Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Một số biện pháp phát triển các KCN trên địa bàn thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 73 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
KCN là sản phẩm của chính sách đổi mới, mở cửa của Đảng và Nhà nước, là
một trong các giải pháp quan trọng đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH đất nước, là xu
hướng tất yếu của nền kinh tế phát triển, là nơi tập trung thu hút nguồn vốn FDI và
DDI tạo điều kiện thuận lợi để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tiếp thu công nghệ,
phân công lại lực lượng lao động, thúc đẩy công nghiệp phát triển, nâng cao năng
lực của nền kinh tế, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc phát
triển các KCN cũng thúc đẩy xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật hình thành
các trung tâm đô thị mới, tạo đà cho ngành công nghiệp phụ trợ và dịch vụ phát
triển, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo việc làm cho người lao
động, đảm bảo an sinh xã hội.
Sau một quá trình phát triển, đến nay cả nước đã có 299 KCN, tổng diện tích
đất tự nhiên là 85.000 ha. Trong đó 212 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện
tích đất tự nhiên là 59.000 ha và 87 KCN đang xây dựng hạ tầng với tổng diện tích
đất tự nhiên 26.000 ha, tỷ lệ lấp đầy các KCN đạt 49%, riêng các KCN đã đi vào
hoạt động, tỷ lệ lấp đầy đạt trên 67%, cao hơn 2% so với cuối năm 2014.
Các KCN, KKT Hải Phòng sau hơn 20 năm xây dựng và phát triển, đã
chứng tỏ được vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của thành phố.
Với diện tích 1.527,4 km2, Hải Phòng có KKT Đình Vũ - Cát Hải diện tích 22.540
ha, được xác định trong quy hoạch là một khu kinh tế tổng hợp nhằm phục vụ nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, đồng thời là một trung tâm kinh tế
biển, đa ngành, đa lĩnh vực của vùng duyên hải Bắc Bộ và cả nước; Hải Phòng có
19 KCN được phê duyệt trong quy hoạch với tổng diện tích là 9.716 ha, đã triển
khai xây dựng 12 dự án hạ tầng KCN với diện tích 4.600 ha, gấp gần 7 lần so với
trước năm 2008, bằng 5,4% tổng diện tích KCN toàn quốc, trong đó có 7 KCN đã
đi vào hoạt động với diện tích 2.253 ha (4 KCN nằm trong KKT Đình Vũ - Cát Hải
với diện tích 1.682 ha, 3 KCN nằm ngoài KKT Đình Vũ - Cát Hải với diện tích
571 ha). Trong những năm gần đây các KCN, KKT của Hải Phòng đã thu hút được
1



nhiều dự án đầu tư có công nghệ tiên tiến của các tập đoàn kinh tế lớn hàng đầu
trên thế giới như: Dự án của Tập đoàn Bridgestone (Nhật Bản) sản xuất các loại
lốp ô tô; Dự án Kyocera Mita (Nhật Bản) sản xuất các loại máy in, photocopy, máy
văn phòng; Dự án của Tập đoàn điện tử LG (Hàn Quốc);… Riêng dự án của Tập
đoàn điện tử LG đã có tổng vốn đầu tư đăng ký lên đến 1,5 tỷ USD. Các KCN của
Hải Phòng ra đời trở thành địa bàn thu hút đầu tư chủ yếu, góp phần chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, tăng giá trị sản xuất công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu, nộp ngân
sách, giải quyết việc làm, xây dựng nông thôn mới,… bước đầu trở thành động lực
phát triển kinh tế địa phương, vùng và cả nước, thực hiện chiến lược hướng ra biển
Đông.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng và phát triển các KCN, Hải Phòng vẫn
còn những tồn tại nhất định. Phát triển các KCN phải trên cơ sở của sự bền vững
về tất cả các mặt kinh tế, môi trường và xã hội. Các doanh nghiệp trong KCN
thường hoạt động từ 50 đến 70 năm (Điều 43 Luật Đầu tư số 67/2014/QH13), thời
gian hoạt động dài như vậy nếu không có định hướng phát triển bền vững thì sẽ
gây ra những hệ luỵ khó lường, không những không có đóng góp cho nền kinh tế
mà còn gây nên những trở ngại cho sự phát triển của địa phương nói riêng và đất
nước nói chung.
Từ nhận thức về tầm quan trọng của vấn đề mà tác giả đã lựa chọn nghiên
cứu đề tài: “Một số biện pháp phát triển các KCN trên địa bàn thành phố Hải
Phòng” làm Luận văn tốt nghiệp khóa học Thạc sĩ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Đề tài hệ thống hóa những vấn đề lý luận về phát triển KCN.
- Phân tích và đánh giá thực trạng phát triển các KCN trên địa bàn thành phố
Hải Phòng trong những năm gần đây, cụ thể từ năm 2011 đến năm 2015.
- Qua nghiên cứu đề tài xác định các yếu tố tác động đến việc phát triển các
KCN trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
- Kết hợp với cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý để đề xuất một số biện pháp phát
triển các KCN trên địa bàn thành phố Hải Phòng thời gian tới.

2


3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đánh giá thực trạng và đề ra một số biện pháp phát
triển các KCN Hải Phòng theo hướng bền vững.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
+ Về không gian nghiên cứu: Nghiên cứu việc phát triển của một số KCN
đang hoạt động trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
+ Thời gian nghiên cứu: Số liệu được thu thập từ năm 2011 đến năm 2015.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
+ Phương pháp biện chứng duy vật: để tổng hợp các lý luận chung.
+ Phương pháp thu thập sơ liệu, phân tích hệ thống, thống kê và so sánh để
tổng hợp các số liệu, từ đó đưa ra các nhận xét, đánh giá về từng vấn đề cụ thể.
+ Phương pháp khái quát hóa: từ những nhận xét mang tính bộ phận, sẽ khái
quát thành những kết luận đặc thù, chung nhất.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Ý nghĩa khoa học:
+ Từ kết quả nghiên cứu, đề xuất của đề tài góp phần làm cơ sở thực tiễn và
lý luận để phát triển các KCN trên địa bàn thành phố Hải Phòng theo hướng bền
vững.
+ Là cơ sở khoa học cho việc định hướng phát triển các KCN.
- Ý nghĩa thực tiễn:
+ Định hướng cho các nhà quản lý về phát triển KCN theo hướng bền vững.
+ Góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các KCN, tăng đóng góp cho
kinh tế địa phương và đất nước.

3



CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
1.1 Khái quát về KCN
1.1.1 Khái niệm
Theo Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 ngày 26/11/2014 có hiệu lực từ ngày
01/7/2015 thì khái niệm về KCN, KKT như sau:
“Khu công nghiệp là khu vực có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất
hàng công nghiệp và thực hiện dịch vụ cho sản xuất công nghiệp” [13].
“Khu kinh tế là khu vực có ranh giới địa lý xác định, gồm nhiều khu chức
năng, được thành lập để thực hiện các mục tiêu thu hút đầu tư, phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ quốc phòng an ninh” [13].
1.1.2 Đặc điểm, vai trò của KCN
1.1.2.1 Đặc điểm KCN
Đặc điểm cơ bản của KCN:
- Là nơi tập trung các doanh nghiệp, nhà máy công nghiệp trong một khu
vực có ranh giới xác định, cùng sử dụng chung kết cấu hạ tầng kỹ thuật như hệ
thống cung cấp nước, điện, hệ thống xử lý nước thải, rác thải và các loại chất thải
khác. Sản phẩm đầu ra của doanh nghiệp này có thể là nguyên vật liệu, bán thành
phẩm đầu vào của doanh nghiệp kia.
- Các doanh nghiệp trong KCN được hưởng các chính sách ưu đãi theo quy
định của Nhà nước, đặc biệt các KCN nằm trong KKT được hưởng các ưu đãi đặc
biệt nhằm tạo môi trường đầu tư hấp dẫn thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
- Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật các KCN chủ yếu là từ
các nhà đầu tư nước ngoài hay các tổ chức kinh tế trong nước. Đối với một số
nước, Chính phủ sử dụng ngân sách nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng KCN. Nhưng ở
Việt Nam, do nguồn lực từ ngân sách có hạn nên nhà nước chỉ đầu tư cơ sở hạ tầng
đến chân hàng rào KCN còn việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong KCN được
kêu gọi đầu tư từ nguồn vốn trong và ngoài nước.

4



- Các doanh nghiệp, nhà máy trong KCN chủ yếu sản xuất các sản phẩm
dành cho xuất khẩu, cung cấp ra thị trường thế giới.
- KCN là mô hình phát triển kinh tế tổng hợp với nhiều hình thức sở hữu
khác nhau: doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn FDI, doanh nghiệp
100% vốn DDI,... Các doanh nghiệp trong KCN hoạt động theo các quy định của
pháp luật.
1.1.2.2 Vai trò của KCN
Việc hình thành các KCN trở thành yêu cầu tất yếu của quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển. Cụ thể:
- Các KCN hình thành đã thu hút một lượng lớn vốn FDI, DDI.
Từ đặc điểm cơ bản của KCN như cơ sở hạ tầng đồng bộ, hoàn chỉnh và
hiện đại, thuận lợi cho doanh nghiệp nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, tiết
kiệm chi phí sản xuất đã là một nhân tố để thu hút các nhà đầu tư trong nước và
nước ngoài vào đầu tư.
Phát triển các KCN cũng phù hợp với chiến lược phát triển của các công ty
xuyên quốc gia trong việc mở rộng thị trường ra thế giới trên cơ sở tranh thủ chính
sách thuế quan ưu đãi từ phía nước chủ nhà, khai thác thị trường lao động giá rẻ,
sử dụng tài nguyên sẵn có ở các nước đang phát triển từ đó tiết kiệm chi phí, tăng
lợi nhuận. Cũng vì lẽ đó mà nguồn vốn đầu tư vào các KCN không ngừng tăng lên.
Cùng với việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, với vị trí thuận
lợi và các ưu đãi về cơ chế, chính sách thì KCN còn thu hút được các nhà đầu tư
trong nước. Các doanh nghiệp trong nước đang chiếm giữ một lượng vốn tiềm
năng rất lớn nhưng chưa được sử dụng và khai thác hợp lý. Từ cơ hội liên doanh,
liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài các doanh nghiệp trong nước sẽ có điều
kiện tiếp cận công nghệ hiện đại, kinh nghiệm và trình độ quản lý tiên tiến của
nước ngoài, bồi dưỡng nâng cao nhân lực trong nước, áp dụng các phương án cải
tiến kỹ thuật để theo kịp trình độ của các nước phát triển trên thế giới.
- KCN là nơi tiếp thu phương pháp quản lý hiện đại cũng như kỹ thuật và

công nghệ tiên tiến.
5


Việc tiếp thu công nghệ tiên tiến và kỹ năng, phương pháp quản lý hiện đại
nhanh chóng, hiệu quả là nhiệm vụ, mục tiêu chiến lược không chỉ trước mắt mà
còn lâu dài. Giải pháp mang tính truyền thống là nghiên cứu, áp dụng những
phương pháp có hiệu quả của các nước phát triển, ứng dụng vào trong nước. Tuy
nhiên, khi kinh tế còn khó khăn đối với các nước đang phát triển, thì không dễ
dàng như vậy. Cần nhận thấy rằng, công nghệ tiên tiến đã được ứng dụng phát
triển của các nước phát triển phải tương xứng, phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất
đầy đủ, hiện đại, tiền lương cao, tư bản dồi dào và có đội ngũ nhân lực trình độ
cao, trong khi điều kiện này không có ở các nước kém phát triển, điều kiện kinh tế
còn khó khăn. Chính vì vậy, với việc hình thành các KCN sẽ là nơi để thu hút sự
đầu tư này từ các doanh nghiệp nước ngoài. Qua việc đầu tư, các nước phát triển sẽ
đưa công nghệ hiện đại, những trang thiết bị kỹ thuật tiên tiến vào KCN, từ đó sản
xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong
nước và quốc tế.
- KCN là nơi phát triển kỹ năng lao động và tạo công ăn việc làm.
Tạo ra nhiều việc làm cho người lao động là một trong những mục tiêu của
các nước đang phát triển, KCN chính là nơi giải quyết được vấn đề này. Việc phát
triển các KCN sẽ tạo điều kiện phân công lại lực lượng lao động xã hội.
KCN là nơi tiếp thu công nghệ hiện đại, kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý
tiên tiến, đồng thời là nơi đào tạo ra những công nhân có tay nghề cao, ý thức kỷ
luật tốt, có tác phong công nghiệp và những nhà quản lý có trình độ chuyên môn
giỏi, có kinh nghiệm và bản lĩnh. Qua đó cũng đặt ra yêu cầu cho người lao động
phải liên tục, không ngừng học hỏi, rèn luyện và nâng cao trình độ chuyên môn,
tay nghề mới đáp ứng được yêu cầu.
- KCN góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Các KCN phát triển sẽ góp phần quan trọng t r o n g dịch chuyển cơ cấu

kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ
trọng nông nghiệp, đẩy nhanh tốc độ t ă ng kim ngạch xuất khẩu… Phát triển các
KCN sẽ thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển như các ngành công nghiệp phụ
6


trợ, dịch vụ thương mại, tài chính, ngân hàng, vui chơi giải trí… do đó nó trở thành
đầu tầu tăng trưởng của nền kinh tế.
- KCN góp phần phát triển đô thị và nông thôn.
Việc hình thành các KCN tạo tiền đề cho quá trình hình thành các khu đô
thị mới đáp ứng nhu cầu của người lao động, từ đó phân công lại lực lượng lao
động trong xã hội, làm thay đổi cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH-HĐH.
- KCN là cầu nối hội nhập với thế giới.
Với các điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, các chính sách ưu đãi đầu tư, cơ
sở hạ tầng đồng bộ, KCN là nơi thu hút các doanh nghiệp FDI. Với trình độ
quản lý chuyên nghiệp, công nghệ tiên tiến, các doanh nghiệp FDI đã có tác
động mạnh đến trình độ và kỹ năng sản xuất của các doanh nghiệp DDI, phần nội
lực của nền kinh tế trong nước. Từ đó, các doanh nghiệp FDI sẽ là cầu nối h ữ u
h i ệ u nhất cho doanh nghiệp D D I tiếp cận với thị trường thế giới.
- KCN là giải pháp hướng đến phát triển bền vững.
Việc xây dựng và phát triển các KCN đòi hỏi phải thực hiện nhiều vấn đề
một cách đồng bộ như: quy hoạch chi tiết, xây dựng cơ sở hạ tầng trong và ngoài
KCN, sử dụng đất đai có hiệu quả, bảo vệ môi trường, đào tạo và tuyển dụng
lao động, cung cấp các dịch vụ, an ninh trật tự, tổ chức đời sống cho người lao
động, vấn đề văn hoá, giáo dục, sự tác động của việc đô thị hoá, chính sách
hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn… Tất cả các mối quan hệ trên được giải
quyết tốt sẽ tạo sự phát triển bền vững.
1.1.3 Phân loại KCN
- Phân loại KCN theo tính chất ngành nghề: gồm 4 loại
+ KCN đa ngành: gồm nhiều doanh nghiệp thuộc nhiều ngành công

nghiệp khác nhau.
+ KCN chuyên ngành: là KCN có các doanh nghiệp công nghiệp cùng một
ngành hoặc một số ít ngành công nghiệp khác nhau nhưng cùng sản xuất ra một
số loại sản phẩm.
+ KCN hỗn hợp: là KCN có đầy đủ các yếu tố của KCN đa ngành, trong đó
7


chia ra các khu chuyên ngành, khu có yêu cầu công nghệ cao, có tổ chức dịch vụ
như vui chơi, giải trí, bệnh viện, trường học… đảm bảo đời sống của người lao
động trong KCN và dân cư.
+ KCN sinh thái: là mô hình mang tính cộng sinh doanh nghiệp. Các ngành
công nghiệp được lựa chọn sao cho các nhà máy có mối liên hệ với nhau, hỗ trợ và
tương tác với nhau tạo nên môi trường sạch và bền vững.
- Phân loại theo quy mô diện tích phân làm các loại KCN nhỏ, trung bình,
lớn và rất lớn. Theo tiêu chí này phụ thuộc vào quan điểm của từng nước về kích
cỡ KCN, chủ yếu là nhằm phân biệt xếp hạng KCN.
- Phân biệt theo đặc điểm quản lý thì có các loại:
+ KCN: có thể là đa ngành, chuyên ngành, có quy mô diện tích khác nhau,
được hình thành với các điều kiện khác nhau.
+ KCX: là khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho
sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu.
+ KCNC: là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật cao và
các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao.
+ CCN: là tên gọi chung cho các cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp,
thực chất là KCN nhưng có qui mô nhỏ do UBND cấp tỉnh quyết định thành lập
theo quy hoạch phát triển công nghiệp của địa phương.
1.2 Lý luận chung về phát triển các KCN
1.2.1 Khái niệm về phát triển bền vững
Khái niệm phát triển bền vững được Hội đồng thế giới về môi trường và

phát triển bền vững (WCED) trình bày trong tài liệu “Tương lai chung của chúng
ta” năm 1987 như sau:
“Phát triển bền vững là một quá trình của sự thay đổi mà trong đó sự khai
thác tài nguyên, phương hướng đầu tư, định hướng phát triển kỹ thuật và sự thay
đổi về luật pháp đều làm hài hoà và gia tăng khả năng đáp ứng nhu cầu và khát
vọng của nhân loại trong cả hiện tại và tương lai” [10]. Hay “Phát triển bền vững
là sự phát triển không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện nay mà không
8


làm tổn hại đến các thế hệ tương lai đáp ứng lại các nhu cầu của họ” [10].
Vấn đề phát triển bền vững cũng được Ngân hàng Thế giới (WB) đề cập lần
đầu tiên năm 1987: “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện
tại mà không làm nguy hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương
lai” [10].
“Các khái niệm trên chủ yếu nhấn mạnh khía cạnh sử dụng có hiệu quả
nguồn tài nguyên thiên nhiên và đảm bảo môi trường sống cho con người trong
quá trình phát triển” [10].
Ngày nay, quan điểm về phát triển bền vững được đề cập đầy đủ hơn, ngoài
vấn đề môi trường, phát triển bền vững còn xét cả về khía cạnh kinh tế và xã hội.
Tại Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững tổ chức ở Johannesbug Cộng hoà Nam Phi năm 2002 đã xác định “Phát triển bền vững là quá trình phát
triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hoà giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm:
tăng trưởng kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường”. “Tiêu chí
để đánh giá sự phát triển bền vững là sự tăng trưởng kinh tế ổn định; thực hiện tốt
tiến bộ và công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên
thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường sống” [10].
Ở Việt Nam, phát triển bề vững được hiểu một cách toàn diện: “Phát triển
bền vững bao trùm các mặt của đời sống xã hội, nghĩa là phải gắn kết sự phát triển
kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, gìn giữ và cải thiện môi trường,
giữ vững và ổn định chính trị - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh”[10].

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề phát triển bền vững
được thể hiện trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đến năm
2020, đó là “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Tăng trưởng kinh tế đi đôi
với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”, gắn sự phát triển
kinh tế với giữ vững ổn định chính trị - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng.
“Bền vững về kinh tế đòi hỏi nền kinh tế phải tăng trưởng GDP và GDP
bình quân đầu người cao; cơ cấu kinh tế phải hợp lý, đảm bảo cho GDP ổn định;
lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chí phấn đấu tăng trưởng” [11].
9


“Bền vững về xã hội lý giải một điều rằng, liệu một xã hội được coi là bình
thường, nếu dân số giảm sút? Nếu đảo chính, chiến tranh, khủng bố, dịch bệnh
liên tiếp xảy ra, cướp đi sinh mạng và mọi thành quả của lao động? Để tránh được
các tai biến xã hội nói trên, phát triển phải mang tính nhân văn. Quá trình đó bao
gồm: mở rộng các cơ hội lựa chọn cho mọi người; nâng cao năng lực lựa chọn
cho mọi người; mọi người cùng tham gia vào quá trình phát triển và mọi người
cùng được hưởng lợi từ quá trình phát triển này” [11].
“Bền vững về môi trường, đối với từng cá nhân cũng như cả loài người,
môi trường có 3 chức năng: Là không gian sinh tồn của con người (cả số lượng và
chất lượng); là nơi cung cấp tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản
xuất của con người; là nơi chứa đựng, xử lý, tái chế các phế thải của con người.
Vì thế, môi trường bền vững là môi trường luôn luôn thay đổi nhưng đảm bảo
thực hiện cả ba chức năng nói trên. Xã hội phát triển bền vững là xã hội mà con
người có cuộc sống chất lượng cao trên nền tảng sinh thái bền vững” [11].
1.2.2 Cở sở pháp lý về phát triển các KCN
1.2.2.1 Quan điểm, chính sách phát triển KCN
“Khi nói đến phát triển KCN bền vững thì phải quan tâm cả ba vấn đề đó là
kinh tế, môi trường và xã hội. Phát triển bền vững về kinh tế đó là sự duy trì nhịp
tăng trưởng về kinh tế của các doanh nghiệp trong KCN ổn định theo thời gian,

tăng trưởng phải dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động và hiệu quả chứ không
phải chỉ dựa trên cơ sở sự gia tăng của các yếu tố đầu vào” [3].
“Phát triển kinh tế luôn là mục tiêu đầu tiên đối với mỗi quốc gia. Tuy nhân
loại vẫn phải đối mặt với sự lựa chọn giữa sự phát triển kinh tế và bảo vệ môi
trường khỏi bị ô nhiễm, vì kinh tế càng phát triển thì càng thải ra môi trường nhiều
hơn, các nguồn tài nguyên sẽ ngày càng sớm cạn kiệt. Nhưng không thể không
phát triển kinh tế, vì nhu cầu con người là ngày càng cao, phát triển kinh tế là quy
luật tiến hoá của xã hội loài người. Nhưng phát triển kinh tế phải theo hướng bền
vững” [11].
“Các KCN phát triển theo hướng bền vững về kinh tế biểu hiện: Các doanh
10


nghiệp trong KCN có năng suất lao động và tốc độ tăng trưởng cao và ổn định; sản
phẩm sản xuất ra có chất lượng cao và cạnh tranh được với các sản phẩm cùng loại
trong khu vực và trên thế giới” [3].
Các chính sách và tiêu chí chủ yếu phát triển KCN theo hướng bền vững tại
Việt Nam là:
a) Chính sách quy hoạch các KCN phải phù hợp với chiến lược phát triển
lâu dài
“Quy hoạch phát triển các KCN phải đảm bảo phát huy và khai thác lợi thế
so sánh của từng khu vực, bảo đảm tính hiệu quả, cân nhắc đầy đủ các yếu tố môi
trường và xã hội trong các quyết định quy hoạch” [4].
“Chính sách quy hoạch KCN phải kết chặt chẽ với phát triển đô thị, cơ sở hạ
tầng kỹ thuật ngoài hàng rào KCN như hệ thống giao thông, hệ thống thoát nước,
hệ thống điện, điện chiếu sáng, hệ thống phòng cháy chữa cháy, bệnh viện, ngân
hàng, bưu điện… và các dịch vụ phục vụ như nhà ở cho công nhân, nhà ăn cho
công nhân, xe buýt đưa đón công nhân, đồn công an KCN, tổ chức công đoàn, hải
quan KCN… là các yếu tố vừa tăng sức hấp dẫn của KCN, vừa là những giải pháp
kinh tế - xã hội cần phải thực hiện để đảm bảo cho sự phát triển ổn định, bền vững

của KCN” [4].
“Trong một thời gian dài, chiến lược phát triển KCN của chúng ta dựa trên
quan điểm các cực phát triển. Nhưng chiến lược trên có mặt trái và giới hạn của nó
vì sự tập trung quá nóng của các KCN tại các khu vực lân cận thành phố đặt ra vấn
đề về môi trường, xã hội nghiêm trọng đe doạ tính bền vững của chiến lược. Do
vậy song song với việc tập trung phát triển các KCN tại các vùng có lợi thế, chính
sách quy hoạch KCN cần chuyển hướng dần sang các vùng kém lợi thế hơn nhưng
giải quyết tốt các vấn đề xã hội, môi trường” [4].
b) Chính sách huy động vốn đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật KCN một
cách đồng bộ
“Để thu hút đầu tư vào KCN, cơ sở hạ tầng kỹ thuật các KCN có ý nghĩa
quan trọng và phải đi trước một bước, đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư. Vì vậy,
11


chính sách huy động vốn đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật KCN một cách đồng bộ
là những yêu cầu bức thiết đối với KCN. Một KCN có cơ sở hạ tầng yếu kém sẽ
không thể sản xuất tốt và ổn định, hơn nữa sẽ dẫn đến việc yếu kém trong quá trình
xử lý môi trường, không thể phát triển bền vững” [4].
c) Chính sách khai thác, sử dụng hài hoà các nguồn lực
“Chính sách phát triển KCN phải dựa vào nguồn lực và cả cách thức sử
dụng hài hoà nguồn lực, điều này quyết định năng lực cạnh tranh và hiệu quả của
doanh nghiệp. Theo quan điểm truyền thống, nguồn lực là các yếu tố tạo nên nền
kinh tế và thúc đẩy nó phát triển. Các yếu tố đó là đất đai, tài nguyên thiên nhiên,
khí hậu, nguồn nước, con người, nguồn vốn tài chính, khoa học công nghệ, các
truyền thống văn hoá…” [4].
d) Chính sách thu hút đầu tư vào KCN đảm bảo có cơ cấu cân đối, thân thiện
và hội nhập.
- Cơ cấu cân đối:
+ Cân đối các KCN: Cân đối giữa các KCN tổng hợp với các KCN chuyên

ngành, KCNC nhằm giải quyết nhu cầu đa dạng và lâu dài.
+ Cân đối cơ cấu ngành: Cân đối công nghiệp thượng nguồn và công nghiệp
hạ nguồn, giữa công nghiệp cơ bản và công nghiệp phụ trợ.
+ “Cân đối sản phẩm và thị trường: Cân đối giữa sản xuất hàng xuất khẩu và
hàng thay thế nhập khẩu, vừa tập trung phát triển các ngành công nghiệp cạnh
tranh nhưng phải chú ý an ninh nguyên liệu trong nước” [4].
+ “Cân đối các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế: một KCN chỉ thu
hút được đầu tư nước ngoài sẽ thiếu tính bền vững, do vậy một KCN bền vững
phải có cơ cấu các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hợp lý giữa đầu tư
nước ngoài và đầu tư trong nước” [4].
- Cơ cấu thân thiện:
+ “Cơ cấu thân thiện trở thành nhu cầu và đòi hỏi của phát triển bền vững,
thể hiện ngay trong quá trình lựa chọn công nghệ, sản phẩm phải hướng đến các
công nghệ ít phát thải, tiết kiệm nguyên liệu, dễ tái chế và có khả năng sử dụng lại
12


sẽ tạo cơ hội cho việc cải thiện môi trường theo hướng thân thiện” [4].
+ “Cơ cấu thân thiện cũng cần phải tạo ra sự cân bằng giữa đầu ra và đầu
vào và cơ hội để tái chế chất thải ngay trong quá trình công nghiệp” [4].
- Cơ cấu hội nhập:
+ “Hội nhập đang mở ra cơ hội cho những ngành công nghiệp mới, lấy mục
tiêu là đáp ứng nhu cầu của thế giới chia sẻ nguồn lực tự nhiên và phân công lao
động của thế giới, bằng lao động và trí tuệ của Việt Nam” [4].
+ “Một KCN đáp ứng những chuẩn mực quốc tế là cơ hội để mở rộng giao
lưu và cạnh tranh với thế giới, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh đã có nhiều thay
đổi, trong đó nững chuẩn mực về môi trường trở thành rào cản và thách thức đối
với các nước” [4].
e) Chính sách xây dựng KCN có thương hiệu và bản sắc:
“Nền kinh tế thế giới ngày nay là nền kinh tế mở, do vậy chính sách xây

dựng KCN có thương hiệu và bản sắc là vấn đề rất quan trọng bảo đảm cho sự phát
triển lâu dài. Bản sắc của KCN thể hiện ở những giá trị hữu hình và vô hình, ở uy
tín thương hiệu của các nhà đầu tư và số lượng khách hàng biết đến” [4].
1.2.2.2 Văn bản quy phạm pháp luật liên quan phát triển các KCN
- Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 ngày 26/11/2014.
- Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ quy định về
KCN, KCX, KKT.
- Nghị định số 164/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008.
- Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Nghị định số 87/2010/NĐ-CP ngày 13/8/2010 quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu.
1.2.3 Những nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững của các KCN
1.2.3.1 Điều kiện tự nhiên, địa lý, quy mô đất xây dựng
“KCN phải được xây dựng tại vị trí địa lý thuận lợi, đảm bảo cho giao lưu
13


hàng hoá giữa KCN với các vùng trong nước và thị trường quốc tế. Đây là một
trong những điều kiện quan trọng đối với sự thành công và phát triển bền vững của
các KCN để đảm bảo cho việc vận chuyển hàng hoá và nguyên vật liệu ra vào các
KCN được nhanh chóng và thuận tiện nhất nhằm giảm chi phí lưu thông và tăng
khả năng cạnh tranh của hàng hoá sản xuất ra” [4].
“Quy mô đất xây dựng KCN cũng có vai trò quan trọng trong việc phát triển
các KCN, vì quy mô lớn sẽ tạo nên một khu vực công nghiệp rộng lớn, tiềm năng
phát triển lớn hơn. Cơ hội liên kết hợp tác giữa các doanh nghiệp trong KCN sẽ
cho hiệu quả cao hơn” [4].
1.2.3.2 Cơ sở hạ tầng kinh tế của vùng
“Về các điều kiện kinh tế, các KCN phải nằm trong khu vực có chính sách

ưu tiên của nhà nước, đặc biệt là trong các khu vực được xác định là đòn bẩy phát
triển kinh tế của vùng và cả nước. Những khu vực này có thể được Nhà nước hỗ
trợ trong quá trình đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình xã hội phục vụ
chung cho cả vùng nhưng có lợi ích cho cả KCN như: nâng cấp sân bay, bến cảng,
cải tạo và nâng cấp đường bộ, đường sắt…” [4].
1.2.3.3 Các trung tâm kinh tế và đô thị
Các trung tâm kinh tế và đô thị vừa có vị trí thuân lợi, vừa có điều kiện nội
tại làm cho các KCN có khả năng phát triển hiệu quả cao, vì:
- Nơi tập trung lao động kỹ thuật có chất lượng cao.
- Tập trung các cơ sở nghiên cứu khoa học, đào tạo, dạy nghề giúp các KCN
phát triển thuận lợi.
- Sẵn có hệ thống tài chính ngân hàng.
- Sẵn có những cơ sở hỗ trợ (về linh kiện, phụ tùng, hoặc bán thành phẩm…)
cho công nghiệp trong KCN.
- Đã sẵn có tiện nghi đầy đủ về giáo dục, giải trí, các khách sạn, nhà nghỉ,
cung cấp đầy đủ thực phẩm cho người lao động.
Chính vì vậy, các KCN gần các trung tâm đô thị lớn có sức hút mạnh mẽ đối
với các nhà đầu tư đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài.
14


1.2.3.4 Cơ chế chính sách
“Môi trường cơ chế chính sách đóng vai trò quan trọng đối với sự thành
công hay thất bại của việc phát triển KCN. Vì nếu cơ chế thông thoáng, không gây
quá nhiều trở ngại cho các nhà đầu tư, đồng thời có các chính sách ưu đãi thì sẽ
hấp dẫn được các nhà đầu tư do họ sẽ giảm được chi phí sản xuất và tăng lợi nhuận
kinh doanh” [4].
1.2.3.4 Môi trường chính trị, pháp luật
“Nơi có dự kiến xây dựng KCN phải có sự ổn định về chính trị, an ninh và
trật tự xã hội để bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ quyền lợi và lợi ích

hợp pháp của các chủ thể tham gia kinh doanh và đầu tư. Kinh nghiệm cho thấy,
các nhà đầu tư nước ngoài nhiều khi không coi những ưu đãi về kinh tế là yếu tố
quyết định đầu tư hàng đầu mà chính là sự ổn định về chính trị, xã hội của nước
tiếp nhận đầu tư. Hệ thống pháp luật phải chặt chẽ và có hiệu lực để các nhà đầu
tư yên tâm đầu tư, sản xuất, kinh doanh, bảo vệ được lợi ích hợp pháp của mình”
[4].
1.2.3.6 Chất lượng cơ sở hạ tầng KCN
“Cơ sở hạ tầng là điều kiện quan trọng cho sự phát triển bền vững của các
KCN. Vì một cơ sở hạ tầng đồng bộ và hiện đại sẽ là nền tảng vững chắc cho sự
phát triển của các doanh nghiệp. Cơ sở hạ tầng KCN bao gồm cơ sở hạ tầng bên
trong và bên ngoài KCN” [4].
1.2.3.7 Chất lượng các dịch vụ
“Là chất lượng cung cấp điện, cung cấp nước, xử lý chất thải trong KCN.
Kèm theo là các dịch vụ về y tế, giải trí, thông tin liên lạc, ngân hàng, nhà ăn, nhà
ở cho công nhân và chuyên gia…” [4].
1.2.3.8 Khả năng vốn đầu tư
Ở các nước đang phát triển thì nguồn vốn đầu tư huy động từ trong nước là
rất hạn chế. Mà muốn các KCN phát triển bền vững thì phải có đủ vốn:
Thứ nhất, để xây dựng cơ sở hạ tầng KCN đồng bộ và hiện đại thì phải có
nguồn vốn lớn. Do đó, cần huy động được nguồn vốn nước ngoài.
15


Thứ hai, là khả năng vốn đầu tư vào các dự án đầu tư trong KCN (các nhà
đầu tư thứ cấp). Khả năng vốn đầu tư lớn thể hiện quy mô của dự án, hứa hẹn sự
đóng góp của dự án lớn; với máy móc thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến là cơ
sở để doanh nghiệp phát triển bền vững. Như vậy, khả năng vốn đầu tư vào các dự
án hạ tầng là nhân tố quan trọng góp phần phát triển các KCN bền vững.
1.2.3.9 Năng lực của các ngành công nghiệp phụ trợ
“Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, năng lực của các ngành công nghiệp

phụ trợ địa phương là một tiêu chí khá quan trọng trong việc lựa chọn địa điểm đầu
tư, nhất là đối với ngành công nghiệp lắp ráp, các ngành sản xuất mang tính quốc
tế cao” [4].
1.2.3.10 Nguồn lao động
Nguồn lao động không những đủ về số lượng mà còn phải có chất lượng tay
nghề cao đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư.
Nguồn nhân lực có chất lượng là nền tảng cho sự phát triển bền vững của
các doanh nghiệp KCN.
1.2.3.11 Khả năng thị trường trong nước
“Đối với các công ty nước ngoài, mục tiêu đầu tư vào các KCN là tận dụng
thị trường của nước chủ nhà. Sản phẩm tiêu thụ được ở thị trường trong nước là
yếu tố phát triển bền vững của các doanh nghiệp” [4].
1.2.3.12 Tổ chức điều hành các KCN
Nhằm tạo điều kiện và thu hút các nhà đầu tư vào các KCN với mục đích
phát triển các KCN bền vững, Ban Quản lý các KCN cần phải hoạt động có hiệu
quả, thủ tục hành chính gọn nhẹ. Điều đó phụ thuộc vào một số yếu tố sau:
- Sự phân cấp, uỷ quyền của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho Ban
Quản lý các KCN, thực hiện cơ chế một cửa, một cửa tại chỗ, rút ngắn thời gian
thực hiện các thủ tục cấp phép, cung cấp các dịch vụ công cho các nhà đầu tư.
- Sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa Ban Quản lý các KCN với các Sở,
ban ngành địa phương.
- Sự quan tâm của chính quyền địa phương và Trung ương về mặt tổ chức
16


hành chính.
1.3 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả khai thác sử dụng KCN
1.3.1 Tỷ lệ diện tích đất công nghiệp, tỷ lệ lấp đầy KCN
- Tỷ lệ diện tích đất công nghiệp (SCN) trên diện tích đất tự nhiên (STN):
SCN

STN

x

100%

“Diện tích đất công nghiệp là diện tích đất của KCN đã xây dựng kết cấu hạ
tầng để cho các nhà đầu tư thứ cấp thuê, thuê lại thực hiện dự án đầu tư sản xuất
kinh doanh trong KCN” [4].
Diện tích đất tự nhiên là toàn bộ diện tích của phần đất bên trong hàng rào
KCN, bao gồm cả diện tích đất công nghiệp và diện tích các kết cấu hạ tầng khác
như như hệ thống đường giao thông, diện tích cây xanh, nhà máy xử lý nước thải,
khu nhà ở cho người lao động…
“Tỷ lệ này thể hiện mật độ của các doanh nghiệp sản xuất trong KCN. Nếu
tỷ lệ này thấp quá thì sẽ lãng phí mặt bằng dẫn đến việc khai thác kém hiệu quả.
Còn nếu tỷ lệ này quá cao thì phần diện tích dành cho giao thông, cây xanh, sân
bãi… sẽ ít, điều đó sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng vận chuyển, sức chứa hàng hoá
cũng như môi trường thông thoáng trong KCN” [4]. Tỷ lệ này theo quy định hiện
nay là khoảng 60% - 70%. Hiện nay, nhiều công ty kinh doanh hạ tầng chưa thực
hiện đúng quy định này, diện tích đất dành cho cây xanh còn thấp.
- Tỷ lệ diện tích được lấp đầy:
Tỷ lệ diện tích được lấp
đầy (%)

SCN đã cho thuê
=

Tổng SCN

x


100%

“Chỉ tiêu này nhằm xác định tính hiệu quả của việc khai thác sử dụng đất
công nghiệp có thể cho thuê theo dự án của KCN. Đồng thời qua đó có thể so sánh
được sự thành công trong việc khai thác sử dụng diện tích đất công nghiệp giữa các
KCN với nhau cũng như khả năng thu hút các dự án đầu tư. Một KCN có tỷ lệ diện
tích được lấp đầy là 100% là KCN đã khai thác hết phần diện tích đất công nghiệp
có thể cho thuê, không còn diện tích đất trống” [4].
17


1.3.2 Số dự án đầu tư
Là tổng số dự án đầu tư thứ cấp trong mỗi KCN, nhằm xác định khả năng
thu hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài vào KCN, đồng thời nó còn dùng
để so sánh hiệu quả khai thác giữa các KCN với nhau.
“Tuy nhiên, tổng số dự án đầu tư chưa hoàn toàn đánh giá được quy mô
KCN cũng như hiệu quả khai thác KCN nếu như các dự án đầu tư trong KCN là
những dự án quy mô nhỏ” [4].
1.3.3 Tổng số vốn đầu tư
“Tổng số vốn đầu tư là chỉ tiêu dùng để xác định tổng số vốn đã được các
nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư vào từng KCN, đồng thời qua đó so
sánh hiệu quả thu hút vốn đầu tư giữa các KCN với nhau” [4].
Tuy nhiên chỉ tiêu này không thể sử dụng để so sánh chính xác hiệu quả khai
thác giữa các KCN có diện tích đất công nghiệp khác nhau.
1.3.4 Tỷ lệ vốn đầu tư trên một diện tích đất công nghiệp
“Chỉ tiêu này dùng để đánh giá, so sánh hiệu quả thu hút vốn đầu tư trên một
đơn vị diện tích giữa các KCN với nhau để từ đó đánh giá được tính hấp dẫn thu
hút vốn, hiệu quả khai thác sử dụng của các KCN một cách chính xác hơn” [4].
Tỷ lệ vốn đầu tư (triệu

USD/ha)

Tổng vốn đầu tư (triệu USD)
=

Tổng SCN (ha)

1.3.5 Tổng số lao động
“Chỉ tiêu này dùng để đánh giá khả năng thu hút lao động và giải quyết việc
làm giữa các KCN về số lượng lao động đang làm việc tại các KCN. Qua chỉ tiêu
này chúng ta có thể thấy được lợi ích của việc xây dựng các KCN trong việc giải
quyết tình trạng thất nghiệp và dôi dư lao động ở các địa phương” [4].
“Chỉ tiêu này cũng chỉ phản ánh được khả năng giải quyết việc làm của các
KCN chứ không đánh giá được “chất lượng” của các dự án đầu tư. Bởi vì một
doanh nghiệp sử dụng một số lượng lớn lao động nhưng vốn đầu tư ít thì chứng tỏ
doanh nghiệp đó áp dụng trình độ khoa học công nghệ vào sản xuất là chưa cao,
18


trình độ hiện đại hoá thấp” [4].
1.3.6 Tỷ lệ vốn đầu tư trên một công nhân
Tổng vốn đầu tư (triệu USD)

Tỷ lệ vốn đầu tư trên một

=

công nhân

Tổng số lao động


“Tỷ lệ này cho thấy lượng vốn mà các nhà đầu tư trang bị cho mỗi công
nhân. Tỷ lệ này cao thể hiện trình độ công nghệ áp dụng trong quá trình sản xuất
của doanh nghiệp là cao. Ngược lại, nếu tỷ lệ này thấp thì có thể doanh nghiệp áp
dụng trình độ kỹ thuật thấp, máy móc thiết bị còn thủ công, mà chủ yếu phải dựa
vào sức lao động của con người” [4].
1.3.7 Tỷ lệ % đóng góp GDP
Tổng giá trị sản lượng KCN
Tỷ lệ đóng góp GDP (%)

x

=

100%

GDP

“Chỉ tiêu này nhằm đánh giá khả năng và năng lực đóng góp của KCN vào
việc tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng GDP. Qua chỉ tiêu này chúng ta có thể thấy
được ảnh hưởng của KCN đối với việc tăng trưởng GDP và tăng trưởng kinh tế để
từ đó có cách nhìn nhận đúng trong việc cần thiết phải đẩy nhanh quá trình xây
dựng và khai thác sử dụng các KCN” [4].
1.3.8 Hiệu quả sản xuất kinh doanh trên diện tích đất công nghiệp
Có thể đánh giá bằng cách tính dựa trên tổng doanh thu hoặc tổng giá trị của
sản lượng.
Tổng doanh thu (triệu USD)
Tỷ lệ doanh thu

=


Tổng SCN (ha)

“Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sản xuất giữa các KCN với nhau. Đồng thời
phản ánh hiệu quả sử dụng đất KCN trong phát triển kinh tế, tăng sản phẩm xã hội
so với sử dụng đất vào mục đích sản xuất nông nghiệp và các mục đích khác” [4].
1.3.9 Giá trị sản xuất bình quân của công nhân
“Chỉ tiêu này đánh giá năng suất lao động của mỗi KCN, từ đó ta có thể so
sánh giá trị sản xuất mà mỗi công nhân sản xuất giữa các doanh nghiệp và giữa các
KCN với nhau” [4].
19


Tổng giá trị sản xuất
Giá trị bình quân trên công nhân

=

Tổng số công nhân

1.4 Kinh nghiệm phát triển KCN ở các nƣớc và các địa phƣơng, bài học cho
Việt Nam
- Phát triển công nghệ cao là quy luật phát triển từ thấp đến cao: Kinh
nghiệm các nước Malaysia, Đài Loan, Hàn Quốc: Theo từng thời kỳ phát triển, giai
đoạn đầu để giải quyết lao động (1950 - 1960), giai đoạn 2 phát triển công nghiệp
sạch (từ 1960 - 1980), từ 1980 đến nay phát triển công nghệ cao). Khu công nghệ
cao trong KKT Đình Vũ - Cát Hải nhắm tới 2 mục tiêu: Xây dựng được một KCN
công nghệ cao mạnh, song song với việc từng bước xây dựng năng lực nghiên cứu
- phát triển (R&D) công nghệ cao. Mục tiêu thứ 2 là đích chủ yếu phải đạt được,
còn mục tiêu đầu là một trong những giải pháp quan trọng để đạt mục tiêu 2, mục

tiêu tối thượng. Thực tế tại Việt Nam, các KCN công nghệ cao khá hoàn chỉnh như
các KCN Quế Võ (Bắc Ninh), Quang Châu (Bắc Giang) đã lấp đầy nhanh chóng.
- Đối với Thái Lan, cùng xuất phát điểm là một nước nông nghiệp như Việt
Nam nhưng đã thể hiện sự chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa rất cao. Cơ sở hạ
tầng của họ được xây dựng một cách hoàn thiện và đồng bộ. Chính phủ Thái Lan
có các chiến lược khuyến khích phát triển công nghiệp hỗ trợ rất cụ thể và hiệu quả
như chính sách đất đai cải thiện; chính sách hỗ trợ và đơn giản hóa các thủ tục cho
các nhà đầu tư nước ngoài; vai trò kết nối giữa các cơ quan quản lý Nhà nước với
các nhà đầu tư được thực hiện rất tốt, việc cung ứng điện nước cũng như các dịch
vụ tiện ích khác trong KCN rất ổn định và tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các
doanh nghiệp. Hiện nay, Thái Lan là thứ tự ưu tiên đầu tiên của các nhà đầu tư đến
từ Nhật Bản, sau Thái Lan là Indonesia, Ấn Độ rồi mới đến Việt Nam.
- Kinh nghiệm phát triển KCN ở Trung Quốc:
+ Về xây dựng và thực hiện quy hoạch: “Được tuân thủ theo một quy trình
chặt chẽ, tuân thủ ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo cao cấp, tận dụng triệt để ý kiến của
các chuyên gia về quy hoạch và các cơ quan chuyên môn để bảo đảm quy hoạch có
một tầm nhìn dài hạn, có tính khoa học. Quy hoạch sau khi được phê duyệt sẽ
20


mang tính pháp lý cao, việc điều chỉnh quy hoạch phải tuân thủ một quy trình phức
tạp và nghiêm ngặt nhằm hạn chế những thay đổi so với quy hoạch ban đầu” [3].
KCN Tô Châu - Trung Quốc là KCN hợp tác quan trọng giữa Chính phủ 2
nước Trung Quốc và Singapo, được Quốc Vụ Viện phê chuẩn thiết lập và lập quy
hoạch từ tháng 2/1994 nhưng đến nay không thay đổi về quy hoạch, việc điều
chỉnh quy hoạch cần phải được sự thống nhất giữa Chính phủ 2 nước Trung Quốc Sigapo.
+ Về đất đai:
“Việc sử dụng đất để đầu tư dự án KCN đều được thực hiện theo hình thức
đấu thầu. Trong quá trình đấu thầu, để khuyến khích đầu tư, Nhà nước kiểm soát
giá thành ở mức hợp lý để đảm bảo giá trúng thầu xây dựng không thấp hơn giá

thành xây dựng để nhà đầu tư có lợi nhuận” [3].
“Vấn đề đền bù đất đai: Nhà nước đảm bảo đời sống lâu dài cho người dân
bằng cách: (i) không đưa toàn bộ số tiền đền bù cho người dân mà thanh toán tiền
cho người dân làm nhiều lần hoặc hỗ trợ người dân sử dụng phần tiền giữ lại để
góp vốn kinh doanh, tạo thu nhập và việc làm lâu dài; (ii) đào tạo nghề, tạo việc
làm thích hợp cho người dân” [3].
+ Về cơ chế, chính sách:
“Việc thu hút đầu tư được định hướng theo ngành, lĩnh vực ngay từ giai
đoạn đầu. Chính sách thuế tại Trung Quốc đối với các KCN, KKT khá linh hoạt
theo từng thời kỳ để ưu tiên thu hút FDI” [3].
Một số bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam:
- “Xét về mặt kinh tế, việc đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng có thể xem xét áp dụng ở các KCN Việt Nam thay vì các địa phương tự lựa
chọn và chỉ định chủ đầu tư. Trước mắt có thể thực hiện thí điểm tại các KCN
thuộc địa bàn có điều kiện thuận lợi trong thu hút đầu tư” [3].
- “Vai trò chủ đạo và quyết định của Nhà nước trong công tác giải phóng
mặt bằng là hết sức đúng đắn vì sẽ giải quyết được mâu thuẫn thường xảy ra giữa
doanh nghiệp và nhân dân trong đền bù, giải phóng mặt bằng. Hơn nữa, Nhà nước
21


cần đứng ra để giải quyết vấn đề việc làm và ổn định đời sống cho người dân bị
mất đất” [3].
- “Mô hình của Trung Quốc là chính quyền địa phương đứng ra tổ chức sản
xuất kinh doanh, cấp đất để các hộ dân bị thu hồi đất tham gia góp vốn cổ phần.
Hình thức này có thể áp dụng ở Việt Nam nhưng cần phải đảm bảo các điều kiện
như: Cần đảm bảo hài hòa lợi ích giữa người dân và doanh nghiệp. Việc thành lập
các doanh nghiệp hoặc cơ sở sản xuất do người dân tham gia quản lý như ở Trung
Quốc cũng phải phù hợp với trình độ, năng lực thực tế của người dân và điều kiện
thực tế của các KCN ở Việt Nam” [3].


22


CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA CÁC KCN HẢI PHÒNG
2.1 Giới thiệu về Hải Phòng
2.1.1 Đặc điểm kinh tế, văn hoá, xã hội của Hải Phòng
Hải Phòng là thành phố duyên hải nằm ở hạ lưu của hệ thống sông Thái
Bình thuộc đồng bằng sông Hồng có vị trí nằm trong khoảng từ 20035’ đến 21001’
vĩ độ Bắc, và từ 106029’ đến 107005’ kinh độ Đông; phía Bắc và Đông Bắc giáp
tỉnh Quảng Ninh, phía Tây Bắc giáp tỉnh Hải Dương, phía Tây Nam giáp tỉnh Thái
Bình và phía Đông là biển Đông với đường bờ biển dài 125km, nơi có 5 cửa sông
lớn là Bạch Đằng, Cửa Cấm, Lạch Tray, Văn Úc và sông Thái Bình.
Diện tích tự nhiên của Hải Phòng là 1.507,57 km2 với dân số là 1.967.300
người, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2015 là 0,98%, tỷ lệ dân số trong đó số người
trong độ tuổi lao động là 1.125.600 người, mật độ dân số là 1.260 người/km2; dân
cư thành thị chiếm 46,1% và dân cư nông thôn chiếm 53,9%, là thành phố đông
dân thứ 3 ở Việt Nam, sau Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Hải Phòng ngày nay là thành phố trực thuộc Trung ương - là đô thị loại 1
cấp quốc gia gồm 7 quận (Ngô Quyền, Hồng Bàng, Lê Chân, Dương Kinh, Đồ
Sơn, Kiến An và Hải An), 6 huyện ngoại thành (Thuỷ Nguyên, An Dương, An
Lão, Kiến Thụy, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo) và 2 huyện đảo (Cát Hải, Bạch Long Vĩ)
với 223 xã, phường và thị trấn.
“Hải Phòng từ lâu đã nổi tiếng là một cảng biển lớn nhất ở miền Bắc, một
đầu mối giao thông quan trọng với hệ thống giao thông thuỷ, bộ, đường sắt, hàng
không trong nước và quốc tế, là cửa chính ra biển của thủ đô Hà Nội và các tỉnh
phía Bắc; là đầu mối giao thông quan trọng của Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ,
trên hai hành lang - một vành đai hợp tác kinh tế Việt Nam - Trung Quốc. Chính vì
vậy, trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vùng châu thổ sông Hồng, Hải

Phòng được xác định là một cực tăng trưởng của vùng kinh tế động lực phía Bắc
(Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh); là Trung tâm kinh tế - khoa học - kĩ thuật
tổng hợp của Vùng duyên hải Bắc Bộ và là một trong những trung tâm phát triển
23


của Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước (Quyết định 1448/QĐ-TTg ngày
16/9/2009 của Thủ tướng Chính phủ)” [14].
Tình hình kinh tế Hải Phòng năm 2015:
* Tổng kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn năm 2015 đạt 4,23 tỷ USD, tăng
18,15% so với năm 2014, vượt chỉ tiêu kế hoạch do Hội đồng nhân dân thành phố
đề ra (4,0 triệu USD, tăng 5,75%). Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu năm năm 20112015 đạt 15,87% tăng 0,27% so với kế hoạch.
- Năm 2015, Hải Phòng thu hút được 55 dự án đầu tư nước ngoài với tổng
vốn đầu tư là 967,47 triệu USD, trong đó các KCN thu hút được 41 dự án với tổng
vốn đầu tư đăng ký là 869,04 triệu USD.
- Năm 2015, GDP của Hải Phòng tăng 10,17%, cao nhất từ năm 2012 đến
nay (tốc độ tăng trưởng bình quân của Hải Phòng thời kỳ 2011-2015 là 9,07%).
- Thu ngân sách đạt 55.032 tỷ đồng, đạt 92% dự toán giao đầu năm.
Năm 2016, thành phố đặt mức phấn đấu tăng trưởng từ 10,5 - 11,0%.
Những lợi thế của Hải Phòng trong việc thu hút đầu tư vào các KCN
- Cơ sở hạ tầng phát triển và là đầu mối giao thông quan trọng trong nước
và quốc tế.
Hải Phòng có hệ thống cơ sở hạ tầng tương đối đồng bộ và phát triển. Có
đường ô tô cao tốc Hà Nội - Hải Phòng vừa hoàn thành và đưa vào sử dụng năm
2015 và một loạt các dự án giao thông lớn đang được đẩy nhanh tiến độ hoàn thành
như: Cảng hàng không quốc tế Cát Bi, Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng tại Lạch
Huyện, cầu và đường ô tô Tân Vũ - Lạch Huyện đã có tác động tích cực đến việc
thu hút đầu tư vào các KCN, KKT trên địa bàn thành phố.
Với vị trí đầu mối giao thông của cả đường bộ, đường sắt, đường thuỷ và
đường không, các doanh nghiệp tại Hải Phòng có thuận lợi rất lớn trong việc cung

ứng và tiêu thụ các sản phẩm của mình.
- Là thị trường lớn về cung cấp hàng hoá và dịch vụ.
Hải Phòng là thành phố có đông dân thứ ba của cả nước và cũng là thị
trường lớn thứ ba sau thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Đây là thị
24


trường tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ lớn, có ảnh hưởng tiếp cận thị trường đông dân
các tỉnh miền Bắc và Thủ đô Hà Nội. Hải Phòng là địa điểm rất thuận lợi để kinh
doanh phân phối.
- Nguồn lao động dồi dào, đặc biệt là lao động có tay nghề cao so với nhiều
địa phương khác.
Nguồn lao động của Việt Nam dồi dào về số lượng nhưng còn non kém về
chất lượng so với lao động của thế giới. Tuy vậy, Hải Phòng lại có ưu thế hơn hẳn
so với những địa phương khác bởi tỷ lệ tương đối cao về lao động có tay nghề. Bên
cạnh đó, với số lượng lớn các cơ sở đào tạo nghề, Hải Phòng có khả năng cung cấp
nhiều lao động có tay nghề trong thời gian tới.
2.1.2 Giới thiệu về Ban Quản lý Khu kinh tế Hải Phòng
Ban Quản lý Khu kinh tế Hải Phòng được thành lập theo Quyết định số
1329/2008/QĐ-TTg ngày 19/9/2008 của Thủ tướng Chính phủ, là cơ quan trực
thuộc Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng, thực hiện chức năng quản lý nhà
nước trực tiếp đối với các KCN và KKT Đình Vũ - Cát Hải trên địa bàn thành phố
Hải Phòng; quản lý và tổ chức thực hiện chức năng cung ứng dịch vụ hành chính
công và dịch vụ hỗ trợ khác liên quan đến hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh
cho các nhà đầu tư trong các KCN, KKT trên địa bàn thành phố theo quy định của
pháp luật.
Cơ cấu tổ chức bộ máy của Ban Quản lý theo quy định tại Thông tư liên tịch
số 06/2015/TTLT-BKHĐT-BNV ngày 03/9/2015 gồm có:
- Lãnh đạo Ban Quản lý:
+ Trưởng Ban;

+ Ba Phó Trưởng Ban, một Phó Trưởng Ban thường trực và hai Phó Trưởng
Ban chuyên trách.
- Các phòng chuyên môn, nghiệp vụ:
1. Văn phòng Ban Quản lý;
2. Phòng Kế hoạch tổng hợp;
3. Phòng Quản lý đầu tư;
25


×