Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số phương pháp dạy tiết ôn tập không được biên soạn trong sách giáo khoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1012.19 KB, 20 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Phương pháp dạy học hiện nay, giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là
người truyền đạt kiến thức, mà giáo viên phải trở thành người thiết kế, tổ chức,
hướng dẫn các em hoạt động học tập để tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ
động đạt các mục tiêu kiến thức kĩ năng, thái độ theo yêu cầu chuẩn kiến thức, kĩ
năng của Bộ giáo dục và đào tạo ban hành. Như vậy việc hướng dẫn học sinh có
phương pháp học tập nói chung và bộ môn vật lý nói riêng là một vấn đề hết sức
quan trọng - Đặc biệt là các tiết Ôn tập. Làm thế nào để học sinh học tiết ôn tập đạt
hiệu quả nhất và cách thức tổ chức học tập tiết ôn tập như thế nào để có thể thâu
tóm kiến thức trọng tâm trong một số bài đã học, rèn được các kĩ năng cơ bản và
có thái độ học tập đúng đắn mà chỉ trong 45 phút đồng hồ là cả một vấn đề khó đặt
ra đối với mỗi giáo viên.
Theo phân phối chương trình mới của Sở GD và ĐT Thanh Hóa phát hành được
thực hiện từ năm học 2011- 2012, có cắt giảm một số bài và bổ sung thêm một số
tiết Ôn tập ở lớp 6,7,8,9, sau các tiết này là tiết kiểm tra. Các tiết này, sách giáo
khoa, sách giáo viên không biên soạn, do đó giáo viên tự ôn tập cho học sinh theo
ý kiến chủ quan của cá nhân khi dạy.
Năm 2015 Sở giáo dục tổ chức thi chọn giáo viên giỏi cấp tỉnh, một đồng chí ở
huyện nhà bắt bài dạy được tiết 10: Ôn tập- Vật lí 8. Đồng chí có tham khảo ý kiến
của cá nhân tôi, tôi đã đưa ra phương án dạy tiết này và đồng chí đã thực hiện. Kết
quả tiết dạy cũng chưa được mĩ mãn, giám khảo có người khen nhưng cũng có
người chưa tán thành. Xuất phát từ vấn đề trên, tôi chọn đề tài: “Một số phương
pháp dạy tiết ôn tập không được biên soạn trong sách giáo khoa”. Tôi rất
mong các bạn đồng nghiệp tham khảo, góp ý, bổ sung để tiết dạy được hoàn hảo và
các bạn đồng nghiệp có thể áp dụng cho bản thân.
Cũng trong phạm vi đề tài này tôi sẽ đề cập đến: Một số vấn đề khó khăn gặp
phải khi giảng dạy bài: Ảnh của một vật tạo bởi gương phẳng - Vật lí 7 và hướng
khắc phục khó khăn khi dạy bài này với ý kiến chủ quan của cá nhân tôi . Rất mong
được các bạn đồng nghiệp, nhất là các giáo viên đang trực tiếp dạy bộ môn vật lí 7
đóng góp ý kiến.


2. Mục đích nghiên cứu:
- Nhằm tìm ra phương pháp dạy bài ôn tập, đạt hiệu quả cao nhất. Sau khi học
tập tiết ôn tập, học sinh có thể nắm vững kiến thức trọng tâm đã học, biết vận dụng
các kiến thức đó để giải thành thạo các bài tập và rèn luyện được các kĩ năng cơ
bản trong bộ môn Vật lí.
- Đổi mới phương pháp dạy bài: Ảnh của một vật tạo bởi gương phẳng - Vật lí
lớp 7 - bằng dụng cụ thí nghiệm phần thấu kính của Vật lí lớp 9.
3. Đối tượng nghiên cứu: Để thực hiện đề tài đã nêu, tôi đã nghiên cứu về:
- Cơ sở lí luận và thực tiễn về đổi mới phương pháp dạy học bộ môn Vật lí nói chung
và các môn học nói riêng.
- Nghiên cứu phương pháp dạy tiết: Ôn tập - Tổng kết chương - môn Vật lí cấp trung
học cơ sở.
- Nghiên cứu, tìm hiểu nội dung, mục tiêu bài học: Tiết 10: Ôn tập - Vật lí 8.
1


- Nghiên cứu, tìm hiểu nội dung, mục tiêu bài học Ảnh của một vật tạo bởi gương
phẳng - Vật lí 7.
4. Phương pháp nghiên cứu: Để giải quyết các nhiệm vụ của đề tài, tôi sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp điều tra, tìm hiểu trên các tài liệu: Sách giáo khoa, Sách giáo viên,
giới thiệu Bài giảng của giáo viên giỏi vật lí lớp 7,8.
- Phương pháp đàm thoại và nghiên cứu các phiếu học tập.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, tính toán, tổng kết và xử lí các số liệu.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Trong những năm gần đây, nghị quyết của Đại hội Đảng và nhiều văn kiện khác
của nhà nước, của Bộ Giáo dục- Đào tạo đều nhấn manh việc đổi mới phương
pháp là một nhiệm vụ quan trọng của tất cả các cấp học và bậc học ở nước ta,

nhằm đào tạo những con người tích cực, tự giác, năng động sáng tạo, có năng lực
giải quyết vấn đề, vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Nghị quyết Trung ương 2
khóa VIII yêu cầu: Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới
những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu,
nội dung, phương pháp,cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới
từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các
cơ sở giáo dục- đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản
thân người học, đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Trong quá trình đổi mới,
cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có
chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới, kiên quyết chấn chỉnh những nhận thức,
việc làm lệch lạc. Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp
với từng loại đối tượng và cấp học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có trọng
tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp. Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo
dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất
người học. Học đi đôi với hành; lí luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết
hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. [1]
Tại điều 5 luật Giáo dục năm 2005 yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục:
1. Nội dung giáo dục phải bảo đảm tính cơ bản, toàn diện, thiết thực, hiện đại và
có hệ thống; coi trọng giáo dục tư tưởng và ý thức công dân; kế thừa và phát huy
truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại;
phù hợp với sự phát triển về tâm sinh lý lứa tuổi của người học.
2. Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy
sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực
hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.[2]
Như vậy đổi mới phương pháp dạy học là một việc làm mà mỗi giáo viên luôn
phải nghiêm túc thực hiện khi giảng dạy.
1

Đoạn “Đổi mới căn bản.....kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội” tác giả tham khảo từ TLTK số [1]


2

Đoạn “1. Nội dung giáo dục...lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.” tác giả tham khảo từ TLTK số [2]

2


2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Thực trạng:
Khi tìm hiểu qua đồng nhiệp về tiết dạy Ôn tập và tiết Tổng kết chương đại đa
số giáo viên đều rất ngại khi dạy các bài này nhất là khi có người dự vì dạy để
HAY, đạt hiệu quả là rất khó. Sự chuẩn bị của giáo viên phải thật công phu chu
đáo tốn nhiều thời gian.
Sách giáo viên do nhà xuất bản Giáo dục viết đối với tiết tổng kết chương sách
viết rất chung chung, viết ở dạng mở để giáo viên tự mình tìm phương pháp dạy
phù hợp với từng đối tượng học sinh của trường sở tại. Qua tham khảo một số sách
thiết kế của nhà xuất bản Hà Nội, nhà xuất bản Đại học sư phạm, tiết tổng kết
chương sách viết chỉ trả lời câu hỏi như sách giáo khoa, phần tự kiểm tra còn phần
vận dụng thì chỉ giải các bài tập trong sách giáo khoa. Phần trò trơi ô chữ cũng chỉ
sử dụng ô chữ như sách giáo khoa. Tài liệu: Giới thiệu bài giảng của giáo viên giỏi
–Vật Lí 7 của tác giả: Phó giáo sư –Tiến sĩ Trần Xuân Nhĩ (Tổng chủ biên),
Nguyễn Thị Lệ Hằng: Tiết tổng kết chương bài 30 cũng chỉ trả lời câu hỏi, giải bài
tập, trò chơi ô chữ như sách giáo khoa phần ghi bảng chỉ ghi:
I. Tự kiểm tra (kiến thức trọng tâm)
II. Vận dụng
III. Trò chơi ô chữ
IV. Câu hỏi ôn tập.
Tôi không nhất trí với cách ghi bảng như thế này bởi vì tuy rằng tiết tổng kết
chương là ôn lại các kiến thức đã học, song ta vẫn phải thể hiện trên bảng kiến thức

trọng tâm của toàn chương để học sinh có thể ghi lại một cách vắn tắt, xem như đó
là phần nhấn mạnh, khắc sâu mà các em không thể quên được trước khi các em học
sang một chương mới .
Mặt khác tiết Ôn tập sau các bài học, sách giáo khoa, sách giáo viên không viết
nên giáo viên không có để tham khảo khi dạy. Bản thân giáo viên phải tự tìm ra
phương án dạy sao cho phù hợp với trường sở tại,với trình độ học sinh. Nhiều giáo
viên khi tôi hỏi về cách dạy các tiết này thì các đồng chí rất lúng túng, chưa nêu
được phương án dạy, hoặc có thì chỉ ra một số câu hỏi và bài tập để học sinh tự ôn.
2.2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên.
Bản thân tôi khi dạy các tiết này tôi cũng chuẩn bị như một tiết tổng kết chương.
Tôi căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng của những bài đã học trước đó để ra hệ
thống câu hỏi, bài tập phù hợp hoặc ra một bài tập thâu tóm toàn bộ kiến thức
trọng tâm của những bài trước để các em ôn tập lại toàn bộ kiến thức đã học. Cũng
trên cơ sở các câu hỏi bài tập này có thể tôi tổ chức một cuộc thi giữa các nhóm
với nhau, giúp các em nắm chắc kiến thức đã học trước khi kiểm tra.
Với cách dạy của bản thân, kết quả sau mỗi lần kiểm tra so với mặt bằng toàn
huyện, chất lượng đại trà, chất lượng thi vào lớp 10 Trung học phổ thông của
trường tôi luôn đứng ở tốp đầu của toàn huyện.[3]
3

Bảng “Tổng hợp điểm bình quân thi vào 10 THPT năm học 2013- 2014” tác giả tham khảo từ TLTK số [3]

3


UBND HUYỆN THẠCH THÀNH
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

PB 13


TỔNG HỢP
ĐIỂM BÌNH QUÂN THI VÀO LỚP 10 THPT NĂM HỌC 2013-2014
(Không tính điểm nhân hệ số, ưu tiên, khuyến khích)
T
T

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
..
27
28
29

Trêng THCS

Dân tộc nội trú
Phạm Văn Hinh
Vân Du
Thạch Tân
Thành Hưng
Thạch Định

Thành Tâm
Thạch Long
Thành Thọ
Thành Trực
Thạch Đồng
………………..
Thạch Lâm
Thành Yên
Thành Công

Số tốt
nghiệp
THCS
20122013

Số
HS
dự
thi

Toán

Văn



60
89
59
20

49
27
50
56
49
46
56
…….
20
30
56

35
85
58
19
49

6.4
6.6
5.5
5.8
4.5

7.0
6.3
6.2
5.1
6.9


7.7
7.0
6.1
6.7
5.8

20

5.2

5.9 59

40
51
44
42
42

15
26
36

5.2
5.3
4.9
5.1
4.8

3.4
3.5

2.3

6.1
5.4
6.1
5.3
5.4

4.2
4.6
4.8

Điểm bình quân
môn

5.3
5.6
5.2
5.8
5.9

3.2
2.4
2.9

Tổng
điểm

Điểm
bình

quân
3
môn

21.0
19.8
17.8
17.7
17.2
17.1
16.7
16.4
16.2
16.2
16.0

10.7
10.5
10.1

7.0
6.6
5.9
5.9
5.7
5.7
5.6
5.5
5.4
5.4

5.3

3.6
3.5
3.4

Điểm
BQ
năm
trước

Tăng
giảm so
với năm
trước

5.5
6.3
5.1
4.6
5.3
5.0
4.5
5.0
4.3
4.5
4.9

1.5
0.3

0.8
1.3
0.4
0.7
1.1
0.5
1.1
0.9
0.4


3.9
4.3
3.9


-0.3
-0.8
-0.6

[[

3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
3.1. Một số phương án dạy tiết ôn tập không được biên soạn trong sách giáo
khoa.
* Đối với học sinh.
Giáo viên nhắc học sinh về ôn tập những kiến thức đã học ở các bài học trước
tiết ôn tập. Sau đó các em tự vẽ sơ đồ tư duy về kiến thức trọng tâm đã học ở
những bài đó vào một tờ giấy xếp.
* Đối với giáo viên.

Theo phân phối chương trình của Sở GD& ĐT Thanh Hóa phát hành tháng 10
năm 2011, ở lớp 6 có tiết 17, 34, lớp 7 có tiết 26, lớp 8 có tiết 10, 17, 27, lớp 9 tiết
20, 54, 69. Ngoài ra ở lớp 9 còn có thêm một số tiết Bài tập như tiết 5, 13, 20, 28,
32,44, 49, 52, không viết trong sách giáo khoa, giáo viên phải tự soạn để dạy
những tiết này. Bản thân tôi là cốt cán bộ môn cho phòng giáo dục nên tôi cũng có
đi thanh tra chuyên môn của một số đồng nghiệp trong địa bàn huyện nhà. Song
chưa lần nào được dự trực tiếp các đồng chí dạy tiết Ôn tập và tiết Bài tập không
được biên soạn trong sách giáo khoa. Cũng có một vài đồng chí có tham khảo tôi
về phương pháp dạy tiết này và có đồng chí cũng tâm sự đang lúng túng chưa biết
4


dạy như thế nào cho chuẩn, nhất là tiết Ôn tập, còn tiết Bài tập thì có thể ra ba bài
tập tương tự như sách giáo khoa đã viết.
Theo ý kiến chủ quan của bản thân, tôi mạnh dạn đưa ra vài phương án dạy tiết
Ôn tập mà không được sách giáo khoa biên soạn, để các đồng nghiệp tham khảo
góp ý và có thể mỗi người sẽ tự tìm cho mình một phương pháp dạy hay hơn cho
đồng nghiệp học hỏi.
Phương án 1: Dạy giống như tiết Tổng kết chương.
1. Chuẩn bị hệ thống câu hỏi:
Giáo viên không nên tham chọn nhiều mà phải biết chắt lọc các câu hỏi có tính
chất tổng quát, tổng hợp và từ khó đến dễ nghĩa là nếu học sinh không trả lời được
theo yêu cầu thì khi đó giáo viên mới tách ra thành những câu hỏi cụ thể và chi tiết
hơn như vậy sẽ phù hợp với mọi đối tượng học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu. Mặt
khác hệ thống câu hỏi cần số ít câu ngắn gọn xúc tích nhưng nó chứa đựng toàn bộ
các kiến thức trọng tâm. Nếu ta cho quá nhiều thì chỉ trong 45 phút sẽ khó mà hoàn
thành được việc xây dựng sơ đồ tư duy, chưa nói đến việc giải bài tập.
2. Chuẩn bị hệ thống bài tập:
Không cho học sinh giải nhiều bài tập mà chỉ chọn một đến hai bài, tự ra lấy đề.
Đề ra có tính chất tổng quát, muốn tìm được một đại lượng như yêu cầu của bài tập

buộc các em phải tìm 1 hoặc hai đại lượng liên quan. Như vậy số bài tập sẽ ít đi
song vẫn đảm bảo được khi giải xong dạng bài tập này học sinh vẫn có thể nắm
được phương pháp giải bài tập chung cho cả các bài đã học. Khi các em gặp phải
dạng bài tập tương tự các em có thể vận dụng để giải chúng.
3. Chuẩn bị sơ đồ tư duy .
Việc chuẩn bị sơ đồ tư duy phải kết hợp với chuẩn bị hệ thống câu hỏi, hai phần
này phải thống nhất với nhau. Vì qua hệ thống câu hỏi để học sinh hình thành sơ
đồ tư duy.
Giáo viên tùy theo từng điều kiện, tùy theo cơ sở vật chất của trường mình để
chuẩn bị cho khoa học :
- Nếu trường chưa có máy chiếu (Điều này bây giờ có thể không có) thì chuẩn bị
sơ đồ tư duy ra bảng phụ dùng giấy báo và nam châm che phần giáo viên chuẩn bị
sẵn và đánh số theo số thứ tự câu hỏi. Khi các em đã trả lời được câu hỏi do giáo
viên đặt ra mà đáp án đã đúng thì giáo viên mở phần che ra để hình thành một đơn
vị kiến thức cần nhớ cho học sinh quan sát. Còn câu nào học sinh trả lời chưa đủ,
chưa chính xác thì giáo viên cho thảo luận toàn lớp để đưa ra đáp án đúng và giáo
viên là người trọng tài, người đưa ra kết luận hoặc đáp án khi cần thiết
Cứ lần lượt như vậy khi mở đến tờ giấy che cuối cùng thì toàn bộ kiến thức
trọng tâm đã được giáo viên ghi lại toàn bộ trên bảng phụ. Đó là kiến thức học sinh
cần ghi nhớ và vận dụng để giải các bài tập định tính cũng như định lượng hoặc
vận dụng nó để giải thích các hiện tượng vật lí xảy ra xung quanh các em hàng
ngày.
- Nếu trường có máy chiếu đa năng thì giáo viên có thể soạn giáo án điện tử với
mỗi đơn vị của kiến thức cần ghi nhớ thì giáo viên làm hiệu ứng để mỗi lần học
sinh trả lời xong chỉ cần ấn chuột thì đơn vị kiến thức đó đã được hiện lên trên
bảng(Giống như phần Vượt chướng ngại vật của Đường lên đỉnh Olimpia)
5


4. Chuẩn bị ô chữ

Để luôn cuốn hút được các em vào trò chơi thú vị nhưng rất có ích này, vì thông
qua ô chữ học sinh cũng nắm được trọng tâm kiến thức trong chương trình thì giáo
viên nên biên soạn mỗi năm một ô chữ khác nhau. Nếu có thể thì chuẩn bị mỗi lớp
một ô chữ khác nhau thì thật tuyệt. Vì ô chữ càng bí mật, các câu hỏi cho từng từ,
cụm từ ở hàng ngang là các tình huống có vấn đề thì càng kích thích được hứng thú
nhận thức của học sinh làm cho các em tự giác tích cực tham gia vào giải quyết
vấn đề thì tiết học đạt hiệu quả càng cao.
Về cách làm ô chữ không phải là việc khó, song giáo viên phải có sự chuẩn bị kĩ
càng và phải có thời gian để đầu tư cho việc này.
Đầu tiên ta phải chọn ô chữ hàng dọc sao cho ô chữ hàng dọc phản ánh được
trọng tâm của những bài đã học. Sau đó cứ ứng với một chữ cái của ô chữ hàng
dọc ta sẽ tìm được ô chữ hàng ngang tương ứng.
Từ, cụm từ hàng ngang phải hợp lí mang ý nghĩa vật lí và cũng là kiến thức mà
chúng ta đang ôn tập. Chọn được ô chữ hàng ngang phù hợp rồi tiếp tục ta sẽ chọn
các câu hỏi đặt ra cho từng hàng ngang sao cho đúng ý nghĩa vật lí.
Cách thức chuẩn bị trò chơi ô chữ cũng giống như việc chuẩn bị Sơ đồ tư duy.
Tùy vào điều kiện mỗi trường để ta có sự chuẩn bị và có phương pháp dạy phù
hợp. Dạy bằng máy chiếu đa năng thì giáo viên làm hiệu ứng cho câu hỏi và phần
trả lời. Nếu không dạy bằng máy chiếu đa năng thì cũng có thể chuẩn bị ra bảng
phụ dùng giấy và nam châm che từng ô chữ hàng ngang, có tách rời ô chữ hàng
dọc vì có thể học sinh nêu được ô chữ hàng dọc khi chưa lật hết ô chữ hàng ngang.
Sau đó lật dần từng ô tương ứng với sự lựa chọn và trả lời của học sinh.
* Ví dụ: Tiết 10: ÔN TẬP -Vật lí 8
A. Hệ thống câu hỏi:
1. Chuyển động cơ học là gì? Nêu ví dụ. Tại sao nói chuyển động hay đứng yên chỉ
có tính tương đối? Lấy ví dụ.
2. Thế nào là chuyển động đều, chuyển động không đều? Viết công thức tính vận
tốc của chuyển động đều và công thức tính vận tốc trung bình của chuyển động
không đều?
3. Nêu khái niện Lực. Tại sao nói Lực là một đại lượng véc tơ? Nêu cách biểu diễn

Lực bằng véc tơ.
4. - Thế nào là hai Lực cân bằng? Một vật chịu tác dụng của các lực cân bằng sẽ
thế nào khi:
a. Vật đang đứng yên?
b. Vật đang chuyển động?
- Nêu ví dụ chứng tỏ vật có quán tính.
5. Nêu tên các loại Lực ma sát đã học và các Lực ma sát xuất hiện khi nào? Lấy ví
dụ về mỗi loại lực ma sát.
6. Áp lực là gì? Áp suất là gì? Đơn vị của Áp suất. Viết công thức tính áp suất chất
rắn và áp suất chất lỏng?
7. Nêu nguyên tắc Bình thông nhau? Viết công thức về mối liên hệ giữa lực tác
dụng và diện tích của pít tông trong máy thủy lực.

6


B. Hệ thống bài tập.
Bài 1: Một người đi bộ coi như đều trên đoạn đường đầu dài 1,2km hết 10 phút.
Quãng đường tiếp theo dài 2km, người đó đi hết 0,5h. Tính vận tốc của người đó
trên mỗi quãng đường và vận tốc trung bình trên cả hai quãng đường.
Bài 2: Một ô tô đang chuyển động đều trên đoạn đường bằng phẳng
a. Có những lực nào tác dụng lên xe? Nêu rõ phương, chiều của mỗi lực và biểu
diễn các lực đó bằng mũi tên theo tỉ xích tùy chọn. Khi xe đang chuyển động, nếu
gặp vật cản xe phải dừng lại ngay. Lái xe có thực hiện được điều đó không? Tại
sao.
b. Xe có 8 bánh, diện tích mỗi bánh xe tiếp xúc với mặt đường là 7,5cm 2. Tính áp
suất mà xe đã tác dụng lên mặt đường.
Bài 3: a. Một bình hình trụ cao 1,5m, diện tích 20cm 2 chứa nước, cột nước cao
1m. Tính áp suất do nước gây ra lên đáy bình và lên điểm A cách đáy bình 40cm.
Cho trọng lượng riêng của nước là 10000N/m3.

b. Người ta nối bình hình trụ trên với một bình hình trụ khác có diện tích 30cm 2
bằng một ống dẫn nhỏ(bỏ qua thể tích của ống). Nêu hiện tượng xảy ra và tính
chiều cao cột nước ở mỗi bình.
c. Đổ vào một nhánh cột dầu cao 30cm. Tính độ chênh lệch mực mặt thoáng ở hai
bình. Cho trọng lượng riêng của dầu là 8000N/m3.
d. Đặt lên trên mỗi bình hình trụ một pít tông có diện tích bằng với diện tích của
bình(bỏ qua khối lượng mỗi pít tông và các pít tông có thể di chuyển được). Tác
dụng vào pít tông nhỏ một lực 150N. Tính lực nâng ở pít tông lớn.
C. Sơ đồ tư duy.

7


D. Trò chơi ô chữ:
Từ hàng ngang:
1- có 8 ô: Do có gì mà mọi vật đều khó thay đổi vân tốc đột ngột? (Quán tính)
2- có 5 ô: Lực ép có phương vuông góc với mặt bị ép gọi là gì? (Áp lực)
3- có 1 ô: Kí hiệu một đại lượng vật lí có đợn vị là mét (S).
4- có 13 ô: Để đưa nước lên cao người ta dựa vào nguyên tắc của loại bình này
(Bình thông nhau).
5- có 8 ô: Chất gì gây ra áp suất theo mọi phương lên đáy binh, thành bình và các
vật ở trong lòng nó? (Chất lỏng)
6- Có 10 ô: Nhờ máy gì mà ta có thể dùng tay nâng cả chiếc ô tô lên được.(Máy
thủy lực)
Từ hàng dọc
Có 6 ô: Đại lượng vật lí có đơn vị là Pa và N/m2 (Áp suất)
Phương án 2: Ra đề một bài tập.
Với bài tập này mỗi ý của bài là một đơn vị kiến thức cần nhớ. Khi giải bài tập
đó, các em phải vận dụng toàn bộ kiến thức trọng tâm của những bài học trước.
những kiến thức này sẽ được sử dụng làm bài kiểm tra ở tiết sau.

* Ví dụ: Tiết 26: ÔN TẬP - Vật lí 7.
1. Cho hai mảnh nilon kích thước 10cmx 8cm. Chúng đã nhiễm điện chưa? Làm
sao em biết được ? Nêu sơ lược cấu tạo nguyên tử của nilon.
Nêu phương án thí nghiệm làm cho mảnh nilon bị nhiễm điện, và chứng tỏ một vật
nhiễm điện có thể hút vật khác và hai vật nhiễm điện cùng loại sẽ đẩy nhau khi
chúng đặt gần nhau.
2. Tại sao người ta thường làm cột thu lôi bằng sắt, đồng mà không làm bằng gỗ?
3. Cho các dụng cụ sau: Nguồn hai pin nối tiếp, hai khóa, hai đèn, dây nối vừa đủ.
a. Hãy thiết kế một sơ đồ mạch điện thỏa mãn các yêu cầu sau:
- K1 đóng đèn 1 sáng. - K2 đóng hai đèn tắt. - Hai khóa đóng hai đèn sáng.
b. Khi cả hai khóa đóng, vẽ chiều dòng điện chạy trong mạch bằng mũi tên. So
sánh chiều dòng điện trong kim loại với chiều dòng điện theo qui ước?
4. Giải thích hoạt động của bóng đèn dây tóc khi có dòng điện chạy qua? Tại sao
người ta lại dùng vonfam làm dây tóc bóng đèn mà không dùng dây đồng hoặc dây
nhôm?
5. Cần cẩu điện dùng để cẩu hàng trên các bến cảng hoạt động dựa trên tác dụng
nào của dòng điện? Cần cẩu điện có những bộ phận cơ bản nào? Nêu hoạt động
của cần cẩu điện.
6. Nối hai cực của một nguồn điện với hai thỏi than A và B, sau đó nhúng hai thỏi
than vào dung dịch muối bạc, sau một thời gian thấy có bạc bám vào thỏi than A.
a. Dòng điện có chạy qua dung dịch muối bạc không? Nếu có thì dòng điện chạy
theo chiều nào? Thỏi than A được nối với cực dương hay cực âm của nguồn điện?
Đổi hai vị trí thỏi than cho nhau, khi đó bạc có bám vào thỏi than A nữa không?
Rút ra nhận xét gì?
b. Hiện tượng trên liên quan đến tác dụng nào của dòng điện?
7. Khi sơ ý chạm tay vào dây dẫn có lớp vỏ bọc cách điện bị rách hở, nếu có dòng
điện chạy qua sẽ gây co giật, thậm chí gây nguy hiểm đến tính mạng. Đây là tác
8



dụng gì của dòng điện? Trong y học, người ta dùng điện truyền vào người(khi
châm cứu) hai điều này có mâu thuẫn với nhau không? Giải thích.
Đối với phương án này, khi dạy giáo viên dạy giống như một tiết bài tập. Sau
khi dạy hết tiết, giáo viên phải hình thành được sơ đồ tư duy sau:

Tôi muốn nói thêm về phương án dạy tiết bài tập.
Năm học 2010- 2011, tôi cùng với đoàn thanh tra của Phòng GD& ĐT đi thanh
tra chuyên môn ở một số trường. Tôi được dự giờ của một số đồng chí dạy tiết Bài
tập, tiết này được sách giáo khoa biên soạn. Các đồng chí đó đều có cách dạy
giống nhau là cho học sinh giải hết 3 bài tập như trong sách là xong. Sau tiết dạy
phần ghi còn lại trên bảng là lời giải của ba bài tập. Trong quá trình học sinh lên
bảng làm hoặc giáo viên gợi ý để học sinh làm bài mà không hề nhắc đến các kiến
thức cần vận dụng và cũng không có phần rút ra phương pháp chung để giải các
dạng bài tập này. Khi góp ý thì có đồng chí nói là em chỉ quen dạy Toán.
Do trình độ đào tạo của giáo viên nhiều môn: Toán, Lí, Hóa, nên giáo viên dạy
môn Vật lí ít khi dạy tất cả các khối lớp, thường là dạy Toán rồi kèm theo một số
tiết Vật lí hoặc dạy cả Vật lí và Hóa học. Sau lần đi thanh tra đó, về trường tôi đề
nghị đồng chí tổ trưởng, cho các đồng chí trong tổ dự một tiết bài tập do chính tôi
dạy, để các đồng chí trong tổ góp ý và cùng đưa ra phương pháp chung dạy tiết bài
tập ở môn Vật lí và tiết luyện tập môn Toán. Và cũng trong một lần thao giảng cụm
tại trường THCS Thành Kim tôi cũng dạy tiết bài tập để các đồng chí trong tổ Vật
lí của ba trường (THCS nội trú Thạch Thành, THCS Thành Kim, THCS Thành
Trực) dự và góp ý. Tất cả các đồng chí trong tổ Vật lí đều nhất trí cao về phương
pháp dạy này. Trong phạm vi đề tài này tôi cũng mạnh dạn đưa ra, để nếu đề tài
9


của tôi được xếp giải và có thể được triển khai đến các đồng chí dạy môn Vật lí
trong huyện nhà tham khảo, đóng góp ý kiến, cho tiết dạy này được hay hơn, hoàn
hảo hơn. Để chuẩn bị và dạy tiết bài tập, Tôi đã thực hiện như sau:

1. Chọn hệ thống bài tập:
Đầu tiên là tôi chọn hệ thống bài tập. Hệ thống bài tập phải đủ dạng, phải tổng
hợp được các kiến thức trong phần đã học. Không bỏ các bài tập mà sách giáo
khoa viết, nhưng không nên lấy trọn vẹn. Có thể thay đổi số liệu của bài toán, hoặc
đảo giả thiết thành kết luận và ngược lại. Vì hiện nay trên thị trường có bán nhiều
loại sách như : Để học tốt Vật lí lớp 6,7,8,9 hoặc sách giải vật lí 6,7,8,9 nên các bài
tập có trong sách giáo khoa đã được học sinh chép đầy đủ vào vở chuẩn bị bài hoặc
vào giấy nháp, khi giáo viên hỏi hay gọi lên bảng học sinh đã làm được có thể
không cần sự trợ giúp của thầy. Nhưng khi thầy hỏi vì sao lại làm được như vậy thì
học sinh không giải thích được. Một tiết bài tập nên chọn ba bài (như sách giáo
khoa) hai bài đầu ở mức độ nhận biết và thông hiểu, bài thứ ba vài ý đầu ở mức
vận dụng thấp, các ý về sau là vận dụng cao.
2. Chọn phương án dạy:
Để tiết kiệm thời gian, dành thời gian cho việc hướng dẫn được nhiều dạng bài
tập. Tôi rất ít khi giải bài tập ra một cách cụ thể mà tôi luôn hình thành cho các em
phương pháp:
- Đọc kĩ đề, tìm hiểu tóm tắt đề bài.
- Tìm các công thức có liên quan đến các đại lượng cần xác định.
- Lập sơ đồ giải: với một mũi tên là một phép toán.
Sau khi học sinh lập được sơ đồ giải tôi giao cho học sinh về nhà tự giải, coi như
là giao bài tập ở nhà hoặc để cuối giờ nếu còn thời gian các em tự giải. Như vậy
việc để cho học sinh tự trình bày lời giải cũng là tập cho các em thói quen tự làm
việc. Khi lập sơ đồ giải có thể không phải là của mình nhưng khi các em giải được
ra kết quả đúng các em rất phấn khởi như là tự mình tìm ra, tự mình làm lấy… tạo
được sự hứng thú say mê học tập của các em.
Muốn hình thành được thói quen này cũng không phải là dễ, ta phải hướng dẫn
cho các em ngay ở tiết đầu khi giải bài tập tự luận thì các em sẽ hình thành được kĩ
năng này. Sau mỗi bài tập phải yêu cầu học sinh rút ra phương pháp chung để giải
dạng bài tập này để khi các em gặp dạng các em sẽ vận dụng giải một cách thành
thạo.

Ở tiết bài tập thì bài tập thứ ba, còn ở tiết ôn tập ta không nên đưa hết đề bài lên
bảng mà nên đưa từng ý hoặc vài ý nhỏ lên bảng, khi học sinh làm hết lại đưa ra
tiếp. Vì có thể câu hỏi sau là đáp án của câu hỏi trước và như vậy lúc nào cũng tạo
ra sự tò mò của học sinh, mặt khác luôn tạo ra sự hào hứng, tích cực trong học tập.
Khi các em giải bài tập, giáo viên nên hỏi học sinh: Để giải bài tập này em đã vận
dụng kiến thức nào đã học? Qua sự trả lời của học sinh để hình thành từng nhánh
cho sơ đồ tư duy và khắc sâu các kiến thức đã học, khi học sinh giải hết bài tập thì
thầy trò đã hình thành toàn bộ kiến thức trọng tâm cần ghi nhớ bằng sơ đồ tư duy
mà giáo viên chuẩn bị trước.
Do phần chuẩn bị của học sinh có vẽ sơ đồ tư duy nên trước khi vào tiết học,
giáo viên thu sơ đồ tư duy của mỗi học sinh đồng thời cho học sinh kiểm tra chéo
việc chuẩn bị bài của nhau, báo cáo để giáo viên nắm được tình hình việc học ở
10


nhà của các em. Giáo viên nên dành khoảng môt phút để khen, hoặc nhắc nhở nhẹ
nhàng kịp thời về việc chuẩn bị bài ở nhà, tạo hưng phấn và thân thiện cho các em
bước vào một tiết học mới.
Sau khi hoàn thành sơ đồ tư duy trên bảng, giáo viên chọn ra một số sơ đồ mà
các em đã chuẩn bị ở nhà để so sánh, có thể cho điểm những em có sơ đồ tư duy
đúng, chuẩn để khích lệ động viên các em.
3. Cách ghi bảng:
Nếu dạy bằng máy chiếu đa năng thì đề bài tập và phần kiến thức cần nhớ nên
chuẩn bị vào máy để chiếu ra màn hình, còn bảng để ghi phần giải bài tâp hoặc sơ
đồ giải. Nếu không dạy bằng máy chiếu thì đề bài tập nên ghi sẵn vào bảng phụ,
các bài tập chưa làm đến nên che lại. Bảng thì chia thành các phần nhỏ và nhất
thiết ô đầu tiên trừ ra để ghi hoặc treo kiến thức cần nhớ(Kiến thức trọng tâm).
Phần kiến thức trọng tâm nên chuẩn bị dưới dạng sơ đồ tư duy để các em dễ nhớ.
Nên chuẩn bị ra bảng phụ và che lại, hình thành đến đâu thì gỡ phần che ra đến
đấy.

3.2. Một số vấn đề khó khăn gặp phải khi giảng dạy phần I – bài: ẢNH CỦA
MỘT VẬT TẠO BỞI GƯƠNG PHẲNG - Vật lí 7 và hướng khắc phục khó khăn.
a. Trình tự theo sách giáo khoa.
ẢNH CỦA MỘT VẬT TẠO BỞI GƯƠNG PHẲNG

I. Tính chất của ảnh tạo bởi gương phẳng:
Thí nghiệm: Bố trí thí nghiệm như hình 5.2, trong đó gương phẳng đặt thẳng đứng
trên mặt bàn nằm ngang. Quan sát ảnh của chiếc piên phấn trong gương.
1. Ảnh của vật tạo bởi gương phẳng có hứng được trên màn chắn không?
Bố trí thí nghiệm như hình 5.2 sách giáo khoa.
C1: Đưa một tấm bìa dùng làm màn chắn ra sau gương để kiểm tra dự đoán:
Kết luận
Ảnh của một vật tạo bởi gương
phẳng… hứng được trên màn chắn,
gọi là ảnh ảo.

2. Độ lớn của ảnh có bằng độ lớn
của vật không?
Bố trí thí nghiệm như hình 5.3 sách
giáo khoa.
C2: Dùng viên phấn thứ hai đúng
bằng
viên phấn thứ nhất, đưa ra sau tấm
kính để kiểm tra dự đoán về độ lớn
của ảnh
Kết luận
Độ lớn của ảnh của một vật tạo bởi
gương phẳng….độ lớn của vật
ơ


11


3. So sánh khoảng cách từ một điểm của vật đến gương và khoảng cách từ ảnh
của điểm đó đến gương.
Dùng thí nghiệm hình 5.3 để kiểm tra dự đoán.
C3: Hãy tìm cách kiểm tra xem AA / có vuông góc với MN không. A và A / có cách
đều MN không?
Kết luận
Điểm sáng và ảnh của nó tạo bởi gương phẳng cách gương một khoảng….nhau
b. Khó khăn gặp phải ở đây là:
Khi giáo viên đặt vấn đề vào bài như sách giáo khoa, học sinh chỉ biết : Cái
bóng mà bé Lan nhìn thấy là ảnh của tháp trên mặt nước phẳng lặng như mặt
gương và hình ảnh của mình mà các em quan sát được trong gương hàng ngày gọi
là ảnh qua gương phẳng. Còn ảnh là ảnh ảo hay ảnh thật hứng được trên màn hay
không các em chưa biết khái niện đó. Để các em phải công nhận như sách giáo
khoa là: Ảnh của một vật tạo bởi gương phẳng không hứng được trên màn chắn,
gọi là ảnh ảo, là giáo viên áp đặt để buộc các em phải công nhận.
Những năm đầu dạy phần này, sau khi làm thí nghiệm tôi hỏi học sinh: Ảnh có
hứng được trên màn không? Rất nhiều học sinh đều trả lời là có. Và còn có những
học sinh lí luận: sao em nhìn thấy được ảnh giống hệt như vật vậy mà cô lại bảo
ảnh ảo. Sau một hồi giải thích, các em phải đồng ý nhưng một số em trong lòng có
lẽ tâm không phục. Điều đó làm tôi luôn trăn trở suy nghĩ làm thế nào để học sinh
hiểu rõ được cụm từ: Ảnh không hứng được trên màn là ảnh ảo.
c. Hướng khắc phục:
Tôi đã lấy dụng cụ thí nghiệm của lớp 9 đó là thấu kính hội tụ, thấu kính phân
kì, màn hứng ảnh, giá quang học, vật sáng(Nến đang cháy) tấm kính trong phẳng
và gương phẳng để làm thí nghiệm.
Khi sử dụng bộ dụng cụ này để dạy cho phần: Tính chất của ảnh tạo bởi gương
phẳng, thay cho dụng cụ thí nghiệm ở hình 5.2, 5.3 sách giáo khoa Vật lí 7. Tiết

học trở nên sôi nổi, các em say mê tự làm các thí nghiệm và rút ra ngay được các
kết luận đúng như sách giáo khoa mà không cần sự trợ giúp của cô. Các em hiểu
sâu sắc các khái niệm: ảnh hứng được trên màn, ảnh không hứng được trên màn,
ảnh thật và ảnh ảo là như thế nào.
Tiến trình dạy phần này như sau:
Sau khi kiểm tra bài cũ, chưa cho học sinh mở sách giáo khoa. Tôi không đặt
vấn đề vào bài như sách giáo khoa mà phát cho mỗi nhóm một gương phẳng, yêu
cầu các em quan sát vào gương.
? Quan sát vào gương em nhìn thấy được gì?
Hoc sinh(HS) trả lời: Thấy hình ảnh của mình trong gương.
Giáo viên thông báo hình ảnh các em quan sát được trong gương gọi là ảnh tạo
bởi gương phẳng.
Tiếp theo giáo viên giới thiệu dụng cụ thí nghiệm và cách tiến hành thí nghiệm.
Chia mỗi bàn là một nhóm thí nghiệm, các dụng cụ thí nghiệm đã được lắp sẵn
và cố định mỗi vị trí của dụng cụ để tiết kiệm thời gian cho các phần sau. Khi làm
thí nghiệm các em chỉ việc thay lần lượt: Thấu kính hội tụ(TKHT), thấu kính phân
kì(TKPH), tấm kính trong và cuối cùng là gương phẳng. Thời gian thay các dụng
12


cụ, quan sát kết quả thí nghiệm rất nhanh, chỉ trong khoảng 5 phút các em đã hoàn
thành tất cả các thí nghiệm và kết hợp trả lời các câu hỏi giáo viên đưa ra và rút ra
kết luận. Thí nghiệm dễ làm và dễ thành công, các em tự mình rút ra được kết luận
như trong sách giáo khoa mà không cần đến sách.

Thí nghiệm 1: Với TKHT

Thí nghiệm 2: Với TKPK

Thí nghiệm 3: Với Gương phẳng


Thí nghiệm 4: Với Tấm kính trong

Khi học sinh làm thí nghiệm với thấu kính hội tụ: Kết quả thí nghiệm có ngay
trên màn, đó là ảnh của ngọn nến. Giáo viên thông báo: Ảnh của ngọn nến mà các
em quan sát được trên màn là ảnh thật.
Khi học sinh làm thí nghiệm với thấu kính phân kì, giáo viên hỏi học sinh:
- Có quan sát được ảnh của ngọn nến trên màn không?
HS: Không ạ.
Giáo viên yêu cầu học sinh nhìn qua thấu kính từ phía không có vật.
- Các em quan sát được gì?
HS: Thấy một ngọn nến bên trong.
- Đây có phải ngọn nến đang cháy ở ngoài không?
HS: Không ạ.
- Vì sao em biết?
HS: Vì ngọn nến bên trong nhỏ hơn ngọn nến bên ngoài.
13


Giáo viên thông báo: Ngọn nến nhỏ này là ảnh của ngọn nến và nhấn mạnh ảnh
này không hứng được trên màn và gọi là ảnh ảo. Các thí nghiệm này các em sẽ
được làm lại khi học đến lớp 9.
Tiếp theo cho học sinh làm thí nghiệm với Gương phẳng, giáo viên yêu cầu các
em quan sát trên màn.
- Có ảnh của ngọn nến trên màn không?
HS: Không ạ.
- Nhìn vào Gương có ảnh của ngọn nến trong gương không? Ảnh này là ảnh thật
hay ảnh ảo? Vì sao em biết.
HS: Có ạ. Ảnh là ảnh ảo vì không hứng được trên màn.
- So sánh kích thước của ảnh của ngọn nến trong gương với ngọn nến ở ngoài?

HS: Ảnh của ngọn nến trong gương bằng với ngọn nến ở ngoài.
Cuối cùng học sinh làm thí nghiệm với tấm kính phẳng, giáo viên cũng yêu cầu
học sinh quan sát trên màn, quan sát trong tấm kính, để rút ra được: Ảnh của ngọn
nến trong tấm kính là ảnh ảo, không hứng được trên màn.
- So sánh khoảng cách từ ngọn nến đến tấm kính và khoảng cách từ tấm kính
đến ảnh của ngọn nến?
HS: Khoảng cách từ ngọn nến đến tấm kính bằng khoảng cách từ tấm kính đến
ảnh của ngọn nến.
Vì trên giá quang học có sẵn thước đo và khi bố trí thí nghiệm giáo viên nên đặt
ngọn nến và kính ở vị trí có số đo của thước để học sinh chỉ cần nhìn là đọc được
số liệu ngay.
- Qua các kết quả mà các em vưà quan sát được, hãy rút ra kết luận: Ảnh của vật
tạo bởi gương phẳng có những tính chất gì?
Học sinh trả lời, giáo viên chuẩn kiến thức. Khi đó thầy, trò đã học xong phần I,
giáo viên vào bài mới - Ghi bảng. Bây giờ giáo viên mới yêu cầu mở vở, sách giáo
khoa để học bài mới. Giáo viên tiếp tục dạy theo tiến trình của sách giáo khoa phần
II của bài.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Khi tìm được phương án dạy tiết: Ôn tập không được biên soạn trong sách
giáo khoa và dạy Phần I của bài: Ảnh của một vật tạo bởi gương phẳng - Vật
lí 7, tôi đã thu được những kết quả nhất định.
4.1. Đối với các hoạt động giáo dục học sinh:
* Về kiến thức: Học sinh tích cực, chủ động nắm vững các kiến thức trọng tâm
trong bài, biết vận dụng các kiến thức đã học để giải bài tập và giải thích các hiện
tượng vật lí xảy ra trong đời sống hàng ngày.
* Về kĩ năng: Hình thành và rèn luyện các kĩ năng thực hành cho học sinh. Tập
thói quen làm việc khoa học, tác phong nhanh nhẹn. Các em được làm nhà “nghiên
cứu khoa học” vì được tự làm thí nghiệm, tự nghiên cứu các vấn đề để rút ra được
kết luận. Thông qua đó còn rèn luyện đức tính kiên trì, cẩn thận, rất cần cho con

người ở thời đại Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa. Mặt khác khi các em được thấy,
được tự tay lắp đặt các dụng cụ thí nghiệm, tự mình độc lập suy nghĩ, sẽ rèn luyện
được nhiều các kĩ năng cần thiết cho các em làm hành trang để tiếp tục học lên
trung học phổ thông hoặc học nghề.
14


* Về thái độ: Giúp các em phấn khởi, tích cực, say mê học tập, yêu thích môn
học.
4.2. Đối với bản thân:
Tìm được phương pháp giảng dạy phù hợp với đặc trưng bộ môn, với kiểu bài
lên lớp. Luôn sáng tạo kết hợp tốt các phương pháp trong hoạt động dạy học, bản
thân rất tự tin trước học sinh, được học sinh yêu quí và tin tưởng. Đây là món quà
vô giá của cuộc đời dạy học mà ai làm giáo viên cũng muốn có.
4.3. Đối với đồng nghiệp và nhà trường:
* Với đồng nghiệp:
Bản thân được đồng nghiệp, nhất là cùng bộ môn Vật lí trên địa bàn toàn huyện
tin cậy và họ được tôi chia sẻ, truyền đạt các kinh nghiệm, cũng như phương pháp
dạy một tiết khó hoặc khi đi thao giảng ở các cấp.
* Với nhà trường:
Luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao và đã góp một phần không
nhỏ vào thành tích chung của nhà trường.
- Chất lượng giáo dục đại trà luôn vượt chỉ tiêu đề ra.
- Chất lượng mũi nhọn:
+ Học sinh giỏi cấp Huyện: Năm nào học sinh giỏi cấp huyện cũng đạt và vượt
chỉ tiêu do chuyên môn nhà trường giao cho.
+ Học sinh giỏi cấp Tỉnh: Nhiều năm đạt và vượt chỉ tiêu. Đã từng có 01 học sinh
đạt giải nhất, có nhiều học sinh đạt giải nhì và giải ba cấp Tỉnh. Song cũng có năm
không có học sinh giỏi cấp Tỉnh. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến kết quả này, song
nguyên nhân chính là tư duy toán học của học sinh vùng 135 ở các xã vùng cao của

huyện Thạch Thành học tại trường còn non yếu.
III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Sau sáu năm liên tục dạy ở tất cả các khối lớp bằng phương pháp dạy bài Ôn tập
không được biên soạn trong sách giáo khoa và qua nhiều năm dạy Phần I của
bài Ảnh của một vật tạo bởi gương phẳng - Vật lí 7 như tôi đã nêu ở phần II.
Bản thân tôi nhận thấy kết quả học tập của học sinh được nâng lên một cách rõ rệt.
Khả năng ghi nhận và lĩnh hội kiến thức của học sinh nhanh nhạy hơn. Phát huy
tính tích cực, tự giác học tập của các em, gây hứng thú, sự đam mê trong việc tìm
tòi kiến thức, tìm câu trả lời cũng như tìm lời giải cho các bài tập trong tiết học.
Trong thời gian không phải là dài cùng với công việc giảng dạy, tự học, tự bồi
dưỡng, tôi đã không ngừng nghiên cứu học hỏi để đổi mới phương pháp dạy học.
Vận dụng triệt để vào quá trình giảng dạy tôi cũng đã thu được một chút thành
công nho nhỏ. Dự định trong hai năm tới(Vì tháng 10 năm 2019 tôi đã về hưu) với
phương châm vừa áp dụng vừa cải tiến để đề tài được hoàn thiện hơn và được bạn
bè đồng nghiệp hưởng ứng. Qua quá trình giảng dạy, bản thân đã rút ra được
những vấn đề cơ bản sau:
1. Giáo viên phải nắm chắc nội dung chương trình của các bài đã học, mạch
logíc của hệ thống kiến thức. Nắm vững tình hình thực tế học tập của học sinh để
chuẩn bị hệ thống câu hỏi, bài tập rõ ràng, có tính chất gợi mở nêu vấn đề, phù hợp
với từng đối tượng học sinh của từng năm, từng khối .
15


2. Đầu tư thời gian cho việc soạn giáo án trên cơ sở khai thác triệt để nội dung
kiến thức. Luôn năng động, sáng tạo, tự học, tự bồi dưỡng, học qua bạn bè đồng
nghiệp để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
3. Lựa chọn phương pháp phù hợp với đối tượng học sinh và nội dung bài học.
Phải tổ chức học sinh làm việc tích cực dưới sự hướng dẫn của thầy, biết tích cực
hóa hoạt động học tập của học sinh trong mọi khâu của quá trình dạy học.

Trong phạm vi nhỏ nhoi của một sáng kiến được chắt lọc qua những năm tháng
miệt mài bên trang giáo án, bản thân tôi xin mạnh dạn được trình bầy phương án
giảng dạy của mình. Trong đề tài này chắc chắn rằng hai phương án của tôi đưa ra
không tránh được những thiếu sót, bất cập chưa thể hoàn hảo được, rất mong các
đồng nghiệp đặc biệt là những người đang trực tiếp giảng dạy chương trình vật lí
trung học cơ sở đóng góp, bổ sung để tiết dạy được hoàn hảo, hay hơn, đa dạng,
và phong phú hơn. Rất mong các đồng nghiệp nghiên cứu đưa thêm các phương án
khác để cùng nhau học tập và áp dụng nhằm đưa chất lượng giảng dạy và học tập
bộ môn vật lí ngày càng đạt hiệu quả hơn. Tôi chân thành cảm ơn.
2.Kiến nghị đề xuất:
- Nếu sáng kiến này của tôi được xếp loại thì có thể triển khai trên địa bàn huyện
cho giáo viên đang dạy môn Vật lí trung học cơ sở, về phương pháp dạy tiết Ôn
tập không được biên soạn trong sách giáo khoa và dạy Phần I của bài Ảnh của
một vật tạo bởi gương phẳng - Vật lí 7. Để mọi người được cùng nhau trao đổi
góp ý đưa ra phương pháp hay nhất dạy các dạng bài này.
- Thiết bị dạy học góp phần rất lớn trong việc đổi mới phương pháp dạy học là
điều kiện không thể thiếu được vì nó hướng học sinh vào hoạt động tích cực chủ
động. Thiết bị dạy học, phương tiện dạy học không chỉ minh họa mà còn là nguồn
tri thức, là một cách chứng minh bằng qui nạp. Do vậy cấp trên cần thúc đẩy việc
bổ sung thiết bị dạy học mới đa phương tiện cho các trường để giáo viên và học
sinh được thực hành thí nghiệm. Nhất là các trường vùng cao như: Thành Yên,
Thành Mỹ, Thạch Lâm, Thạch Tượng…Vì qua lần đi thanh tra ở trường THCS
Thành Mỹ,THCS Thạch Lâm tôi thấy hai trường còn thiếu dụng cụ thí nghiêm
môn Vật Lí nhiều và dụng cụ thí nghiệm có thì không đồng bộ, nên không sử dụng
được. Tôi đã xin Ban giám hiệu trường THCS Dân tộc nội trú chia sẻ cho trường
THCS Thành Mỹ một số bộ dụng cụ môn Vật lí.
- Để tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động của học sinh trên cơ sở tự giác, tự khám
phá kiến thức thông qua hoạt động thực hành, làm thí nghiệm thì thiết bị dạy học,
phương tiện dạy học phải bảo đảm tính đồng bộ, có hệ thống, có chất lượng cao.
- Hiện nay thiết bị dạy học do cấp trên cấp về chưa đảm bảo tính đồng bộ, chất

lượng thấp nhanh hỏng, độ chính xác không cao. Khi sử dụng các thiết bị này, kết
quả đôi khi không đúng với lí thuyết, học sinh thiếu sự tin tưởng vào kiến thức mà
các em vừa thu nhận được.
- Cần đề ra qui định để thiết bị dạy học được giáo viên, học sinh sử dụng tối đa.
Có biện pháp xử lí đối với giáo viên không sử dụng thiết bị dạy học trong giờ lên
lớp nếu trong phòng thí nghiệm của nhà trường có .
- Nên mỗi trường có kho chứa thiết bị để bảo quản và mỗi trường có một giáo
viên làm thí hóa nghiệm giúp giáo viên chuẩn bị sẵn đồ dùng thiết bị, vừa là kiểm
soát việc sử dụng thiết bị dạy học của giáo viên bộ môn.
16


- Cần tổ chức các cuộc thi làm thiết bị dạy học đơn giản hoặc cải tiến thiết bị đã
có, đã hỏng để bổ sung và góp phần làm phong phú thêm thiết bị dạy học của nhà
trường.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thạch Thành, ngày 10 tháng 03 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của bản thân,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Nguyễn Thị Nhị

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nghị quyết TW II khóa VIII của Đảng về đổi mới phương pháp giáo dục.
[2]. Luật Giáo dục sửa đổi năm 2005 về đổi mới phương pháp giáo dục.
[3]. Bảng tổng hợp điểm bình quân thi vào lớp 10 THPT của Phòng giáo dục và
đào tạo huyện Thạch thành

4. Phân phối chượng trình bộ môn Vật lí THCS của Sở GD và ĐT Thanh Hóa phát
hành năm 2011.
17


5. Sách giáo khoa, sách giáo viên môn Vật lí lớp 7,8. Tác giả: Vũ Quang(Tổng chủ
biên). Bùi Gia Thịnh(Chủ biên), Dương Tiến Khang- Vũ Trọng Rỹ- Trịnh Thị Hải
Yến. Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. Tháng 01 năm 2014.

MỤC LỤC
Mục
I.
1.
2.
3.

Nội dung
Mở đầu
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu

Trang
1
1
1
1
18



4.
II.
1.
2.
3.
3.1

Phương pháp nghiên cứu
Nội dung
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
Các giải pháp thực hiện

Một số phương án dạy tiết ôn tập không được biên soạn
trong sách giáo khoa.
3.2 Một số vấn đề khó khăn gặp phải khi giảng dạy phần I bài“ Ảnh của một vật được tạo bởi gương phẳng”- Vật
lí 7 và hướng khắc phục khó khăn.

4.
III.
1.
2.

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Kết luận và kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị

2
2

2
2
4
4
11
14
15
15
16

DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả:
Nguyễn Thị Nhị
Chức vụ- đơn vị công tác: Giáo viên- Trường THCS Dân tộc nội trú Thạch Thành
19


TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá và kết
quả xếp loại
Phòng GD
Sở GD

Năm học


Một số vấn đề đổi mới phương
A
B
2002- 2003
SỞ vật
GIÁO
DỤC
pháp dạy học
lí lớp
6. VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG
Hình thành phương
phápGD&ĐT
giải bài THẠCH THÀNH
2
A
B
2005- 2006
tập vật lí THCS.
Phương pháp dạy bài ôn tập
3 tổng kết chương để phát huy tính
A
C
2007- 2008
tích cực học tập của học sinh.
Một số phương pháp giải bài
4 tập quang hình vật lí 9 đạt hiệu
A
B

2010- 2011
quả cao.
Dạy học nêu vấn đề- Để nâng
cao kết quả học tập cho học sinh
5
A
B
2013- 2014
trường THCS Dân tộc nội trú
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Thạch Thành.
Một số phương pháp dạy tiết ôn
6 MỘT
tập không
được biên soạn
trong
A ÔN TẬP KHÔNG
20162017
SỐ PHƯƠNG
PHÁP
DẠY TIẾT
ĐƯỢC
sách giáo BIÊN
khoa. SOẠN TRONG SÁCH GIÁO KHOA
1

Người thực hiện: Nguyễn Thị Nhị
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Dân tộc nội trú
SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Vật lí


THẠCH THÀNH NĂM 2017

20



×