Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế tại chi cục thuế quận hồng bàng – thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 100 trang )

BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM

HỌ VÀ TÊN: VŨ THỊ MAI ANH

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ TẠI CHI CỤC THUẾ
QUẬN HỒNG BÀNG - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH QUẢN LÝ KINH TẾ

HẢI PHÒNG - 2016


BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM

HỌ VÀ TÊN: VŨ THỊ MAI ANH

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ TẠI CHI CỤC THUẾ
QUẬN HỒNG BÀNG - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

Ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số: 60340410

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS VŨ TRỌNG TÍCH



HẢI PHÒNG 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Bản luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu
của cá nhân tôi, thực sự đƣợc thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết kết
hợp với khảo sát, áp dụng một phần trong tình hình thực tiễn và dƣới sự
hƣớng dẫn của PGS.TS Vũ Trọng Tích.
Các dữ liệu, giải pháp và những kết quả trong luận văn là trung

thực,

xuất phát từ việc phối hợp giữa kiến thức khoa học và kinh nghiệm thực tiễn.
Luận văn này chƣa từng đƣợc công bố dƣới bất cứ hình thức nào trƣớc đây.
Một lần nữa, tôi xin khẳng định về sự trung thực của lời cam đoan trên.
Tác giả

Vũ Thị Mai Anh


ii

LỜI CẢM ƠN
Là một ngƣời làm việc trong lĩnh vực quản lý nhà nƣớc, tôi rất muốn đƣợc
cống hiến một phần nhỏ bé của mình cho sự nghiệp phát triển của đất nƣớc. Tôi
luôn nhận thức đƣợc việc trau dồi kiến thức là rất cần thiết, cùng với sự tin tƣởng
của cá nhân vào trƣờng đại học Hàng Hải mà tôi đã từng học đại học, tôi đã tiếp tục
theo học tại ngôi trƣờng thân yêu này. Để hoàn thành chƣơng trình cao học, trƣớc
hết phải kể đến công ơn của Nhà trƣờng và Quý Thầy cô đã tận tình giúp đỡ, tận

tâm chỉ bảo. Tôi xin gửi lời cảm ơn trân trọng nhất đến Nhà trƣờng và Quý thầy cô,
những ngƣời đã dậy và dìu dắt tôi trong suốt quá trình học tập vừa qua.
Đặc biệt , tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Vũ Trọng Tích,
ngƣời Thầy đã dành rất nhiều thời gian và tâm huyết hƣớng dẫn, nghiên cứu để giúp
tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Trong quá trình hoàn thành luận văn, mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng bằng tất
cả sự nhiệt huyết và năng lực của mình, tuy nhiên chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi
những hạn chế và thiếu sót. Rất mong nhận đƣợc những đóng góp quý báu của Quí
Thầy Cô và các bạn.
Trân trọng./.
Hải Phòng, ngày

tháng

Tác giả

Vũ Thị Mai Anh

năm 2016


iii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ ii
MỤC LỤC ................................................................................................................. iii
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU ...............................................................................v
DANH MỤC CÁC HÌNH ...........................................................................................v
PHẦN MỞ ĐẦU .........................................................................................................1

CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ .. 3
1.1 Tổng quan về thuế.............................................................................................3
1.1.1 Khái niệm Thuế .........................................................................................3
1.1.2 Phân loại thuế ...........................................................................................5
1.1.3 Chức năng và vai trò của thuế đối với sự phát triển Kinh tế – Xã hội. ...23
1.2 Công tác quản lý thuế .....................................................................................29
1.2.1 Khái niệm công tác quản lý thuế .............................................................29
1.2.2 Đặc trƣng cơ bản của công tác quản lý thuế............................................32
1.2.3 Nội dung công tác quản lý thuế ...............................................................35
1.2.4 Các mô hình tổ chức quản lý thuế. ..........................................................36
1.2.5 Công tác quản lý thuế ở một số nƣớc trên thế giới và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam. ......................................................................................41
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ TẠI CHI CỤC
THUẾ QUẬN HỒNG BÀNG - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG .................................46
2.1 Tổng quan về Chi cục thuế Quận Hồng Bàng ................................................46
2.1.1 Vị trí, chức năng ......................................................................................46
2.1.2 Nhiệm vụ và quyền hạn ...........................................................................46
2.1.3 Cơ cấu tổ chức: ........................................................................................48
2.2 Đánh giá thực trạng công tác quản lý thuế tại Chi cục thuế Q Hồng Bàng ....49
2.2.1 Đánh giá công tác lập kế hoạch thu thuế .................................................50
2.2.2 Đánh giá công tác tổ chức thu thuế .........................................................55
2.2.3 Công tác kiểm tra và xử lý các vi phạm về thuế. ....................................58
2.2.4 Đánh giá công tác tuyên truyền hƣớng dẫn đối với ngƣời nộp thuế. ......62


iv

2.3 Những kết quả đạt đƣợc, những hạn chế trong công tác quản lý thuế tại Chi
cục thuế Quận Hồng Bàng ....................................................................................63
2.3.1 Những kết quả đạt đƣợc trong công tác quản lý thuế ..............................63

2.3.2 Những hạn chế trong công tác quản lý thuế. ...........................................64
2.3.3 Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác quản lý thuế ................64
CHƢƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ
TẠI CHI CỤC THUẾ QUẬN HỒNG BÀNG – THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ........68
3.1 Căn cứ đề xuất giải pháp .................................................................................68
3.1.1 Tình hình phát triển Kinh tế - Xã hội tại Quận Hồng Bàng ....................68
3.1.2 Mục tiêu, nhiệm vụ của Chi cục thuế Quận Hồng Bàng. ........................70
3.2 Nội dung các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế tại Chi cục thuế
Quận Hồng Bàng – Thành phố Hải Phòng ...........................................................72
3.2.1 Hoàn thiện công tác cán bộ trong công tác quản lý thuế .........................72
3.2.2 Hoàn thiện công tác lập kế hoạch thu thuế ..............................................72
3.2.3 Hoàn thiện quy trình kê khai thuế và thu nộp thuế .................................73
3.2.4 Tăng cƣờng các hoạt động tuyên truyền hƣớng dẫn đối với ngƣời nộp
thuế ...................................................................................................................75
3.2.5 Tăng cƣờng các giải pháp ngăn chặn các hành vi vi phạm về thuế ........77
3.2.6 Hiện đại hóa cơ sở vật chất và đào tạo, bồi dƣỡng, nâng cao trình độ đội
ngũ cán bộ nhân viên thuế ................................................................................84
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...................................................................................88
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................93


v

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tình hình thực hiện thu ngân sách nhà nƣớc năm 2012 .......................... 51
Bảng 2.2: Tình hình thực hiện thu ngân sách nhà nƣớc năm 2013 .......................... 52
Bảng 2.3: Tình hình thực hiện thu ngân sách nhà nƣớc năm 2014 ......................... 54
Bảng 2.4: Tổng hợp tình hình thực hiện thu ngân sách nhà nƣớc 2013-2014 ......... 54
Bảng 2.5: Tình hình quản lý đối tƣợng nộp thuế năm 2012 .................................... 56
Bảng 2.6: Tình hình quản lý đối tƣợng nộp thuế năm 2013 .................................... 56

Bảng 2.7: Tổng hợp tình hình nợ thuế của Khối doanh nghiệp NQD năm
2013 ....................................................................................................... 60
Bảng 2.8: Kết quả thu nợ năm 2013 của khối doanh nghiệp NQD. ........................ 60
Bảng 2.9: Tổng hợp tình hình nợ thuế của Khối doanh nghiệp NQD năm
2014 ....................................................................................................... 60
Bảng 2.10: Kết quả thu nợ năm 2014 của khối doanh nghiệp NQD. ...................... 61
Bảng 2.11: Tổng hợp công tác tuyên truyền hƣớng dẫn đối với ngƣời nộp
thuế 2012 – 2013 - 2014 ........................................................................ 62

DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức Chi cục thuế Quận Hồng Bàng ...............................49
Hình 3.1: Các nhân tố ảnh hƣởng đến mức độ hài lòng của ngƣời nộp thuế ............75


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Để đảm bảo giữ vững ổn định môi trƣờng đầu tƣ mang tính cạnh tranh quốc
tế cao của nền kinh tế Việt Nam đã và đang hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế
giới, đòi hỏi nhà nƣớc phải đƣa ra một chính sách thuế với các chiến lƣợc quản lý
hợp lý.
Thuế là nguồn thu chủ yếu của quốc gia. Vì vậy, một nền tài chính quốc gia
lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế quốc dân. Tất cả
các nhu cầu chi tiêu của Nhà nƣớc đều đƣợc đáp ứng qua các nguồn thu từ thuế, phí
và các hình thức thu khác nhƣ: vay mƣợn, viện trợ nƣớc ngoài, bán tài nguyên quốc
gia, các khoản thu khác..vv.. Song thực tế cho thấy các hình thức thu ngoài thuế đó
có rất nhiều hạn chế và bị ràng buộc bởi nhiều điều kiện. Do đó thuế vẫn đƣợc coi
là khoản thu quan trọng nhất vì khoản thu này mang tính chất ổn định và khi nền
kinh tế càng phát triển thì khoản thu này càng tăng.

Trong thực tế nƣớc ta hiện nay, nguồn lực cho công tác quản lý thuế còn
nhiều hạn chế, trong khi sự phức tạp từ các doanh nghiệp kinh doanh ngày một tăng
lên. Điều đó đã mang đến nhiều khó khăn hơn cho cơ quan quản lý thuế trƣớc sức
ép phải đảm bảo công tác thu thuế để đảm bảo ngân sách nhà nƣớc hàng năm. Đây
là khó khăn lớn nhất mà ngành thuế ở Việt Nam cần phải vƣợt qua.
Hệ thống thuế bao gồm nhiều loại thuế hoạt động trong các lĩnh vực khác
nhau. Một sắc thuế có thể đƣợc ban hành theo một trong hai hình thức pháp lý, đó
là: Luật và Pháp lệnh. Tuy có nhiều loại thuế khác nhau, nhƣng tất cả chúng đều có
một kết cấu chung và đƣợc trình bày theo một trình tự thống nhất, gồm có các yếu
tố cấu thành chủ yếu nhƣ: Tên gọi, đối tƣợng nộp thuế, đối tƣợng tính thuế, thuế
suất, chế độ giảm thuế và miễn thuế và cách thức tổ chức thực hiện.
Hệ thống thuế bao gồm nhiều sắc thuế đƣợc xây dựng theo các nguyên tắc cơ
bản, đó là: Tính minh bạch, tính hiệu quả, linh hoạt và nguyên tắc công bằng. Hệ
thống thuế bao gồm: hệ thống chính sách thuế và hệ thống quản lý thuế.
Đối với Quận Hồng Bàng, một trong 3 quận Trung tâm của Hải Phòng, là
đơn vị có số dân, số doanh nghiệp đóng trên địa bàn đông nhất trong các quận
huyện thuộc Thành phố, thì những hạn chế và khó khăn nêu trên của công tác quản


2

lý thuế cũng là một bài toán khó cần lời giải của ngành thuế địa phƣơng.
Từ những phân tích nêu trên, tôi chọn luận văn Thạc sỹ với đề tài " Giải pháp
hoàn thiện công tác quản lý thuế tại Chi cục thuế Quận Hồng Bàng – Thành phố
Hải Phòng" để nhằm nghiên cứu, giải quyết một vấn đề cấp thiết và có ý nghĩa thực
tiễn trong công tác quản lý thuế tại Quận Hồng Bàng – Thành phố Hải Phòng hiện
nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là từ việc hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý
luận về công tác quản lý thuế cùng với việc phân tích thực trạng công tác quản lý

thuế trong điều kiện thực tế tại địa phƣơng để có thể đề xuất các giải pháp hoàn
thiện công tác quản lý thuế tại chi cục thuế Quận Hồng Bàng – Thành phố Hải
Phòng cho phù hợp với đƣờng lối chính sách và pháp luật của Nhà nƣớc.
3. Đối tƣợng nghiên cứu.
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là công tác quản lý thuế.
4. Phạm vi nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là tiếp cận số liệu và tập trung nghiên cứu
những vấn đề liên quan đến công tác quản lý thuế tại Chi cục thuế Quận Hồng Bàng
– Thành phố Hải Phòng trong gần 3 năm 2012 – 2014.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu, luận văn đã sử dụng tổng hợp nhiều
phƣơng pháp nghiên cứu khác nhau.
Cơ sở phƣơng pháp luận: Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Các phƣơng pháp nghiên cứu: Phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp so sánh,
phƣơng pháp thống kê, phƣơng pháp tổng hợp, điều tra, khảo sát thực tế.
6. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận thì luận văn đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan lý luận về thuế và công tác quản lý thuế.
Chƣơng 2: Thực trạng công tác quản lý thuế tại Chi cục thuế Quận Hồng
Bàng – Thành phố Hải Phòng.
Chƣơng 3: Các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế tại Chi cục thuế
Quận Hồng Bàng – Thành phố Hải Phòng.


3

CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ
1.1 Tổng quan về thuế
1.1.1 Khái niệm Thuế

Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ
phải thực hiện đối với Nhà nƣớc, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà
nƣớc ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tƣợng
nộp thuế. Thuế không phải là một hiện tƣợng tự nhiên mà là một hiện tƣợng xã hội
do chính con ngƣời định ra và nó gắn liền với phạm trù Nhà nƣớc và pháp luật.
+ Sự ra đời và tồn tại của thuế gắn liền với sự phân chia xã hội thành các
giai cấp đối kháng và sự xuất hiện của Nhà nước - Pháp luật.
Thuế là một thực thể pháp lý nhân định nhƣng sự ra đời và tồn tại của nó
không chỉ phụ thuộc vào ý chí con ngƣời mà còn phụ thuộc vào các điều kiện Kinh
tế - Xã hội của từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Sự xuất hiện Nhà nƣớc đòi hỏi cần phải có của cải vật chất cần thiết chi cho
hoạt động thƣờng xuyên của bộ máy Nhà nƣớc nhằm đảm bảo cho Nhà nƣớc tồn
tại, duy trì quyền lực và thực hiện chức năng quản lý xã hội của mình. Trong điều
kiện có các giai cấp, tồn tại chế độ tƣ hữu cùng với phạm vi hoạt động của Nhà
nƣớc ngày càng mở rộng thì chế độ đóng góp theo phƣơng thức tự nguyện của dân
cƣ trong chế độ cộng sản nguyên thủy không còn phù hợp nữa. Ðể có đƣợc lƣợng
của cải cần thiết, Nhà nƣớc đã sử dụng quyền lực của mình ban hành pháp luật, ấn
định bắt buộc các thể nhân và pháp nhân phải đóng góp cho Nhà nƣớc một phần của
cải mà họ làm ra và hình thành qũy tiền tệ tập trung của Nhà nƣớc. Ban đầu những
của cải vật chất này đƣợc thu nộp dƣới hình thức hiện vật, dần dần thuế đƣợc
chuyển sang hình thức tiền tệ. Ðồng thời với việc ấn định nghĩa vụ thu nộp của cải
vật chất đối với dân cƣ, Nhà nƣớc đảm bảo việc thực hiện các nghĩa vụ đó bằng bộ
máy cuỡng chế của Nhà nƣớc.
Sự xuất hiện sản phẩm thặng dƣ trong xã hội là cơ sở chủ yếu để thuế tồn tại
và phát triển. Nhƣ vậy, thuế là phạm trù có tính lịch sử và là một tất yếu khách
quan, thuế ra đời xuất phát từ nhu cầu đáp ứng chức năng của Nhà nƣớc và sự tồn
tại của thuế không tách rời quyền lực Nhà nƣớc.


4


+ Thuế do cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ban hành.
Ở các quốc gia, do vai trò quan trọng của thuế đối với việc hình thành ngân
sách Nhà nƣớc và những ảnh hƣởng của nó đối với đời sống Kinh tế - Xã hội nên
thẩm quyền quy định, sửa đổi, bãi bỏ các Luật thuế đều thuộc cơ quan lập pháp.
Ðây là nguyên tắc sớm đƣợc ghi nhận trong pháp luật của các nƣớc. Chẳng hạn ở
nƣớc Anh đạo Luật về dân quyền năm 1688 quy định: cấm mọi sự thu thuế để dùng
vào việc chi tiêu của Nhà nƣớc nếu không đƣợc Quốc hội chấp thuận; ở Pháp, Quốc
hội Pháp quy định: bất cứ một khoản thuế nào nếu không đƣợc Quốc hội chấp thuận
thì không đƣợc áp dụng. Hiến pháp của nƣớc Cộng hòa Pháp năm 1791 quy định
Quốc hội Pháp có quyền biểu quyết và định đoạt các Luật thuế.
Hiến pháp nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: Quốc hội có
nhiệm vụ và quyền hạn quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các Luật thuế. Tuy vậy, do
yêu cầu điều chỉnh các quan hệ pháp luật về thuế, Quốc hội có thể giao cho Ủy ban
Thƣờng vụ Quốc hội quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ một số loại thuế thông qua hình
thức ban hành Pháp lệnh hoặc Nghị quyết về thuế.
+ Thuế là khoản nộp mang tính nghĩa vụ bắt buộc của các pháp nhân và thể
nhân đối với Nhà nước không mang tính đối giá hoàn trả trực tiếp.
Thuế là nghĩa vụ thanh toán mà các thể nhân và pháp nhân khi có các dấu
hiệu và điều kiện đƣợc quy định cụ thể trong Luật thuế thì phải thực hiện đối với
Nhà nƣớc và đƣợc đảm bảo thực hiện bằng sự cƣỡng chế của Nhà nƣớc.
+ Thuế là công cụ phản ánh quan hệ phân phối lại của cải vật chất dưới
hình thức giá trị giữa Nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội.
Nhà nƣớc thu thuế làm phát sinh quan hệ phân phối giữa Nhà nƣớc với các
thể nhân và pháp nhân trong xã hội. Ðối tƣợng của quan hệ phân phối này là của cải
vật chất đƣợc biểu hiện dƣới hình thức giá trị.
Sự tồn tại và phát triển của Nhà nƣớc trong từng giai đoạn lịch sử, đặc điểm
của phƣơng thức sản xuất, kết cấu giai cấp là những nhân tố chủ yếu ảnh hƣởng đến
vai trò, nội dung, đặc điểm của thuế. Do đó, cơ cấu và nội dung của cả hệ thống
pháp luật thuế và từng Luật thuế phải đƣợc nghiên cứu, sửa đổi bổ sung, cải tiến và

đổi mới kịp thời nhằm thích hợp với tình hình, nhiệm vụ của từng giai đoạn. Ðồng
thời phải tổ chức bộ máy phù hợp, đủ sức đảm bảo thực hiện các quy định pháp luật
về thuế đã đƣợc Nhà nƣớc ban hành trong từng thời kỳ.


5

Hệ thống pháp luật thuế đƣợc coi là phù hợp không chỉ nhìn một cách phiến
diện vào số lƣợng các Luật thuế nhiều hay ít, vào mục tiêu đơn thuần là động viên
tài chính vào ngân sách Nhà nƣớc mà phải đƣợc phân tích một cách toàn diện, chặt
chẽ với yêu cầu phát triển kinh tế, với đời sống xã hội, không đối lập với quyền lợi
và khả năng đóng góp của nhân dân.
Ở nƣớc ta trƣớc cải cách chế độ thu ngân sách Nhà nƣớc, Luật thuế chỉ áp
dụng đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc thành phần kinh tế tập thể và cá
thể. Ðể thực hiện chế độ thu ngân sách Nhà nƣớc phù hợp với cơ chế thị trƣờng,
phát huy vai trò của các hình thức thu ngân sách Nhà nƣớc, cuộc cải cách chế độ
thu ngân sách Nhà nƣớc đƣợc thực hiện trên cơ sở Nghị quyết Quốc hội khóa VIII
kỳ họp thứ IV năm 1989. Kết qủa của cuộc cải cách này đƣa đến việc áp dụng thống
nhất chế độ thu thuế đối với tất cả các thành phần kinh tế, không phân biệt hình
thức sở hữu, hình thức kinh doanh. Từ đây thuế thực sự trở thành nguồn thu chủ yếu
của ngân sách Nhà nƣớc và thuế chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu nguồn thu ngân
sách Nhà nƣớc.
1.1.2 Phân loại thuế
Tùy theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nƣớc mà hệ thống pháp luật
thuế bao gồm nhiều loại thuế khác nhau. Ðể định hƣớng xây dựng và quản lý hệ
thống thuế, chúng ta tiến hành sắp xếp các Luật thuế có cùng tính chất thành những
nhóm khác nhau, gọi là phân loại thuế. Tùy thuộc vào mục tiêu, yêu cầu của từng
giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội mà cơ cấu và nội dung các Luật thuế có khác
nhau. Cũng tùy thuộc vào cơ sở, mục đích phân định, thông thƣờng thuế đƣợc phân
loại theo các tiêu thức sau:

+ Căn cứ vào tính chất của nguồn tài chính động viên vào ngân sách Nhà
nước, thuế được phân làm 2 loại: thuế trực thu và thuế gián thu.
- Thuế gián thu là loại thuế mà Nhà nƣớc sử dụng nhằm động viên một phần
thu nhập của ngƣời tiêu dùng hàng hóa, sử dụng dịch vụ thông qua việc thu thuế đối
với ngƣời sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tính chất gián thu thể hiện ở chổ
ngƣời nộp thuế và ngƣời chịu thuế không đồng nhất với nhau. Thuế gián thu là một
bộ phận cấu thành trong giá cả hàng hoá, dịch vụ do chủ thể hoạt động sản xuất,
kinh doanh nộp cho Nhà nƣớc nhƣng ngƣời tiêu dùng lại là ngƣời phải chịu thuế. Ở


6

nƣớc ta thuộc loại thuế này bao gồm: Thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt...
- Thuế trực thu là loại thuế mà Nhà nƣớc thu trực tiếp vào phần thu nhập của
các pháp nhân hoặc thể nhân. Tính chất trực thu thể hiện ở chổ ngƣời nộp thuế theo
quy định của pháp luật đồng thời là ngƣời chịu thuế. Thuế trực thu trực tiếp động
viên, điều tiết thu nhập của ngƣời chịu thuế. Ở nƣớc ta thuộc loại thuế này gồm:
thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập đối với ngƣời có thu nhập cao, thuế
chuyển quyền sử dụng đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp...
Sự phân loại thuế thành thuế trực thu và thuế gián thu có ý nghĩa quan trọng
trong việc xây dựng chính sách pháp luật thuế.
+ Căn cứ vào đối tượng đánh thuế. Thuế được chia thành:
- Thuế đánh vào hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ nhƣ thuế giá trị gia tăng.
- Thuế đánh vào sản phẩm hàng hoá nhƣ thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ
đặc biệt...
- Thuế đánh vào thu nhập nhƣ thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập đối
với ngƣời có thu nhập cao.
- Thuế đánh vào tài sản nhƣ thuế nhà đất.
- Thuế đánh vào việc khai thác hoặc sử dụng một số tài sản quốc gia nhƣ

thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất, sử dụng vốn của ngân sách Nhà nƣớc.
- Thuế khác và lệ phí, phí.
Các loại thuế trên đƣợc áp dụng cho nhiều đối tƣợng khác nhau để vừa phát
huy tác dụng riêng của từng loại thuế, vừa hổ trợ, bổ sung cho nhau nhằm thực hiện
một cách tổng hợp các mục tiêu và vai trò của hệ thống pháp luật thuế.
Ở nƣớc ta, từ giữa những năm 1980, cùng với công cuộc đổi mới và mở cửa
nền kinh tế, hệ thống pháp luật thuế Việt Nam đã đƣợc nghiên cứu và đến năm 1990
một hệ thống pháp luật thuế mới đƣợc hình thành, bao gồm hệ thống chính sách
pháp luật thuế và hệ thống quản lý Nhà nƣớc về thuế.
Hiện nay theo Chiến lƣợc cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020 đã
đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt, hệ thống chính sách thuế trong giai đoạn
2011 - 2020 bao gồm các sắc thuế, phí và lệ phí chủ yếu sau đây: Thuế giá trị gia
tăng; Thuế tiêu thụ đặc biệt; Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Thuế thu nhập doanh


7

nghiệp; Thuế thu nhập cá nhân; Thuế tài nguyên; Thuế sử dụng đất nông nghiệp;
Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp; Thuế bảo vệ môi trƣờng. Ngoài ra còn có một
số phí và lệ phí có tính chất nhƣ thuế nhƣ: lệ phí trƣớc bạ, lệ phí giao thông, lệ phí
chứng thƣ, lệ phí sát sinh.
- (1) Thuế giá trị gia tăng:
Khái niệm: Thuế giá trị gia tăng có nguồn gốc từ thuế doanh thu và Pháp là
nƣớc đầu tiên trên thế giới ban hành Luật thuế giá trị gia tăng vào năm 1954. Thuế
giá trị gia tăng đã đƣợc áp dụng rộng rãi ở nhiều nƣớc trên thế giới, tính đến nay đã
có khoảng 130 quốc gia áp dụng loại thuế này. Ở nƣớc ta, tại kỳ họp lần thứ 3 Quốc
hội khoá 12, Quốc hội nƣớc ta đã thông qua Luật thuế giá trị gia tăng (Luật số:
13/2008/QH12) có hiệu lực thi hành kề từ ngày 01/01/1999. Sau đó tại Quốc hội
khoá XIII, kỳ họp thứ 5 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật
thuế giá trị gia tăng (Luật số: 31/2013/QH13) và sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày

01/01/2014.
Theo quy định của Luật thuế giá trị gia tăng thì thuế giá trị gia tăng là một
loại thuế gián thu đánh trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh
trong quá trình từ sản xuất, lƣu thông đến tiêu dùng và đƣợc nộp vào ngân sách Nhà
nƣớc theo mức độ tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ.
Ðây là một loại thuế doanh thu đánh vào mỗi giai đoạn sản xuất, lƣu thông
sản phẩm hàng hoá, từ khi còn là nguyên liệu thô sơ cho đến sản phẩm hoàn thành,
và cuối cùng là giai đoạn tiêu dùng. Chính vì vậy mà chúng ta còn gọi là thuế doanh
thu có khấu trừ số thuế đã nộp ở giai đoạn trƣớc. Thuế giá trị gia tăng đƣợc cộng
vào giá bán hàng hoá, dịch vụ, và do ngƣời tiêu dùng chịu khi mua hàng hoá, sử
dụng dịch vụ.
Cơ chế hoạt động của thuế giá trị gia tăng: Cơ sở cuả thuế giá trị gia tăng
chính là phần giá trị tăng thêm cuả sản phẩm do cơ sở sản xuất, kinh doanh mới
sáng tạo ra chƣa bị đánh thuế. Nói cách khác, cơ sở của thuế giá trị gia tăng là
khoản chênh lệch giữa giá mua và giá bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ. Do đó cơ
chế hoạt động của thuế giá trị gia tăng đƣợc quy định nhƣ sau:
- Một trong những nguyên tắc cơ bản cuả thuế giá trị gia tăng là sản phẩm,
hàng hoá dù qua nhiều khâu hay ít khâu từ sản xuất đến tiêu dùng, đều chịu thuế
nhƣ nhau.


8

- Thuế giá trị gia tăng có điểm cơ bản khác với thuế doanh thu là chỉ có
ngƣời bán hàng (hoặc dịch vụ) lần đầu phải nộp thuế giá trị gia tăng trên toàn bộ
doanh thu bán hàng (hoặc cung ứng dịch vụ). Còn ngƣời bán hàng (hoặc dịch vụ) ở
các khâu tiếp theo đối với hàng hoá (hoặc dịch vụ) đó, chỉ phải nộp thuế trên phần
giá trị tăng thêm. Nói cách khác, thuế giá trị gia tăng là loại thuế duy nhất thu theo
phân đoạn chia nhỏ, trong quá trình sản xuất, lƣu thông hàng hoá (hoặc dịch vụ) từ
khâu đầu tiên đến ngƣời tiêu dùng, khi khép kín một chu kỳ kinh tế. Ðến cuối chu

kỳ sản xuất, kinh doanh hoặc cung cấp dịch vụ, tổng số thuế thu đƣợc ở các công
đoạn sẽ khớp với số thuế tính trên giá bán hàng hoá hoặc giá dịch vụ cho ngƣời tiêu
dùng cuối cùng.
- Thuế giá trị gia tăng không chịu ảnh hƣởng bởi kết quả sản xuất, kinh
doanh của đối tƣợng nộp thuế, không phải là yếu tố của chi phí mà chỉ đơn thuần là
một khoản đƣợc cộng thêm vào giá bán của đối tƣợng cung cấp hàng hóa, dịch vụ.
- Thuế giá trị gia tăng do ngƣời tiêu dùng chịu nhƣng không phải do ngƣời
tiêu dùng trực tiếp nộp mà là do ngƣời bán sản phẩm (hoặc dịch vụ) nộp thay vào
kho bạc, do trong giá bán hàng hoá (hoặc trong dịch vụ) có cả thuế giá trị gia tăng.
Vì qua từng công đoạn, thuế giá trị gia tăng đã đƣợc ngƣời bán đƣa vào giá hàng
hoá, dịch vụ cho nên thuế này đƣợc chuyển toàn bộ cho ngƣời mua hàng hóa hoặc
sử dụng dịch vụ cuối cùng chịu.
Ðể áp dụng thuế giá trị gia tăng cho đúng đắn, công bằng, có hiệu quả, đáp
ứng đƣợc chủ trƣơng "góp phần thúc đẩy sản xuất, khuyến khích phát triển nền kinh
tế quốc dân, động viên một phần thu nhập của ngƣời tiêu dùng vào ngân sách nhà
nƣớc", cần phải giải quyết trƣớc hết một số vấn đề sau:
- Các hoạt động sản xuất kinh doanh, mua bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ
lớn và vừa phải thực hiện đầy đủ chế độ hoá đơn, chứng từ hợp lệ tạo điều kiện
thuận lợi cho việc kiểm tra, xác định doanh thu tính thuế và khấu trừ thuế đối với
từng cơ sở kinh doanh.
- Công tác kế toán doanh nghiệp, nhất là kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm phải đƣợc hƣớng dẫn thực hiện thật tốt, đảm bảo đƣợc giá thành sản
phẩm phản ảnh trung thực các chi phí thực tế phát sinh đã cấu tạo ra sản phẩm lƣu
thông trên thị trƣờng đến tay ngƣời tiêu dùng. Hệ thống bán lẻ (các cửa hàng, cửa hiệu,


9

các siêu thị) cũng đƣợc hƣớng dẫn chế độ sổ sách kế toán hợp lệ, thực hiện nghiêm
chỉnh và đƣợc kiểm tra chặt chẽ. Chỉ số giá cả lên xuống từng thời kỳ phải đƣợc quy

định rõ để tiến hành điều chỉnh giá bán lẻ, đảm bảo giá trị tăng thêm hợp lý.
- Trình độ cán bộ quản lý thu thuế phải đƣợc nâng cao về chế độ hoá đơn,
chứng từ, sổ kế toán, thông thạo về chế độ quản lý, tính thuế, khấu trừ thuế, hoàn
thuế giá trị gia tăng. Hơn nữa, khi áp dụng thuế giá trị gia tăng thì vai trò cuả ngƣời
thu thuế đồng thời cũng là ngƣời trả thuế (thoái thu) và vai trò cuả ngƣời nộp thuế
cũng là ngƣời thu thuế (đƣợc cơ quan thuế khấu trừ hoặc hoàn lại). Ngƣời thu thuế
phải có khả năng tính đƣợc mức thuế phải thu, mức thuế khấu trừ cho đúng, đủ, kịp
thời. Về khả năng thì có thể đào tạo đƣợc, nhƣng vấn đề quan trọng nhất là ngƣời
thu thuế nếu kém phẩm chất sẽ có điều kiện để tiêu cực, đó là việc tính mức khấu
trừ, mức thoái thu cao hơn mức chính xác, làm thiệt hại cho ngân sách nhà nƣớc
hoặc khấu trừ không đủ, hoàn thuế chậm trễ làm thiệt hại cho các chủ thể đã chịu
thuế trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Ðối với ngƣời nộp thuế, tất nhiên ngoài
khả năng tính toán đầy đủ số thuế mình còn phải nộp sau khi đƣợc khấu trừ, còn
phải có đầy đủ phẩm chất cuả một nhà kinh doanh lƣơng thiện xem việc nộp thuế
đầy đủ, kịp thời là một nghĩa vụ hợp lý và công bằng.
- Mở rộng diện thanh toán mua bán hàng hoá thông qua các tài khoản ngân
hàng, tạo điều kiện cho việc xác định doanh thu bán hàng, làm căn cứ cho việc tính
thuế đƣợc chính xác.
- Ý thức tự nguyện, tự giác chấp hành các luật thuế cuả các doanh nghiệp từng
bƣớc đƣợc nâng lên, gắn liền với việc xử lý nghiêm các hành vi vi phạm về thuế.
- Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện và đƣa dần việc thực hiện pháp
luật vào nề nếp, kỷ cƣơng, cả trong nhận thức tƣ tƣởng và trong hành động thực tế.
Vai trò của thuế giá trị gia tăng trong lưu thông hàng hoá: Luật thuế doanh
thu quy định doanh thu phát sinh là cơ sở để thực hiện chế độ thu nộp thuế. Do đó
Nhà nƣớc đánh thuế trên toàn bộ doanh thu phát sinh của sản phẩm qua mỗi lần
chuyển dịch từ khâu sản xuất, lƣu thông đến tiêu dùng. Nếu các sản phẩm, hàng hoá
chịu thuế càng qua nhiều khâu thì số thuế Nhà nƣớc thu cũng tăng thêm qua các
khâu nên việc áp dụng thuế doanh thu dẫn đến tình trạng thuế thu trùng lặp đối với
phần doanh thu đã chịu thuế ở công đoạn trƣớc. Ðiều đó mang tính bất hợp lý, tác



10

động tiêu cực đến sản xuất và lƣu thông hàng hoá. Với tính ƣu điểm của thuế giá trị
gia tăng là Nhà nƣớc chỉ thu thuế đối với phần giá trị tăng thêm cuả các sản phẩm ở
từng khâu sản xuất, lƣu thông mà không thu thuế đối với toàn bộ doanh thu phát
sinh nhƣ mô hình thuế doanh thu. Nếu nhƣ không có các sự kiện biến động về tài
chính, tiền tệ, sản xuất và lƣu thông giảm suất, yếu kém, kinh tế suy thoái và các
nguyên nhân khác tác động thì việc áp dụng thuế giá trị gia tăng thay cho thuế
doanh thu sẽ không ảnh hƣởng gì đến giá cả các sản phẩm tiêu dùng, mà trái lại giá
cả càng hợp lý hơn, chính xác hơn vì tránh đƣợc thuế chồng lên thuế.
Theo nghiên cứu và thống kê cuả ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ
quốc tế (IMF) thì phần lớn các nƣớc trong đó có cả Việt Nam sau khi áp dụng thuế
giá trị gia tăng, giá cả các loại hàng hoá, dịch vụ đều không thay đổi hay chỉ thay
đổi một tỷ lệ không đáng kể và mức sản xuất cuả các doanh nghiệp, mức tiêu dùng
cuả dân chúng không sút giảm, hay chỉ suất giảm một tỷ lệ nhỏ trong thời gian đầu,
kể cả các trƣờng hợp tăng thuế suất thuế giá trị gia tăng đối với một số mặt hàng
trong định kỳ điều chỉnh. Nhƣ vậy ta có thể kết luận rằng thuế giá trị gia tăng không
phải là một nhân tố gây ra lạm phát, gây khó khăn trở ngại cho việc phát triển sản
xuất, lƣu thông hàng hoá mà trái lại, việc áp dụng thuế giá trị gia tăng đã góp phần
ổn định giá cả, mở rộng lƣu thông hàng hoá, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển
và đẩy mạnh xuất khẩu.
Vai trò của thuế giá trị gia tăng trong quản lý nhà nước về kinh tế: Thuế là
công cụ rất quan trọng để Nhà nƣớc thực hiện chức năng quản lý vĩ mô đối với nền
kinh tế. Nền kinh tế nƣớc ta đang trong quá trình vận hành theo cơ chế thị trƣờng có
sự quản lý cuả nhà nƣớc, do đó thuế giá trị gia tăng có vai trò rất quan trọng và
đƣợc thể hiện nhƣ sau:
- Thuế giá trị gia tăng thuộc loại thuế gián thu và đƣợc áp dụng rộng rãi đối
với mọi tổ chức, cá nhân có tiêu dùng sản phẩm hàng hoá hoặc đƣợc cung ứng dịch
vụ, nên tạo đƣợc nguồn thu lớn và tƣơng đối ổn định cho ngân sách nhà nƣớc.

- Thuế tính trên giá bán hàng hoá hoặc giá dịch vụ nên không phải đi sâu
xem xét, phân tích về tính hợp lý, hợp lệ cuả các khoản chi phí, làm cho việc tổ
chức quản lý thu tƣơng đối dễ dàng hơn các loại thuế trực thu.
- Ðối với hàng xuất khẩu không những không nộp thuế giá trị gia tăng mà
còn đƣợc khấu trừ hoặc đƣợc hoàn lại số thuế giá trị gia tăng đầu vào nên có tác


11

dụng giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo điều kiện cho
hàng xuất khẩu có thể cạnh tranh thuận lợi trên thị trƣờng quốc tế.
- Thuế giá trị gia tăng cùng với thuế nhập khẩu làm tăng giá vốn đối với
hàng nhập khẩu, có tác dụng tích cực bảo hộ sản xuất kinh doanh hàng nội địa.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho việc chống thất thu thuế đạt hiệu quả cao. Việc
khấu trừ thuế giá trị gia tăng đƣợc thực hiện căn cứ trên hoá đơn mua vào đã thúc
đẩy ngƣời mua phải đòi hỏi ngƣời bán xuất hoá đơn, ghi doanh thu đúng với hoạt
động mua bán, khắc phục đƣợc tình trạng thông đồng giữa ngƣời mua và ngƣời bán
để trốn lậu thuế. Ở khâu bán lẻ thƣờng xảy ra trốn lậu thuế do ngƣời tiêu dùng
không cần đòi hỏi hoá đơn vì đối với họ không còn xảy ra việc khấu trừ thuế. Tuy
vậy, ở khâu bán lẻ cuối cùng, giá trị tăng thêm thƣờng không lớn, số thuế thu ở
khâu này không nhiều.
- Thuế giá trị gia tăng thƣờng có ít thuế suất, bảo đảm sự đơn giản, rõ ràng.
Với ít thuế suất, loại thuế này mang tính trung lập, vì về cơ bản không can thiệp sâu
vào mục tiêu khuyến khính hay hạn chế sản xuất, kinh doanh dịch vụ, tiêu dùng,
theo ngành nghề cụ thể, không gây phức tạp trong việc xem xét từng mặt hàng,
ngành nghề có thuế suất chênh lệch nhau nhiều.
- Nâng cao đƣợc tính tự giác trong việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của ngƣời
nộp thuế. Thông thƣờng, trong chế độ kê khai nộp thuế giá trị gia tăng, cơ quan thuế
tạo điều kiện cho cơ sở kinh doanh tự kiểm tra, tính thuế, kê khai và nộp thuế. Từ
đó, tạo tâm lý và cơ sở pháp lý cho đơn vị kinh doanh không phải hiệp thƣơng, thoả

thuận về mức doanh thu, mức thuế với cơ quan thuế. Việc kiểm tra thuế giá trị gia
tăng cũng có mặt thuận lợi vì đã buộc ngƣời mua, ngƣời bán phải nộp và lƣu giữ
chứng từ, hóa đơn đầy đủ nên việc thu thuế tƣơng đối sát với hoạt động kinh doanh
từ đó tập trung đƣợc nguồn thu thuế giá trị gia tăng vào ngân sách nhà nƣớc ngay từ
khâu sản xuất và thu thuế ở khâu sau còn kiểm tra đƣợc việc tính thuế, nộp thuế ở
khâu trƣớc nên hạn chế thất thu về thuế.
- Tăng cƣờng công tác hạch toán kế toán và thúc đẩy việc mua bán hàng hoá
có hoá đơn chứng từ, việc tính thuế đầu ra đƣợc khấu trừ số thuế đầu vào là biện
pháp kinh tế góp phần thúc đẩy cả ngƣời mua và ngƣời bán cùng thực hiện tốt hơn
chế độ hoá đơn, chứng từ.


12

- Việc khấu trừ thuế đã nộp ở đầu vào còn có tác dụng khuyến khích hiện
đại hoá, chuyên môn hoá sản xuất, tăng cƣờng đầu tƣ mua sắm trang thiết bị mới để
hạ giá thành sản phẩm.
- Thuế giá trị gia tăng đƣợc ban hành gắn liền với việc sửa đổi, bổ sung một
số loại thuế khác nhƣ thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu... góp phần làm
cho hệ thống chính sách thuế của Việt Nam ngày càng hoàn thiện, phù hợp với sự
vận động và phát triển của nền kinh tế thị trƣờng, tƣơng đồng với hệ thống thuế
trong khu vực và trên thế giới, góp phần đẩy mạnh việc mở rộng hợp tác kinh tế và
thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài vào Việt Nam.
Nhìn chung trong các loại thuế gián thu, thuế giá trị gia tăng đƣợc coi là
phƣơng pháp thu tiến bộ nhất hiện nay, đƣợc đánh giá cao do đạt đƣợc các mục tiêu
lớn cuả chính sách thuế, nhƣ tạo đƣợc nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nƣớc, đơn
giản, trung lập... Tuy nhiên, trong thời gian đầu áp dụng thuế giá trị gia tăng đã phát
sinh một số khó khăn, vƣớng mắc và Nhà nƣớc ta đã từng bƣớc tháo gỡ những khó
khăn đó trong quá trình thực hiện Luật thuế giá trị gia tăng.
-


(2) Thuế tiêu thụ đặc biệt:

Khái niệm: Thuế tiêu thụ đặc biệt là một loại thuế gián thu, đánh vào một số
hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tƣợng chịu thuế theo qui định của luật thuế tiêu thụ đặc
biệt. Thuế đƣợc cấu thành trong giá cả hàng hóa, dịch vụ và do ngƣời tiêu dùng chịu
khi mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ.
Thuế tiêu thụ đặc biệt đƣợc áp dụng phổ biến ở các nƣớc trên thế giới với
những tên gọi khác nhau: chẳng hạn ở Pháp gọi là thuế tiêu dùng đặc biệt, ở Thụy
Ðiển gọi là thuế đặc biệt. Ở nƣớc ta, tiền thân của thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành là
thuế hàng hóa đƣợc ban hành năm 1951. Ðến năm 1990 Bộ tài chính soạn thảo dự
án luật thuế mới, đổi thuật ngữ thuế hàng hóa thành thuế tiêu thụ đặc biệt và đƣợc
Quốc hội thông qua ngày 30/6/1990. Sau đó đƣợc sửa đổi bổ sung tại kỳ họp thứ 3
Quốc hội khóa 9 và thông qua ngày 5/7/1993. Ðến tháng 10/1995 Luật thuế tiêu thụ
đặc biệt lại đƣợc sửa đổi, bổ sung lần nữa. Ðể phát huy vai trò của luật thuế tiêu thụ
đặc biệt trong điều tiết sản xuất, tiêu dùng xã hội, điều tiết thu nhập của ngƣời tiêu
dùng cho ngân sách nhà nƣớc một cách hợp lý, tăng cƣờng quản lý sản xuất kinh
doanh đối với một số hàng hóa, dịch vụ; ngày 20/5/1998 Quốc hội khóa X, kỳ họp


13

thứ 3 đã thông qua Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (Luật số: 05/1998/QH10) và có hiệu
lực thi hành kể từ ngày 01/01/1999 thay thế Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1990 và
hai đạo luật sửa đổi, bổ sung ban hành năm 1993 và năm 1995. Sau đó Quốc hội
khóa XII, kỳ họp thứ 4 đã thay thế luật trên, thông qua Luật thuế tiêu thụ đặc biệt
(Luật số: 27/2008/QH12) ngày 14/11/2008 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/4/2009.
Ðặc điểm của thuế tiêu thụ đặc biệt: Là một loại thuộc tiêu dùng, thuế tiêu
thụ đặc biệt có những đặc điểm nhƣ sau :
- Các loại hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt đƣợc pháp luật thuế

các nƣớc qui định hầu nhƣ giống nhau gồm : rƣợu, bia, thuốc lá, xe ô tô, xăng...;
kinh doanh cá cƣợc, đua ngựa, đua xe, sòng bạc...
- Mức thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đƣợc pháp luật thuế các nƣớc quy định
rất cao vì thuế đánh vào một số hàng hóa dịch vụ mang tính chất xa xỉ, chƣa thật
cần thiết cho nhu cầu thiết yếu hàng ngày của con ngƣời và có ảnh hƣởng đến sức
khỏe của nhiều ngƣời trong xã hội.
- Cách thu thuế tiêu thụ đặc biệt ở các nƣớc cũng giống nhau, tức là nhà
nƣớc chỉ thu một lần ở khâu sản xuất, nhập khẩu hàng hóa hay kinh doanh các dịch
vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
Tầm quan trọng của thuế tiêu thụ đặc biệt: Xuất phát từ đặc điểm đã đƣợc
trình bày ở phần trên, do đó thuế tiêu thụ đặc biệt có tầm quan trọng nhƣ sau:
- Thông qua chế độ thu thuế tiêu thụ đặc biệt, nhà nƣớc động viên một phần
thu nhập đáng kể của ngƣời tiêu dùng vào ngân sách nhà nƣớc.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt là công cụ rất quan trọng để nhà nƣớc thực hiện chức
năng hƣớng dẩn sản xuất và điều tiết tiêu dùng xã hội.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt cũng là công cụ để nhà nƣớc điều tiết thu nhập của
ngƣời tiêu dùng vào ngân sách nhà nƣớc một cách công bằng hợp lý: ai tiêu dùng nhiều
các hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt thì nộp thuế nhiều hơn ngƣời tiêu
dùng ít hoặc không phải nộp thuế nếu không tiêu dùng các hàng hóa, dịch vụ đó.
- Việc ban hành Luật thuế tiêu thụ đặc biệt để điều chỉnh việc sản xuất, kinh
doanh, lƣu thông và tiêu dùng một số hàng hóa, dịch vụ mang tính chất xa xỉ, chƣa
thật cần thiết cho nhu cầu xã hội thể hiện sự tăng cƣờng quản lý, kiểm soát của nhà
nƣớc một cách tập trung, chặt chẽ đối với các loại hàng hóa, dịch vụ này.


14

Mối liên hệ giữa thuế tiêu thụ đặc biệt với các loại thuế khác trong quá trình
lưu thông hàng hóa, thực hiện dịch vụ (chủ yếu là thuế giá trị gia tăng, thuế xuất
khẩu, nhập khẩu): Các loại hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt

không phải chịu thuế giá trị gia tăng đối với số lƣợng hàng hóa, dịch vụ đã kê khai
nộp thuế tiêu thụ đặc biệt. Chẳng hạn, cơ sở trực tiếp sản xuất khi bán ra những mặt
hàng thuộc diện chiụ thuế tiêu thụ đặc biệt thì cơ sở này chỉ kê khai nộp thuế tiêu
thụ đặc biệt mà không phải kê khai nộp thuế giá trị gia tăng đối với số hàng hoá đã
chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
Trƣờng hợp cơ sở sản xuất có tổ chức chi nhánh, cửa hàng tiêu thụ sản phẩm
trực thuộc thì cơ sở sàn xuất phải kê khai và nộp thuế tiêu thụ đặc biệt tại nơi sản
xuất. Các chi nhánh, cửa hàng tiêu thụ sản phẩm phải kê khai nộp thuế giá trị gia
tăng theo thuế suất đối với hoạt động kinh doanh thƣơng nghiệp.
Các hàng hóa, dịch vụ đã chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, khi lƣu thông trên thị
trƣờng, tức là đƣợc chuyển qua khâu thƣơng nghiệp thì các cơ sở kinh doanh các
mặt hàng này không phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt nhƣng phải nộp thuế giá trị gia
tăng theo biểu thuế ngành kinh doanh thƣơng nghiệp.
Cơ sở nhập khẩu các mặt hàng thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp
thuế tiêu thụ đặc biệt cùng với thuế nhập khẩu theo từng lần nhập khẩu, khi bán
hàng hóa này thì cơ sở phải nộp thuế giá trị gia tăng.
-

(3) Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:

Khái niệm: Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển dẫn đến các quan hệ mua
bán trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia diễn ra ngày càng tăng. Mỗi một quốc gia
độc lập có chủ quyền đều sử dụng một loại thuế thu vào hàng hoá xuất khẩu, nhập
khẩu qua cửa khẩu, biên giới nƣớc mình. Thuế này đƣợc gọi chung là thuế quan.
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới phát triển theo xu hƣớng quốc tế hóa thì
pháp luật của các nƣớc về thuế quan ngày càng có xu thế hội nhập với các quốc gia
trong khu vực và trên phạm vi toàn thế giới.
Thuế quan ở Việt Nam có tên gọi là thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu - Thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một loại thuế đánh vào các hàng hoá mậu dịch, phi
mậu dịch được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới Việt Nam.

Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đƣợc nhà nƣớc ta ban hành vào năm 1951,
thời điểm này thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là công cụ để nhà nƣớc thực hiện


15

chức năng quản lý việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá giữa vùng tự do và vùng bị
tạm chiếm, bảo vệ và phát triễn kinh tế vùng tự do, xúc tiến việc giao lƣu các loại
hàng hoá là nhu yếu phẩm cần thiết cho quân đội và nhân dân. Phƣơng châm đấu
tranh kinh tế với địch là đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ nhập khẩu các loại hàng hoá
cần thiết cho kháng chiến, sản xuất và đời sống nhân dân. Do đó, nhà nƣớc miễn
thuế xuất khẩu cho tất cả các loại hàng hoá của vùng tự do. Mặt khác, hạn chế nhập
khẩu hàng hoá từ vùng địch. Thuế suất áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu là từ 30
% trở lên.
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch đƣợc Quốc hội nƣớc ta ban
hành ngày 29/12/1987. Ðạo luật này chỉ điều chỉnh quan hệ thu nộp thuế phát sinh từ
hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng mậu dịch. Do đó có sự phân biệt trong áp dụng
chế độ thu thuế giữa hàng hoá mậu dịch với các loại hàng hoá phi mậu dịch khác.
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đƣợc sửa đổi, bổ sung một số điều và đã
đƣợc Quốc hội thông qua ngày 26/12/1991 và ngày 20/5/1998.
Sau đó Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành đƣợc Quốc hội khóa XI,
kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005 (Luật số: 45/2005/QH11) có hiệu lực thi hành
từ ngày 01/01/2006. Theo đó, Nhà nƣớc thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu không
phân biệt tính chất hàng hoá là xuất khẩu, nhập khẩu mậu dịch hay phi mậu dịch.
Ðối tƣợng điều chỉnh của Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu là quan hệ thu nộp
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu giữa nhà nƣớc với các tổ chức và cá nhân có hàng
hoá đƣợc phép xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam, kể cả hàng
hoá từ thị trƣờng trong nƣớc đƣa vào khu chế xuất và từ khu chế xuất đƣa ra thị
trƣờng trong nƣớc.
Theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu thì thuế xuất khẩu, thuế

nhập khẩu đối với hàng hoá mậu dịch mang tính chất gián thu. Còn đối với các loại
hàng hoá khác thì tùy theo từng trƣờng hợp mà thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có
tính chất gián thu hoặc tính chất trực thu.
Tính chất của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: Thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu là công cụ rất quan trọng để nhà nƣớc thực hiện chính sách kinh tế của mình,
quản lý các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu; mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại;
nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Căn cứ vào từng giai đoạn


16

lịch sử và điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi nƣớc mà thuế quan đƣợc sử dụng với
nhiều mục tiêu khác nhau. Tuy nhiên, ở góc độ chung nhất có thể nhận thấy rằng
tính chất của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đƣợc thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà
nƣớc. Mục tiêu chung của các quốc gia là sử dụng thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
để tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nƣớc. Ðồng thời thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu là loại thuế dễ thu nhất, ít bị phản ứng từ phía trong nƣớc, thậm chí có khi còn
đƣợc sự ủng hộ của nhiều ngƣời.
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cấu thành trong giá cả hàng hoá, làm tăng
giá hàng hoá, do đó có tác dụng điều tiết xuất khẩu, nhập khẩu và hƣớng dẫn tiêu
dùng; bởi vì lƣợng hàng hoá xuất khẩu hay nhập khẩu phụ thuộc vào sức tiêu thụ
hàng hoá, yếu tố này lại phụ thuộc vào giá cả. Giá cả hàng hoá cao hay thấp sẽ
quyết định việc giảm hoặc tăng sức cạnh tranh của hàng hoá đó trên thị trƣờng.
Thông qua thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nhà nƣớc điều tiết việc xuất khẩu, nhập
khẩu hàng hoá . Hơn nữa, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sẽ hạn chế việc tiêu dùng
hàng hoá xa xỉ hoặc các loại hàng hoá không đƣợc khuyến khích sử dụng nhƣ thuốc
lá, rƣợu, bia...
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có tác dụng bảo hộ nền sản xuất trong
nƣớc. Việc đánh thuế cao vào hàng hoá nhập khẩu sẽ giúp các nhà sản xuất trong

nƣớc có thể cạnh tranh đƣợc với hàng hoá nhập khẩu. Ðặc biệt thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu giúp cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các ngành còn non trẻ
trong nƣớc có thời gian trƣởng thành và sinh lời để từ đó có thể cạnh tranh với hàng
hoá nhập khẩu.
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có tác dụng giảm bớt nạn thất nghiệp vì
việc đánh thuế nhập khẩu cao thì hàng hoá nhập khẩu sẽ giảm; để bù vào lƣợng
hàng hoá nhập khẩu đó nhà nƣớc ta phải mở rộng đầu tƣ, phát triển sản xuất, tạo ra
nhiều công ăn việc làm cho ngƣời lao động từ đó góp phần giải quyết nạn thất
nghiệp trong nƣớc.
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là công cụ để nhà nƣớc thực hiện chính
sách phân biệt đối xử trong quan hệ thƣơng mại đối với các nƣớc. Chẳng hạn Mỹ
đòi EU phải giảm từ 30 - 50% trợ cấp cho nông nghiệp, nếu không Mỹ sẽ tăng mức
thuế đánh vào hàng hoá nông sản của EU nhập khẩu vào thị trƣờng Mỹ.


17

- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngọai giữa Việt Nam với các nƣớc trong khu vực và trên thế giới.
- Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu là công cụ quan trọng để Nhà nƣớc thực hiện
chức năng quản lý và nâng cao hiệu qủa hoạt động xuất nhập khẩu trong cả nƣớc.
Mã số thuế: Danh mục mặt hàng chịu thuế cuả biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế
nhập khẩu hiện hành, về cơ bản đƣợc xây dựng dựa trên cơ sở bảng danh mục hàng
hoá xuất khẩu, nhập khẩu cuả Hội đồng hợp tác hải quan thế giới, đồng thời có biến
đổi một số phần cụ thể cho phù hợp với hoạt động xuất, nhập khẩu cuả Việt Nam.
-

(4) Thuế thu nhập doanh nghiệp:

Khái niệm: Thuế thu nhập doanh nghiệp là một loại thuế trực thu đánh vào

lợi nhuận của các doanh nghiệp.
Ở Việt Nam, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 10/5/1997 và có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/1999 thay cho Luật thuế lợi tức.
Sau đó luật này đƣợc thay thế bằng Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (Luật
số: 09/2003/QH11) do Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 17/6/2003.
Tiếp theo Luật số 09 nêu trên đã đƣợc thay thế bằng Luật thuế thu nhập
doanh nghiệp (Luật số: 14/2008/QH12) do Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 3 thông
qua ngày 03/6/2008 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009 nhằm đảm bảo sự
phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế trong giai đoạn mới.
Vì sao cần phải có thuế thu nhập doanh nghiệp: Thuế thu nhập doanh nghiệp
xuất hiện rất sớm trong lịch sử phát triển của thuế. Hiện nay ở các nƣớc phát triển,
thuế thu nhập doanh nghiệp giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo ổn
định nguồn thu ngân sách Nhà nƣớc và thực hiện phân phối thu nhập. Mức thuế cao
hay thấp áp dụng cho các chủ thể thuộc đối tƣợng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp
là khác nhau, điều đó phụ thuộc vào quan điểm điều tiết thu nhập và mục tiêu đặt ra
trong phân phối thu nhập của từng quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Thuế thu nhập doanh nghiệp ra đời bắt nguồn từ các lý do chủ yếu sau:
- Thuế thu nhập doanh nghiệp ra đời bắt nguồn từ yêu cầu thực hiện chức
năng tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội.
- Sự ra đời của thuế thu nhập doanh nghiệp xuất phát từ nhu cầu tài chính
của Nhà nƣớc.


18

Vai trò của thuế thu nhập doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường:
Thuế thu nhập doanh nghiệp là công cụ quan trọng để Nhà nƣớc thực hiện
chức năng tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Trong điều kiện nền
kinh tế thị trƣờng ở nƣớc ta, tất cả các thành phần kinh tế đều có quyền tự do kinh

doanh và bình đằng trên cơ sở pháp luật. Các doanh nghiệp với lực lƣợng lao động có
tay nghề cao, năng lực tài chính mạnh thì doanh nghiệp đó sẽ có ƣu thế và có cơ hội
để nhận đƣợc thu nhập cao, ngƣợc lại các doanh nghiệp với năng lực tài chính, lực
lƣợng lao động bị hạn chế sẽ nhận đƣợc thu nhập thấp, thậm chí không có thu nhập.
Ðể hạn chế nhƣợc điểm đó, Nhà nƣớc sử dụng thuế thu nhập doanh nghiệp làm công
cụ điều tiết thu nhập của các chủ thể có thu nhập cao, đảm bảo yêu cầu đóng góp của
các chủ thể kinh doanh vào ngân sách Nhà nƣớc đƣợc công bằng, hợp lý.
Thuế thu nhập doanh nghiệp là nguồn thu quan trọng của ngân sách Nhà
nƣớc. Phạm vi áp dụng của thuế thu nhập doanh nghiệp rất rộng, gồm cá nhân,
nhóm kinh doanh, hộ cá thể và các tổ chức kinh tế có hoạt động sản xuất, kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ có phát sinh lợi nhuận. Nền kinh tế thị trƣờng nƣớc ta ngày
càng phát triển và ổn định, tăng trƣởng kinh tế đƣợc giữ vững ngày càng cao, các
chủ thể hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ngày càng mang lại nhiều lợi nhuận
thì khả năng huy động nguồn tài chính cho ngân sách Nhà nƣớc thông qua thuế thu
nhập doanh nghiệp ngày càng dồi dào.
Thuế thu nhập doanh nghiệp là công cụ quan trọng để góp phần khuyến
khích, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển theo chiều hƣớng kế hoạch, chiến
lƣợc, phát triển toàn diện của Nhà nƣớc. Nhà nƣớc ƣu đãi, khuyến khích đối với các
chủ thể đầu tƣ, kinh doanh vào những ngành, lĩnh vực và những vùng, miền mà Nhà
nƣớc có chiến lƣợc ƣu tiên phát triển trong từng giai đoạn nhất định.
Thuế thu nhập doanh nghiệp còn là một trong những công cụ quan trọng của
Nhà nƣớc trong việc thực hiện chứng năng điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội
trong từng thời kỳ phát triển kinh tế nhất định. Thuế thu nhập doanh nghiệp là loại
thuế có vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật thuế của Việt Nam, song để phát
huy một cách có hiệu qủa vai trò của thuế thu nhập doanh nghiệp, chúng ta cần phải
xem xét nó dƣới nhiều khía cạnh, kể cả những kinh nghiệm xử lý của nƣớc ngoài.


×