Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Một số biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công đoàn cơ sở các doanh nghiệp ngoài nhà nước thuộc liên đoàn lao động quận hồng bàng, thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (978.98 KB, 87 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình đổi mới đang đặt ra những yêu cầu cấp thiết, đòi hỏi phải không
ngừng hoàn thiện và tăng cường sức mạnh của hệ thống chính trị nước ta. Điều này
đòi hỏi các đoàn thể chính trị - xã hội, trong đó có tổ chức công đoàn, không ngừng
đổi mới tổ chức hoạt động, nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò của mình, góp phần
cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội
nhập quốc tế, Việt Nam tham gia nhiều hiệp định với các nước trên thê giới, giai cấp
công nhân Việt Nam đang có sự chuyển biến quan trọng, phát triển nhanh về số
lượng, đa dạng về cơ cấu và có sự phân hóa về trình độ, mức sống cũng như môi
trường, điều kiện làm việc. Tuy nhiên trong tình hình mới: với yêu cầu đòi hỏi của
sự nghiệp cách mạng, của tổ chức công đoàn; sự phát triển năng động, đa dạng các
loại hình doanh nghiệp, tính phức tạp của cơ chế thị trường, thì hiện tượng: Trình
độ, năng lực của một bộ phận cán bộ, nhất là cán bộ công đoàn không chuyên trách
ở cơ sở các doanh nghiệp có trình độ năng lực còn nhiều mặt hạn chế chưa theo kịp
với cơ chế quản lý kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Đội ngũ cán bộ công đoàn cơ sở các doanh nghiệp trực thuộc Liên đoàn Lao
động quận Hồng Bàng, thành phố Hải phòng bên cạnh sự nhiệt tình và kinh
nghiệm hoạt động, vẫn còn nhiều hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ, phương pháp
hoạt động công đoàn, công tác vận động quần chúng, hạn chế về hiểu biết chính
sách pháp luật. Vì vậy, việc nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ công đoàn cơ sở các doanh nghiệp ngoài nhà nước thuộc
Liên đoàn Lao động quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng là cần thiết, cấp bách
đối với Liên đoàn Lao động quận Hồng Bàng, góp phần thực hiện tốt các chính
sách pháp luật và đảm bảo hài hòa giữa quyền và nghĩa vụ của đoàn viên, người
lao động tại các doanh nghiệp.
Do vậy, tác giả đã chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ công đoàn cơ sở các doanh nghiệp ngoài nhà nước thuộc Liên đoàn


Lao động quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng” làm đối tượng nghiên cứu.
1


2. Mục tiêu nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Làm rõ vai trò, năng lực hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ công đoàn
cơ sở các doanh nghiệp, các nhân tố tác động đến năng lực cán bộ công đoàn, sự cần
thiết phải xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn cơ sở doanh nghiệp có năng lực tốt.
Đánh giá thực trạng năng lực của đội ngũ cán bộ công đoàn cơ sở doanh
nghiệp trên địa bàn quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng, tìm ra nguyên nhân cơ
bản của thực trạng.
Đề ra một số biện pháp có tính khả thi nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ công
đoàn cơ sở doanh nghiệp có năng lực toàn diện, tổ chức, hướng dẫn công đoàn
trong các doanh nghiệp đáp ứng tình hình và nhiệm vụ mới.
3. Đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Cán bộ công đoàn cơ sở không chuyên trách các doanh nghiệp ngoài nhà
nước trực thuộc Liên đoàn Lao động quận Hồng Bàng (bao gồm doanh nghiệp tư
nhân và doanh nghiệp có vốn vốn đầu tư nước ngoài).
Phạm vi nghiên cứu
Đội ngũ cán bộ công đoàn cơ sở các doanh nghiệp trực thuộc Liên đoàn Lao
động quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng từ năm 2011 - 2015.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp điều tra thông kê, tổng hợp phân tích tài liệu và phương pháp
chuyên gia: Được tiến hành trên cơ sở thu thập, các tài liệu về cán bộ và công tác
cán bộ nói chung, cán bộ công đoàn doanh nghiệp trực thuộc Liên đoàn Lao động
quận Hồng Bàng nói riêng để tìm hiểu về năng lực; phân biệt giữa trình độ học vấn
và năng lực hoạt động thực tiễn, phẩm chất đạo đức của cán bộ công đoàn.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học: Việc nghiên cứu đề tài làm cơ sở hệ thống hóa lý luận về

công tác cán bộ, cán bộ công đoàn mang tính rất đặc thù riêng trong đó có cán bộ
công đoàn cơ sở các doanh nghiệp ngoài nhà nước, từ đó củng cố việc tuyên
truyền, phổ biến các quy định của pháp luật đến với đơn vị, cơ sở, doanh nghiệp,
người sử dụng lao động, người lao động, đoàn viên công đoàn được hiệu quả hơn.
Ý nghĩa thực tiễn:

2


Đánh giá thực trạng cán bộ CĐCS không chuyên trách thuộc Liên đoàn Lao
động quận Hồng Bàng để thấy được những khó khăn, bất cập, nguyên nhân ảnh
hưởng đến hoạt động công tác của cán bộ CĐCS các doanh nghiệp để đề xuất biện
pháp nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ CĐCS trong các doanh
nghiệp trong thời gian tới.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận - kiến nghị, Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về công đoàn, chất lượng cán bộ công đoàn cơ sở.
Chương 2: Thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ CĐCS và CĐCS các doanh nghiệp
ngoài nhà nước thuộc Liên đoàn Lao động quận Hồng Bàng giai đoạn 2011 - 2015.
Chương 3: Một số biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công đoàn
cơ sở các doanh nghiệp ngoài nhà nước thuộc Liên đoàn Lao động quận Hồng
Bàng.

3


CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG ĐOÀN, CHẤT LƢỢNG
CÁN BỘ CÔNG ĐOÀN CƠ SỞ
1.1. Những vấn đề chung về cán bộ công đoàn cơ sở

1.1.1. Quan điểm về công đoàn và chức năng, nhiệm vụ của cán bộ CĐCS
1.1.1.1. Lịch sử hình thành tổ chức công đoàn
Sau khi thôn tính được Việt Nam, thực dân Pháp bắt đầu thực hiện kế hoạch
khai thác thuộc địa, tập trung đầu tư vào một số ngành chủ yếu như đường sắt, hầm
mỏ, xí nghiệp, đồn điền. Từ đó hình thành Giai cấp công nhân (GCCN) Việt Nam.
Khác với giai cấp công nhân các nước tư bản, GCCN Việt Nam ra đời trước
giai cấp tư sản dân tộc, bị thực dân Pháp bóc lột và bần cùng hóa... Thắng lợi Cách
mạng tháng Mười Nga, sự phát triển của phong trào công nhân thế giới đầu thế kỷ
XX đã ảnh hưởng đến phong trào công nhân Việt Nam, nhất là từ khi xuất hiện
Quốc tế Cộng sản do Lê Nin sáng lập (năm 1919) và Quốc tế Công hội Đỏ (năm
1921). Từ đó GCCN Việt Nam nhanh chóng tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lê Nin và
kinh nghiệm đấu tranh của công nhân các nước [7].
Trước sự bóc lột thậm tệ và đàn áp dã man của thực dân đế quốc, công nhân
lao động nước ta đã tự nguyện thành lập các nghiệp đoàn, công hội đấu tranh bảo
vệ quyền lợi của mình ở nhiều nơi trong cả nước. “Tiêu biểu nhất là Công hội Ba
Son do người công nhân ưu tú Tôn Đức Thắng sáng lập (1920). Đến năm 1925,
Công hội đã trở thành linh hồn của phong trào bãi công của công nhân Ba Son, Sài
Gòn - Chợ Lớn. Tuy Công hội Ba Son phải chấm dứt hoạt động năm 1926 do sự
đàn áp của thực dân Pháp nhưng đã tạo cơ sở xã hội cho việc thành lập Công đoàn
Cách mạng về sau”[7].
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người đặt cơ sở lý luận và tư tưởng cho Công đoàn
cách mạng Việt Nam.
Quá trình hình thành và ra đời của tổ chức Công đoàn gắn liền với tên tuổi
và cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những năm tháng hoạt động
trong phong trào công nhân và Công đoàn Quốc tế, Người đã nghiên cứu hình
thành tổ chức công đoàn ở các nước tư bản, thuộc địa và nửa thuộc địa. Từ đó rút
4


ra kinh nghiệm hoạt động công đoàn nói chung và hình thức tổ chức cho Công

đoàn Việt Nam nói riêng.
Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”[5], Người viết: “Tổ chức Công hội
trước là để cho công nhân đi lại với nhau cho có tình cảm, hai là để nghiên cứu với
nhau, ba là để sửa sang cách sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ, bốn là
để giữ gìn quyền lợi cho công nhân, năm là để giúp cho quốc dân, giúp cho thế
giới”[5]. Có thể nói, trên bước đường đi tới chủ nghĩa Mác - Lênin và thành lập
các tổ chức cộng sản ở Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã quan tâm rất sớm
đến tổ chức quần chúng của giai cấp công nhân. Quá trình Người chuẩn bị về tư
tưởng và tổ chức cho sự thành lập một chính Đảng vô sản cũng là quá trình Người
xây dựng cơ sở lý luận và biện pháp tổ chức công đoàn cách mạng.
Năm 1925 đến 1928 nhiều Công hội bí mật đã hình thành do sự hoạt động
mạnh mẽ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Đặc biệt từ năm 1928, khi kỳ
bộ Bắc kỳ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phát động phong trào Vô sản
hóa thì phong trào đấu tranh của công nhân Việt Nam ngày càng sôi nổi, thúc đẩy
sự phát triển của tổ chức Công hội lên một bước mới cả về hình thức lẫn nội dung
hoạt động[7].
Năm 1929 là thời điểm phong trào công nhân và hoạt động công hội ở nước
ta phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là ở miền Bắc các cuộc đấu tranh của công nhân nổ
ra liên tục ở nhiều xí nghiệp, có sự phối hợp chặt chẽ và thống nhất hành động giữa
các cuộc đấu tranh ở xí nghiệp này với xí nghiệp khác trong cùng một địa phương,
giữa địa phương này với địa phương khác. Sự phát triển của phong trào công nhân
và tổ chức Công đoàn đòi hỏi phải có một tổ chức Mác xít, một Đảng thực sự cách
mạng của giai cấp công nhân có khả năng tập hợp, lãnh đạo công nhân đấu tranh
giành độc lập, tự do. Tháng 3/1929 chi bộ cộng sản đầu tiên ra đời. Đông Dương
Cộng sản Đảng đã liên kết các Công hội Đỏ ở các cơ sở và giao cho đồng chí
Nguyễn Đức Cảnh - ủy viên Ban chấp hành lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng
triệu tập Đại hội thành lập Tổng Công hội Đỏ Bắc kỳ. Đại hội thành lập Tổng
Công hội miền Bắc Việt Nam diễn ra ngày 28/7/1929, sau Đại hội Tổng Công hội
Đỏ tiếp tục tuyên truyền, vận động, phát triển tổ chức vào các tỉnh miền Trung và
miền Nam. Lần đầu tiên giai cấp công nhân Việt Nam có một đoàn thể cách mạng

5


rộng lớn, hoạt động tôn chỉ, mục đích, phản ánh được ý chí, nguyện vọng của đông
đảo công nhân lao động[7].
1.1.1.2. Quan điểm về cán bộ công đoàn cơ sở
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ công đoàn
Cán bộ công đoàn là người đem chủ trương đường lối của Đảng và Nhà
nước tuyên truyền cho nhân dân, cán bộ, đoàn viên, hội viên hiểu rõ và thi hành,
đồng thời tập hợp những vướng mắc của đông đảo nhân dân, đoàn viên, hội viên
phản ánh lại cho Đảng và Nhà nước để Đảng và Nhà nước định ra chính sách cho
đúng. Cán bộ đóng vai trò then chốt trong việc thực hiện đường lối và nhiệm vụ
chính trị[6].
Là người sớm tham gia phong trào công nhân, dày công nghiên cứu phong
trào công đoàn, Bác Hồ đã cụ thể hóa phương pháp hoạt động công đoàn bằng
phương châm dễ nhớ, dễ làm “Cán bộ công đoàn phải cùng ăn, ở, làm việc và bàn
bạc với công nhân”[4]. Đó là phong cách cần có của cán bộ công đoàn mà Bác đã
rút ra từ thực tiễn đào tạo, rèn luyện cán bộ cách mạng, cán bộ làm công tác vận
động quần chúng. Bởi theo Bác “Cán bộ công đoàn phải nắm vững chính sách của
Đảng, đi đúng đường lối quần chúng, lãnh đạo phải dân chủ, phải cùng công nhân
đồng cam cộng khổ, phải hòa mình với công nhân thành một khối, phải gương
mẫu. Cán bộ công đoàn phải hiểu biết sản xuất, đời sống, nguyện vọng của công
nhân, lao động, phải hiểu biết chính sách của Đảng, phải hiểu quản lý kinh tế, khoa
học kỹ thuật"[7]. Mọi việc công đoàn làm phải vì lợi ích của người lao động, mục
đích của công đoàn là phải cải thiện dần đời sống công nhân, nâng cao đời sống vật
chất, văn hóa của giai cấp công nhân nói riêng và nhân dân lao động nói chung. Lời
chỉ dẫn ân cần của Bác với cán bộ công đoàn cần: Phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe,
chân đi, miệng nói, tay làm, chứ không phải nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh.
Chính vì vậy, Bác quan niệm cán bộ công đoàn “Phải giỏi cả về chính trị,
thành thạo về kinh tế”[5] thì mới lãnh đạo được đội ngũ công nhân ngày càng phát

triển lại có trình độ cả về tư tưởng văn hóa, kỹ thuật. “Cán bộ công đoàn phải tham
gia lao động gần gũi công nhân, viên chức”[5] phải biết dựa vào quần chúng, phát
huy sức sáng tạo của quần chúng, học tập kinh nghiệm của quần chúng… thì mới
làm tròn được nhiệm vụ của mình.

6


Cán bộ công đoàn là trung tâm của đoàn kết, phải có trách nhiệm cao, vì lợi
ích giai cấp, vì lợi ích cách mạng “Muốn giáo dục tốt công nhân, trước hết đội ngũ
cán bộ công đoàn phải đoàn kết nhất trí...., Phải kiên quyết xây dựng cho được sự
đoàn kết nhất trí trong hệ thống Công đoàn…”[5].
Cán bộ công đoàn cần phải tích cực không ngừng để nâng cao trình độ về
mọi mặt. Người nói: “Kinh tế của nước ta ngày càng phát triển, hàng ngũ công
nhân ngày càng đông. Muốn làm tròn nhiệm vụ của mình thì cán bộ công đoàn
phải cố gắng học tập vươn lên để không ngừng tiến bộ. Có học tập mới hiểu được
khoa học, có hiểu được khoa học mới tổ chức được phong trào”[4].
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh được thể chế trong “Hiến pháp nước công
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Điều 10 quy định: Công đoàn Việt Nam
là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được
thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản
lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà
nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ
của người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình
độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[1]. Đó
là những cơ sở pháp lý để tổ chức công đoàn các cấp và cán bộ công đoàn tổ chức
thực hiện và tuân thủ theo quy định của Hiến pháp. Nhà nước đã ban hành các chính
sách, luật pháp liên quan đến GCCN, tổ chức Công đoàn và cán bộ công đoàn.
Bộ Luật Lao động 2012 , quy định tại chương XIII về công đoàn[2]:

Điều 191 của Bộ luật lao động năm 2012 quy định quyền của cán bộ công
đoàn cơ sở trong quan hệ lao động
Gặp người sử dụng lao động để đối thoại, trao đổi, thương lượng về những
vấn đề lao động và sử dụng lao động.
Đến các nơi làm việc để gặp gỡ người lao động trong phạm vi trách nhiệm
mà mình đại diện.
Những nơi chưa thành lập tổ chức công đoàn cơ sở, cán bộ công đoàn cấp
trên trực tiếp cơ sở được thực hiện các quyền hạn quy định tại Điều này.
Điều 192 Bộ Luật lao động năm 2012 quy định trách nhiệm của người sử
dụng lao động đối với tổ chức công đoàn: Khi người lao động là cán bộ công đoàn
7


không chuyên trách đang trong nhiệm kỳ công đoàn mà hết hạn hợp đồng lao động
thì được gia hạn hợp đồng lao động đã giao kết đến hết nhiệm kỳ; Khi người sử
dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, chuyển làm công việc
khác, kỷ luật sa thải đối với người lao động là cán bộ công đoàn không chuyên
trách thì phải thỏa thuận bằng văn bản với Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc
Ban chấp hành cấp trên trực tiếp cơ sở.
Điều 193 bộ Luật lao động văn 2012 quy định bảo đảm điều kiện hoạt động
công đoàn tại doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức: Cán bộ công đoàn không chuyên
trách được sử dụng thời gian trong giờ làm việc để hoạt động công đoàn theo quy
định của Luật công đoàn và được người sử dụng lao động trả lương; Cán bộ công
đoàn chuyên trách tại doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức do công đoàn trả lương,
được người sử dụng lao động bảo đảm phúc lợi tập thể như người lao động làm
việc trong doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức theo thoả ước lao động tập thể hoặc quy
chế của người sử dụng lao động.
Luật Công đoàn Việt Nam năm 2012[3]. Trong đó xác định rõ cán bộ công
đoàn.
Theo Điều 5, Điều lệ Công đoàn Việt Nam: Cán bộ công đoàn là người đảm

nhiệm chức danh từ tổ phó công đoàn trở lên thông qua bầu cử tại đại hội hoặc hội
nghị công đoàn; được cấp công đoàn có thẩm quyền chỉ định, công nhận, bổ nhiệm
vào các chức danh cán bộ công đoàn hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên để
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn[10].
Hướng dẫn thi hành Điều lệ Công đoàn Việt Nam khóa XI xác định: Cán bộ
công đoàn bao gồm: Tổ trưởng, tổ phó công đoàn, ủy viên ban chấp hành công
đoàn, ủy viên ủy ban kiểm tra công đoàn, ủy viên các ban quần chúng công đoàn
các cấp thông qua kết quả bầu cử; hoặc cấp công đoàn có thẩm quyền chỉ định; cán
bộ, công chức làm công tác chuyên môn nghiệp vụ trong bộ máy của tổ chức công
đoàn các cấp[12].
Như vậy cán bộ công đoàn cơ sở: là những cán bộ đảm nhiệm chức danh từ Tổ
trưởng, tổ phó công đoàn, ủy viên ban chấp hành công đoàn, ủy viên ủy ban kiểm tra
công đoàn, thông qua kết quả bầu cử; hoặc cấp công đoàn có thẩm quyền chỉ định.
Vậy những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ công đoàn và quy
định của Điều lệ Công đoàn về cán bộ công đoàn không chuyên trách (cán bộ

8


CĐCS) đến nay vẫn là định hướng quý báu cho sự phát triển của tổ chức Công
đoàn và việc xây dựng đội ngũ cán bộ CĐCS nước ta.
Cơ cấu cán bộ công đoàn cơ sở.

Chủ tịch
Công đoàn cơ sở
Phó chủ tịch
Công đoàn cơ sở
Ủy viên Ban Chấp hành
công đoàn cơ sở
Ủy ban kiểm tra

Công đoàn cơ sở
Tổ trưởng
Công đoàn cơ sở
Tổ phó
Công đoàn cơ sở
( Nguồn: Văn phòng LĐLĐ quận Hồng Bàng)
Sơ đồ số 1.1: Cơ cấu cán bộ CĐCS

9


Phân loại và đặc điểm của cán bộ CĐCS [11]
Cán bộ công đoàn

Cán bộ công đoàn không chuyên

chuyên trách

trách

Giống nhau: Cán bộ công đoàn chuyên trách và không chuyên trách công đoàn
do tổ chức công đoàn ra quyết định công nhận (theo phân cấp đối với từng cấp
công đoàn)
Khác nhau:
Cán bộ công đoàn chuyên trách Cán bộ công đoàn không chuyên trách
hưởng lương từ ngân sách công không hưởng lương ngân sách công
đoàn.

đoàn.


Do công đoàn trực tiếp quản lý và Việc quản lý và thực hiện chính sách cán
thực hiện chính sách cán bộ theo quy bộ do tổ chức công đoàn và doanh
định và phân cấp của Trung ương và nghiệp, đơn vị cùng phối hợp thực hiện
của Tổng Liên đoàn.

theo nguyên tắc: Doanh nghiệp, đơn vị
thực hiện trả lương, nâng ngạch, bậc
lương và các chế độ, chính sách quản lý
cán bộ theo quy định chung của doanh
nghiệp, đơn vị. Công đoàn cấp trên chỉ
đạo, kiểm tra, hướng dẫn về nghiệp vụ và
nội dung hoạt động công đoàn; giám sát
việc thực hiện chính sách đối với cán bộ
công đoàn theo quy định của pháp luật và
chế độ phụ cấp theo quy định của Tổng
Liên đoàn.

Như vậy, việc quản lý và thực hiện chính sách cán bộ do tổ chức công đoàn
và doanh nghiệp phối hợp thực hiện. Cán bộ CĐCS do Công đoàn cấp trên (LĐLĐ
quận, huyện) ra quyết định công nhận và chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ,
nội dung hoạt động công đoàn, giám sát việc thực hiện chính sách đối với cán bộ
CĐCS theo quy định của Tổng Liên đoàn. Cán bộ CĐCS được hưởng lương từ
doanh nghiệp, đơn vị chi trả và các chế độ chính sách khác được thực hiện theo
10


quy định chung của doanh nghiệp, đơn vị. Từ cơ chế nên cán bộ CĐCS có một số
đặc điểm sau:
Thứ nhất: Cán bộ CĐCS là đoàn viên công đoàn, được lựa chọn thông qua
bầu cử tại đại hội hoặc hội nghị công đoàn.

Thứ hai: Cán bộ CĐCS chủ yếu là không chuyên trách cùng đồng thời vừa
làm nhiệm vụ chuyên môn của mình, vừa làm công tác công đoàn và phần lớn
trưởng thành từ phong trào quần chúng, hiểu biết quần chúng, gắn bó với lợi ích
của quần chúng, lấy việc vận động, thuyết phục làm phương pháp hoạt động chủ
yếu, nên hầu hết cán bộ CĐCS đều là những người nhiệt tình trong công tác, có
kinh nghiệm vận động, tổ chức hoạt động, có uy tín với CNVCLĐ.
Thứ ba: Cán bộ CĐCS là người đại diện bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng,
hợp pháp của CNVCLĐ trong doanh nghiệp, đơn vị. Đặc trưng này phân biệt cán
bộ CĐCS khác với cán bộ Đảng, Chính quyền và cán bộ quần chúng khác.

1.1.2. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ CĐCS trong quan
hệ lao động
Được quy định tại Điều 188 Bộ luật lao động sửa đổi năm 2012: Công đoàn
cơ sở thực hiện vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
đoàn viên công đoàn, người lao động; tham gia, thương lượng, ký kết và giám sát
việc thực hiện thỏa ước lao động tập thể, thang lương, bảng lương, định mức lao
động, quy chế trả lương, quy chế thưởng, nội quy lao động, quy chế dân chủ ở
doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức; tham gia, hỗ trợ giải quyết tranh chấp lao động;
đối thoại, hợp tác với người sử dụng lao động xây dựng quan hệ lao động hài hoà,
ổn định, tiến bộ tại doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức; Công đoàn cấp trên trực tiếp
cơ sở có trách nhiệm hỗ trợ công đoàn cơ sở thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
theo quy định tại khoản 1 Điều này; tuyên truyền giáo dục, nâng cao hiểu biết về
pháp luật về lao động, pháp luật về công đoàn cho người lao động; Ở những nơi
chưa thành lập tổ chức công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở thực
hiện trách nhiệm như quy định tại khoản 1 Điều này; Tổ chức công đoàn các cấp
tham gia với cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp và tổ chức đại diện người sử dụng
lao động để trao đổi, giải quyết các vấn đề về lao động[2].
11



1.1.2.1. Vị trí của cán bộ công đoàn cơ sở
Là người đại diện cho tập thể người lao động, thay mặt người lao động động
có trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động;
tham gia trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, cụ thể là:
Cán bộ CĐCS tham gia đổi mới và thực hiện cơ chế quản lý kinh tế mới;
công đoàn tham gia cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; đẩy mạnh hoạt động
công đoàn trong các thành phần kinh tế, vận động người lao động nâng cao năng
suất lao động, chất lượng sản phẩm, hiệu quả sản xuất, kinh doanh, góp phần đẩy
mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế.
Cán bộ CĐCS góp phần tích cực vào việc xây dựng và nâng cao hiệu quả hệ
thống chính trị, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với người lao động.
Cán bộ CĐCS phải tuyên truyền, giáo dục người lao động không ngừng
nâng cao trình độ, tính tổ chức, kỷ luật. Giáo dục người lao động nâng cao lập
trường giai cấp công nhân, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
1.1.2.2. Chức năng của cán bộ công đoàn cơ sở
Là người đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của CNVCLĐ
Lợi ích hợp pháp chính đáng của CNLĐ bao gồm lợi ích vật chất, lợi ích
tinh thần. Lợi ích vật chất đối với CNLĐ hiện nay là bảo đảm việc làm ổn định,
phù hợp với nâng lực, trình độ, sức khỏe, thời gian lao động hợp lý, có thu nhập
tương xứng với kết quả lao động và đảm bảo đời sống của bản thân, gia đình, cải
thiện điều kiện lao động. Lợi ích tinh thần là mọi người được đối xử bình đẳng,
được tạo điều kiện, cơ hội như nhau trong lao động, học tập và công tác, được
quan tâm đến đời sống văn hóa.
Để thực hiện được chức năng đó cán bộ c cần:
Hướng dẫn, giúp đỡ người lao động ký giao kết hợp động với người sử dụng
lao động theo quy định của Bộ Luật lao động.
Đại diện cho CNLĐ tham gia xây dựng Thỏa ước lao động tập thể và thương
lượng ký thỏa ước lao động tập thể với người sử dụng lao động và giám sát việc
thực hiện những quy định trong Thỏa ước lao động tập thể do các bên đã ký. Giám
sát việc thực hiện pháp lệnh bảo hộ lao động, vệ sinh an toàn lao động, chính sách

bảo hiểm xã hội, bảo hiểm ý tế…
12


Tổ chức giúp đỡ CNLĐ phát triển kinh tế gia đình, giúp CNLĐ được vay vốn
từ ngân hàng để tăng gia sản xuất cải thiện đời sống, nâng cao thu nhập cho gia đình.
Phải tham gia quản lý trong các đơn vị cơ sở
Tham gia quản lý là một trong những chức năng của tổ chức công đoàn.
Thực chất của tham gia quản lý là nhằm phát huy quyền làm chủ của người lao
động, bảo vệ lợi ích trước mắt, lợi ích lâu dài, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể của
người lao động. Tham gia quản lý gồm:
- Cán bộ công đoàn phối hợp với thủ trưởng đơn vị, giám đốc doanh nghiệp
tổ chức hội nghị người lao động, hội nghị người lao động theo quy định của pháp
luật và hướng dẫn của Chính phủ, Tổng LĐLĐ Việt Nam và Bộ lao động thương
binh và xã hội...; xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ tại
doanh nghiệp, được thể hiện bằng các quy đinh của pháp luật như: nội quy lao
động, thang bảng lương, quy chế trả lương, thương lượng ký kết thỏa ước lao động
tập thể, thực hiện quy chế dân chủ, đối thoại nơi làm làm việc, quy chế phối hợp
giữa giám đốc doanh nghiệp với Ban chấp hành công đoàn cơ sở…
- Tổ chức các phong trào thi đua lao động sản xuất trong công nhân, viên
chức, lao động: Giúp công nhân, viên chức, lao động phát huy sáng kiến, sáng tạo,
xây dựng các đề tài lao động sáng tạo. Vận động CNLĐ nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, hoàn thành vượt mức nhiệm vụ được giao, đạt năng suất, chất
lượng tốt, đoàn kết giúp đỡ nhau trong sản xuất.
- Vận động công nhân lao động thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng,
lãng phí; đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng nếp sống văn minh và
gia đình văn hóa, phong trào thi đua người tốt, việc tốt trong cơ quan, doanh
nghiệp…
- Tham gia xây dựng và giám sát thực hiện chế độ, chính sách pháp luật liên
quan đến người lao động.

- Tham gia triển khai thực hiện các chế độ chính sách về tiền lương, về thi
hành chế độ Bảo hiểm xã hội, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động cho CNLĐ.
Cán bộ CĐCS phải thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục CNLĐ.
- Tuyên truyền, phổ biến các chế độ, chính sách, luật pháp có liên quan đến
quyền và lợi ích của CNLĐ.
13


- Cán bộ công đoàn vận động CNLĐ xây dựng văn hóa doanh nghiệp và đời
sống văn hóa ở cơ sở:
Phát huy tinh thần yêu nước, đức tính cần cù, năng động, sáng tạo trong lao
động sản xuất, học tập và công tác trong công nhân, viên chức, lao động, xây dựng
ý thức tập thể và lối sống lành mạnh.
Xây dựng môi trường văn hóa cơ sở lành mạnh, quan hệ ứng xử có văn hóa,
có đạo lý, tinh thần dân chủ, bình đẳng, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Cán bộ công đoàn tham gia với đơn vị, doanh nghiệp xây dựng cơ sở vật
chất, phương tiện cho hoạt động văn hóa cơ sở. Tổ chức cho đông đảo công nhân,
viên chức, lao động tham gia các hoạt động văn hóa thể thao.
Thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục giúp cho công nhân, viên chức,
lao động nâng cao nhận thức về mọi mặt góp phần tích cực nâng cao chất lượng
đội ngũ công nhân, viên chức, lao động.
1.1.2.3. Nhiệm vụ và quyền hạn của cán bộ công đoàn
Tại Điều 6, Điều lệ Công đoàn Việt Nam quy định nhiệm vụ và quyền hạn
của cán công đoà như sau[10]
Nhiệm vụ của cán bộ công đoàn
Liên hệ chặt chẽ với đoàn viên và người lao động; tôn trọng ý kiến của đoàn
viên và người lao động. Báo cáo, phản ánh và thực hiện thông tin hai chiều giữa
các cấp công đoàn, giữa người lao động với người sử dụng lao động hoặc đại diện
của người sử dụng lao động.
Tổ chức đối thoại giữa người lao động với người sử dụng lao động trong các

cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp hoặc giữa tổ chức công đoàn với đại diện của người
sử dụng lao động.
Phát triển đoàn viên và xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh.
Đấu tranh chống những biểu hiện vi phạm đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của công đoàn các cấp.
Thực hiện các nhiệm vụ khác do tổ chức công đoàn phân công.
Quyền hạn của cán bộ công đoàn:
Là người đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của người lao động.
14


Được thực hiện các quyền của cán bộ công đoàn trong quan hệ lao động theo
quy định của pháp luật, công đoàn.
Tổ chức và lãnh đạo đình công theo quy định của pháp luật.
Được bảo đảm điều kiện hoạt động công đoàn tại cơ quan, tổ chức, doanh
nghiệp theo quy định của Luật Công đoàn. Được công đoàn bảo vệ, giúp đỡ, hỗ trợ
khi gặp khó khăn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ do tổ chức công đoàn phân công.
Được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ công tác công đoàn.
Được hưởng các chế độ, chính sách theo quy định của Đảng, Nhà nước và tổ
chức Công đoàn.
Cán bộ công đoàn không chuyên trách khi có đủ điều kiện theo quy định và
có nguyện vọng được xem xét ưu tiên tuyển dụng làm cán bộ công đoàn chuyên
trách khi cơ quan tuyển dụng có nhu cầu.

1.1.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Cán bộ công đoàn cơ sở trong các doanh
nghiệp ngoài nhà nước [10]
Tuyên truyền, phổ biến, vận động người lao động thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của tổ chức Công
đoàn và nội quy, quy chế của doanh nghiệp.

Đại diện tập thể người lao động thương lượng, ký kết và giám sát việc thực
hiện thỏa ước lao động tập thể; phối hợp với người sử dụng lao động hoặc đại diện
người sử dụng lao động thực hiện quy chế dân chủ, mở hội nghị người lao động,
xây dựng và ký kết quy chế phối hợp hoạt động; hướng dẫn người lao động giao
kết hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc. Đại diện cho tập thể lao động tham gia
giải quyết các tranh chấp lao động, thực hiện các quyền của công đoàn cơ sở, tổ
chức và lãnh đạo đình công theo quy định của pháp luật.
Tập hợp yêu cầu, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và người
lao động; tổ chức đối thoại giữa người lao động và người sử dụng lao động; phối
hợp với người sử dụng lao động tổ chức các phong trào thi đua, phát triển sản xuất
kinh doanh chăm lo đời sống vật chất, tinh thần đối với người lao động; vận động
người lao động tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao, hoạt động xã hội, hỗ trợ
giúp đỡ nhau trong nghề nghiệp, trong cuộc sống, đấu tranh ngăn chặn các tệ nạn
xã hội..
15


Giám sát việc thực hiện pháp luật có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của
người lao động và công đoàn; tham gia các hội đồng của doanh nghiệp theo quy
định của pháp luật và điều lệ doanh nghiệp; tham gia xây dựng các nội quy, quy
chế có liên quan đến quyền, lợi ích của người lao động; tổ chức, quản lý mạng lưới
an toàn, vệ sinh viên và giám sát công tác an toàn vệ sinh lao động, chăm sóc sức
khỏe người lao động trong doanh nghiệp...
Phát triển, quản lý đoàn viên; xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh và tham
gia xây dựng Đảng.
Quản lý tài chính, tài sản của công đoàn theo quy định của pháp luật và
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
1.2. Chất lƣợng cán bộ công đoàn cơ sở nói chung và công đoàn cơ sở các
doanh nghiệp ngoài nhà nƣớc nói riêng
1.2.1. Quan điểm và căn cứ xác định chất lượng cán bộ cán bộ công đoàn

1.2.1.1.Quan điểm về tiêu chuẩn cán bộ công đoàn
Công tác cán bộ chính là việc xác định các tiêu chuẩn cho mỗi chức danh,
tuyển chọn cán bộ theo tiêu chuẩn, xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bổ
nhiệm cán bộ. Từ khi ra đời đến nay Đảng ta luôn xem công tác cán bộ là một vấn
đề quan trọng, giữ vị trí quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng của nước ta. Đảng
đã từng bước xây dựng một đội ngũ cán bộ có đủ sức thực hiện nhiệm vụ trong
từng giai đoạn Cách mạng. Thông qua đội ngũ cán bộ, Đảng lãnh đạo nhân dân ta
đánh thắng kẻ thù xâm lược giành lại độc lập tự do, thống nhất đất nước, tiến hành
xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn quan tâm đến công tác cán bộ, lựa chọn, đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ.
Người luôn cho rằng vấn đề cán bộ là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết
định đối với sự nghiệp cách mạng và đối với công cuộc xây dựng Đảng. Người
luôn dạy “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, bất cứ chính sách công tác gì nếu
có cán bộ tốt thì thành công”[5]. Ở mỗi bước phát triển của cách mạng căn cứ vào
yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, Người đã ân cần chỉ ra phương hướng phấn đấu và rèn
luyện của cán bộ.
Một yêu cầu không thể thiếu được của người cán bộ là sự gắn bó mật thiết
với quần chúng, gần gũi với công nhân, tri thức, gần gũi với cấp dưới cơ sở, sâu sát
16


với công việc. Như vậy tiêu chuẩn lựa chọn, đề bạt cán bộ là một trong những khâu
quan trọng của công tác cán bộ, nắm vững và xác định đúng quan điểm này sẽ tạo
cho hệ thống chính trị một đội ngũ cán bộ có đầy đủ năng lực, phẩm chất, công tác
có hiệu quả.
Những tiêu chuẩn cụ thể của cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh là: Phải
trung thành với Tổ Quốc với cách mạng, chế độ XHCN; Có trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ giỏi; Phải có mối quan hệ mật thiết với mọi người xung quanh; Dám phụ
trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là những tình huống khó; Cần,

kiệm, liêm chính, chí công vô tư, khiêm tốn giản dị, không ngừng học tập nâng cao
trình độ năng lực, phẩm chất của bản thân. Để hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao,
để người cán bộ thực sự là người lãnh đạo và là người đầy tớ trung thành của dân
thì người cán bộ phải: “Có đạo đức, có tài, có phẩm chất chính trị và năng lực lãnh
đạo trong đó đức là gốc” [5]. Người nhấn mạnh: “Cái làm nền tảng trước hết là đạo
đức cách mạng, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới
hoàn thành nhiệm vụ cách mạng một cách vẻ vang”[5]. Người nghiêm khắc phê
phán những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, Người đặc biệt coi trọng việc giữ gìn
và nâng cao đạo đức Cách mạng.
Trên cơ sở tiêu chuẩn chung về cán bộ, các cấp các ngành đã chủ động xây
dựng tiêu chuẩn cán bộ của ngành mình, đó là căn cứ để làm tốt công tác quy hoạch,
bồi dưỡng, đào tạo nguồn để đáp ứng yêu cầu công việc trong tình hình mới.
Nhận định của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về công tác cán bộ, báo
cáo đánh tại đại hội XI Công đoàn Việt Nam, nhiệm kỳ 2013 - 2018: Đội ngũ cán
bộ công đoàn đều trưởng thành từ phong trào công nhân và công đoàn, có nhiệt
tình tâm huyết, được quần chúng tín nhiệm. Là những người có phẩm chất đạo
đức, tin tưởng, biết vận dụng đường lối quan điểm của Đảng và phong trào công
nhân, hoạt động Công đoàn. Có trách nhiệm luôn cố gắng trong nhiệm vụ được
giao, gắn bó với tổ chức Công đoàn, gắn bó với người lao động, được đào tạo về
chuyên môn, chính trị, công tác Công đoàn, tích cực học tập nâng cao trình độ mọi
mặt, bước đầu thích ứng với điều kiện hoạt Công đoàn trong nền kinh tế thị trường.
Đội ngũ cán bộ công đoàn đã giữ vững vai trò quyết định đẩy mạnh phong trào
công nhân và hoạt động phong trào Công đoàn trong thời gian qua, góp phần quan
trọng vào việc thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước[11]
17


1.2.1.2. Căn cứ xác định tiêu chuẩn cán bộ cán bộ công đoàn cơ sở
Từ yêu cầu thực tiễn Tổng Liên đoàn Lao đông Việt Nam đưa ra những căn
cứ chung để xây dựng tiêu chuẩn cán bộ công đoàn[14]:

Có bản lĩnh chính trị vững vàng; nhiệt tình, tâm huyết với sự nghiệp xây
dựng tổ chức công đoàn; có uy tín và khả năng đoàn kết tập hợp được đông đảo
đoàn viên, CNVCLĐ; có tinh thần đấu tranh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của đoàn viên, CNVCLĐ.
Có năng lực, trình độ tham gia xây dựng và tổ chức thực hiện tốt các nghị
quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào các lĩnh vực hoạt động
công đoàn; có kiến thức về quản lý kinh tế, xã hội, pháp luật; có kỹ năng hoạt động
công đoàn và nghiệp vụ công tác công đoàn.
Có sức khỏe, đạo đức, lối sống lành mạnh, trung thực, giản dị, không cục bộ
bản vị, cơ hội; không lãng phí, tham nhũng và bao che cho tham nhũng, kiên quyết
chống tham nhũng và lãng phí.
Tiêu chuẩn cán bộ là những quy định đối với cán bộ về sức khỏe, phẩm chất
chính trị, đạo đức, lối sống, trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ, khả năng
đoàn kết, tập hợp quần chúng, tác phong, lề lối làm việc. Tiêu chuẩn cán bộ là căn
cứ để hoạch định chính sách vĩ mô phục vụ cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ công
chức nói chung và cán bộ công đoàn nói riêng. Tiêu chuẩn cũng là cơ sở để từng
người cán bộ phấn đấu tự rèn luyện để hoàn thiện bản thân.
Từ những tiêu chuẩn chung về cán bộ công đoàn, trên cơ sở đó cấp ủy Đảng
và các cấp công đoàn lựa chọn, quy hoạch, bồi dưỡng đào tạo nguồn cho cấp mình
theo từng nhiệm kỳ, tuyển chọn những cán bộ có đủ phẩm chất, trình độ, năng lực
xây dựng đội ngũ cán bộ CĐCS có đủ bản lĩnh chính trị, năng lực để thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ của tổ chức công đoàn.
1.2.1.3. Quan điểm đánh giá chất lượng cán bộ công đoàn cơ sở
Đánh giá chất lượng cán bộ có thể được xem là khâu quan trọng đầu tiên
trong công tác cán bộ. Đánh giá cán bộ đúng có ý nghĩa quyết định trong việc
tuyển chọn đào tạo, bố trí sử dụng có hiệu quả nguồn cán bộ. Đánh giá chất lượng
cán bộ công khai, minh bạch, khách quan, toàn diện và công tâm, lấy hiệu quả
hoàn thành nhiệm vụ công tác làm thước đo phẩm chất, năng lực của cán bộ. Đánh
18



giá chất lượng cán bộ phải căn cứ vào hiệu quả công tác, khả năng đoàn kết, quy
tụ, phát huy sức mạnh tập thể, tạo ra sự tiến bộ và kết quả cụ thể trong lĩnh vực
mình phụ trách thực hiện.
Đánh giá chất lượng cán bộ là vấn đề quan trọng, đánh giá đúng sẽ quy
hoạch đúng người, sử dụng đúng đối tượng. Đánh giá chất lượng cán bộ đòi hỏi
phải công tâm, khách quan tạo đoàn kết nhất trí cao trong tổ chức. Đánh giá chất
lượng cán bộ cần phải được làm tốt để nâng cao chất lượng các khâu của công tác
cán bộ, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Trong đánh giá chất lượng cán bộ phải lấy
kết quả hoàn thành nhiệm vụ được giao làm thước đo chính để đánh giá phẩm chất
năng lực của cán bộ một cách cụ thể, khoa học, chính xác. Khắc phục tình trạng
đánh giá chất lượng cán bộ một cách chung chung, cảm tính chủ quan, lẫn lộn giữa
điều kiện với tiêu chuẩn, coi bằng cấp học vị cao hơn phẩm chất, năng lực.
Chất lượng cán bộ CĐCS là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá phẩm chất đạo đức,
trình độ năng lực và khả năng đoàn kết tập hợp đoàn viên, công nhân viên chức,
lao động; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, CNVCLĐ;
khả năng xây dựng và tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước vào lĩnh vực hoạt động công đoàn.
Đội ngũ cán bộ CĐCS nói chung và đội ngũ cán bộ CĐCS các doanh nghiệp
ngoài nhà nước nói riêng được đánh giá có chất lượng phải được xem xét hiệu quả
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của CĐCS đó, kết quả bình xét công đoàn cơ sở
hàng năm có đạt vững mạnh hoặc vững mạnh xuất sắc hay không? Đây là cơ sở để
tuyển chọn, bố trí cán bộ cho phù hợp với năng lực thực tiễn của cán bộ công đoàn.
1.2.2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ CĐCS, cán bộ công đoàn cơ sở
các doanh nghiệp ngoài nhà nước
Khi đánh giá cán bộ CĐCS trong đó có cán bộ CĐCS các doanh nghiệp ngoài
nhà nước sẽ dựa trên các tiêu chí Tổng LĐLĐ Việt Nam quy định[16].
Về nhận thức chính trị, phẩm chất đạo đức
- Về chính trị:
Cán bộ công đoàn phải hiểu biết các quan điểm, đường lối, chính sách của

Đảng, Nhà nước, kiên định với mục tiêu chính trị của Đảng đề ra, nắm vững đường
lối của Đảng trong quá trình vận dụng thực hiện các mục tiêu chính trị, kinh tế, xã
19


hội của đất nước. Có tư duy chính trị nhạy cảm, năng động, sáng tạo, nhiệt tình
ủng hộ và gương mẫu đi đầu trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, tham gia có
hiệu quả các nhiệm vụ công tác, sản xuất, kinh doanh.
Chấp hành nghiêm kỷ luật lao động, gương mẫu chấp hành pháp luật của
Nhà nước, những quy định của tập thể, vận động cán bộ, đoàn viên chấp hành.
Nhiệt tình, tâm huyết với phong trào CNVCLĐ và hoạt động công đoàn, gắn
bó với tổ chức công đoàn và CNVCLĐ. Giữ mối liên hệ mật thiết với quần chúng,
gần gũi với công nhân lao động, đại diện, bảo vệ và là chỗ dựa cho công nhân viên
chức lao động.
- Về phẩm chất đạo đức:
Có đạo đức phẩm chất cách mạng, đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực,
kiên quyết bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVCLĐ.
Dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước công việc được giao.
Gương mẫu trong lao động sản xuất và công tác, trong sinh hoạt, có ý thức tổ chức
kỷ luật, luôn tạo sự đoàn kết, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chinh đáng của
CNVCLĐ.
Có đạo đức, lối sống lành mạnh, trung thực, có mối quan hệ mật thiết với
đoàn viên và công nhân viên chức lao động, không tham ô, lãng phí, có ý thức tiết
kiệm và bảo vệ tài sản của tập thể
Tiêu chí về trình độ chuyên môn:
Cán bộ CĐCS có trình độ chuyên môn từ cao đẳng trở lên.
Có trình độ hiểu biết, tích lũy kinh nghiệm thực tiễn, tổ chức thực hiện có
hiệu quả nhiệm vụ được giao. Biết phát huy năng lực sở trường công tác.
Có trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, am hiểu về ngành, nghề, có
kiến thức am hiểu về kinh tế, kỹ thuật, pháp luật, các kiến thức về xã hội để vận

động quần chúng tham gia hoạt động công đoàn. Đồng thời, cán bộ CĐCS cần có
cái nhìn tổng quan, biết tiếp nhận thông tin, có khả năng tư duy, phán đoán và xử
lý tình huống có hiệu quả, có tính quyết đoán trong giải quyết công việc, không
máy móc, cứng nhắc…
Khi xét về trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trình độ nghiệp vụ công tác
công đoàn cần xuất phát từ vị trí, yêu cầu của mỗi cấp công đoàn mà đòi hỏi về
20


trình độ các mặt của công đoàn cũng khác nhau. Nghĩa là trên cơ sở vị trí, yêu cầu
nhiệm vụ của từng loại hình đơn vị, doanh nghiệp đòi hỏi cán bộ công đoàn phải
có tiêu chuẩn nhất định về trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ công
tác công đoàn cho phù hợp. Tuy nhiên, trình độ chuyên môn và trình độ nghiệp vụ
công tác công đoàn phải gắn với kiến thức thực tiễn và được vận dụng trong công
việc hàng ngày. Do vậy cần phải kết hợp chặt chẽ giữa tiêu chuẩn bằng cấp với
năng lực thực tiễn của cán bộ. Trong điều kiện CNH, HĐH và hội nhập quốc tế với
trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến, chuyên môn nghiệp vụ và sự hiểu biết trên các
lĩnh vực của người lao động từng bước được nâng lên, do đó đòi hỏi cán bộ công
đoàn không ngừng nâng cao trình độ học vấn, hiểu biết pháp luật, am hiểu xã
hội… để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của phong trào công nhân viên chức lao động
và hoạt động công đoàn. Chính vì thế, cán bộ CĐCS đòi hỏi phải có trình độ
nghiệp vụ công tác công đoàn, có kỹ năng vận động CNLĐ, tổ chức hoạt động
công đoàn. Đây là tiêu chuẩn hết sức quan trọng cần phải có ở cán bộ CĐCS.
Tiêu chí về kỹ năng nghề nghiệp
Hoạt động công đoàn thực chất là hoạt động quần chúng, vì vậy kỹ năng về
nghiệp vụ công đoàn của người cán bộ là thể hiện khả năng liên hệ với quần chúng
và phát huy tính tự nguyện của quần chúng. Người cán bộ CĐCS phải hướng hoạt
động công đoàn vào việc phục vụ lợi ích của CNLĐ, quan tâm đến đời sống vật
chất, tinh thần, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp chính đáng của CNLĐ, sâu sát quần
chúng, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của người lao động, giải quyết những mâu

thuẫn phát sinh trong đơn vị, cổ vũ vận động đoàn viên nỗ lực thực hiện tốt nhiệm
vụ được giao.
Có tác phong làm việc theo quan điểm quần chúng, dân chủ, thực tế. Nghĩa
là đối với cán bộ công đoàn đòi hỏi phải biết biến ý chí của Đảng, Nhà nước, của
tổ chức công đoàn thành ý chí của đông đảo CNVCLĐ, hướng hoạt động của đông
đảo CNVCLĐ vào mục tiêu chương tình kế hoạch đã đề ra.
Có năng lực quản lý, tổ chức thực hiện, nắm bắt tình hình kinh tế - xã hội,
trên cơ sở đó có những đề xuất và giải quyết công việc đảm bảo đúng mục tiêu. Có
khả năng xây dựng chương trình, kế hoạch công tác, xây dựng nghị quyết của công
đoàn, tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết, chương trình công tác đạt kết quả tốt.
21


Xây dựng nội bộ đoàn kết, biết tổ chức và sử dụng người trong tổ chức để làm việc
có hiệu quả. Biết sử dụng triệt để thông tin hai chiều, nhiều chiều, lắng nghe ý kiến
của công nhân viên chức lao động, qua đó tạo sự tin tưởng lẫn nhau trong công
việc, nâng cao tinh thần trách nhiệm của CNVCLĐ, đem lại hiệu quả cao trong
hoạt động công đoàn.
Tổ chức thực hiện của cán bộ CĐCS phải dựa trên nguyên tắc tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách, năng lực đó biểu hiện qua phong cách quản lý, chỉ đạo, tổ
chức thực hiện.
Khi đánh giá cán bộ CĐCS cũng cần chú ý dựa vào việc: Lấy hiệu quả công
tác thực tế và sự tín nhiệm của CNVCLĐ, đoàn viên công đoàn làm thước đo chủ
yếu. Đây là tiêu chí về chất lượng và năng lực của cán bộ công đoàn thông qua
việc làm thực tế của cán bộ CĐCS.
Cán bộ công đoàn cũng cần có kiến thức nhất định về lý luận chính trị. Yêu
cầu trình độ lý luận của cán bộ CĐCS không chỉ đơn thuần là chứng chỉ, bằng cấp,
mà vấn đề cốt lõi là đòi hỏi cán bộ công đoàn phải có khả năng biến những vấn đề
được học thành nhận thức, hành động cụ thể, thiết thực trong công tác của mình.
Đó chính là khả năng vận dụng lý luận vào công việc hàng ngày, khả năng tổng

hợp thực tiễn, vận dụng lý luận vào tổ chức hoạt động thực tế của đơn vị mình.
Tiêu chí về kinh nghiệm kỹ năng thực hiện nhiệm vụ
Kinh nghiệm công tác là tiêu chí quan trọng đánh giá cán bộ. Kinh nghiệm
là những vốn sống thực tế mà cán bộ tích lũy được trong thực tiễn công tác. Kinh
nghiệm phụ thuộc vào sự tích lỹ hàng năm theo độ dài thời gian công tác của cán
bộ nói chung và thời gian công tác ở một công việc cụ thể nào đó của cán bộ.
Thường thì kinh nghiệm công tác được xem xét đánh giá qua thâm niên công tác
của cán bộ. Tuy nhiên, giữa kinh nghiệm và thâm niên công tác không phải hoàn
toàn theo tỷ lệ thuận. Thời gian công tác chỉ là điều kiện cần cho tích lũy kinh
nghiệm. Điều kiện đủ để hình thành kinh nghiệm trong công tác của cán bộ phụ
thuộc chính vào khả năng tư duy, nhận thức, phân tích, tổng hợp, tích lũy của bản
thân từng người cán bộ.
Trong thực tiễn cần bố trí cán bộ công đoàn có tính chuyên nghiệp cao (hiểu
biết pháp luật, hiểu biết về sản xuất kinh doanh, biết cách vận động quần chúng, có
thâm niên công tác trong lĩnh vực công đoàn…) để phát huy những kinh nghiệm
22


họ tích lũy được áp dụng vào công việc đang đảm nhiệm, tránh xáo trộn bố trí cán
bộ sang lĩnh vực khác khi không cần thiết. Tuy nhiên, đối với cán bộ trong diện
quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý thì việc luân chuyển sang những vị trí khác là
hình thức tăng cường kinh nghiệm cho cán bộ đó.
Tiêu chí về sức khỏe
Sức khỏe của cán bộ cũng được xem là tiêu chí quan trọng đánh giá chất
lượng cán bộ. Sức khỏe là trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội chứ
không đơn thuần là không có bệnh tật. Sức khỏe là tổng hòa nhiều yếu tố tạo nên
giữa bên trong và bên ngoài, giữa thể chất và tinh thần. Có nhiều chỉ tiêu biểu hiện
trạng thái sức khỏe của người lao động. Bộ Y tế Việt Nam quy định 3 trạng thái
sức khỏe là: Loại A: thể lực tốt, không có bệnh tật; Loại B: Trung bình; Loại C:
yếu, không có khả năng lao động.

Tiêu chí sức khỏe đối với cán bộ không những là một tiêu chuẩn chung, phổ
thông cần thiết cho mọi nhóm cán bộ, mà tùy theo những hoạt động đặc thù của
từng loại cán bộ còn có những yêu cầu tiêu chuẩn riêng. Vì vậy, việc xây dựng chỉ
tiêu phản ánh tình trạng sức khỏe của cán bộ cần xuất phát từ yêu cầu cụ thể đối với
hoạt động có tính đặc thù của từng loại cán bộ. Yêu cầu sức khỏe không chỉ là một
quy định bắt buộc khi tuyển chọn cán bộ, mà là yêu cầu được duy trì trong suốt quá
trình công tác của người cán bộ. Cán bộ đảm bảo sức khỏe mới có thể thực hiện
công việc được liên tục. Vì vậy người lãnh đạo cần phải tạo không khí làm việc
thân thiện, cởi mở, nghiêm túc để phát huy tốt nhất tính sáng tạo của cán bộ. Đồng thời
hàng năm đơn vị cần tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho cán bộ, CNVCLĐ để qua đó
phát hiện những bệnh tật, nhất là bệnh nghề nghiệp để có biện pháp điều trị kịp thời.
Điều 152 Bộ luật lao động năm 2012 đã quy định về chăm sóc sức khỏe cho
người lao động[2]:
Người sử dụng lao động phải căn cứ vào tiêu chuẩn sức khỏe quy định cho
từng loại công việc để tuyển dụng và sắp xếp lao động.
Hàng năm, người sử dụng lao động phải tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho
người lao động, kể cả người học nghề, tập nghề; lao động nữ phải được khám
chuyên khoa phụ sản, người làm công việc nặng nhọc, độc hại, người lao động là
người khuyết tật, người lao động chưa thành niên, người lao động cao tuổi phải
được khám sức khỏe ít nhất 6 tháng một lần.
23


Tiêu chí đánh giá mức độ đảm nhận công việc của cán bộ công đoàn:
Đây là tiêu chí đánh giá năng lực thực tiễn của cán bộ công đoàn; phản ánh
mức độ hoàn thành nhiệm vụ và mức độ đảm nhận chức trách nhiệm vụ của cán bộ
công đoàn. Để đánh giá chất lượng cán bộ có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
quản trị nhân lực của tổ chức. Việc đánh giá không có ý nghĩa là thẩm định kết quả
thực hiện công việc, công nhận thành tích của cán bộ đó mà có ý nghĩa đánh giá
kết quả hoạt động của tổ chức đó.

Đánh giá thực hiện công việc là phương pháp, nội dung của quản trị nguồn
nhân lực trong các tổ chức. Đánh giá thực hiện công việc thực chất là xem xét, so
sánh giữa thực hiện nhiệm vụ cụ thể của cán bộ với những tiêu chuẩn đã được xác
định trong bản mô tả công việc… Kết quả đánh giá thực hiện công việc cho phép
phân tích và đánh giá về chất lượng cán bộ trên thực tế. Nếu như cán bộ liên tục
không hoàn thành nhiệm vụ mà không phải lỗi của tổ chức, của những yếu tố
khách quan thì có nghĩa là cán bộ đó không đáp ứng được yêu cầu công việc được
giao. Trong trường hợp này có thể kết luận là chất lượng cán bộ thấp, không đáp
ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
Để đánh giá được chính xác kết quả thực hiện công việc của cán bộ đòi hỏi
đơn vị quản lý cán bộ phải tiến hành phân tích công việc một cách khoa học, xây
dựng được bản mô tả công việc, bản tiêu chuẩn chức danh nghiệp vụ thực thi công
việc và bản tiêu chuẩn hoàn thành công việc. Khi phân tích đánh giá chất lượng
cán bộ trên cơ sở tiêu chí này cần phải phân tích làm rõ các nguyên nhân của việc
cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ, bao gồm cả nguyên nhân khách quan và
nguyên nhân chủ quan.
1.3. Các nhân tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng cán bộ công đoàn cơ sở doanh
nghiệp ngoài nhà nƣớc
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cán bộ CĐCS, song có thể phân
loại thành 2 nhóm nhân tố chính: Nhóm nhân tố bên ngoài và nhóm bên trong.
1.3.1. Các nhân tố bên ngoài
Tác động của phong trào công nhân, công đoàn thế giới
Phong trào công nhân, hoạt động công đoàn thế giới ảnh hưởng mang tính chất
toàn cầu, trong đó có ảnh hưởng tới Việt Nam nói chung cũng như tổ chức công đoàn
Việt Nam và CĐCS quận Hồng Bàng nói riêng.
24


Quá trình CNH-HĐH và hội nhập quốc tế cũng như sự phát triển của khoa
học nói chung và khoa học công nghệ thông tin nói riêng đã tác động mạnh mẽ,

ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng, hành động của công nhân lao động, đoàn viên
công đoàn Việt Nam và đang đặt ra cho tổ chức công đoàn phải xây dựng đội ngũ
cán bộ CĐCS có khả năng tiếp cận được với khoa học công nghệ hiện đại.
Có thể cho rằng phong trào công nhân và công đoàn thế giới sẽ có tác động
tới chất lượng cán bộ CĐCS nước ta nói chung, trong đó có cán bộ CĐCS quận
Hồng Bàng nói riêng.
Cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước, hệ thống quản lý của Tổng
LĐLĐ Việt Nam
Nâng cao chất lượng cán bộ công đoàn là một việc làm cần thiết để tạo điều
kiện thúc đẩy sự phát triển nguồn cán bộ. Muốn vậy, Đảng và Nhà nước cần có cơ
chế chính sách phù hợp. Cơ chế chính sách cán bộ của Đảng, Nhà nước là một
trong những nhân tố tác động mạnh nhất tới chất lượng cán bộ công đoàn nói
chung, cán bộ CĐCS nói riêng. Trong đó có những chính sách đảm bảo chế độ ưu
đãi về vật chất, tinh thần, chính sách thu hút cán bộ và chính sách bảo vệ cán bộ.
Nếu chính sách được thực hiện đồng bộ và bảo vệ được cán bộ CĐCS thì sẽ thu
hút được cán bộ CĐCS giỏi, tạo điều kiện cho cán bộ CĐCS yên tâm công tác,
thực hiện nhiệm vụ được giao, nhất là thực hiện chức năng bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp chính đáng của người lao động. Chính sách cán bộ phù hợp sẽ là động
lực mạnh mẽ, khuyến khích, động viên cán bộ CĐCS gắn bó với tổ chức, không
ngừng khắc phục mọi khó khăn, phấn đấu học tập, rèn luyện hoàn thành tốt chức
năng nhiệm vụ của tổ chức giao. Điều này cũng có nghĩa với việc nâng cao chất
lượng cán bộ CĐCS.
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã ban hành “Nghị quyết 4a/NQ TLĐ, ngày 04/3/2010 của Ban chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
khóa X về tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
công đoàn giai đoạn 2010 - 2020”[13]. “Liên đoàn LĐLĐ Hải Phòng đã có
Chương trình số 382/CTr-LĐLĐ ngày 05/8/2014 về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
công đoàn nhiệm kỳ 2013 - 2018”[19]. Công tác đào tạo, bồi dưỡng có vị trí hết

25



×