Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh lớp 9 học phần tiếng việt thi vào 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (449.3 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Mùa thi đã gần kề, hàng triệu học sinh cuối cấp đang ráo riết chuẩn bị cho
lần “vượt vũ môn”. Đối với học sinh lớp 9, kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 được gia
đình và bản thân học sinh đánh giá là bước ngoặt cuộc đời. Bởi đây là kỳ thi có
tính quyết định đến việc lựa chọn môi trường học tập mới, tự lập hơn trong 3
năm tới và định hướng tương lai sau này của học sinh. Vì vậy, bản thân học sinh
phải có sự chuẩn bị thật chu đáo và kĩ lưỡng.
Thế nhưng, từ lớp 1 đến lớp 9 cơ bản là học sinh chưa phải trải qua cuộc
thi cạnh tranh nào (trừ những cuộc thi học sinh giỏi dành cho đối tượng học sinh
giỏi) thì học sinh cứ đủ điểm là lên lớp. Vì thế học sinh chưa có kinh nghiệm và
chưa ý thức nhiều về sự cạnh tranh khi bước vào lớp 10 trong khi các bạn của
mình sẽ là đối thủ cạnh tranh trực tiếp. Bên cạnh đó, số lượng tuyển sinh của
từng trường đã được các Sở GD-ĐT phê duyệt nên tính cạnh tranh lại càng cao.
Chính vì vậy, đây được xem là nấc thang đầu đời của học sinh. Thành công của
học tập chỉ dành cho những em chịu khó, có ý thức học tập và được sự kèm cặp,
giáo dục nghiêm khắc cùng với cả những định hướng của gia đình và nhà
trường.
Có thể thấy đây là kì thi căng thẳng, nhiều áp lực đối với học sinh, đặc
biệt là đối với học sinh có học lực trung bình. Bởi ngồi tính cạnh tranh cao thì
dung lượng kiến thức các mơn thi rất nhiều, thời gian ơn lại gấp rút nên học sinh
khó có thể nắm hết được khối lượng kiến thức đó. Vì vậy vấn đề đặt ra ở đây đối
với mỗi thầy cơ giáo là làm thế nào để học sinh có thể làm tốt bài thi vào 10?
Bản thân là giáo viên môn Ngữ văn đã nhiều năm dạy lớp 9 và ôn thi vào
10 tôi thấy, riêng môn Ngữ văn thì dung lượng kiến thức trong một bài thi tương
đối nhiều, bao gồm cả ba phân môn: Tiếng Việt, Văn bản và Tập làm văn. Trong
q trình dạy học, tơi rất chú ý đến các đối tượng là học sinh có học lực trung
bình, bởi với học lực này thì để đủ điểm vào lớp 10 rất “bấp bênh”. Do đó, để
học sinh tránh điểm liệt, tránh mất điểm trong bài thi thì trong ba phần của một
bài thi Ngữ văn tôi rất chú trọng đến câu hỏi phần Tiếng Việt, dù nó chỉ chiếm
20% tổng số điểm của bài nhưng lại là phần thi dễ dàng có điểm nhất. Tuy nhiên,


trong q trình tìm hiểu thì tơi thấy có rất nhiều học sinh lại chưa chú tâm vào
phần câu hỏi Tiếng Việt, hoặc thường để mất điểm và mất nhiều thời gian đối
với nó, thậm chí có những bài thi cịn khơng có điểm, ảnh hưởng khơng nhỏ đến
kết quả chung của cả bài.
Xuất phát từ thực tế đó, bản thân tơi ln trăn trở tìm ra cho mình hướng
đi hiệu quả trong việc truyền đạt kiến thức và kinh nghiệm làm bài thi vào lớp 10
môn Ngữ văn nói chung và phần Tiếng Việt nói riêng. Chính vì thế, trong nhiều


năm giảng dạy, tơi đã tìm tịi tích lũy cho mình những kinh nghiệm đối với phân
mơn này và đã áp dụng có hiệu quả. Do đó, tơi xin mạnh dạn trình bày sáng kiến
kinh nghiệm “Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh lớp 9 học phần Tiếng
Việt thi vào 10” để bạn bè đồng nghiệp cùng tham khảo và góp ý.
II. Mục đích nghiên cứu
Đối với học sinh: học sinh vừa nắm chắc kiến thức phần Tiếng Việt lớp 9,
vừa có được những kĩ năng thành thạo khi làm bài tập Tiếng Việt, góp phần nâng
cao chất lượng bài thi vào lớp 10.
Đối với giáo viên: sẽ tích lũy thêm cho mình những kinh nghiệm trong dạy
học cả về kiến thức chuyên môn lẫn kiến thức về phương pháp. Có những kĩ năng,
phương pháp phù hợp trong từng đơn vị kiến thức, góp phần nâng cao chất lượng
dạy học.
III. Đối tượng nghiên cứu
- Về kiến thức: nội dung phần Tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn 9 thi
vào 10.
- Đối tượng áp dụng: Học sinh lớp 9A Trường THCS Yên Giang (Trong năm
học này tôi được nhà trường phân công giảng dạy lớp 9A từ tháng 11/2016)
IV. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Nghiên cứu lí thuyết mơn học với nhiều
mức độ khác nhau để làm cơ sở đi đến thực hành.
- Phương pháp quan sát: Quan sát để thu thập các thông tin trong q trình

đúc rút kinh nghiệm. Có thể quan sát thơng qua việc dự giờ đồng nghiệp, q
trình học tập của học sinh, tự kiểm nghiệm của bản thân. Quá trình quan sát có
thể diễn ra trong suốt một q trình.
- Phương pháp so sánh: Phân loại, đối chiếu kết quả trước và sau khi áp
dụng những kinh nghiệm vừa tìm tịi đối với học sinh.
- Phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp: bằng cách nêu vấn đề rồi đi
phân tích, sau đó thống kê và tổng hợp lại vấn đề một cách khái qt nhất.
- Ngồi ra cịn sử dụng các phương pháp dạy học tích cực trong quá trình
tổ chức dạy học giữa giáo viên và học sinh như: phát hiện và giải quyết vấn đề,
hoạt động nhóm, vấn đáp, đàm thoại….


NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận của vấn đề
Trong hệ thống các môn học ở nhà trường Phổ thông, Tiếng Việt là mơn
học, nội dung học giữ vai trị quan trọng. Bởi nó là cầu nối giữa con người với tri
thức khoa học, là phương tiện để học các môn khác, là chìa khóa trong giao lưu,
giao tiếp. Với tư cách là mơn học độc lập, Tiếng Việt có nhiệm vụ cung cấp cho
học sinh những kiến thức về ngôn ngữ học và hệ thống tiếng Việt cùng với
những quy tắc sử dụng trong giao tiếp. Mặt khác vì tiếng nói là cơng cụ của tư
duy nên tiếng Việt cịn đảm nhận thêm nhiệm vụ khác đó là trang bị cho học sinh
công cụ để tiếp nhận và diễn đạt mọi kiến thức khoa học trong nhà trường. Do
đó Tiếng Việt đã được chú ý tập trung cao độ ở trường trình cấp Tiểu học và
xuyên suốt quá trình học tập của người học sinh.
Trong chương trình Ngữ văn của bậc THCS, phần Tiếng Việt dạy cho học
sinh ngoài việc củng cố thêm những kiến thức mà học sinh đã được học ở bậc
Tiểu học còn cung cấp những kiến thức ở mức độ đòi hỏi tư duy sâu rộng hơn
với nhiều nội dung khác nhau. Riêng phần Tiếng Việt lớp 9 cũng khơng nằm
ngồi mục đích đó. Nội dung học của học sinh thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau
như: từ vựng, ngữ pháp, biện pháp tu từ và một số nội dung liên quan đến giao

tiếp (hội thoại)… Bên cạnh những kiến thức mới hoàn toàn với học sinh như:
Khởi ngữ, các thành phần biệt lập, cách dẫn trực tiếp và cách dẫn gián tiếp…
thì cịn có những kiến thức chỉ ôn tập lại như: Biện pháp tu từ, Từ loại, các kiểu
câu phân theo mục đích nói và cấu tạo… Đánh giá một cách khách quan, khối
lượng và mức độ kiến thức tiếng Việt lớp 9 so với các lớp dưới thì nhẹ nhàng
hơn. Thế nhưng đó lại là phần kiến thức trọng tâm để học sinh thi vào lớp 10.
Thực tế ta thấy, tiếng Việt lớp 9 vẫn đang cịn nghiêng nhiều về lí thuyết,
thực hành cịn ít và bài tập thì chưa thật sự đa dạng. Đặc biệt có một số dạng bài
tập khi học sinh tiếp cận lại chưa được hướng dẫn ở phần lí thuyết đi đến khái
niệm, thế nhưng vẫn được đưa vào trong các kì thi học kì và thi vào lớp 10. Đối
với q trình ơn thi vào lớp 10 của học sinh thì chỉ có quyển “Ơn luyện thi vào
lớp 10 môn Ngữ văn” dành cho học sinh tỉnh Thanh Hóa, NXB GD Việt Nam
cịn khơng cịn tài liệu nào để tham khảo. Trong khi đó, nội dung kiến thức trong
quyển sách này chỉ là sự khái quát, tổng hợp lại kiến thức học sinh đã được học
ở chương trình chính khóa và chưa thật sự đưa ra lượng kiến thức trọng tâm thật
cụ thể để học sinh bám vào khi tìm hiểu để làm bài. Nếu giáo viên chỉ dừng lại ở
việc cung cấp kiến thức ở trong sách, khơng “thốt li” nâng cao thêm thì sẽ có
những dạng bài tập học sinh khơng làm được. Vì thế trong q trình dạy lớp 9,
bản thân tơi đã tìm tịi, đọc thêm các loại tài liệu tham khảo để có thêm kiến thức
truyền đạt, hướng dẫn, giúp học sinh phải làm sao có được lượng kiến thức vừa


đủ để đạt điểm tối đa trong các kì thi học kì I, học kì II và đặc biệt là kì thi vào
10 ở phần Tiếng Việt này.
II. Thực trạng của vấn đề
1. Về phía học sinh
Việc thi vào lớp 10 là quá trình bắt buộc và quen thuộc đối với học sinh
lớp 9. Nhưng thực tế khi giảng dạy ở Trường THCS n Giang bản thân tơi
thấy có 3 vấn đề như sau:
- Thứ nhất, để có được kiến thức v ững chắc thi vào 10 thì phải cần một

thời gian dài để tích lũy cho mình. Nhưng tơi thấy, khi lên lớp 9 học sinh vẫn
học như những năm trước, khơng có sự chủ động chuẩn bị từ trước cho mình,
cho đến khi kết thúc năm học bước vào kì ơn thi nước rút học sinh mới thật sự
chú tâm. Do đó lượng kiến thức học sinh tiếp thu được thường là lượng kiến
thức bị dồn ép nên đã dẫn đến việc nhớ trước quên sau, lẫn lộn giữa kiến thức
bài này với kiến thức bài kia, ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả bài thi.
- Thứ hai, với những em có học lực khá, giỏi lại thường học lệch do học
sinh dành nhiều thời gian cho các kì thi học sinh giỏi. Khi kì thi học sinh giỏi
kết thúc thì cũng đã hết 2/3 năm học. Với khoảng thời gian cịn lại để chuẩn bị
cho kì thi vào 10 đối với học sinh là quá ít. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến
việc học sinh không thể tiếp thu đầy đủ lượng kiến thức của các môn học thi
vào 10.
- Thứ ba, do đặc điểm nơi cư trú của học sinh Yên Giang thuộc vùng
nông thôn, đời sống cịn nhiều khó khăn, ngồi thời gian học ở trường thì phần
nhiều học sinh dành thời gian phụ giúp cơng việc gia đình. Mặt khác, một số
gia đình có phụ huynh làm ăn xa nên không thể quan tâm sát sao đến việc học
tập của con em mình. Khi học sinh bước vào lớp 9, phụ huynh khơng có sự
định hướng cụ thể, thường để học sinh tự định hướng cho mình.
Đây chính là những ngun nhân ảnh hưởng đến q trình học tập của
học sinh nói chung và kì thi vào lớp 10 nói riêng. Cụ thể ở các bài thi cuối kì
(Bài khảo sát) thì tơi thấy có rất nhiều điểm thấp. Riêng đối với phân mơn
Tiếng Viết học sinh thường mắc các lỗi không nắm được các dạng bài, không
xác định được yêu cầu của đề… tất cả đều xuất phát từ việc học sinh chưa nắm
vững kiến thức mơn học.
2. Về phía giáo viên
Qua tìm hiểu các đồng nghiệp ở trường, tôi nhận thấy phần lớn các thầy
cô chưa thật sự coi trọng việc định hướng kiến thức cho học sinh bước vào lớp
10 mà mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp kiến thức giống như dạy ở các lớp dưới.
Mặt khác, khi đi dự giờ, đặc biệt là dự giờ Tiếng Việt tôi thấy có những
giáo viên vẫn cịn nặng vào việc bám sát sách giáo khoa, chỉ dừng lại ở kiến thức

trong sách, mà chưa có sự nâng cao, khắc sâu, cịn ít cho học sinh liên hệ và thực


hành. Trong khi đó Tiếng Việt là mơn học địi hỏi vận dụng nhiều vào giao tiếp
cuộc sống. Rồi có giáo viên còn chưa biết hệ thống, xâu chuỗi kiến thức ở các
bài học, khiến học sinh tiếp thu một cách rời rạc, khơng có được sự sâu rộng.
Bên cạnh đó, việc sử dụng, phối kết hợp các phương tiện và đồ dùng dạy
học chưa hợp lý và thành thạo. Có tiết dạy thì nghèo nàn, gần như dạy chay, lại
có tiết dạy lại sử dụng quá nhiều phương tiện và đồ dùng, khiến cho giờ dạy
không đạt hiệu quả.
3. Kết quả của thực trạng
Tôi đã thống kê kết quả phần Tiếng Việt trong bài thi Khảo sát học kì I
năm học 2016 - 2017 như sau:
Lớp

Sĩ số

9A

29

2 điểm
(Điểm tối đa)
5HS

Điểm từ 1 - 1,5

Điểm từ 0 - 0,5

15HS


9HS

III. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề
1. Xác định kiến thức trọng tâm thi vào 10
Xác định kiến thức trọng tâm với mục đích giúp học sinh có được tâm
thế chủ động, có sự chuẩn bị trước về kiến thức để thi vào lớp 10. Do đó trong
quá trình dạy, tơi khơng chờ đến giai đoạn ơn thi mới định hướng cho học sinh,
mà tôi thường chủ động định hướng trong quá trình giảng dạy trên lớp từ đầu
năm lớp 9. Bởi nếu so sánh ta thấy, kiến thức phần Tiếng Việt để thi vào lớp 10
cũng chính là phần kiến thức học sinh thi ở kì thi Khảo sát chất lượng học kì I
và học kì II của Sở GD&ĐT. Qua các kì thi Khảo sát đó cũng chính là cơ hội
để học sinh cọ sát, thử sức của bản thân, thấy được những mặt mạnh cũng hạn
chế của mình, từ đó có hướng khắc phục những hạn chế về kiến thức và cách
trình bày trong bài thi.
Cịn nếu đến giai đoạn ơn thi giáo viên mới định hướng phần kiến thức,
thì sẽ tạo nên áp lực căng thẳng cho học sinh. Bởi vì thời gian kết thúc năm học
cho đến ngày thi chính là thời gian để học sinh ôn và tổng hợp lại những kiến
thức đã được học chứ không phải là thời gian để học sinh học lại từng đơn vị
kiến thức như trên giờ học chính khóa. Do đó người giáo viên dạy lớp 9 phải
ln ln có sự chủ động định hướng trước kiến thức thi vào lớp 10 cho học
sinh.
Phần Tiếng Việt thi vào lớp 10 gồm những nội dung kiến thức sau:
- Các phương châm hội thoại
- Cách dẫn trực tiếp và cách dẫn gián tiếp
- Sự phát triển của từ vựng
- Các biện pháp tu từ
- Khởi ngữ



- Các thành phần biệt lập
- Nghĩa tường minh và hàm ý
Nội dung giới hạn ôn tập gồm kiến thức chương trình lớp 9 và các lớp
dưới (Các biện pháp tu từ). Tuy nhiên qua các năm thi gần đây thì tơi thấy phần
đa kiến thức chủ yếu rơi vào lớp 9. Do đó khi hướng dẫn học sinh học tơi
thường dành nhiều thời gian vào chương trình này.
2. Xác định các dạng bài tập thường ra
Sau khi xác định những nội dung kiến thức nằm trong cấu trúc đề thi,
vừa để giúp học sinh làm quen dần với các dạng bài tập và vừa chủ động chuẩn
bị kiến thức cho mình thì trong q trình dạy tơi thường xác định cho học sinh
một số dạng bài tập. Việc xác định các dạng bài tập được dựa vào thi vào lớp
10 của những năm trước đó và đề thi khảo sát cuối học kì của Sở GD&ĐT. Tơi
đã xác định được một số dạng như sau:
Dạng 1. Dạng bài tập lí thuyết điền từ ngữ thích hợp vào dấu ba chấm
(chỗ trống).
Đây là dạng bài tập yêu cầu học sinh điền những từ ngữ thích hợp vào
chỗ trống sao cho đúng. Dạng bài tập chủ yếu nghiêng về lí thuyết, mà cụ thể là
các khái niệm trong phần ghi nhớ của bài học. Bài tập này đòi hỏi học sinh phải
nhớ chính xác các khái niệm để xác định từ ngữ cần điền. Ví dụ:
Câu 1. Điền từ ngữ thích hợp vào dấu ba chấm trong câu sau:
Dẫn trực tiếp, tức là nhắc lại…………… lời nói hay ý nghĩ của người
hoạc vật.
(Đề thi vào lớp 10 năm học 2011 - 2012)
Câu 2. Điền từ ngữ còn thiếu vào chỗ trống để có kết luận đúng:
Có hai phương thức chủ yếu phát triển nghĩa của từ ngữ: phương thức
……………………………. và phương thức……………………………………
(Đề thi vào lớp 10 năm học 2012 - 2013)
Đây là dạng bài tập hay ra trong các kì thi Khảo sát cuối học kì. Để làm
được hai bài tập trên yêu cầu học sinh phải nắm được khái niệm về cách dẫn
gián tiếp và các phương thức phát triển nghĩa của từ.

Một hạn chế ở học sinh là khi học Tiếng Việt chỉ chú tâm vào phần bài tập
mà quên đi phần lí thuyết. Xác định dạng bài tập này để học sinh có sự chủ động
hơn trong việc nắm vững lí thuyêt rồi mới tiến hành làm bài tập ở mỗi bài học.
Dạng 2. Dạng bài tập tìm hoặc xác định.
Đây là dạng bài tập yêu cầu học sinh tìm hoặc xác định một vấn đề nào
đó ở trong câu văn hay trong đoạn văn. Đây là dạng bài tập nhận diện tương
đối dễ và cũng là dạng bài tập thường hay ra trong các kì thi khảo sát cuối kì và
thi vào lớp 10. Ví dụ:
Câu 1. Tìm khởi ngữ trong đoạn trích sau:


Một mình thì anh bạn trên trạm đỉnh Phan - xi - păng ba nghìn một trăm
bốn mươi hai mét kia mới một mình hơn cháu.
(Nguyễn Thành Long, Lặng lẽ Sa Pa)

(Đề thi vào lớp 10 năm học 2014 - 2015)
Câu 2. Từ tay trong những câu thơ sau được dùng theo nghĩa gốc hay
nghĩa chuyển?
- Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
(Chính Hữu, Đồng chí)

- Cũng nhà hành viện xưa nay,
Cũng phường bán thịt cũng tay buôn người.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)

(Đề thi vào lớp 10 năm học 2016 - 2017)
Đối với dạng bài tập này thì chỉ cần học sinh nắm vững phần lí thuyết và
phần bài tập trong sách giáo khoa thì sẽ làm được, bởi nó khơng địi hỏi mức
độ tư duy cao ở học sinh.

Dạng 3. Dạng bài tập chuyển đổi
Dạng bài tập này thường cho trước một ngữ liệu sau đó yêu cầu học sinh
chuyển đổi ngữ liệu. Trong qúa trình dạy học, tơi thấy đây là bài tập có mức độ
khó hơn so với hai dạng trên. Nếu giáo viên khơng tìm hiểu kĩ, khơng hướng
dẫn sâu thêm cho học sinh thì học sinh khó làm được. Ví dụ:
Câu 1. Hãy chuyển lời dẫn trực tiếp (in đậm) thành gián tiếp ở đoạn trích sau:
Vũ Nương nói:
- Tơi bị chồng ruồng rẫy, thà già ở chốn lang mây cung nước, chứ còn
mặt mũi nào về nhìn thấy người ta nữa!
(Đề thi vào lớp 10 năm học 2011 - 2012)
Câu 2. Viết lại câu sau bằng cách chuyển phần in đậm thành khởi ngữ
(có thể thêm trợ từ thì): Bạn ấy đi học rất đúng giờ.
(Đề thi vào lớp 10 năm học 2012 - 2013)
Ngồi ra cịn có sự kết hợp giữa bài tập xác định và bài tập chuyển đổi.
Ví dụ: a. Đâu là lời dẫn trực tiếp trong đoạn trích sau đây.
Nhưng nói ra làm gì nữa! Lão Hạc ơi! Lão hãy n lịng mà nhắm mắt!
Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão! Tơi sẽ cố giữ gìn cho lão. Đến khi con
trai lão về, tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo hắn: “Đây là cái vườn mà ông cụ
thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn; cụ thà chết chứ không chịu bán
đi một sào...”
b. Hãy chuyển lời dẫn trực tiếp thành lời dẫn gián tiếp và viết lại đoạn
trích.
(Đề thi vào lớp 10 năm học 2015 - 2016)


Ngồi ba dạng trên thì cịn có một số dạng bài tập khác nữa, tuy nhiên
tôi thấy đây là những dạng bài tập cơ bản hay ra trong đề thi vào lớp 10 trong
những năm gần đây.
Vấn đề đặt ra ở đây là, trong q trình dạy học tơi thấy ở cả ba dạng bài
tập này học sinh vẫn còn gặp nhiều vướng mắc, có rất nhiều em khi làm kết quả

không cao. Nên ở sáng kiến này tôi sẽ tập trung vào việc hướng dẫn từng dạng
bài tập một để học sinh làm tốt hơn.
3. Hướng dẫn học sinh làm các dạng bài tập
3.1. Dạng bài tập lí thuyết điền từ ngữ thích hợp vào dấu ba chấm (chỗ
trống)
Có một điều ta thấy, ở dạng bài tập này không yêu cầu học sinh viết lại
hoàn chỉnh một khái niệm hay một nội dung mà chỉ yêu cầu học sinh điền từ
ngữ còn thiếu vào chỗ trống (những từ ngữ quan trọng, trọng tâm của khái
niệm). Ví dụ:
Câu 1. Điền vào chỗ trống để có khẳng định đúng:
Khi giao tiếp cần chú ý nói ngắn gọn ......................... ; tránh cách nói
..................... (Phương châm cách thức).
=> Từ ngữ cần điền là rành mạch; mơ hồ
Câu 2. Điền từ ngữ còn thiếu vào chỗ trống để có kết luận đúng:
Có hai phương thức chủ yếu phát triển nghĩa của từ ngữ: phương thức
…………………………….và phương thức…………………………................................
=> Từ ngữ cần điền là ẩn dụ; hốn dụ
Thế nhưng, trong q trình dạy học, trao đổi với học sinh thì tơi được
biết, khi học Tiếng Việt học sinh ngại nhất là học phần lí thuyết mà chỉ chú tâm
vào phần bài tập. Đối với các khái niệm địi hỏi phải nhớ chính xác thì học sinh
thường nhớ một cách chung chung mơ hồ, đơi khi cịn nhầm lẫn giữa khái niệm
này với khái niệm kia. Nhiệm vụ của giáo viên là phải đưa ra một phương pháp
phù hợp nhất để học sinh có thể nắm được nội dung phần lí thuyết một cách
đơn giản mà hiệu quả nhất.
Một trong những phương pháp mà tôi đã sử dụng đó là hướng dẫn học
sinh vẽ bản đồ tư duy hoặc vẽ sơ đồ đối với kiến thức này. Vì ưu điểm lớn nhất
của bản đồ tư duy và sơ đồ chính là khả năng khái qt tồn bộ kiến thức bài
học rất cao (đặc biệt chương trình Tiếng Việt lớp 9 có rất nhiều nội dung kiến
thức được dạy trong nhiều tiết), lại vừa tập trung vào những từ khóa, từ ngữ
trọng tâm của một khái niệm.

Chẳng hạn khi dạy bài Các phương châm hội thoại, tôi đã hướng dẫn
học sinh vẽ bản đồ tư duy như sau:


Bản đồ tư duy này đã khái quát lại toàn bộ kiến thức của một nội dung
bài học trong nhiều tiết, vừa giúp học sinh nắm được các từ ngữ trọng tâm của
một khái niệm, vừa tránh sự nhầm lẫn giữa các khái niệm. Tương tự như vậy
đối với các bài: Sự phát triển của từ vựng, Các thành phần biệt lập, .... tôi
cũng đã sử dụng phương pháp này để hướng dẫn học sinh.
Ví dụ: Bài Sự phát triển của từ vựng tôi đã hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ
sau:
Các cách phát triển của từ vựng

Phát triển về nghĩa

Phương thức
ẩn dụ

Phương thức
hoán dụ

Phát triển về số lượng

Tạo từ ngữ
mới

Mượn từ ngữ
của tiếng nước
ngoài



Bằng việc sử dụng bản đồ tư duy hoặc sơ đồ trong q trình dạy, tơi thấy
học sinh đã hứng thú hơn nhiều khi học phần lí thuyết, điều này đã góp phần
quan trọng trong học tập của các em.
3.2. Dạng bài tập tìm hoặc xác định
Bất kì nội dung kiến thức nào cũng có dạng bài tập này. Tuy nhiên trong
q trình hướng dẫn làm bài tập tơi thấy, học sinh làm sai nhiều nhất ở bài tập
Xác định nghĩa gốc và nghĩa chuyển, đó là rất nhiều em không phân biệt đâu
là nghĩa gốc, đâu là nghĩa chuyển trong từng trường hợp cụ thể.
Ví dụ: Xác định nghĩa gốc và nghĩa chuyển ở từ được gạch chân trong
các câu sau.
- Ơng cho em ít hạt giống để trồng.
- Chạy ăn từng bữa.
- Bạn Nam ngồi đầu bàn.
Thay vì xác định từ hạt giống là nghĩa gốc, từ chạy và từ đầu là nghĩa
chuyển thì học sinh lại xác định từ hạt giống là nghĩa chuyển, từ chạy và từ
đầu là nghĩa gốc. Lỗi này diễn ra ở rất nhiều em.
Tôi rất ngạc nhiên khi thấy học sinh lại khơng xác định được, vì đây là
nội dung kiến thức học sinh đã được học từ lớp 6 ở bài Từ nhiều nghĩa và
hiện tượng chuyển nghĩa của từ. Qua trao đổi tôi được biết, cơ bản học sinh
không nắm được cách xác định nghĩa gốc và nghĩa chuyển. Do đó khi làm bài
tập nhiều khi chỉ là sự xác định chừng. Do đó tơi đã cung cấp lại và cung cấp
thêm kiến thức cho học sinh. Tôi đã tiến hành như sau:
*Bước 1: Nắm vững khái niệm nghĩa gốc và nghĩa chuyển.
- Nghĩa gốc là nghĩa xuất hiện từ đầu, làm cơ sở để hình thành các nghĩa
khác.
- Nghĩa chuyển là nghĩa được hình thành trên cơ sở của nghĩa gốc.
Ví dụ:
- Em bị đau chân. => nghĩa gốc, xuất hiện từ đầu
- Cái bàn này chân đã bị hư. => nghĩa chuyển, hình thành trên cơ sở của

nghĩa gốc.
* Bước 2: Cách xác định nghĩa gốc và nghĩa chuyển
Có rất nhiều cách để xác định nghĩa gốc nghĩa chuyển:
Cách 1: Dựa vào từ điển:
Trong từ điển, với một từ nhiều nghĩa thì nghĩa gốc được trình bày đầu
tiên, cịn nghĩa chuyển được trình bày sau.
Ví dụ : Các nghĩa của từ chân
+ Bộ phận dưới cùng của cơ thể người hay động vật, dùng để đi, đứng:
đau chân, nhắm mắt đưa chân...


+ Bộ phận dưới cùng của một số đồ vật, có tác dụng đỡ cho các bộ phận
khác phía trên: chân giường, chân đèn, ...
+ Bộ phận dưới cùng của một số đồ vật, tiếp giáp và bám chặt vào mặt
nền: chân tường, chân núi...
Tuy nhiên cách này có một cái khó, đó là khơng phải lúc nào học sinh
cũng có thể mang theo từ điển bên mình, và trong giờ kiểm tra thì khơng thể sử
dụng được.
Cách 2: Dựa vào mức độ nghĩa của từ
- Từ nào có ý nghĩa cụ thể hơn là nghĩa gốc: tức là học sinh có thể cảm
nhận được nghĩa của từ đó bằng các giác quan, có thể hình dung và miêu tả dễ
dàng.
- Từ nào có nghĩa trừu tượng hơn là nghĩa chuyển: tức là nghĩa của từ đó
khó cảm nhận, khó cắt nghĩa hơn.
Ví dụ: Từ cứng
- Thanh sắt cứng quá, không thể uốn cong được.
- Tay nghề của anh ấy rất cứng.
- Bạn ấy rất cứng đầu.
=> Ta có:
Cứng 1: Chỉ tính chất cụ thể, có thể cảm nhận được bằng tay => nghĩa

gốc.
Cứng 2: Chỉ trình độ cao, tay nghề vững vàng, không thể dùng tay để
cảm nhận được, có tính chất trừu tượng => nghĩa chuyển
Cứng 3: chỉ về tính cách, bướng bỉnh, khó bảo, khơng thể cảm nhận bằng
tay được, có tính chất trừu tượng => nghĩa chuyển
Cách 3: Nếu cả hai nghĩa đều cụ thể khó phân biệt, có thể dựa vào các
dấu hiệu sau:
- Dấu hiệu 1: Nghĩa của từ nói đến bản thân con người (hoặc động vật)
như chân, tay, tai, mắt, mũi... là nghĩa gốc. Ngược lại nếu nghĩa của từ nói đến
các đồ vật, vật có hình dáng, tính chất, hành động gần giống con người thì từ đó
được dùng theo nghĩa chuyển.
Ví dụ: Từ mũi
- Mũi cơ ấy rất đẹp.
- Mũi kim đã bị gẫy.
=> Ta có: Mũi 1 là nghĩa gốc, Mũi 2: là nghĩa chuyển.
Từ đó học sinh sẽ dễ dàng phân biệt được từ mắt người nghĩa gốc với mắt
na, mắt tre, mắt bão nghĩa chuyển... hoặc miệng người nghĩa gốc với miệng bát
nghĩa chuyển...


- Dấu hiệu 2: Nếu nghĩa của từ dùng để chỉ về tự nhiên như các mùa trong
năm, mặt trăng..., hoặc bộ phận của thực vật như quả, lá, hoa... thì đó là nghĩa
gốc. Ngược lại nếu để dùng chỉ con người là nghĩa chuyển.
Ví dụ: Từ quả
- Vườn nhà em có rất nhiều loại quả đã ăn được.
- Quả tim của ơng ấy đã yếu lắm rồi.
=> Ta có: Quả 1 là nghĩa gốc, quả 2 là nghĩa chuyển.
*Bước 3: Áp dụng làm bài tập
Sau khi hướng dẫn học sinh cách phân biệt nghĩa gốc, nghĩa chuyển để
củng cố kiến thức tôi sẽ cho học sinh làm bài tập. Tôi thường cho học sinh làm

các dạng bài tập sau:
- Dạng 1: Đưa ra 1 từ cần xác định nghĩa gốc, nghĩa chuyển trong nhiều
ngữ cảnh khác nhau.
Ví dụ: Cho từ xuân, hãy xác định nghĩa gốc và nghĩa chuyển.
- Trước lầu Ngưng Bích khố xn.
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
- Ngày xuân con én đua thoi
Thiều quang chín chục đã ngồi sáu mươi
- Mùa xn là tết trồng cây
Làm cho đất nước càng ngày càng xuân
- Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
=> Nghĩa gốc: xuân 2, 3 ; Nghĩa chuyển: xuân 1, 4, 5
- Dạng 2: Cùng một lúc xác định nghĩa gốc và nghĩa chuyển của nhiều từ
khác nhau.
Ví dụ: Xác định nghĩa gốc và nghĩa chuyển ở các từ gạch chân trong
những câu sau.
- Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường
- Mẹ ta khơng có yếm đào
Nón mê thay nón quai thao đội đầu.
- Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
=> Nghĩa gốc: trăng, đầu; nghĩa chuyển: hoa. Dạng bài tập này sẽ có mức độ
khó hơn một chút để nâng cao kiến thức cho học sinh.
Như vậy, với ba bước trên tôi thấy đã giúp học sinh nắm vững hơn phần kiến
thức nghĩa gốc và nghĩa chuyển, do đó khi gặp những bài tập ở phần này học sinh
đã khơng cịn lúng túng nữa.



3.3. Dạng bài tập chuyển đổi
Đây là dạng bài tập có mức độ khó hơn so với hai dạng trên. Vì trong
q trình dạy tơi thấy phần bài tập này không được hướng dẫn cụ thể trong bài
học mà giáo viên cần phải hướng dẫn thêm cho học sinh. Chẳng hạn, ở bài
Cách dẫn trực tiếp và cách dẫn gián tiếp, phần lí thuyết khơng hướng dẫn cụ
thể cách chuyển từ trực tiếp sang gián tiếp hoặc ngược lại nhưng ở phần bài tập
lại có. Rồi ở bài Khởi ngữ cũng thế... Do đó khi hướng dẫn học sinh làm bài
tập, tơi đã “thốt li” sách giáo khoa, cung cấp thêm kiến thức cho học sinh. Cụ
thể như sau:
a. Cách chuyển từ trực tiếp sang gián tiếp hoặc ngược lại
Đây là một nội dung trong bài Cách dẫn trực tiếp và cách dẫn gián tiếp
không được hướng dẫn cụ thể trong sách giáo khoa. Để cung cấp thêm kiến
thức cho học sinh tôi đã tiến hành như sau:
* Bước 1: Yêu cầu học sinh nắm vững kiến thức về lời trực tiếp và lời
dẫn gián tiếp.
- Lời dẫn trực tiếp:
+ Nhắc lại nguyên văn lời nói hay ý nghĩ
+ Được đặt trong dấu ngoặc kép kết hợp dấu hai chấm hoặc có dấu gạch
đầu dịng (lời thoại của nhân vật)
Ví dụ 1: Họa sĩ nghĩ thầm: “Khách tới bất ngờ, chắc cu cậu chưa kịp
quét tước dọn dẹp, chưa kịp gấp chăn chẳng hạn”.
(Nguyễn Thành Long, Lặng lẽ Sa Pa)
Ví dụ 2: Chàng vội gọi, nàng vẫn ở giữa dòng mà nói vọng vào:
- Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng khơng bỏ. Đa tạ
tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa.
(Nguyễn Dữ, Chuyện người con gái Nam Xương)

- Lời dẫn gián tiếp:
+ Thuật lại lời nói hay ý nghĩ có điều chỉnh cho thích hợp
+ Khơng đặt trong dấu ngoặc kép, thường đứng sau từ rằng hoặc là.

Ví dụ: Trong dịp nói chuyện với các thầy giáo, cơ giáo dạy văn ở Hà Nội
tháng 3 năm 1963, nhà thơ Tố Hữu cho rằng, nghề dạy văn thật đáng yêu, dạy
văn học thật là một niềm vui sướng lớn.
* Bước 2: Hướng dẫn cách chuyển
Cách chuyển từ trực tiếp sang gián tiếp :
- Xác định một số yếu tố sau:
+ Đặc điểm hình thức: dấu ngoặc kép, dấu hai chấm hoặc dấu gạch đầu
dịng đối với lời thoại
+ Từ ngữ xưng hơ: xưng hô theo ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba.


+ Xác định có tình thái từ ở trong lời nói hay ý nghĩ của người hoặc nhân
vật như: nhỉ, nhé...
- Cách chuyển:
+ Bỏ dấu ngoặc kép, dấu hai chấm hoặc dấu gạch đầu dịng nếu có (vì có
những bài tập khơng có đặc điểm hình thức này)
+ Chuyển từ ngữ xưng hơ sao cho thích hợp: nếu là ngơi thứ nhất thì
chuyển sang ngơi thứ ba.
+ Lược bỏ các tình thái từ (nếu có)
+ Có thể thêm từ rằng hoặc từ là đặt trước lời dẫn.
+ Điều chỉnh từ ngữ sao cho thích hợp mà vẫn giữ được nội dung.
Lưu ý: Khơng phải ở trường hợp nào cũng có đầy đủ các dấu hiệu trên
mà tùy vào từng ví dụ cụ thể để ta lược bỏ, thay đổi hay thêm bớt sao cho phù
hợp.
Cách dẫn từ gián tiếp sang trực tiếp:
Ngược lại với cách dẫn từ trực tiếp sang gián tiếp thì thay vào việc bớt đi
ta lại thêm vào các dấu hiệu sau:
- Thêm dấu ngoặc kép, dấu hai chấm hoặc dấu gạch đầu dòng.
- Thay đổi từ ngữ xưng hô từ ngôi thứ ba sang ngôi thứ nhất.
- Thêm các tình thái từ vào cuối câu dẫn.

- Lược bỏ từ rằng hoặc từ là.
- Nhắc lại nguyên văn lời nói hay ý nghĩ của nhân vật hoặc người.
*Bước 3: Áp dụng bài tập:
Câu 1. Hãy chuyển câu dưới đây thành cách dẫn gián tiếp:
Họa sĩ nghĩ thầm: « Khách tới bất ngờ, chắc cu cậu chưa kịp quét tước
dọn dẹp, chưa kịp gấp chăn chẳng hạn. »
(Nguyễn Thành Long, Lặng lẽ Sa Pa)
Với bài tập này ta thấy khi chuyển sang dẫn gián tiếp thì bỏ đi dấu hai
chấm và dấu ngoặc kẹp, thêm từ rằng và điều chỉnh từ ngữ xưng hô từ cu cậu
thành anh thanh niên trong lời dẫn trực tiếp sao cho thích hợp.
Ta có kết quả sau: Ơng họa sĩ nghĩ thầm rằng ông và cô kỹ sư tới bất
ngờ, chắc anh thanh niên chưa kịp quét tước dọn dẹp, chưa kịp gấp chăn
chẳng hạn.
Câu 2. Chuyển lời dẫn trực tiếp sang lời dẫn gián tiếp ở ví dụ sau:
Thành: - Chiều nay tớ không đi lao động được nhé.
Ở bài tập này ta thấy lời dẫn trực tiếp là lời thoại của nhân vật có dấu
gạch đầu dịng trước lời thoại, từ ngữ xưng hô ở ngôi thứ nhất ( tớ), có tình thái
từ ở cuối câu (nhé). Khi chuyển sang gián tiếp ta bỏ dấu gạch đầu dòng, thay
đổi từ ngữ xưng hô sang ngôi thứ ba (hoặc lược bỏ), lược bỏ tình thái từ, thêm
từ là vào trước lời dẫn.


Ta có kết quả sau: Thành nói là chiều nay không đi lao động được.
Câu 3. Hãy chuyển ý kiến dưới đây thành cách dẫn gián tiếp.
Người Việt Nam ngày nay có lí do đầy đủ và vững chắc để tự hào với
tiếng nói của mình.
(Đặng Thai Mai, Tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc)

Riêng với bài tập này ta thấy khác so với hai bài tập trên đó là chỉ có ý
kiến để chuyển, khơng có các dấu hiệu hình thức như trên. Tuy nhiên, nếu tinh

ý học sinh có thể làm một cách dễ dàng. Đó là ta có phần bổ sung thơng tin tác
giả và tác phẩm ở góc phải của ý kiến: Đặng Thai Mai, Tiếng Việt, một biểu
hiện hùng hồn của sức sống dân tộc. Học sinh có thể dựa vào đó làm lời dẫn
dắt để đi đến lời dẫn gián tiếp. Ở đây có thể thêm từ rằng hoặc từ là và thêm
bớt từ ngữ sao cho phù hợp.
Ta có kết quả như sau: Trong cuốn sách Tiếng Việt, một biểu hiện hùng
hồn của sức sống dân tộc, Đặng Thai Mai khẳng định rằng, người Việt Nam
ngày nay có lí do đầy đủ và vững chắc để tự hào với tiếng nói của mình.
Câu 4. Hãy chuyển câu dưới đây thành cách dẫn trực tiếp
Khi ta làm việc, ta với cơng việc là đơi, sao gọi là một mình được?
( Nguyễn Thành Long, Lặng lẽ Sa Pa )

Với bài tập này ta có thể thêm dấu hai chấm, dấu ngoặc kép và giữ nguyên
câu văn. Ta có kết quả sau: Anh thanh niên đã từng nói:“Khi ta làm việc, ta với
cơng việc là đơi, sao gọi là một mình được?”
b. Viết lại câu có thành phần khởi ngữ
Đối với đơn vị kiến thức này thì thường có hai dạng bài tập sau:
- Dạng thứ nhất: Cho ngữ liệu và yêu cầu học sinh chuyển từ ngữ in đậm
trong ngữ liệu đó thành khởi ngữ.
Ví dụ: Chuyển từ ngữ in đậm trong câu sau thành khởi ngữ.
Anh ấy làm bài rất cẩn thận.
- Dạng thứ 2: Cho ngữ liệu và yêu cầu học sinh viết lại câu có thành phần
khởi ngữ.
Ví dụ: Viết lại câu sau đây để có thành phần khởi ngữ.
Bạn ấy là người học giỏi mơn tốn nhất lớp tôi.
Qua hai dạng trên ta thấy dạng thứ hai khó hơn dạng thứ nhất. Vì ở dạng
thứ nhất trong ngữ liệu đã xác định sẵn từ ngữ để chuyển thành thành phần khởi
ngữ. Còn ở dạng thứ hai thì muốn có thành phần khỏi ngữ thì học sinh phải tự
xác định từ ngữ để chuyển. Do đó cái khó của dạng thứ hai chính là ở chỗ này.
Sau khi xác định được rồi thì việc chuyển từ ngữ đó thành khởi ngữ thì lại rất dễ.

Để giúp học sinh tôi đã làm như sau:
* Bước 1: Xác định các trường hợp cấu tạo của khởi ngữ


-Trường hợp 1: Khởi ngữ là đối tượng (ĐT) mà chủ thể hướng tới ở trong
câu.
Ví dụ: Quyển sách này, tôi đã đọc rồi. (Ở thành phần vị ngữ đã lược đi từ
KN

ngữ chỉ đối tương.)
- Trường hợp 2: Khởi ngữ là đặc điểm (ĐĐ), hoạt động (HĐ), tính chất
(TC) của chủ thể ở trong câu.
Ví dụ: Học, anh ấy học rất chăm.
KN



- Trường hợp 3: Khởi ngữ là sự lặp lại chủ thể (CT) ở trong câu.
Ví dụ: Đối với cháu, cháu cảm thấy rất vui.
KN

CT

* Bước 2: Hướng dẫn viết câu có khởi ngữ
Để hướng dẫn học sinh làm dạng bài tập này, tôi đã chia thành các bước
nhỏ sau:
- Xác định từ ngữ để chuyển thành khởi ngữ: Khi xác định từ ngữ trong
câu để chuyển thành khởi ngữ thì sẽ dựa vào việc phân loại ở bước thứ nhất.
- Hướng dẫn viết câu có khởi ngữ: Tùy vào từng trường hợp cụ thể sẽ có
cách chuyển khác nhau.

(Phần xác định và chuyển đổi sẽ được trình bày cụ thể ở bước 3: Áp dụng
bài tập)
* Bước 3: Áp dụng bài tập
- Trường hợp 1: Khởi ngữ là đối tượng mà chủ thể hướng tới ở trong câu.
Ví dụ: Tơi đã đọc quyển sách này rồi.
+ Xác định các yếu tố trong câu (chủ ngữ (CN), hoạt động (HĐ), đối
tượng (ĐT)). Ta sẽ có như sau:
Tơi đã đọc quyển sách này rồi.
CN



ĐT

+ Xác định từ để chuyển thành KN: “quyển sách này”
+ Cách chuyển: Đưa từ ngữ được xác định lên trước CN. Ở vị ngữ (VN) có
thể lược bỏ từ chỉ đối tượng hoặc dùng từ ngữ có tác dụng thay thế để tránh lặp từ.
Có thể thêm trợ từ thì đứng sau KN hoặc thêm quan hệ từ về, đối với ở trước KN.
Ta sẽ có kết quả như sau: Quyển sách này, tơi đã đọc rồi.
KN

CN

Về quyển sách này, tơi đã đọc nó rồi.
KN

CN

- Trường hợp 2: Khởi ngữ là đặc điểm, hoạt động, tính chất của chủ thể ở
trong câu.

Ví dụ: Anh ấy học rất chăm.
Ông ấy là người nổi tiếng nhất thế giới.


+ Xác định các yếu tố trong câu (chủ ngữ (CN), hoạt động (HĐ), đối
tượng (ĐT), đặc điểm (ĐĐ)). Ta sẽ có như sau:
Anh ấy học rất chăm.
CN



Ơng ấy là người nổi tiếng nhất thế giới.
CN

ĐĐ

+ Từ để chuyển thành KN ở hai câu trên là từ học và từ nổi tiếng
+ Cách chuyển: Đưa từ học (câu 1) và từ nổi tiếng (câu 2) lên trước CN. Ở
VN có thể lặp lại thành phần KN. Có thể thêm trợ từ thì đứng sau KN hoặc thêm
quan hệ từ về, đối với ở trước KN.
Ta có kết quả như sau:
Học, anh ấy học rất chăm.
KN

CN

Về nổi tiếng thì ơng ấy là người nổi tiếng nhất thế giới.
KN

CN


- Trường hợp 3: Khởi ngữ là sự lặp lại chủ thể ở trong câu.
Ví dụ1: Cháu cảm thấy rất vui.
+ Xác định các yếu tố trong câu (chủ ngữ (CN), hoạt động (HĐ), đối
tượng (ĐT), đặc điểm (ĐĐ)). Ta sẽ có như sau:
Cháu cảm thấy rất vui.
CN



ĐĐ

+ Ở trường hợp này nếu ta chuyển từ chỉ hoạt động (cảm thấy) lên làm
KN câu khơng có nghĩa, hoặc nếu đưa từ chỉ đặc điểm (vui) làm KN thì khi đọc
câu khơng xi tai. Do đó phải đưa thành phần CN (Cháu) lên làm KN
+ Cách chuyển: Đưa từ cháu lên trước CN làm KN, nên thêm trước KN từ
đối với hoặc từ với. Lúc này KN sẽ là sự lặp lại thành phần CN là chủ thể trong
câu. Ta sẽ được kết quả sau:
Đối với cháu, cháu cảm thấy rất vui.
KN

CN

Ví dụ 2: Chúng ta có thể so sánh hai trường hợp sau:
+ Tơi thấy mình có lỗi về việc này.
CN



ĐT


=> Về việc này, tơi thấy mình có lỗi. (KN là đối tượng trong câu)
KN

+ Tơi
CN

CN

thấy mình có lỗi.


=> Đối với tơi, tơi thấy mình có lỗi. (KN là chủ thể trong câu)
KN CN

*Ngồi việc hướng dẫn cụ thể từng trưởng hợp tơi cịn lưu ý với học sinh
đối với dạng câu ghép. Câu ghép có bao nhiêu vế thì sẽ có bấy nhiêu khởi ngữ.
Ví dụ: An có máy tính rồi nhưng An chưa biết sử dụng.


Đây là câu ghép có hai vế, do đó sẽ có 2 khởi ngữ. Cụ thể như sau: Máy
tính thì An có rồi nhưng sử dụng thì An chưa biết sử dụng.
KN

CN

KN

CN


Như vậy, bằng việc hướng dẫn chi tiết, cụ thể tơi thấy bước đầu học sinh
đã khơng cịn lúng túng khi làm dạng bài tập này. Và tôi tin chắc sau khi được
luyện tập nhiều các em sẽ càng thành thạo hơn.
4. Kiểm tra kiến thức học sinh thông qua luyện tập và thử sức với
các đề thi
Sau khi hướng dẫn chi tiết đối với một số dạng bài
tập mà học sinh cịn hay làm sai, tơi sẽ chuyển sang
giai đoạn kiểm tra kiến thức học sinh thông qua
luyện tập và thử sức với các đề thi.
Luyện tập thông qua quá trình làm bài tập để học
sinh củng cố thêm kiến thức và đồng thời tự đánh giá
mức độ kiến thức của mình để có sự điều chỉnh phù hợp.
Ngồi buổi học chính, tơi cịn cho học sinh làm bài tập
xen kẽ vào các buổi học thêm, giao bài tập cho học sinh
làm ở nhà.
Tiếp theo tôi sẽ cho học sinh thử sức với các đề thi.
Để có đề cho học sinh thủ sức, tôi thường sưu tầm đề thi
vào lớp 10 ở năm trước và ra thêm đề thi thử. Với giai
đoạn này tôi thường triển khai ở những thời điểm sau:
chuẩn bị thi học kì I và học kì II (hoặc thi khảo sát theo
đề chung của Sở GD) và giai đoạn ôn nước rút thi vào lớp
10.
Đề thi các năm trước đó là những đề thi tổng hợp và sát nhất để học sinh
thực hành những kiến thức mình đã ơn luyện và thử sức với đề thi. Dựa vào kết
quả bài làm các đề thi năm trước để đánh giá khả năng của mình, mạnh về phần
nào, yếu về kiến thức nào để bổ sung và hồn thiện những chỗ cịn yếu.
Cịn đối với đề thi thử do giáo viên tự biên soạn để luyện tập thêm, cũng
là một cách ôn luyện kĩ càng hơn trước khi tham chiến với kì thi chính thức.
Ngồi ra tơi cịn rèn luyện cho học sinh kỹ năng làm bài bằng cách bấm giờ để
học sinh làm quen với việc phân phối thời gian làm bài và áp lực làm bài thi sao

cho chính xác và nhanh nhất, để dành thời gian cho những câu hỏi cịn lại khó
hơn.
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường
Đối với hoạt động giáo dục: Thơng qua q trình vận dụng các giải pháp
trên, tơi thấy học sinh đã có sự chuyển biến rõ rệt đối với việc học phân môn Tiếng


Việt và việc ôn tập kiến thức thi vào 10. Đã biết khắc phục những hạn chế, yếu kém
của mình trong quá trình học và thực hành như: biết cách phân biệt các dạng bài
tập; có kĩ năng tiếp thu kiến thức, kĩ năng làm bài tập tốt hơn. Đây cũng chính là
những yếu tố quan trọng để học sinh làm bài tốt hơn trong kì thi vào lớp 10.
Đối với bản thân: Các biện pháp này không chỉ giúp cho chất lượng giảng
dạy được nâng cao hơn mà còn tích lũy thêm cho mình những kinh nghiệm và
phương pháp dạy học sao cho hiệu quả. Bản thân tôi cảm thấy thật hạnh phúc
khi mình đã góp một phần nhỏ trên con đường học tập của các em học sinh thân
yêu.
Đối với đồng nghiệp và nhà trường: Tuy đây chỉ là những kinh nghiệm
của cá nhân bản thân những tôi nghĩ sẽ tác dụng nhất định đối với các đồng
nghiệp trong nhà trường trong dạy học phân môn Tiếng Việt. Từ đó tạo động lục
để mọi người cùng nhau học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với nhau để có thêm
những kinh nghiệm mới, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục chung của nhà
trường.
Để kiểm nghiệm hiệu quả của sáng kiến tôi đã ra đề thi thử. Kết quả như
sau:
Lớp

Sĩ số

9A


29

2 điểm
(Điểm tối đa)
15HS

Điểm từ 1- 1,5

Điểm từ 0 - 0,5

13HS

1HS

Qua kết quả thống kê trên ta thấy học sinh đã có sự chuyển biến rõ rệt so
với kết quả của học kì I. Đây chính là kết quả đáng mừng để góp phần cho kì thi
vào 10 của các em tốt hơn.


KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. Kết luận
Với những năm tháng công tác trong nhà trường tôi thấy, trong rất nhiều
chặng đường của người học sinh thì kì thi vào 10 cũng được xem là một bước ngoặt
quan trọng đối với cuộc đời các em. Đây là cột mốc làm tiền đề quyết định tương
lai của học sinh khi bước vào một bậc học khác. Do đó cũng như bao giáo viên
khác, bằng những kinh nghiệm áp dụng trong quá trình dạy học, tơi muốn góp một
chút cơng sức của mình vào chặng đường cuối cùng ở bậc THCS của các em. Đó là
những kinh nghiệm trong việc hướng dẫn học sinh học phân môn Tiếng Việt để thi
vào lớp 10.

Trên đây là một vài kinh nghiệm tôi đã sử dụng trong việc hướng dẫn học
sinh lớp 9 học phần Tiếng Việt thi vào 10. Tuy nhiên, do điều kiện về thời gian, tư
liệu và trình độ cho phép nên trong quá trình rút ra kinh nghiệm cho mình, tơi đang
cịn gặp nhiều vướng mắc, bỏ ngỏ nhiều vấn đề cần phải được tiếp tục tìm hiểu sâu
hơn. Kính mong sự đóng góp chân tình của các đồng nghiệp.
II. Kiến nghị
- Đề nghị Phòng Giáo dục thường xuyên tổ chức các chuyên đề về phương
pháp dạy học Ngũ văn, mở các lớp học ngoại khố để giáo viên có cở hội trao đổi,
học tập những kinh nghiệm của nhau.
- Đề nghị nhà trường tổ chức các buổi thảo luận, trao đổi của tổ, tham quan
giao lưu giữa các trường với nhau để nâng cao chất lượng giờ dạy.

XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Yên Giang, ngày 10 tháng 3 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm do tôi viết, không sao chép
nội dung của người khác!
Người viết


Phùng Chung Thủy

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ngữ văn 9 tập 1, NXB Giáo dục
2. Ngữ văn 9 tập 2, NXB Giáo Dục
3. Sách giáo viên Ngữ văn 9 tập 1, NXB Giáo dục
4. Sách giáo viên Ngữ văn 9 tập 2, NXB Giáo dục
5. Ôn luyện thi vào lớp 10 mơn Ngữ văn (Dành cho học sinh tỉnh Thanh Hóa),

NXB Giáo dục
6. Các đề thi vào lớp 10 Môn Ngữ văn của Sở GD&ĐT


MỤC LỤC
Nội dung
MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
II. Mục đích nghiên cứu
III. Đối tượng nghiên cứu
IV. Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận của vấn đề
II. Thực trạng của vấn đề
III. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề
1. Xác định kiến thức trọng tâm thi vào 10
2. Xác định các dạng bài tập thường ra
3. Hướng dẫn học sinh làm các dạng bài tập
3.1. Dạng bài tập lí thuyết điền từ ngữ thích hợp vào dấu ba chấm
(chỗ trống)
3.2. Dạng bài tập tìm hoặc xác định
3.3. Dạng bài tập chuyển đổi
4. Kiểm tra kiến thức học sinh thông qua luyện tập và thử sức với các
đề thi
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. Kết luận
II. Kiến nghị


Trang
1
1
2
2
2
3
3
4
5
5
6
8
8
10
13
18
18
20
20
20

DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SKKN ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP
PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI
TỪ LOẠI C TRỞ LÊN


Họ và tên tác giả: Phùng Chung Thủy
Chức vụ: Giáo viên Trường THCS Yên Giang

TT
Tên
đề tàiGIÁO
SKKNDỤC VÀ ĐÀO
Cấp đánh
KếtĐỊNH
quả
PHÒNG
TẠO YÊN
giáYÊN
xếp loại
đánh giá
TRƯỜNG THCS
GIANG
(Phòng, Sở, xếp loại
Tỉnh)
(A, B, C)
1

2

3

4

5

6

Năm học

đánh giá
xếp loại

Để có giờ dạy Tiếng Việt hiệu
Phịng
B
2006 – 2007
quả (Ngữ văn 7)
GD&ĐT
Kinh nghiệm khắc phục khó
khăn trong việc
giảng
dạy
Tiếng KIẾNPhịng
TĨM
TẮT
SÁNG
KINH NGHIỆM
A
2011 – 2012
Việt lớp 7 cho học sinh vùng
GD&ĐT
khó
Tích hợp giáo dục bảo vệ mơi
trường trong dạy học chương
Phịng
B
2012 – 2013
trình địa phương môn Ngữ văn
GD&ĐT

lớp 9.
Kinh nghiệm giáo dục kĩ năng
MỘT
SỐhọc
KINH
NGHIỆM
DẪN HỌC SINH
sống cho
sinh thơng
qua các HƯỚNG
Phịng
A VÀO
2013
9 HỌC
PHẦN
VIỆT THI
10 – 2014
tácLỚP
phẩm viết
về đề tài
gia đìnhTIẾNG
GD&ĐT
trong mơn Ngữ văn lớp 9
Một số giải pháp khắc phục khó
khăn trong việc hướng dẫn học
Phòng
B
2014 – 2015
sinh đại trà lớp 9 làm bài tập
GD&ĐT

Nghị luận xã hội
Góp phần nâng cao ý thức học
sinh thơng qua giáo dục kĩ năng
Phịng
C
2015 – 2016
sống cho học sinh qua phần bài
GD&ĐT
tập Nghị luận xãNgười
hội lớpthực
9
hiện: Phùng Chung Thủy

Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Yên Giang
SKKN thuộc lĩnh vực môn: Ngữ văn

YÊN ĐỊNH, NĂM 2017



×