 30.3 16 56.4
1
3.3
0
0
29
96.6
9B
31
3
9.6
12 38.7 15 48.5
1
3.2
0
0
30
96.8
- Học sinh giỏi các cấp hàng năm đều đạt theo chỉ tiêu đăng kí ở đầu năm học.
- Quan trọng hơn cả là học sinh nắm vững phương pháp làm văn nghị luận, các
em biết cách trình bày nhận xét, đánh giá về một vấn đề xã hội theo một phương
thức lập luận có sức thuyết phục.Và các em cũng đã biết cảm thụ tác phẩm văn
chương, cảm nhận được giá trị nội dung tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm.
Sáng kiến này đã được báo cáo trước tổ chuyên môn và được chị em trong tổ
thực hiện đạt kết quả tốt.
Phần thứ ba: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ
1. Kết luận :
Nâng cao chất lượng dạy và học nói chung, Tập làm văn nghị luận nói riêng
đang là mối quan tâm của nhiều người. Làm sao để học sinh học tốt văn nghị luận
vẫn là vấn đề thời sự của khoa học cần phải thảo luận thêm. Đổi mới kiểm tra đánh
giá theo hướng tích cực, tích hợp phát huy tính sáng tạo của học sinh sẽ góp phần
thúc đẩy chất lượng phân môn tập làm văn nói riêng và bộ môn ngữ văn nói chung.
Trong thực tế nhờ những chuyển biến trong quan điểm dạy học mới, nhiều
giáo viên đã nhận thức rõ được phương pháp dạy học mới. Đó là phát huy tính tích
cực chủ động trong giờ học. Giờ học dân chủ hơn, học sinh được thực hành giao
tiếp nhiều hơn. Học sinh nắm vững hai kiểu nghị luận chủ yếu: Nghị luận xã hội và
nghị luận văn học. Học sinh được sử dụng nhiều thao tác trong một bài văn nghị
luận. Học sinh biết kết hợp các phép lập luận để làm sáng tỏ một vấn đề. Đồng thời
rèn luyện tốt kỹ năng nói, viết. Văn nghị luận lớp 9 có sự kế thừa, nâng cao kiến
17
thức đã cung cấp ở lớp 7,8. Đây là tinh thần tích hợp dọc trong nội bộ phân môn
Tập làm văn. Các đề nghị luận luôn yêu cầu học sinh nhận xét, đánh giá theo quan
điểm riêng. Nó được thể hiện ở các cụm từ: Trình bày suy nghĩ về…Cảm nhận về…
Bàn về…
Phương châm quan trọng trong dạy - học văn nghị luận là phát huy tính tích
cực, chủ động của học sinh, học sinh viết đúng,viết hay văn nghị luận. Tính tích
cực học tập của học sinh biểu hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái trả lời câu hỏi
của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn; thích phát biểu ý kiến, hay nêu thắc
mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa rõ. Chủ động vận dụng kiến thức,
hoàn thành các bài tập …
Học sinh phải nắm được điều cần tránh và điều cần thực hiện như sau:
+ Điều cần tránh: Không viết khô khan, cộc lốc. Không rơi vào lỗi hành văn
bay bướm, văn hoa mà trống rỗng, cũ mòn.
+ Điều cần thực hiện: Bài văn có ý tứ sâu xa phong phú mà lời lẽ lại ngắn
gọn, hàm súc. Lời văn vừa mạch lạc, trong sáng vừa gợi cảm, có sức thuyết phục.
Văn viết có cái mới mẻ qua một phát hiện độc đáo, một liên tưởng sâu, tinh tế, một
hình ảnh đặc sắc, một so sánh bất ngờ lí thú.
Học sinh tiến đến một bước cao hơn là tự xây dựng cho mình một bút pháp,
một phong cách riêng. Giáo viên phải hướng dẫn học sinh học Tập làm văn kết
hợp với văn bản và Tiếng Việt. Kiến thức trong sách giáo khoa là cơ sở, nó được cô
đọng trong phần ghi nhớ. Học sinh cần phải được bồi bổ thêm bằng kiến thức đời
sống và kiến thức tiếp nhận được qua tích luỹ. Học sinh khi viết văn phải có cảm
giác về câu văn chuẩn và hay.
Bên cạnh đó,sự đổi mới phương pháp còn đòi hỏi người giáo viên phải có trách
nhiệm, có tâm huyết để làm cho giờ dạy ngày càng hấp dẫn thu hút học sinh và để
cho mỗi giờ kiểm tra là mỗi lần các em được thể hiện hết mình năng lực bản thân .
2. Đề xuất kiến nghị : Để rút kinh nghiệm và nâng cao phương pháp giảng
dạy, Tổ chuyên môn cũng cần thường xuyên dự giờ, thao giảng các tiết Tập làm
văn nghị luận.Các nhà trường nên xây dựng một ngân hàng đề kiểm tra có sự đóng
góp của anh chị em để tiện cho việc đồng bộ giữa các lớp trong tổ bộ môn.
Không có một kinh nghiệm nào là duy nhất có thể chung cho mọi người.
Không có một phép lạ dễ dàng nào để đi đến sự thành công. Tất cả các giáo viên
Ngữ văn đều đã và đang dạy học một cách say sưa, kiên trì. Với những suy nghĩ
trong đề tài này, người viết muốn trao đổi cùng đồng nghiệp để nhằm học hỏi và
nâng cao trình độ chuyên môn của mình. Vì vậy kính mong các cấp chỉ đạo và đồng
nghiệp vui lòng đóng góp ý kiến để kinh nghiệm được hoàn thiện hơn.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU
Thanh Hóa, ngày 16 tháng 4
TRƯỞNG
năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là
sáng kiến kinh nghiệm của mình
viết, không sao chép nội dung
18
của người khác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Nxb Giáo dục.
2. Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8 Nxb Giáo dục.
3. Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 9 Nxb Giáo dục.
4. Sách giáo viên Ngữ văn lớp 7 Nxb Giáo dục.
5. Sách giáo viên Ngữ văn lớp 8 Nxb Giáo dục.
6. Sách giáo viên Ngữ văn lớp 9 Nxb Giáo dục.
7. Chuẩn kiến thức kỹ năng môn Ngữ văn THCS, Nxb Giáo dục.
19