Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Phát huy tính tích cực chủ động của HS trong giờ học ngữ văn THCS bằng phương pháp thảo luận nhóm và tổ chức trò chơi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.52 KB, 15 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Việc đổi mới phương pháp giảng dạy Ngữ văn hiện nay luôn là vấn đề
được ngành giáo dục quan tâm bàn luận một cách sôi nổi bởi nó là yếu tố quyết
định hiệu quả giờ dạy. Phương pháp dạy học đổi mới chú trọng đến việc phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh làm cho học sinh ham
thích môn học. Điều 24, Luật giáo dục (do Quốc hội khóa X thông qua) cũng đã
chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học, bồi
dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn,
tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
Đối với môn Ngữ văn cũng vậy, bởi một trong những mục đích của giờ
văn là làm sao gây được rung động thẩm mĩ, giáo dục nhân cách cho học sinh.
Đây là định hướng cơ bản thiết thực đối với mỗi giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn.
Thế nhưng phần lớn HS chưa thực sự say mê, yêu thích học bộ môn này, chưa
thực sự thấy hứng thú trong những tiết học văn.
Từ thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn THCS; Từ sự trăn trở “làm thế nào
để HS hứng thú học môn Ngữ văn ?” thì ngoài việc truyền đạt kiến thức, tôi nghĩ
rằng mình cần phải biết gây hứng thú học tập cho học sinh để tiết học thực sự
nhẹ nhàng, sinh động; học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên, không
gượng ép, tạo hứng thú, bồi dưỡng lòng say mê học tập và ý chí vươn lên của các
em. Từ đó mới phát huy thực sự tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh.
Song có nhiều phương pháp, nhiều kĩ thuật dạy học tích cực để giúp học sinh
hứng thú, chủ động trong học tập và giúp các em yêu thích bộ môn nhưng trong
phạm vi của sáng kiến kinh nghiệm này tôi chọn đề tài: "Phát huy tính tích cực
chủ động của HS trong giờ học Ngữ Văn THCS bằng cách thảo luận nhóm và tổ
chức trò chơi"
1.2. Mục đích nghiên cứu
Góp phần nâng cao chất lượng học tập, tạo hứng thú học tập các bộ môn
cho HS trong nhà trường nói chung. Giúp HS nắm được những kiến thức chuẩn
môn học một cách nhẹ nhàng thông qua những giờ thảo luận và những trò chơi


phù hợp.
Góp phần giải quyết tình trạng lười học, chán học và không biết cách học
môn Ngữ văn của HS trong nhà trường hiện nay. Từ đó tạo điều kiện cho GV
hứng khởi hơn trong những giờ dạy văn.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Học sinh bậc THCS trường THCS Quảng Ngọc và Chương trình Ngữ văn
THCS..
1. 4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát thực nghiệm và phân tích nội dung;
- Phương pháp trắc nghiệm khách quan;
- Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động.
- Phương pháp khái quát từ hoạt động mảnh ghép
1


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận
Nghị quyết hội nghị lần II BCH TW Đảng khoá VIII nêu rõ: "Đổi mới
phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện
thành nếp tư duy sáng tạo của người học; phương pháp giáo dục phải phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, bồi dưỡng lòng say mê
học tập và ý chí vươn lên. Do đó tạo hứng thú cho HS trong học tập là góp phần
thực hiện thành công nhiệm vụ trọng tâm này trong giáo dục". Vì vậy đòi hỏi
giáo viên phải tích cực đổi mới, phương pháp dạy học theo đặc trưng bộ môn
tạo cho các em sự tự chủ, tích cực, tự giác, chủ động trong học tập. bên cạnh
việc giúp các em nắm vũng trọng tâm kiến thức bài học theo chuẩn kiến thức kĩ
năng cho HS, giáo viên còn giúp các em yêu thích môn học,
Chúng ta đều biết, môn văn là môn cơ bản góp phần hình thành nhân cách
HS, đặc biệt đối tượng của môn văn là những tác phẩm văn thơ,, là những kiến
thức về ngôn ngữ. Chính vì vậy, để thực hiện một giờ học có hiệu quả, người GV

cần dùng nhiều phương pháp như: phân tích, diễn giảng, vấn đáp, nêu vấn đề, gợi
ý,…và đặc biệt, để tạo một giờ học phong phú, sinh động, thì việc dùng hình
thức thảo luận nhóm sẽ giúp HS trao đổi ý kiến với nhau, bổ sung cho nhau các
kiến thức còn thiếu sót, HS sẽ sôi nổi hơn trong học tập. Việc lồng ghép vài trò
chơi trong quá trình giảng dạy sẽ giúp HS cảm giác hứng thú, tích cực, sôi nổi
hơn, không gây sự nhàm chán trong một tiết học môn Ngữ văn.
Trong nhiều năm làm công tác giảng dạy, tôi nghiệm thấy rằng cái ước
muốn dạy văn sao cho hay, học văn sao cho giỏi, viết văn sao cho tốt là ước
muốn của rất nhiều GV và HS. Muốn vậy, người GV chúng ta phải biết làm mới
bài giảng của mình để kích thích sự hứng thú của HS trong học tập. Với cách tổ
chức cho HS thảo luận nhóm và tham gia các trò chơi trong dạy học văn sẽ góp
phần tạo hứng thú cho HS trong học tập, nâng cao chất lượng học tập bộ môn
Ngữ văn trong trường THCS.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Thực tế hiện nay, HS từ bậc Tiểu học lên bậc THCS còn có rất nhiều em
kĩ năng đọc hiểu những nội dung kiến thức trọng tâm trong các văn bản còn yếu.
Đây là một trở ngại quá lớn khi các em lại phải tiếp tục tìm hiểu, khám phá
những kiến thức cao hơn, rộng lớn hơn, trừu tượng hơn. Mặt khác học văn còn
phải đọc nhiều, viết nhiều, đòi hỏi HS phải biết liên tưởng, tưởng tượng nhiều
nên dẫn đến việc chán học, không hứng thú học văn, mất dần kiến thức và kỹ
năng cơ bản
Chương trình vẫn còn những bài dạy dung lượng kiến thức lớn so với thời
lượng từ 45 – 90 phút nghiên cứu trên lớp nên HS lại càng khó tiếp thu kiến thức.
Chính điều này mà HS bị hạn chế rất nhiều trong việc tiếp thu và cảm thụ kiến
thức Ngữ văn.
Những năm gần đây cho thấy HS nói chung và HS ở trường THCS
Quảng Ngọc nói riêng đã phần nào ý thức được đây là bộ môn chính quyết định
chất lượng học tập. Các em luôn cố gắng để đạt được trung bình để không bị
khống chế trong xếp loại học lực. Các giờ học nhìn chung đã có một không khí
mới, hào hứng, sôi nổi. Học sinh được giao việc, tức là được chủ động tham gia

2


vào các hoạt động trong giờ học với tư cách là một chủ thể tích cực. Học sinh
làm việc dưới sự hướng dẫn của giáo viên, không khí tiết học đôi khi ồn ào
nhưng học sinh rất hào hứng đón nhận, giảm thái độ đối phó, miễn cưỡng bởi các
em đã tìm được sự hứng thú cho mình.
Tuy nhiên đi sâu vào thì việc học của học sinh chủ yếu là đối phó, nhiều
em lười học, học yếu môn Ngữ văn, ít ham thích học văn không chịu đầu tư suy
nghĩ, phát biểu xây dựng bài trong giờ học, khâu chuẩn bị bài còn hời hợt, tiếp
thu bài chậm
Kiến thức thực tế về văn học của các em còn nghèo nàn, phương pháp học
tập còn lúng túng. Do đó, kiến thức văn học các em không nhớ được; kiến thức
tiếng Việt các em dùng từ ngữ trong giao tiếp thiếu chính xác. Đặc biệt các bài
Tập làm văn thường mắc lỗi chính tả, câu văn viết chưa đúng ngữ pháp, cách
diễn đạt vụng về, sáo mòn, lệ thuộc vào sách tham khảo. Nghĩa là các em chưa
có tính sáng tạo trong việc tạo lập văn bản theo yêu cầu.
.
Về phía giáo viên: vẫn còn một số giáo viên còn lúng túng trong phương
pháp giảng dạy, ngại đổi mới, giáo viên còn nói nhiều, làm việc nhiều, làm việc
thay cho HS, năng về mặt truyền thụ kiến thức, trong một tiết dạy đưa ra khá
nhiều thông tin, chưa tạo sự hứng thú cho HS trong học tập chưa hướng dẫn HS
nắm bắt được những kiến thức trọng tâm của bài học một cách nhẹ nhàng và sinh
động mà còn áp đặt, dạy theo kiểu truyền thống (thầy giảng, trò nghe và ghi
chép), không có sự linh hoạt trong việc kết hợp các phương pháp. Điều này dễ
đưa các em vào thế bị động ghi nhớ, không tạo điều kiện cho các em độc lập suy
nghĩ, sáng tạo. Từ đó dẫn đến sau này đứng trước nhiều vấn đề mới các em bỡ
ngỡ, bị động, lúng túng vàkhông có đủ khả năng, bản lĩnh để giải quyết những
vấn đề phức tạp trong cuộc sống.
Một số tiết dạy vẫn còn rập khuôn theo trình tự 5 bước lên lớp. Nó biến

giờ học thiếu sự phóng khoáng, trở nên nhạt nhẽo, làm tê liệt sự hào hứng của
học sinh.. Bên cạnh đó là việc sử dụng các giáo án mẫu, thiết kế bài giảng một
cách máy móc làm mất đi sự cảm thụ sáng tạo riêng của cá nhân.
Từ thực tế giảng dạy, tôi thấy niềm vui và sự ham thích sẽ là một động lực
lớn giúp học sinh vượt qua khó khăn để vươn lên trong học tập. xuất phát từ
những cơ sở đó. Với tư cách là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn
trong thời gian qua, tôi luôn trăn trở để tìm,áp dụng những biện pháp, kĩ thuật
dạy học tích cực nhằm gây hứng thú cho học sinh để các em yêu thích, say mê
môn học.
2. 3. Các giải pháp sử dụng để thực hiện đề tài
Để giờ học văn đạt kết quả cao và khơi dậy ở các em HS sự yêu thích môn
học ttooi sử dụng một số giải pháp sau đây:
- Phân loại đối tượng HS, khả năng tiếp thu kiến thức cũng như trình độ
kiến thức của HS.
- Gần gũi, quan tâm động viên, khích lệ HS trong học tập.
- Nghiên cứu kỹ nội dung bài học để đề ra những tình huống thảo luận,
những trò chơi phù hợp với từng bài học.
3


- Dự giờ thăm lớp để nắm kỹ về đối tượng HS và học hỏi những kinh
nghiệm về cách tạo hứng thú cho HS trong phương pháp giảng dạy.
- Có kế hoạch trao đổi với tổ, với đồng nghiệp để tổ chức những giờ dạy
thực nghiệm áp dụng những hình thức thảo luận nhóm và trò chơi trong giờ học
hoặc giờ ngoại khoá. Cụ thể là:
2.3.1. Hình thức tổ chức thảo luận nhóm
Đặc trưng của phương pháp thảo luận nhóm là cho học sinh được hội thoại
tự do theo nhóm của mình, học sinh có cơ hội trình bày ý kiến, suy nghĩ của
mình và được nghe ý kiến của bạn. Mọi ý kiến đều được trân trọng bao gồm cả
những kinh nghiệm mà các em có được. Ở phương pháp này học sinh cũng có cơ

hội sử dụng các kĩ năng nhận biết bậc cao như đánh giá và tổng hợp. Khi tổ chức
cho các em thảo luận, hoạt động theo nhóm sẽ tạo không khí thi đua, sôi nổi, toải
mái cho giờ học. Ngoài ra nó còn khơi dậy sự gắn bó của tập thể, tạo sự hứng
thú, tạo cơ hội cho các em học hỏi. Những học sinh nhút nhát thường ít phát biểu
trong lớp, sẽ có môi trường tốt để động viên tham gia xây dựng bài. Ở hoạt động
này các lỗi sai đều được giải đáp, học sinh tự sửa lỗi và dạy lẫn nhau trong bầu
không khí rất thoải mái và sôi nổi. Học sinh có thể cùng nhau đạt được những
điều mà các em không thể làm được một mình.
Có những cuộc thảo luận cần số đông nhưng cũng có những cuộc thảo
luận chỉ nên ít người.
Ví dụ: Khi dạy bài “ Con hổ có nghĩa” ( Ngữ văn 6 )
Giáo viên có thể áp dụng những dạng câu hỏi thảo luận sau:
- Câu hỏi cho nhóm nhỏ ( theo bàn )
? Bài văn thuộc thể văn gì? Có mấy đoạn ? Mỗi đoạn có ý nghĩa như thế nào?
- Câu hỏi thảo luận cho nhóm lớn:
? Tác giả muốn nói với em điều gì cao quí ở hai con hổ? Vì sao ở đây tác giả lại
dụng lên hình tượng con để nói chuyện “ nghĩa”?
Vai trò của người giáo viên rất quan trọng. Giáo viên là người tổ chức, tạo
điều kiện lắng nghe và hỗ trợ khi cần. Giáo viên không nên can thiệp sâu vào
cuộc thảo luận của học sinh, nên tôn trọng để học sinh chủ động làm việc. Tuy
nhiên giáo viên nên theo sát diễn biến cuộc thảo luận và có thể tham gia như một
thành viên để dẫn dắt, ghi nhận những tích cực của học sinh bằng ngôn ngữ, cử
chỉ, ánh mắt, nụ cười hoặc gật đầu đồng tình.
Ngoài sách giáo khoa, giáo viên tự tìm đọc những loại sách tham khảo, tài
liệu có liên quan, xây dựng mô hình tiết dạy, thiết kế bài giảng, nghiên cứu băng
hình mẫu.
Dự giờ đồng nghiệp trong trường để tích lũy kinh nghiệm giảng dạy.
Đưa ra một số biện pháp cụ thể đã áp dụng có hiệu quả trong quá trình
giảng dạy.
2.3.1.1 Cách thức tổ chức

4


- Để thực hiện một tiết dạy học Ngữ văn có sử dụng hình thức hoạt
độngnhóm, chúng ta hãy bắt đầu bằng cách chia lớp học thành các nhóm nhỏ từ (
2,4,6 em). Chúng ta cần phải biết cách chia nhóm, chọn kiểu nhóm nào để phù
hợp với điều kiện lớp bạn. Nhóm: Gồm 2 đến 6 em, tuỳ mục đích và yêu cầu của
vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc lựa chọn chủ định,
được duy trì ổn định hoặc thay đổi theo từng phần của tiết học, được giao nhiệm
vụ cụ thể.Các nhóm lớn (6 em) tạo điều kiện cho các thành viên trong nhóm
niềm tin lớn nhất về kết quả làm việc vì có nhiều khả năng tìm câu hỏi đúng. Vớí
loại nhóm này, thu hút được nhiều ý kiến, nhiều kinh nghiệm và có khả năng hiểu
đúng, hiểu nhanh chóng nhiệm vụ. Tuy nhiên nhóm lớn cũng có hạn chế là khó đi
đến quyết định thống nhất và giáo viên khó quản lí.Các nhóm nhỏ (2- 4 em) các
em có nhiều cơ hội để thể hiện ý kiến của mình, thống nhất ý kiến nhanh hơn và
dễ quản lí hơn.
Cơ cấu nhóm:
Để nhóm hoạt động có hiệu quả, các thành viên phải biết rõ nhiệm vụ của
mình, vì vậy phải phân công nhiệm vụ cho các em:
- Trưởng nhóm: điều khiển hoạt động nhóm.
- Thư kí: ghi chép kết quả hoạt động của nhóm sau khi đã thống nhất.
- Báo cáo viên: Báo cáo kết quả làm việc của nhóm.
- Thành viên khác: có nhiệm vụ tham gia tích cực vào các hoạt động của
nhóm. Trong nhóm có học sinh phải thay nhau đóng vai của các thành viên trên
hoặc kiêm nhiệm.
Khi hoạt động nhóm các thành viên trên cần:
- Hướng vào nhau ( ngồi thành vòng tròn hoặc xung quanh bàn )
- Chăm chú lắng nghe người khác phát biểu.
- Từng thành viên sẵn sàng đưa ra ý kiến của mình.
- Trao đổi, thảo luận để có ý kiến thống nhất.

- Tuân theo sự điều khiển của từng nhóm trưởng.
- Đảm bảo thời gian.
Cách chia nhóm Trong giờ lên lớp, tuỳ theo mục tiêu của từng hoạt động. GVcó
thể chia nhóm nhỏ có từ hai HS trở lên. Việc chia nhóm nhiều hay ít HS là do GV
yêu cầu và quyết định. Sau đây là một số cách chia nhóm đang được giáo viên áp
dụng:
- Gọi ngẫu nhiên: tuỳ theo mục đích chia nhóm giáo viên có thể chia nhóm
thích hợp (từ số 1 đến số 6…rồi quay trở lại).
- Chỉ định: Giáo viên lần lượt đọc tên học sinh vào từng nhóm.
- Chia nhóm biểu tượng: GV có thể dùng các biểu tượng: hình tam
giác,hoa hồng, các loại qủa, tên các anh hùng …để chia nhóm. Các em có cùng
biểu tượng vào một nhóm để tạo ra sự ngẫu nhiên và thoải mái cho học sinh.
- Chia từng cặp: Giáo viên chỉ định hai học sinh ngồi gần nhau làm
việc.Cách này thường diễn ra ngay sau khi học sinh làm việc cá nhân.
- Với hình thức thảo luận nhóm thì chúng ta có thể sử dụng trong tất cảc
các tiết dạy, trong tất cả các bài học. Còn hình thức tổ chức trò chơi thì chỉ có thể
áp dụng ở một số bài cho phù hợp, tuy nhiên để sử dụng trò chơi trong một tiết
dạy thì bắt buộc trong đó sẽ có hình thức thảo luận nhóm.
5


Khi cho HS thảo luận nhóm thì có rất nhiều cách để chúng ta thực hiện:
- Viết sẵn câu hỏi ra giấy rồi phát cho mỗi nhóm một tờ.
- Treo bảng phụ có ghi nội dung câu hỏi thảo luận.
- Chỉ cho HS câu hỏi trong sách GK và HS nhìn vào đó để thảo luận.
- Từ một ý kiến thắc mắc của HS về bài học, tổ chức cho các em thảo luận.
2.3.1.2 Chuẩn bị của giáo viên:
- Phiếu học tập, bảng phụ,…chuẩn bị nội dung câu hỏi thảo luận.
- Câu hỏi thảo luận nên chia nhỏ, câu hỏi khó phải có câu hỏi gợi mở.
- Nội dung câu hỏi phải rõ ràng, phù hợp với đối tượng HS.

- Câu hỏi phải phát huy khả năng tư duy, kích thích khả năng sáng tạo cho
HS.
- Các câu hỏi chỉ nên xoay quanh nội dung chính của bài học.
- Thời gian thảo luận không quá ngắn HS không kịp định hình, cũng không
quá dài ảnh hưởng tới thời gian tiết học.
- Phân nhóm cho HS thảo luận không nên quá ít mà cũng không quá đông.
- HS thảo luận xong, GV gọi ít nhất hai nhóm trả lời, còn lại thu bài về nhà
chấm và sửa hôm sau phát lại (tránh mất nhiều thời gian của tiết học).
- Phân công một HS nhanh nhẹn làm trưởng nhóm, một HS ghi nhanh làm
thư ký.
- Việc sử dụng hình thức thảo luận nhóm thì có thể sắp xếp bất kì khoảng
thời gian nào trong tiết dạy.
2.3.1.3 Chuẩn bị của học sinh:
- Đọc kĩ các câu hỏi trong phần bài học.
- Ghi ý kiến của bản thân về các câu hỏi cho là khó.
- Mạnh dạn trình bày ý kiến trước lớp.
2. 3.1.4 Một số ví dụ minh hoạ:
Khi dạy văn bản Chuyện người con gái Nam Xương , có thể dùng một số
câu hỏi thảo luận như sau:
- Lời trăn trối của bà mẹ chồng giúp ta hiểu thêm điều gì về nàng Vũ
Nương ?
- Theo em, nguyên nhân dẫn đến nỗi oan của Vũ Nương là gì? Em hãy chỉ
rõ và phân tích những nguyên nhân đó ?
- Theo em, có cách nào để kết cục cuộc đời của những con người như Vũ
Nương, Thị Kính không rơi vào bi kịch mà không cần đên sức mạnh thần bí ?
Khi dạy văn bản Đồng chí của Chính Hữu, để thấy rõ nghệ thuật của bài
thơ cũng như sự chuyển ý thơ, ta có thể đặt câu hỏi: Câu thơ thứ 7 trong bài thơ
có gì đặc biệt ?
Đối với bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, có thể đặt câu hỏi: Tại sao tác giả
lại viết “Một bếp lửa ấp iu nồng đượm” ? , sau đó dùng câu hỏi gợi mở: Từ “ấp

iu” thể hiện hành động như thế nào ? Bếp lửa luôn gắn với hình ảnh nào trong bài
thơ ? Bếp lửa có thể hiện được sự ấp iu không ?...
Khi dạy bài Các phương châm hội thoại, sau khi HS đọc xong truyện cười
“Quả bí khổng lồ”: GV đưa ra những câu hỏi sau đây cho HS thảo luận nhóm 4
em trả lời:
6


- Quả bí to bằng cái nhà có đúng không? Nếu nói cho đúng về quả bí to thì
nên nói như thế nào?
- Trả lời cái nồi đồng to bằng cả cái đình có đúng không? Nếu nói cho
đúng về cái nồi to thì nên nói như thế nào? - Những câu trả lời trên đã có bằng
chứng xác thực đưa ra chưa ?
- Như vậy, trong giao tiếp có điều gì cần tránh ?
Trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích: Tại sao tác giả để Thuý Kiều
nhớ Kim Trọng trước rồi mới nhớ đến cha mẹ? Điều đó có hợp lí không?Vì sao ?
Trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều: Nếu đặt tên cho văn bản này,
em sẽ đặt như thế nào ?
Trong đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga: Có ý kiến cho rằng
“Lục Vân Tiên” gần như là tự truyện của Nguyễn Đình Chiểu. Qua so sánh cuộc
đời nhân vật Lục Vân Tiên và cuộc đời tác giả, ý kiến của em như thế nào ?
Trong bài Nghị luận trong văn bản tự sự: GV cho 2 nhóm tìm hiểu đoạn
trích trong bài học theo những gợi ý dưới đây:
- Nội dung của mỗi đoạn trích là gì ?
- Yếu tố lập luận trong đoạn trích: Vấn đề cần lập luận, luận cứ, luận chứng,…
- Từ ngữ, kiểu câu dùng trong lập luận (đặc biệt ở đoạn trích 1).
Văn bản Những ngôi sao xa xôi, thảo luận về ý nghĩa của tên truyện:
“Những ngôi sao xa xôi” có ý nghĩa gì ? Trên đây chỉ là một vài ví dụ cụ thể về
việc áp dụng hình thức thảo luận trong dạy học văn.
Trong chương trình Ngữ văn THCS còn có rất nhiều bài học có thể áp

dụng một cách linh hoạt hình thức này trong dạy học.
2.3.2. Hình thức sử dụng trò chơi trong dạy học văn:
2.3.2.1 Cách thức tổ chức:
Đối với việc sử dụng trò chơi thì cũng cần chú ý lựa chọn trò chơi phù
hợp với từng nội dung bài dạy và thời gian của tiết học. Có thể trò chơi: "Truyền
thư mật" “Giải ô chữ”, “Rung chuông vàng”, “Tiếp sức”,… Ví dụ: Để dạy các
văn bản những tác phẩm truyện, chúng ta có thể tổ chức cho HS chơi trò chơi
“giải ô chữ” bằng cách kẽ sẵn các ô chữ trên bảng phụ và đưa ra các câu hỏi gợi
ý để tìm ra nội dung, nghệ thuật chính của truyện. GV cũng có thể tổ chức trò
chơi “Rung chuông vàng” ở cuối tiết học bằng cách phân chia lớp thành nhiều
nhóm và và đưa ra những câu hỏi trắc nghiệm để HS thảo luận, nhóm nào trả lời
đúng sẽ được điểm tối đa. Hoặc khi dạy các bài Tiếng Việt, có thể tổ chức trò
chơi “Tiếp sức”…Tuy nhiên, phải chú ý một điều là khi tổ chức các trò chơi, GV
cần lưu ý nêu trước thể lệ trò chơi và qui định thời gian cho HS biết để thực hiện.
Và đặc biệt phải chú ý kết hợp với các phương pháp khác để có hiệu quả cao
trong tiết dạy. Khi đưa ra câu hỏi trong trò chơi “Giải ô chữ”, GV cần chuẩn bị
sẵn những câu hỏi gợi mở để HS nhanh chóng tìm ra ô chữ, không để làm ảnh
hưởng đến tiết học, và cuối cùng HS sẽ tìm ra được từ khoá chính là nội dung bài
học hoặc một phần của bài học.
2.3.2.2 Chuẩn bị của giáo viên:
- Đọc, tìm hiểu nội dung bài học.
- Xác định nội dung quan trọng nhất cần sử dụng trò chơi.
7


- Sắp xếp các ô chữ trong bảng phụ, nếu dạy ứng dụng công nghệ thông tin
chỉ việc cài đặt chế độ trong máy, khi giảng dạy thực hiện từng bước với từng
câu hỏi.
- Hướng dẫn thể lệ, cách thức thực hiện trò chơi.
- Tổ chức trò chơi theo kế hoạch.

2.3.2.3 Một số ví dụ minh hoạ:
Trò chơi “ Truyền mật thư”
Cách chơi:
- GV sẽ chuẩn bị 4 mẫu giấy, trong mỗi mẫu giấy GV sẽ ghi một thông
điệp ngắn ( thông điệp này phải hỗ trợ cho bài dạy ).
- GV gọi 4 đại diện của tổ ( do HS trong tổ đề cử ) lên nhận mật thư. GV
cho thời gian 30 giây các đội trưởng đọc thông tin trong mật thư đó. Sau đó các
đội trưởng sẽ về tổ truyền tin cho 2 bạn ngồi bàn đầu biết trong thư nói gì. Rồi 2
bạn vừa mới nhận tin lại truyền tin cho hai bạn ngồi ở bàn sau mình. Cứ thế tiếp
tục cho đến hết thời gian quy định của GV.
- Yêu cầu của việc truyền tin là không được nói lớn. Nếu đội đối phương
phát hiện ra thông tin của đội bạn thì đội đối phương thắng.
- Thời gian cho trò chơi là 3 -> 5 phút
Ví dụ minh họa:
Dạy tiếng Việt, bài : “ Chơi chữ” ( Ngữ văn 7, tập 1 )
GV viết vào 4 mẫu giấy những nội dung cho mật thư như sau:
Mẫu 1 :
“Trùng trục như con bò thui
Chín mắt, chín mũi, chín đuôi, chín đầu”
( câu đố )
Mẫu 2 : “ Mênh mông muôn mẫu một màu mưa
Mỏi mắt miên man mãi mịt mờ”.
( Tú Mỡ )
Mẫu 3 :
“Đi tu phật bắt ăn chay
Thịt chó ăn được, thịt cầy thì không.
( Ca dao )
Mẫu 4 :
“Da trắng vỗ bì bạch
Rừng sâu mưa lâm thâm”.

- GV tiến hành cho HS chơi trong vòng 3 -> 5 phút rồi dẫn nhập vào bài mới từ
những câu mà GV đã viết trong mật thư.
Trò chơi "Rung chuông vàng"
Khi dạy bài Ôn tập truyện trung đại, để cho giờ học sôi nổi hơn, học sinh
không cảm thấy nhàm chán, gò bó, thì chúng ta có thể sử dụng trò chơi “Rung
chuông vàng”.
GV chia lớp thành 4 đội, sau đó nêu thể lệ cách thức, quy định của trò
chơi. Lần lượt nêu các câu hỏi về các tác giả, năm sinh, quê quán, nội dung, nghệ
thuật của các văn bản đã học. Các nhóm trả lời, giáo viên lần lượt loại những học
sinh trả lời sai. Cuối cùng còn lại học sinh của nhóm nào trả lời đến câu hỏi cuối
cùng thì nhóm đó được rung chuông vàng.
Trò chơi "tiếp sức"
8


Hoặc khi dạy bài Tổng kết về từ vựng chúng ta có thể chia nhóm và công
bố thể lệ, cách thức trò chơi. Mỗi nhóm chuẩn bị một nội dung của bài học. Lần
lượt gọi học sinh trong nhóm trả lời. Nhóm nào trả lời tiếp sức đúng thì đạt điểm
tối đa, nhóm nào không tiếp sức được đổi cho nhóm khác và bị điểm trừ.
Trò chơi "giải ô chữ"
Khi dạy tiết Tập làm văn: Người kể chuyện trong văn bản tự sự, chúng ta
có thể sử dụng trò chơi "giải ô chữ" để tìm ra ngôi kể thứ nhất và vai trò của ngôi
kể thứ nhất.
Trò chơi thi “Tuyển biên tập viên”.
Khi dạy tiết trả bài Tập làm văn, phần HS tự chữa lỗi có thể chuyển thành
trò chơi thi chữa lỗi “Tuyển biên tập viên”.
Khi dạy phần luyện tập của bài Các phương châm hội thoại (tiếp theo), ở
bài tập 3 trong SGK, tổ chức thi điền từ nhanh trên bảng lớp (nói mát, nói hớt,
nói móc, nói ra đầu ra đũa).
Bài Sự phát triển của từ vựng (tiếp theo), ở bài tập 1 trong SGK, chuyển

thành trò chơi cho hai đội lần lượt thi tìm từ có cùng yếu tố gốc.
Bài Thuật ngữ, bài tập 1 trong SGK ở phần luyện tập, tổ chức cho HS chơi
trò “Điền thuật ngữ”: Cho 2 đội lên bảng thi điền từ, tính thời gian và tính số từ
điền đúng để tính điểm và xác định đội thắng cuộc.
Trò chơi “Điền vào bảng trống”:
Bài Trau dồi vốn từ, phần luyện tập ở bài tập 2 SGK chuyển thành trò chơi
“Điền vào bảng trống”: GV chuẩn bị những băng giấy ghi nghĩa của các từ có
yếu tố tuyệt chia cho HS để các em dán vào bảng trống trên bảng phụ.
Trò chơi “Tìm từ nhanh”
Bài tập 8 trong bài Trau dồi vốn từ, chuyển thành trò chơi “Tìm từ nhanh”
(Tìm các danh từ, động từ, tính từ có đặc điểm là khi đảo trật tự các thành tố thì
nghĩa của từ không thay đổi. Ví dụ như: quần áo – áo quần).
Phần Ôn tập từ tượng thanh, tượng hình trong bài Tổng kết từ vựng, tổ
chức thành trò chơi: Chia lớp thành hai đội, một đội nêu khái niệm, một đội nêu
ví dụ tưng ứng, sau đó đảo ngược lại; đội nào nêu khái niệm không chính xác
hoặc lấy ví dụ sai sẽ thua cuộc.
Trò chơi “Thả thơ”:
Bài Tập làm thơ tám chữ, tổ chức thành trò chơi “Thả thơ”: điền từ thiếu
trong mỗi đoạn thơ hoặc lần lượt sáng tác câu thơ tiếp nối.
Trò chơi “Thi hùng biện”.
Bài Luyện tập phân tích và tổng hợp, phần Thực hành phân tích một vấn
đề, GV có thể chuyển thành trò chơi “Thi hùng biện”.
Trò chơi “Tuyển biên tập viên”
Bài Liên kết câu và liên kết đoạn văn (Luyện tập), ở bài tập 3 và 4 chuyển
thành trò chơi “Tuyển biên tập viên” : thi chỉ ra lỗi liên kết và chữa lỗi liên kết.
Trò chơi “Chọn người uyên bác” :
Bài Ôn tập phần thơ, phần Thống kê phân loại các tác phẩm thơ hiện đại
Việt Nam đã học trong SGK Ngữ văn 9, trên cơ sở HS đã chuẩn bị bảng thống kê
theo mẫu ở SGK Ngữ văn 9 tập 2 trang 89, GV cho HS chơi trò chơi “Chọn
người uyên bác” :

9


GV ghi ra 11 phiếu (tương ứng với 11 tác giả, tác phẩm học trong chương
trình), mỗi phiếu hai dòng thơ của một tác phẩm thơ trữ tình. Photo mỗi phiếu đó
tương ứng với số người tham gia chơi (4 – 5 em).
Tiến hành: 5 người chơi ngồi trên ghế quay mặt xuống lớp. Trên bàn, trước
mặt GV đặt 5 tờ phiếu (đã ghi cùng một câu thơ) gấp lại để giữ bí mật. Quản trò
hô “bắt đầu”, 5 người chơi mở tờ phiếu, xác định câu hỏi và giơ tay xin trả lời. Ai
nhanh nhất sẽ được trả lời. Trả lời đúng mỗi lượt sẽ được điểm tối đa, trả lời chưa
đúng thì những người chơi còn lại sẽ giơ tay xin bổ sung.
Sau 11 lượt chơi, cộng ai nhiều điểm nhất được chọn làm “Người uyên
bác”.
Bài Nghĩa tường minh và hàm ý, ở bài tập 3 chuyển thành trò chơi “Điền
câu” : Hai đội chơi, mỗi đội 4 em. Mỗi đội đồng thời viết lên bảng những câu
theo yêu cầu của bài tập. Cả lớp tính số câu đạt yêu cầu của từng đội để đánh giá
kết quả.
Trò chơi “Giải ô chữ”
Ví dụ cụ thể trong bài Người kể chuyện trong văn bản tự sự như sau:
HS đọc đoạn trích trong SGK trang 193. GV chia lớp thành 4 nhóm và tổ
chức trò chơi trong thời gian 5 phút.
Trò chơi có các ô chữ gồm 8 hàng ngang, mỗi một hàng ngang có một gợi
ý để trả lời. Lần lượt gọi các tổ lựa chọn hàng ngang trả lời để cuối cùng tìm ra từ
chìa khoá có liên quan đến ngôi kể của đoạn trích.
+ Hàng ngang thứ 1 gồm 10 chữ cái: Bút danh của tác giả đoạn trích trên là gì ?
+ Hàng ngang thứ 2 gồm 11 chữ cái: Tên của đoạn trích trên ?
+ Hàng ngang thứ 3 gồm 6 chữ cái: Nhân vật chính trong đoạn trích trên là ai ?
+ Hàng ngang thứ 4 gồm 8 chữ cái: Câu nói đầu tiên khi mẹ chú bé gặp chú bé ?
+ Hàng ngang thứ 5 gồm 3 chữ cái: Người kể chuyện trong đoạn trích xưng hô
như thế nào ?

+ Hàng ngang thứ 6 gồm 7 chữ cái: Khi đuổi theo mẹ, chú bé đã thở như thế
nào?
+ Hàng ngang thứ 7 gồm 11 chữ cái: Mẹ chú bé đã lấy vạt áo làm gì ?
+ Hàng ngang thứ 8 gồm 1 chữ cái: Số thứ 2 trong dãy số tự nhiên là số nào?
+ Từ chìa khoá: hàng dọc gồm 8 chữ cái, bắt đầu bằng chữ N: là ngôi kể của
đoạn trích.
1

.

N

2

G

U

Y

E

N

H

O

N


G

T

R

O

N

G

L

O

N

G

M

B

E

H

O


N

G

N

N

I

N

Đ

I

T

O

I
M

A

T

3
4


C

O

5
6
7
8

T

H

O

N

G

H

O

C

H

A

M


N

U

O

C

E

I

Hoặc tổ chức ngoại khoá trò chơi “Giải ô chữ” để ôn tập một số kiến thức
về văn học trung đại mà HS đã học bằng một số câu hỏi gợi ý như sau:
10


+ Hàng 1 gồm 6 chữ cái: “Truyện Kiều” là loại truyện thơ viết bằng…(CHỮ
NÔM)
+ Hàng 2 gồm 7 chữ cái: Nhân vật chính trong truyện “Chuyện người con gái
Nam Xương” (VŨ NƯƠNG).
+ Hàng 3 ồm 13 chữ cái: Tuỳ bút viết trong những ngày mưa (VŨ TRUNG TUỲ
BÚT).
+ Hàng 4 gồm 6 chữ cái: Ngoài biện pháp ước lệ, đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”
còn sử dụng biện pháp nghệ thuật nào để miêu tả chị em TK ?(ĐÒN BẨY)
+ Hàng 5 gồm 15 chữ cái: Một nhà thơ lớn của dân tộc sớm phải chịu cảnh mù
loà ở tuổi 27 (NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU).
+ Hàng 6 gồm 6 chữ cái: Tác phâm “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô Gia văn
phái viết bằng chữ gì ? (CHỮ HÁN).

+ Hàng 7 gồm 8 chữ cái: Tác giả truyện “Chuyện người con gái nam Xương”
(NGUYỄN DỮ)
+ Hàng 8 gồm 8 chữ cái: Thể văn ghi chép những điều kì lạ vẫn được lưu truyền
(TRUYỀN KÌ ).
+ Từ chìa khoá là: Đây là một đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
H

U

N

N

C
G
U

O

N

G

V

U

T

R


U

O

N

B

A

Y

N

G

U

Y

E

C

H

U

H


A

N

G

U

Y

E

N

D

U

T

R

U

Y

1
2


V

U

3
Đ

4
5
6
7

N

8

O

M

N

G

T

U

Y


B

U

T

N

Đ

I

N

H

C

H

I

E

N

K

I


E

U

Ô chữ dùng cho bài: “Từ tượng hình, từ tượng thanh” (ngữ văn 8, tập 1)
Câu hỏi hàng ngang
1. Ô chữ hàng số 1 ( 7 chữ cái ): Từ tượng hình gợi tả dáng vẻ của tên người nhà
Lý trưởng khi cai lệ bảo trói anh Dậu lại.
2. Ô chữ hàng số 2 ( 8 chữ cái ): Từ tượng hình miêu tả dáng vẻ của “ anh chàng
nghiện” trong cuộc đánh nhau với chị Dậu
3. Ô chữ hàng số 3 ( 4 chữ cái ): Từ tượng thanh mô phỏng âm thanh cú đấm của
cai lệ vào ngực chị Dậu
4. Ô chữ hàng số 4 ( 5 chữ cái ): Từ tượng hình cong thiếu trong câu văn: “ Hai
người giằng co nhau, [….] nhau rồi ai nấy đều buông gậy ra áp vào vật nhau”
5. Ô chữ hàng số 5 (6 chữ cái ): Từ tượng hình miêu tả dáng vẻ của bà lão láng
giềng khi ở nhà chị Dậu về.
6. Ô chữ hàng số 6 ( 9 chữ cái ): Từ tượng hình gợi tả dáng vẻ của cai lệ khi bị
chị Dậu xô ngã.
7. Ô chữ hàng dọc (6 chữ cái ): Tên nhân vật chính trong tác phẩm “ Tắt đèn” của
Ngô Tất Tố? Nêu cảm nhận về nhân vật đó.
1
2

N

G

Ơ

N


G

A

C

L

E

O

K

H

E

O

11


B

I

C


H

D

U

D

A

Y

3
4
5
6

C

H

L

A

T

D

A


T

O

N

G

Q

U

E

O

Trên đây chỉ là một vài ví dụ cụ thể về việc áp dụng các hình thức sử dụng
9
1
2
3
4
5
6
7
8
trò chơi trong dạy học văn. Trong chương trình ngữ văn THCS còn rất nhiều bài
có thể áp dụng các hình thức trên.
3. 3. Hoạt động củng cố

Củng cố bài là một hoạt động rất quan trọng trong tiết học. Nếu GV biết
tạo ra cách thu hút HS thì việc khắc sâu kiến thức sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Có
nhiều cách củng cố bài khác nhau, cho dù GV sử dụng cách nào đi chăng nữa thì
cũng chỉ có một mục đích duy nhất là mong muốn HS nắm được nội dung bài
học. Để kết thúc bài học một cách nhẹ nhàng GV có thể cho HS chơi trò chơi.
Chẳng hạn:
2.4. Hiệu quả cảu SKKN đối với hoạt động giáo dục
Trên đây là một vài nhận biết và việc làm cụ thể của bản thân tôi trong
việc thực hiện theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy - học giúp học sinh hứng
thú hơn trong giờ học môn Ngữ văn ở trường THCS. Qua tiết dạy có vận dụng
hình thức thảo luận nhóm và sử dụng trò chơi trong dạy học môn Ngữ văn ở lớp
9A trường THCS Quảng Ngọc, tôi đã thu được một số kết quả sau:
Tiết học Ngữ Văn trước đây trầm lắng, tẻ nhạt, chỉ có thầy hỏi trò trả lời
thì bây giờ các em cảm thấy thoải mái hơn, sôi nổi thảo luận với nhau và đưa ra
các ý kiến của bản thân.
Giờ học không còn là thầy hỏi rồi tự trả lời mà đã có học trò tham gia đối
thoại, tranh luận
Các em cảm thấy hứng thú hơn, không uể oải trong giờ học .
Các em rất thích thú với việc tổ chức trò chơi, hầu như tất cả học sinh đều
muốn tham gia vào cuộc chơi đó.và đặc biệt, có những em học yếu cũng tích cực
tham gia trò chơi. Khi HS đã tích cực tham gia sôi nổi thì sẽ tránh được hiện
tượng không chú ý khi nghe cô giảng bài.
Tỉ lệ HS khá giỏi về bộ môn của lớp 9A tăng lên đáng kể. Có thể thấy qua
bảng so sánh sau.
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Năm học TSHS
SL

%
SL
%
SL
%
SL
%
2013 -2014
35
4
11,4%
7
20%
17
48,6
7
20%
2014 -2015
35
7
20%
11
31,5
15
42,8
2
5,7%

12



3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Với hình thức thảo luận nhóm và sử dụng trò chơi trong dạy học môn Ngữ
văn ở trường trung học cơ sở đã một phần gây hứng thú hơn trong tiết học, HS đã
có sự chuyển biến hơn, tích cực giao lưu với thầy cô giáo hơn, trong mỗi giờ học
tất cả học sinh đều tham gia và muốn tham gia vào quy trình dạy –học. Các em
không còn thụ động ngồi nghe giáo viên giảng bài mà cảm thấy hứng thú hơn;
hăng say phát biểu, hiểu bài hơn.Tuy nhiên đây không phải là phương pháp tối
ưu và mới nhất, bởi vì cũng không phải tiết dạy văn nào chúng ta cũng áp dụng
được việc thảo luận nhóm và tổ chức các trò chơi một cách hiệu quả Chính vì
vậy khi dạy bất kì một tiết học nào chúng ta cũng cần kết hợp rất nhiều các
phương pháp khác nhau để đạt hiệu quả cao trong quá trình giảng dạy của mình.
3.2. Kiến nghị
Hình thức thảo luận nhóm và tổ chức trò chơi trong dạy học Ngữ văn thì
chúng ta đã áp dụng từ rất lâu và ít nhiều đã đạt kết quả trong dạy học, nhưng
trong thực tế giảng dạy thì đa số gióa viên ít thực hiện, hoặc nếu thực hiện cũng
mới chỉ là hình thức thể hiện ở các tiết thao giảng. Hơn nữa để thực hiện được
các phương pháp này đòi hỏi GV phải đầu tư nhiều thời gian, phương tiện nhất là
về máy chiếu và máy tính xách tay mà ở một số các trường học cũng không hoặc
chưa thể đầu tư được. Cá nhân giáo viên thì điều kiện còn khó khăn nên việc đầu
tư máy tính phục vụ cho việc đi dạy học là khó. Bản thân tôi, trong quá trình
giảng dạy cũng nhận thấy còn một số thiếu sót, hạn chế khi áp dụng các hình
thức trên. Những đề xuất trên chỉ là kinh nghiệm chủ quan của cá nhân tôi và
những kinh nghiệm đó bản thân tôi cũng chỉ mới áp dụng được ở một số tiết ở
trong quá trình dạy học và thấy rất hiệu quả. Tuy nhiên, tôi cũng xin được chia sẻ
cùng các bạn đồng nghiệp mong góp một chút sức mình vào công tác đổi mới
phương pháp dạy học văn trong nhà trường. Để kinh nghiệm này có tính khả thi
cao, ngoài việc mỗi GV phải không ngừng trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, tâm
huyết với nghề, bản thân tôi cũng như các GV khác rất mong được sự quan tâm,

giúp đỡ của các cấp lãnh đạo nhà trường và ngành GD như đầu tư thêm tài liệu
tham khảo về môn văn, sắp xếp để các em học sinh có điều kiện tham khảo,
nghiên cứu. Trên đây là một chút kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy của bản
thân. Trong quá trình thể nghiệm và viết lý thuyết những kinh nghiệm này không
tránh khỏi thiếu sót, rất mong được sự góp ý, chỉnh sửa của lãnh đạo nhà trường
cũng như của các đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Xác nhận của thủ trưởng cơ quan Quảng Xương, ngày 19 tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác
Người viết

Hoàng Thị Thủy
13


STT

MỤC LỤC
Nội dung

Trang

14


Tài liệu tham khảo

15




×