Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong giảng dạy phần lịch sử địa phương thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.6 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
STT
1

2

3
4

Tên đề mục
MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
2.2. Thực trạng của vấn đề
2.3. Các phương pháp dạy học cụ thể trong phần Lịch sử địa
phương Thanh Hóa.
2.3.1. Dạy học chính khóa trên lớp.
2.3.2. Các hoạt động ngoại khóa
2.4. Hiệu quả của đề tài
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Đề xuất
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang



1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Bộ môn lịch sử ở trường phổ thông có vị trí, chức năng và nhiệm vụ hết sức
quan trọng trong việc giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ hiện nay. Trong đường lối đổi
mới của Đảng ta được đề ra từ Đại hội VI đến nay đã coi giáo dục là quốc sách
hàng đầu và đề cao “chiến lược con người”. Vì vậy, để thực hiện mục tiêu này rõ
ràng không thể xem nhẹ việc giáo dục lòng yêu quê hương đất nước, tinh thần dân
tộc và đặc biệt là thái độ của lớp trẻ đối với lịch sử, đối với cội nguồn - đó chính là
những viên đá đặt nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá để đưa đất
nước thoát ra khỏi nghèo nàn lạc hậu, trở thành một nước giàu mạnh văn minh.
Lịch sử địa phương là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời của lịch sử
Việt Nam, mọi sự kiện lịch sử Việt Nam đều diễn ra ở một thời điểm cụ thể, trên
một địa phương cụ thể của lãnh thổ Tổ Quốc, lịch sử địa phương làm phong phú
thêm, cụ thể thêm bức tranh chung của lịch sử Việt Nam. Do đó lịch sử địa phương
và lịch sử Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ với nhau không thể tách rời. Vì vậy
việc nghiên cứu, và giảng dạy lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử địa phương
nói riêng là hết sức cần thiết, nhằm giúp học sinh hiểu sâu sắc và cụ thể hơn về lịch
sử Việt Nam đồng thời các em cũng hiểu rõ hơn về lịch sử quê hương mình, nơi các
em đã sinh ra, lớn lên và gắn bó cả cuộc đời...Từ đó gợi cho các em lòng tự hào,
lòng biết ơn, bồi dưỡng tình yêu quê hương đất nước, hình thành ý thức trách
nhiệm bản thân trong việc giữ gìn, bảo vệ di sản văn hóa, di tích lịch sử. Ngoài ra
giáo dục Lịch sử địa phương còn giúp học sinh hình thành một nhân sinh quan thực tế
nhất về quê hương, từ đó hình thành lòng biết ơn, tự hào và biến sự tự hào thành hành
động cụ thể nhằm góp phần xây dựng quê hương càng giàu đẹp.
Chính vì vai trò quan trọng của lịch sử địa phương trong lịch sử dân tộc, nên việc
đưa lịch sử địa phương vào học tập là một việc làm rất cần thiết. Một thực tế đang
diễn ra ở các trường trung học cơ sở, đó là học sinh ngày nay đa phần đang hờ hững với
lịch sử, ngay cả lịch sử địa phương của mình. Minh chứng cụ thể nhất đó là khi hỏi đến
những sự kiện lịch sử lớn của dân tộc, thậm chí là những sự kiện hay một di tích lịch sử
của địa phương, có một bộ phận học sinh gần như hoàn toàn không biết, đôi khi di tích

ở địa phương này các em lại bảo là ở địa phương khác. Điều này là một sự trăn trở đối
với những người làm công tác giảng dạy bộ môn Lịch sử.
Làm thế nào để học sinh hứng thú học tập môn Lịch sử, đặc biệt là Lịch sử địa
phương? Điều đó đã thôi thúc tôi nghiên cứu và áp dụng thành công đề tài: “Một số
phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong giảng dạy phần Lịch sử địa
phương Thanh Hóa.”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này nhằm tìm ra biện pháp giúp học sinh nắm vững, khắc
sâu kiến thức về truyền thống lịch sử địa phương Thanh Hóa, về các giá trị nhân
văn, giáo dục tình yêu quê hương, đất nước, con người Việt Nam. Học sinh

2


thấy được trách nhiệm, bổn phận của mình đối với quê hương đất nước, các em sẽ
tự hào về truyền thống địa phương anh hùng, từ đó các em có lý tưởng sống đẹp, có
hoài bão và ra sức học tập, rèn luyện, cống hiến công sức của mình sao cho
xứng đáng với sự hy sinh cao cả của cha ông đã ngã xuống nơi các em được sinh
ra.
1.3. Đối tượng nghiên cứu: Theo phân phối chương trình của Sở Giáo dục và Đào
tạo Thanh Hóa, cũng như cuốn sách “Lịch sử địa phương Thanh Hóa ’’dùng trong
các trường THCS của tỉnh, thì các tiết Lịch sử địa phương được phân bố như sau:
+ Lớp 6 có 1 bài: Tiết 32: Thanh Hóa từ thời tiền sử đến thế kỉ X
+ Lớp 7 có 2 bài:
- Tiết 34: Thanh Hóa trong thời kì hình thành và phát triển của nhà nước Đại Việt
thời Lý-Trần ( từ thế kỉ X đến đầu thế kỉ XV ).
- Tiết 63: Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trên đất Thanh Hóa ( 1418-1423 )
+ Lớp 8 có 1 bài: Tiết 44: Cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược của nhân dân
Thanh Hóa từ cuối thế kỉ XIX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất ( 1918 ).
+ Lớp 9 có 2 bài:

- Tiết 36: Thanh Hóa từ năm 1918 đến năm 1945.
- Tiết 47: Thanh Hóa từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975.
Từ đó đối tượng nghiên cứu của đề tài là Lịch sử Thanh Hóa qua các thời kì hình
thành và phát triển từ thời tiền sử đến nay. Áp dụng cho học sinh trung học cơ sở.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
a. Phương pháp đọc tài liệu:
Qua việc nghiên cứu tài liệu giúp chúng ta nắm chắc hơn về cơ sở lý luận, học tập
kinh nhiệm và làm cơ sở để xây dựng đề tài.
b. Phương pháp thuyết trình:
+ Giới thiệu các nhân vật hoặc sự kiện lịch sử
+ Học sinh thực hiện các bài hùng biện về đề tài lịch sử, chủ quyền biển đảo quê
hương.
c. Phương pháp kiểm tra, phỏng vấn:
Là phương pháp tiếp xúc, trao đổi trực tiếp, phỏng vấn một số học sinh xem
các em đã thu thập, ghi nhớ được gì sau buổi tham quan, dã ngoại đồng thời phổ
biến, tuyên truyền rộng rãi trong các buổi sinh hoạt dưới cờ, sinh hoạt tập thể.
d. Phương pháp tổng kết so sánh:
Sử dụng phương pháp này để tổng kết so sánh những kết quả đạt được trước
và sau khi thực hiện đề tài.

3


2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận:
Ở nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước phát triển, công tác nghiên cứu và
giảng dạy lịch sử địa phương rất được chú trọng. Tìm hiểu lịch sử địa phương
không chỉ là công việc của giới nghiên cứu mà đã được xã hội hoá, thu hút sự quan
tâm của nhiều người, nhiều ngành, nhiều tầng lớp, nhất là ngành công nghiệp du

lịch. Đặc biệt trong thời kì đổi mới và mở rộng giao lưu quốc tế, nhu cầu nghiên
cứu tìm hiều lịch sử địa phương lại càng được coi trọng hơn nữa.
Một dân tộc phát triển là một dân tộc biết giữ gìn và phát huy những truyền thống
lịch sử. Ở nước ta muốn làm được điều đó thì công tác tuyên truyền giáo dục lịch
sử địa phương cho nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ là rất cần thiết. Đây cũng là hoạt
động góp phần giáo dục tinh thần “Uống nước nhớ nguồn”, từ đó đẩy mạnh phong
trào “Đền ơn đáp nghĩa” trong nhà trường.
Trong bối cảnh lịch sử hiện nay cả nước đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất
nước để phát triển theo định hướng đi lên xã hội chủ nghĩa, phải vượt qua vô vàn
khó khăn, thử thách. Vì thế bồi dưỡng lịch sử địa phương phải nhằm góp phần vào
việc bồi dưỡng tình cảm, ý thức trách nhiệm đối với quê hương.
Việc giáo dục lịch sử địa phương còn nâng cao sự hiểu biết của học sinh về kiến
thức lịch sử địa phương phong phú và quý giá. Những kiến thức đó có ngay xung
quang các em, các em tiếp xúc thường xuyên nhưng lại chưa hiểu được hoặc chưa
có ai giảng giải để hiểu tường tận về ý nghĩa nội dung từng sự kiện lịch sử.
‘’Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ”. Câu nói này đã một phần thể hiện được truyền
thống lịch sử của Thanh Hóa với những anh hùng dân tộc tiêu biểu như: Bà Triệu,
Lê Hoàn, Lê Lợi, Hồ Quý Ly hay họ Trịnh, họ Nguyễn...Thời hiện đại Thanh Hóa
còn là mảnh đất giàu truyền thống đấu tranh cách mạng. Trong suốt chiều dài cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ bảo vệ nền độc lập dân tộc (1945-1975),
Thanh Hoá vừa là căn cứ vừa là hậu phương lớn có những đóng góp to lớn vào
thắng lợi của hai cuộc kháng chiến. Từ nơi đây, tiềm lực về sức người và sức của đã
được chi viện tối đa cho tiền tuyến. Chính những đóng góp to lớn của nhân dân
Thanh Hóa trong hai cuộc kháng chiến mà Tỉnh nhà đã nhiều lần vinh dự được đón
Bác Hồ về thăm và căn dặn: “Thanh Hóa phải trở thành tỉnh kiểu mẫu... phải làm
sao cho mọi mặt chính trị, kinh tế, quân sự phải là kiểu mẫu”. Chính vì vậy, việc
giáo dục truyền thống lịch sử địa phương có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc
góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục ở trường trung học cơ sở. Dạy tốt phần lịch
sử địa phương sẽ bồi dưỡng cho học sinh những kĩ năng cần thiết để vận dụng
những tri thức đó vào thực tiễn cuộc sống, rèn luyện và phát triển năng lực học tập,

nghiên cứu của học sinh để xây dựng đất nước. Đồng thời bồi dưỡng lí tưởng cách
mạng, tình yêu quê hương, đất nước, hình thành nhân cách đạo đức, lối sống cho
các em.

4


2.2. Thực trạng của vấn đề
Môn Lịch sử nói chung và Lịch sử địa phương nói riêng có đặc trưng riêng.
Lịch sử là những gì đã diễn ra trong quá khứ, vì vậy đối tượng nghiên cứu không
thể trực tiếp tiếp xúc, quan sát mà chỉ tái tạo lại quá khứ bằng các sự kiện, hiện vật
lịch sử hay các di tích lịch sử để làm nền tảng cho hoạt động tư duy. Chính vì vậy
mà trong các tiết học Lịch sử địa phương, giáo viên cần phải sử dụng nhuần nhuyễn
nhiều phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, gây hứng thú học tập cho
học sinh. Ngoài ra cần kết hợp với tổ chức Đội thiếu niên trong nhà trường để tổ
chức thêm những hoạt động ngoại khóa như: Tham quan di tích lịch sử, gặp gỡ các
nhân chứng lịch sử, nghe kể chuyện lịch sử và tham gia các trò chơi lịch sử,...Điều
đó sẽ giúp cho học sinh nắm được cái cụ thể, tạo cơ sở cho việc hình thành biểu
tượng lịch sử, đưa học sinh từ cụ thể đến các tri thức trừu tượng. Việc kết hợp các
hoạt động ngoại khóa trong khi dạy Lịch sử địa phương Thanh Hóa với những bài
giảng trên lớp sẽ giúp học sinh hứng thú hơn, tiếp thu kiến thức nhanh hơn và ghi
nhớ lâu hơn.
Trong những năm qua, công tác giáo dục truyền thống lịch sử địa phương trong
trường trung học cơ sở chưa thật sự có chất lượng, chưa đi vào chiều sâu, những di
tích lịch sử rất có giá trị ở tỉnh nhà, huyện nhà, xã nhà chưa phát huy hết tác dụng.
Còn một thực trạng hiện nay tồn tại ở các nhà trường là việc giáo dục truyền thống
cho học sinh thông qua phần Lịch sử địa phương chưa được coi trọng, chủ yếu còn
nặng về lý thuyết, tuyên truyền miệng. Hình thức đưa học sinh đến tham quan các
địa danh, di tích lịch sử chỉ đơn thuần là đưa các em đi du lịch ngoài ra chưa đạt tới
các mục tiêu, biện pháp giáo dục vì vậy học sinh còn mơ hồ khi được hỏi về truyền

thống lịch sử của địa phương.
Là một giáo viên dạy lịch sử đã có 15 năm đứng trên bục giảng, nhiều năm
liền liên tục có học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh, tôi rất quan tâm đến việc áp dụng
các phương pháp mới vào dạy học. Trên cơ sở đặc điểm môn học và thực hiện theo
tinh thần đổi mới phương pháp giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tôi đã nghiên
cứu và thực hiện thành công bước đầu đề tài: “Một số phương pháp phát huy tính
tích cực của học sinh trong giảng dạy phần Lịch sử địa phương Thanh Hóa.” ở
trường THCS Xuân Thọ. Hi vọng đề tài này sẽ được nhân rộng trong huyện, trong
tỉnh để góp phần cải thiện chất lượng môn Lịch sử nói chung và phần Lịch sử địa
phương nói riêng.
Bảng thống kê khảo sát chất lượng đầu năm của học sinh
trường THCS Xuân Thọ. Năm học 2016-2017.
Lớp
9A

Sĩ số
28

Xếp loại
Giỏi
SL
%
0
0

Khá
SL
10

%

35,7

Trung bình
SL
%
7
25,1

Yếu-Kém
SL
%
11
39,2
5


9B

27

0

0

8

29,6

9


33,4

10

37,0

8A
8B
7A
7B

25
30
31
32

0
1
0
0

0
3,3
0
0

5
7
12
11


20,0
23,0
38,7
34,3

12
10
11
11

48,0
33,7
64,5
34,5

8
12
8
10

32,0
40,0
25,8
31,2

6A
6B

33

33

1
1

3,0
3,0

10
9

30,3
27,2

10
8

30,4
24,2

12
15

36,3
45,6

2.3. Các phương pháp dạy học cụ thể trong phần Lịch sử địa phương Thanh
Hóa:
2.3.1. Dạy học chính khóa trên lớp.
* Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan và các phương tiện dạy học:

Là phương pháp sử dụng những phương tiện trực quan trong dạy học. Trong quá
trình dạy giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát các sự vật, hiện tượng, hoặc hình
ảnh để hình thành khái niệm, tạo biểu tượng giúp học sinh lĩnh hội kiến thức [1].
Ví dụ 1: Trong phần Lịch sử địa phương Thanh Hóa lớp 6 có bài: Thanh Hóa từ
thời tiền sử đến thế kỉ X.
- Giáo viên cần chuẩn bị: Giáo án điện tử, máy chiếu, các đồ dùng khác như: Mô
hình các công cụ đá núi Đọ, mô hình công cụ bằng đồng ( trống đồng, thạp đồng,
lưỡi giáo, dao găm đồng,...)
- Học sinh chuẩn bị: Giáo viên có thể yêu cầu các em chuẩn bị bài ở nhà, sưu tầm
tranh ảnh tư liệu, … để bài học được diễn ra sôi nổi, hào hứng, và quan trọng hơn
là các em được chủ động lĩnh hội kiến thức.
- Giáo viên có thể giới thiệu bài bằng cách sử dụng Lược đồ tự nhiên Thanh Hóa,
giới thiệu khái quát về vị trí địa lí, diện tích, điều kiện tự nhiên và xã hội của tỉnh.
- Hướng dẫn học sinh quan sát các mô hình công cụ đá ở núi Đọ như: Mảnh tước,
rìu tay, hạch đá...
- Giáo viên đặt câu hỏi: Qua các công cụ đá của người nguyên thủy, em hình dung
thế nào về cuộc sống của họ?
- Sau khi cho học sinh trả lời, giáo viên dùng máy chiếu giới thiệu về cuộc sống của
người tiền sử. Đặc biệt là hang Con Moong ở Thạch Thành được mệnh danh là “
Ngôi nhà 10 ngàn năm” của người nguyên thủy. Đây là một trong 4 di tích lịch sử
đặc biệt của tỉnh Thanh Hóa.
- Tiếp theo, để học sinh thấy được sự phát triển của con người từ thời đại đồ đá
sang đồ đồng, giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát mô hình trống đồng, thạp
đồng, lưỡi giáo, dao găm đồng,...)
Ví dụ 2: Trong bài “ Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trên đất Thanh Hóa ( 1418-1423 )

6


- Giáo viên cho học sinh quan sát hình ảnh Lam Kinh trên máy chiếu kết hợp với

kiến thức thực tế và đặt câu hỏi: Tại sao Lê lợi chọn Lam Sơn làm căn cứ khởi
nghĩa? Công lao của ông đối với dân tộc ta?
Ví dụ 3: Đối với bài: Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Thanh Hóa cuối
thế kỉ XIX đến 1918. Giáo viên sử dụng sa bàn căn cứ Ba Đình hướng dẫn cho học
sinh về diễn biến của cuộc khởi nghĩa.
* Phương pháp Sử dụng câu hỏi để liên hệ thực tế và giáo dục tư tưởng cho
học sinh.
Đây là phương pháp dạy học mang lại nhiều hiệu quả vì đã đặt học sinh vào tình
huống “có vấn đề”, kích thích trí tò mò từ đó các em tự tìm ra bản chất và liên hệ
thực tế có tính giáo dục cao [2].
Ví dụ 1:
- Khi dạy phần Cuộc khởi nghĩa Bà Triệu chống giặc Ngô năm 248, giáo viên cho
học sinh xem một đoạn băng hình về núi Nưa và hỏi: Em có biết Bà Triệu cùng
nghĩa quân đã chuẩn bị cuộc khởi nghĩa như thế nào?
- Sau đó giáo viên giới thiệu về núi Nưa và di tích Am Tiên cho học sinh nghe.
- Để kết thúc bài học, giáo viên cho học sinh quan sát tranh Đền Bà Triệu ở núi
Tùng ( Hậu Lộc ) và hỏi: Vì sao nhân dân ta lập đền thờ Bà Triệu? Em cần làm gì
để xứng đáng với công ơn của Bà?
Ví dụ 2: Khi dạy bài cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trên đất Thanh Hóa ( 1418-1423 ),
có thể đặt câu hỏi: Kết hợp với phần Lịch sử Việt Nam đã học em hãy cho biết tại
sao cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại, còn cuộc khởi nghĩa Lam Sơn lại thành
công? Qua đó em thấy được nhân dân Thanh Hóa nói riêng và cả nước nói chung
đã đóng góp những gì cho cuộc khởi nghĩa?
Lưu ý: Để thực hiện tốt phương pháp này, cần đặt câu hỏi đảm bảo tính vừa sức và
phù hợp với từng đối tượng học sinh. Ngoài ra trong mỗi tiết học giáo viên chỉ sử
dụng một lượng câu hỏi vừa phải và kết hợp với nhiều phương pháp dạy học khác
để tránh. tình trạng căng thẳng, áp lực cho học sinh.
* Phương pháp miêu tả, tường thuật,
Miêu tả là phương pháp dùng hình ảnh và lời văn để tái hiện cho học sinh về hình
dáng, đặc điểm của sự vật, hiện tượng lịch sử hay nhân vật lịch sử. Còn tường thuật

là trình bày một cách cụ thể, tỉ mỉ về quá trình diễn biến của sự kiện lịch sử. Tường
thuật có chủ đề, có tình tiết sẽ kích thích trí tưởng tượng và óc sáng tạo của học
sinh về hình ảnh của quá khứ. Phương pháp này áp dụng áp dụng đối với các bài về
sự kiện, nhân vật lịch sử [1].
Ví dụ 1: Khi dạy bài Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trên đất Thanh Hóa, để khắc sâu
hình ảnh Lê Lợi, giáo viên miêu tả: Lê Lợi là người thiên tư tuấn tú khác thường,
thần sắc tinh anh kì vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai có bảy nốt ruồi,
tiếng nói như chuông, dáng đi tựa rồng, nhịp bước như hổ. Lúc vua chưa sinh ra
có một cây quế, dưới cây quế có một con hùm xám thường xuất hiện, nó hiền lành
và thân cận với người, chưa từng làm hại ai. Từ khi vua ra đời không ai còn nhìn

7


thấy con hùm xám nữa. Vào ngày vua sinh có một vầng hào quang đỏ chiếu sáng
rực, mùi thơm ngào ngạt khắp làng [4].
Ví dụ 2: Khi dạy phần Cuộc khởi nghĩa Bà Triệu, giáo viên có thể kết hợp giữa sử
dụng đồ dùng trực quan như treo tranh Bà Triệu với miêu tả chân dung của Bà: Khi
ra trận Bà mặc áo giáp đồng, đầu đội nón ngà, chân đi guốc ngà rất oai phong,
lẫm liệt. Qua tranh gương mặt Bà toát lên vẻ oai phong, hùng dũng, như thúc giục
đoàn quân dưới rừng cờ xông lên giết giặc [4].
Ví dụ 3: Trong bài Thanh Hóa từ năm 1919-1945, khi dạy phần Khởi nghĩa giành
chính quyền ở Thanh Hóa tháng 8-1945, giáo viên sử dụng lược đồ Cách mạng
tháng tám ở Thanh Hóa và tường thuật sự kiện giành chính quyền: Ngày 15-8-1945
nghe tin Nhật Bản đầu hàng, Đảng Cộng sản Đông Dương đã phát lệnh Tổng khởi
nghĩa trong toàn quốc. Tỉnh ủy Thanh Hóa triệu tập Hội nghị mở rộng tại làng
Mao Xá ( Thiệu Toán-Thiệu Hóa ) thành lập Ủy ban Khởi nghĩa do đồng chí Lê
Tất Đắc làm chủ tịch và kêu gọi nhân dân nổi dậy giành chính quyền.
Sáng ngày 19-8-1945, quần chúng khởi nghĩa đã làm chủ được các huyện Hậu
Lộc, Hà Trung, Nga Sơn, Quảng Xương, Thạch Thành, Vĩnh Lộc,... Ngày 20 chính

quyền giành được ở Tĩnh Gia. Còn tại thị xã Thanh Hóa, sáng ngày 19-8-1945, cờ
đỏ sao vàng tung bay trên núi Mật, công việc chuẩn bị khởi nghĩa đã hoàn thành.
Đúng 8 giờ sáng, lực lượng quần chúng tuần hành cùng 4 xe khách chở Ban chỉ
đạo và lực lượng tự vệ. Từ Lò Chum lên Trường Thi rồi tỏa đi chiếm trại Bảo an
binh, dinh Tỉnh trưởng...Đi tới đâu quần chúng nô nức tham gia hưởng ứng, kẻ thù
hoàn toàn bị áp đảo trước sức mạnh của nhân dân. Chiều ngày 20-8, thị xã Thanh
Hóa hoàn toàn thuộc về cách mạng, Ủy ban lâm thời thị xã ra mắt quần chúng
nhân dân.
Đến ngày 21-8 cơ bản Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Thanh Hóa đã thắng
lợi. [3]
* Phương pháp kể chuyện lịch sử:
Đây là một trong những phương pháp dạy học gây hứng thú nhất cho học sinh, dễ
làm và có tác dụng giáo dục cao. Nội dung kể chuyện lịch sử là việc phổ biến kiến
thức lịch sử một cách khoa học, chứ không phải những chuyện hư cấu . Do đó, nội
dung câu chuyện kể phải có chủ đề - một sự kiện, một nhân vật dựa vào một tài liệu
chính xác. Có nhiều cách kể chuyện như: Kể lại nội dung một cuốn sách hay đã
đọc, một câu chuyện được ghi chép tài liệu, hay của chính người tham gia, chứng
kiến sự kiện thuật lại [1].
Nội dung câu chuyện phải liên quan đến các sự kiện cơ bản trong bài học,
chân thực, tránh li kì không có giá trị khoa học, không phù hợp với yêu cầu học tập.
Kể chuyện phải làm cho người nghe xúc động, như được sống lại sự kiện ấy, như
câu chuyện các nhân chứng lịch sử hay việc trình bày của giáo viên đã “nhập thân”
với sự kiện.
Thông thường một câu chuyện kể bao gồm những yếu tố sau đây:
- Giới thiệu vấn đề
8


- Tình huống đặt ra
- Diễn biến sự kiện

- Câu chuyện kết thúc.
- Sự phát triển của tình tiết đến cao độ[5].
Một câu chuyện được bố cục như vậy mang kịch tính cao, dẫn dắt người nghe qua
các sự kiện, làm cho họ ngày càng hứng thú (kể cả căng thẳng và suy nghĩ). Người
nghe hứng thú lắng nghe không phải chỉ vì được cung cấp các sự kiện, chi tiết hay,
hấp dẫn mà còn vì nội dung của câu chuyện có sức giáo dục mạnh mẽ.
Ví dụ 1: Trong bài Thanh Hóa từ sau cách mạng tháng Tám 1945-đến năm 1975,
giáo viên có thể kể chuyện về sự kiện anh hùng Tô Vĩnh Diện lấy thân mình chèn
pháo: Ngày 1 tháng 2 năm 1954, đơn vị trên đường kéo pháo ra, đến một con dốc
cao và hẹp ở gần Bản Chuối. Anh cùng một pháo thủ phụ trách điều khiển càng
pháo để chỉnh hướng cho bộ đội kéo dây tời giữ pháo, ngoài ra còn có 2 chiến sĩ
phụ trách chèn bánh pháo. Bất ngờ quân Pháp bắn pháo từ Mường Thanh lên.
Đơn vị kéo giữ pháo nằm rạp xuống, đồng thời dây tời bị đứt lực giữ pháo yếu đi
và khẩu pháo lăn qua chèn. Pháo thủ Lê Văn Chi lái càng phía ngoài bị càng pháo
hất xuống vực và pháo trôi dần về phía vực sâu. Tô Vĩnh Diện lập tức bỏ càng
pháo phía trong, chuyển sang càng pháo phía ngoài, cố gắng đẩy hướng càng
pháo đâm vào vách núi. Tuy cản được pháo lăn xuống vực, nhưng anh cũng bị
bánh xe của khẩu pháo nặng hơn 2 tấn đè lên người trọng thương. Giây phút cuối
cùng khi được đồng đội đưa ra để đi cấp cứu, anh vẫn còn hỏi "Pháo có việc gì
không?”[6]
Ví dụ 2: Trước khi học tiết 55 phần Lịch sử địa phương lớp 7, tôi yêu cầu học sinh
về nhà chuẩn bị một câu chuyện về sự tích cuộc khởi nghĩa Lam Sơn quanh vùng
núi Chí Linh, như: đền thờ Trung Túc Vương Lê Lai và làng Tép, tên xã Mường
Khao và suối Khao, tục cúng cơm lam và gà thui, sự tích suối Lén, vườn cam của
ông Lê Lợi,.. Trong tiết học tôi đã hướng dẫn các em học sinh kể các câu chuyện sự
tích mà mình sưu tầm được, sau đó cho bạn nhận xét.
Ví dụ 3:
Khi học tiết 47 phần Lịch sử địa phương lớp 9, tôi bổ sung thêm phần kể
chuyện Bác Hồ lần đầu tiên về thăm Thanh Hóa với nhiều tình tiết sinh động nhằm
khôi phục bức tranh lịch sử về bối cảnh, địa điểm, các buổi nói chuyện của Bác với

đồng bào Thanh Hóa, lời căn dặn của Bác và những tình cảm yêu mến của nhân
dân Thanh Hóa đối với Bác Hồ.
2.3.2. Các hoạt động ngoại khóa lịch sử
* Đọc sách :
Đây là hình thức có hiệu quả nhằm cung cấp thêm kiến thức cho học sinh trong
giờ chính khóa về lịch sử dân tộc, song chủ yếu được sử dụng trong hoạt động
ngoại khóa. Nó góp phần rèn luyện cho học sinh về mặt tư tưởng, phẩm chất đạo
đức, kĩ năng, thói quen hứng thú và phương pháp làm việc với sách. Đó là hình

9


thức đơn giản, dễ làm song lại có hiệu quả cao về mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát
triển [1].
Trước tiên giáo viên giúp học sinh lập danh mục sách cần đọc, tiếp đó, để khơi
dậy tính tích cực, hứng thú, sự hiếu kì và lòng ham hiểu biết cái mới của học sinh,
giáo viên tóm tắt sơ lược nội dung của một cuốn sách. Cách giới thiệu đặc biệt có
hiệu quả, là dẫn ra một vài chi tiết, nhữnh đoạn nhỏ hấp dẫn để khơi dậy ở học sinh
hứng thú tìm đọc tiếp.
Việc hướng dẫn của giáo viên đối với học sinh trong chọn sách và phương pháp
thích hợp, có hiệu qua là yêu cầu quan trọng cho việc đọc sách không tản mạn
chệch hướng.
Trong phần Lịch sử địa phương Thanh Hóa cần hướng dẫn học sinh tìm đọc
những cuốn sách như:
- Địa chí Thanh Hóa ( Tập 1 ) Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin
- Lịch sử địa phương Thanh Hóa, xuất bản năm 2013.
- Tạp chí Sự kiện và nhân chứng. Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân Việt Nam.
- Lê Lợi: Con người và sự nghiệp, Nhà xuất bản Giáo Dục.
- Di tích xứ Thanh, Hội Văn Nghệ các dân tộc Việt Nam.
- Di tích- Danh thắng miền Tây Thanh Hóa. Nhà xuất bản Thanh Hóa năm 2013.

- Dấu ấn Lịch sử và danh tích đất Việt. Tác giả: Lê Tuấn Nhựa, Hội Văn Nghệ các
dân tộc Việt Nam.
- Lịch sử Sư đoàn 304. Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Có hai hình thức đọc sách đưa lại hiệu quả tốt: Cá nhân tự đọc và đọc chung ở lớp,
ở tổ. Hai hình thức này đều phải tiến hành đối với mỗi học sinh, tùy theo kế hoạch,
điều kiện tổ chức.
Cá nhân tự học là hình thức phổ biến thuận lợi, quan trọng nhất trong hình thức
đọc sách ngoại khóa. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách tự đọc thường xuyên
ở nhà. Đọc chung ở lớp những quyển sách hiếm, những đoạn hay để gây hứng thú
và bổ sung, củng cố kiến thức. Trên lớp chỉ giới thiệu nội dung sách, thảo luận và
tranh luận những vấn đề có liên quan , học sinh về nhà tìm đọc toàn bộ sách, suy
nghĩ sâu hơn. Hình thức này chỉ được tổ chức trong một vài lần trong năm học.
Hình thức phổ biến nhất là học sinh tổ chức các buổi sinh hoạt với sự giúp đỡ, chỉ
đạo của giáo viên. Các em trình bày những hiểu biết của mình về tác giả, về sách,
phát biểu cảm nghĩ, kể lại nội dung hoặc trích đọc, dẫn ra những đoạn hay, ý đẹp
trong sách…Vì vậy, học sinh rất say mê, hứng thú và ghi nhớ các sự kiện lâu hơn.
Đọc sách không phải để giải trí, mà cần biết ghi chép theo mẫu sau đây:
- Tên sách
- Tác giả
- Thời gian đọc [5]
- Nội dung của sách theo từng phần, từng chương, ghi chép những câu thích thú…
- Những vấn đề rút ra sau khi đọc sách (những vấn đề liên quan đến bài học, vấn
đề thích nhất, những thắc mắc cần giải quyết, ý định sử dụng kiến thức đã thu nhận
được sau khi đọc…)
10


Giáo viên cần xây dựng cho học sinh nền nếp, thói quen khi đọc sách ở nhà phải có
chủ đích, có hiệu quả, tránh tùy tiện.


Một tiết học lịch sử của lớp 6A trường THCS Xuân Thọ
* Nói chuyện lịch sử:
Nói chuyện lịch sử có nội dung, yêu cầu cao hơn kể chuyện lịch sử. Kể
chuyện chủ yếu là việc trình bày các sự kiện cụ thể nâng lên trình độ tư duy khái
quát, còn nói chuyên lịch sử chủ yếu là làm cho người nghe nhận thức một cách
khái quát, được minh họa, dẫn chứng bằng các sự kiện cụ thể theo một chủ đề nào
đấy [2].
Ví dụ, kể chuyện về cuộc chiến đấu bảo vệ cầu Hàm Rồng của quân và dân Thanh
Hóa trong ngày 3-4 tháng 4 năm 1965 với nhiều tài liệu-sự kiện cụ thể làm người
nghe như được chứng kiến sự kiện này.
Nói chuyện lịch sử phải có chủ đề rõ ràng, chủ đề phải phù hợp với nội dung
chương trình chính khóa, với nhiệm vụ chính trị trước mắt. Vì vậy, nói chuyện lịch
sử không thể tổ chức thường xuyên và ở bất cứ nơi nào như kể chuyện lịch sử. Nó
thường được tổ chức nhân ngày kỉ niệm một sự kiện lịch sử quan trọng, một danh
nhân, lãnh tụ cách mạng…, những đợt sinh hoạt chính trị, bồi dưỡng về văn hóa,
nghiên cứu lịch sử địa phương. Người nói chuyện phải là người am hiểu sâu sắc
vấn đề trình bày. Do đó, người nói chuyện thường là giáo viên, cán bộ nghiên cứu
cán bộ giảng dạy ở các trường đại học, cán bộ làm công tác tuyên huấn.
Ví dụ 1: Ở trường THCS Xuân Thọ trong dịp kỉ niệm ngày thành lập Quân đội
Nhân dân Việt Nam ( 22-12-2016 ) tôi đã tham mưu với Ban giám hiệu nhà trường
11


và Đội thiếu niên mời thầy giáo Phạm Văn Nguyên là cựu chiến binh từng chiến
đấu ở chiến trường Cam-Pu-Chia, và bác Lê Văn Bân là thương binh trong kháng
chiến chống Mĩ lên kể chuyện lịch sử trong tiết hoạt động ngoại khóa đầu tuần của
trường.
Ví dụ 2: Nhân kỉ niệm 52 năm chiến thắng Hàm Rồng ( 3-4/4/1965->3-4/4-2017 ),
tôi đã mời bác Lê Văn Huy người từng tham gia chiến đấu bảo vệ cầu Hàm Rồng
đến kể chuyện trong tiết ngoại khóa: Trong kháng chiến chống Mỹ, cầu Hàm Rồng

được coi như “yết hầu” giao thông vận tải và là mục tiêu đánh phá số một của
không quân Hoa Kì nhằm ngăn chặn sự chi viện từ Bắc vào Nam. Nơi đây trở
thành nơi đấu trí, đấu lực giữa bộ đội và nhân dân Thanh Hóa với đế quốc Mỹ xâm
lược.
Trong hai ngày 3 và 4 tháng 4 năm 1965, Mĩ đã huy động hàng trăm lượt máy bay
các loại ném 350 quả bom, bắn 149 tên lửa, rốc két xuống cầu Hàm Rồng. Được
sự phối hợp của bộ đội phòng không và không quân, quân và dân Thanh Hóa đã
dũng cảm chiến đấu, bắn rơi 47 máy bay phản lực của Mĩ bảo vệ vững chắc cầu
Hàm Rồng và các vị trí giao thông quan trọng khác.
Cầu Hàm Rồng đã trở thành một tượng đài kỉ niệm về chủ nghĩa anh hùng cách
mạng của dân tộc Việt Nam trong thế kỉ XX, tượng trưng cho ý chí kiên cường,
lòng yêu nước, dũng cảm hi sinh của người dân Thanh Hóa [3].
Qua buổi kể chuyện này các em học sinh hết sức xúc động và khâm phục tấm
gương chiến đấu dũng cảm của các thế hệ cha ông, từ đó bồi dưỡng lòng yêu nước
và quyết tâm phấn đấu học tập để xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh.

Cầu Hàm Rồng lịch sử
* Trao đổi, thảo luận:

12


Đây là hình thức ngoại khóa nhằm giúp học sinh bày tỏ ý kiến của mình để
củng cố kiến thức đã học, lòng tin sau khi đọc một quyển sách, nghe kể chuyện, nói
chuyện lịch sử, hoặc suy nghĩ về một vấn đề nào đấy [5]. Có nhiều cách tiến hành
trao đổi thảo luận. Trước hết, có thể tổ chức trao đổi thảo luận trong phạm vi lớp.
Đối với học sinh THCS, những cuộc trao đổi thảo luận không chỉ để ghi nhớ nội
dung một vấn đề, mà chủ yếu là khơi dậy những suy nghĩ độc lập của các em. Chủ
đề nêu ra là những vấn đề lịch sử địa phương cơ bản gần gũi, quen thuộc đối với
các em, những vấn đề mà nhiều người quan tâm, có liên quan đến cuộc sống hiện

tại.
Trong quá trình trao đổi, giáo viên cần động viên các em đề xuất và giải quyết
vấn đề theo suy nghĩ độc lập của mình, đồng thời cũng khiêm tốn học tập và tôn
trọng ý kiến của bạn. Giáo viên theo dõi, kịp thời bổ sung những thiếu sót, uốn nắn
các lệch lạc; khi kết thúc thảo luận có nhận xét, đánh giá, rút kinh nghiệm.
Trao đổi, thảo luận được tiến hành trên cơ sở một số chủ đề quan trọng, có tác
động đến việc bổ sung kiến thức đã học.
Ví dụ: Trao đổi, thảo luận về sự thành lập của Đảng bộ Cộng sản Thanh Hóa và ý
nghĩa của nó đối với Cách mạng tỉnh nhà. Hoặc những đóng góp của nhân dân
Thanh Hóa trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thời Tiền Lê, Lý-Trần,
trong khởi nghĩa Lam Sơn, phong trào Cần Vương và trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp, chống Mĩ.
* Tổ chức các cuộc thi về chủ đề lịch sử địa phương:
Các cuộc thi về chủ đề Lịch sử địa phương có thể gồm những nội dung sau:
* Hưởng ứng cuộc thi Em yêu lịch sử xứ Thanh bằng các bài dự thi của học sinh
toàn trường.
* Thi sưu tầm tranh ảnh
- Thi sưu tầm tranh ảnh về các di tích lịch sử: Thành nhà Hồ, Lam Kinh, đền Bà
Triệu.
- Thi sưu tầm tranh ảnh về các nhân vật lịch sử: Bà Triệu, Lê Lợi, Cầm Bá Thước,
Lê Hoàn.
- Các tranh ảnh liên quan đến các sự kiện lịch sử ở Thanh Hóa như: Bác Hồ lần đầu
tiên về thăm Thanh Hóa, chiến thắng Hàm Rồng.
- Các ngành nghề truyền thống ở Thanh Hóa như: Chiếu cói Nga Sơn, bánh gai Tứ
Trụ,...
Sau khi học sinh đã sưu tầm thì những hình ảnh đó được tổng hợp và chọn lọc
trưng bày trong phòng truyền thống của nhà trường.
* Cuộc thi “ Tôi tập làm hướng dẫn viên du lịch”
Trên cơ sở các tranh ảnh đã sưu tầm, thì các em có thể chọn một trong những tranh
ảnh nào đẹp nhất để từ đó bằng hiểu biết của mình sẽ viết một bài giới thiệu về di

tích hay sự kiện gắn liền với tranh ảnh ấy.
Việc này sẽ giúp các em đầu tư tìm hiểu, sưu tầm thêm tư liệu liên quan đến sự
kiện hay di tích lịch sử địa phương, rèn luyện thêm kĩ năng viết văn… Và từ việc

13


được xem tranh ảnh đến đọc các bài giới thiệu của chính mình sẽ tạo sự hứng thú
rất cao.
* Tham quan lịch sử:
Tham quan lịch sử có một vị trí hết sức quan trọng trong dạy học lịch sử mà
đặc biệt là phần Lịch sử địa phương ở trường THCS. Những dấu vết của quá khứ,
những hiện vật trưng bày trong bảo tàng không chỉ cụ thể hóa kiến thức, mà còn để
lại một ấn tượng mạnh mẽ nâng cao hứng thú học tập và rèn luyện khả năng quan
sát, phân tích của học sinh.
Hình thức chủ yếu của hoạt động này là tham quan các di tích bảo tàng, tham
gia các lễ hội truyền thống tại các di tích lịch sử. Để cho các hoạt động này được
tiến hành có hiệu quả thì giáo viên cần chuẩn bị chu đáo về địa điểm, thời gian, nội
dung học tập, dự kiến công việc của từng cá nhân, từng nhóm học sinh. Các hoạt
động đề ra phải phù hợp với nội dung chương trình, tâm lí lứa tuổi học sinh, thường
gắn với các ngày kỉ niệm lớn của dân tộc, ngày sinh các anh hùng dân tộc… Trong
đó học sinh phải đóng vai trò chủ thể, giáo viên đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn,
phát huy tối đa năng lực, sở thích của từng học sinh.
Hình thức tổ chức phải phong phú, hấp dẫn, có tính nghệ thuật, lôi cuốn đông
đảo học sinh, tránh các báo cáo, diễn văn dài dòng. Trong quá trình tham quan di
tích lịch sử, học sinh cần được tổ chức thực hiện các bài tập thực hành từ đơn giản
đến phức tạp như quan sát, kể chuyện, miêu tả, ghi chép tài liệu.
Ví dụ: Thanh Hóa có rất nhiều các di tích lịch sử quan trọng như thành Tây Đô,
Lam Kinh, Đền Bà Triệu,..Tuy nhiên do điều kiện còn khó khăn chưa thể tổ chức
cho học sinh đến tham quan được, vì vậy tôi đã chọn một di tích ngay trên địa bàn

xã Xuân Thọ, đó là Đình Tám Mái. Khi học tiết 34 Lịch sử địa phương lớp 7, bài:
Thanh Hóa trong thời kì hình thành và phát triển của nước Đại Việt thời LýTrần ( Từ thế kỉ X đến đầu thế kỉ XV ), được sự cho phép của Ban giám hiệu nhà
trường tôi đã tổ chức cho học sinh tham quan di tích lịch sử văn hoá của địa
phương là đình làng Tam Lạc ( còn gọi là đình Tám Mái ). Sau được dự lễ dâng
hương Thành hoàng làng; được nghe các bậc cao niên kể về lịch sử hình thành của
làng Tam Lạc và đình như sau:
Năm Kiến Phù hữu đạo thời Lý Thái Tông có giặc Ma Na ( Ai Lao ) đến cướp bóc
nhân dân, vua phải thân chinh ngự giá. Khi vua hành quân đến địa phận làng Tam
Lạc-xã Xuân Thọ- huyện Triệu Sơn-tỉnh Thanh Hóa, là vùng đất hiểm trở, dân cư
đông đúc, phía Nam Bình Kiều là những thành quách do Ngô Xương Xí dựng lên
hãy còn sừng sững, thật là một vùng đất thiên linh hoành tráng. Nhà vua bèn hạ
trại dừng chân tại bản Trang. Đêm hôm đó vua mơ thấy một cụ già râu tóc trắng
xóa như sương, tư thế đĩnh đạc, tay cầm chiếc gậy đứng trên đỉnh núi. Nhà vua leo
lên đỉnh núi thấy chỗ ấy mở ra như cái hàm rồng, nước trong và ấm. Cụ già nói:
Ta là giống rồng thuộc về thủy phủ, nhà vua là giống tiên, trời ban quyền trị nước.
Nay giặc đến xâm phạm vua ngự giá tất sẽ thắng.
Khi vua tỉnh dậy theo giấc mơ trèo lên núi thì thấy có một cái huyệt rất sâu, nước
trong và ấm, trong giếng có một cái xương rồng đề hai chữ “Long Quật.”Sau đó
14


quả nhiên vua thắng lớn, ca khúc khải hoàn. Để ghi nhớ công ơn thần hiển linh
giúp nước đánh giặc, nhà vua truyền chỉ cho nhân dân lập đền thờ thần Long Quật
và ban cho 71 quan tiền chi vào việc đèn nhang cúng tế.
Đến thời vua Trần Thánh Tông, trời hạn nặng, vua sai người đi các đền cầu đảo
đều không được, khi đến làng Tam Lạc cầu thì trời đất tối sầm, mưa gió sấm sét ào
ào. Vua bèn sắc phong thành hoàng làng là Thượng đẳng thần linh, cho nhân dân
đời đời cúng tế.
Đến thời Nguyễn, năm Bảo Đại thứ 9 ( 1934 ), nhân dân đã quyên góp tiền của để
xây một ngôi đình khang trang, to lớn và đặt tên là Hương Hội Sở [ 4].

Tiếp đó tôi giới thiệu sơ lược cho học sinh về kiến trúc độc đáo của đình và sự
thành lập sư đoàn 304 ngày 10-03-1950 tại đình làng Tam Lạc. Trong cuộc kháng
chiến chống Pháp, đình còn là nơi làm việc của nhiều cơ quan kháng chiến và các
tướng lĩnh của quân đội Việt Nam như Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Trung tướng
Nguyễn Sơn, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo,..Năm 1991, đình làng Tam Lạc đã
được Sở Văn hóa Thông tin Thanh Hóa công nhận là di tích văn hóa và lịch sử cách
mạng của tỉnh.
Kết thúc buổi ngoại khoá, tôi tổ chức cho các em trồng cây và vệ sinh quanh
khu vực đình làng,…

Đình làng Tam Lạc ( Xuân Thọ )

15


*Tổ chức hội thi hùng biện về đề tài Lịch sử quê hương và tình yêu biển đảo
Để kỉ niệm 76 năm ngày thành lập Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh ( 19312017 ), tôi đã phối hợp với thầy giáo Lê Quang Bôn-Tổng phụ trách Đội và các
thầy cô trong trường tổ chức Hội thi nhằm đẩy mạnh công tác tuyên truyền và cung
cấp những thông tin chính thống, chính xác, đầy đủ phù hợp với lịch sử và luật
pháp về biển đảo Việt Nam, để giúp học sinh hiểu rõ chủ trương, đường lối, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về bảo vệ chủ quyền biển đảo và toàn vẹn
lãnh thổ của đất nước. Từ đó, tăng cường giáo dục, bồi đắp lòng yêu nước, yêu dân
tộc đến các em. Đối tượng dự thi là tất cả học sinh trong trường, mỗi lớp 1 em đại
diện.
Nội dung cuộc thi:
- Tìm hiểu vị trí địa lý, lịch sử hình thành của các vùng biển, hải đảo của Việt Nam,
đặc biệt là hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa và đường Hồ Chí Minh trên biển.
- Tìm hiểu vị trí địa lý, lịch sử hình thành và chiều dài của vùng biển, vùng lãnh hải
Thanh Hóa.
- Những chủ trương, chính sách của Đảng về vấn đề biển đảo, chiến lược phát triển

kinh tế biển của tỉnh.
Hình thức thi:
Các lớp tham khảo tài liệu và tổng hợp thành một bài viết, cử một học sinh đại diện
lên trình bày theo hình thức hùng biện.
* Trò chơi lịch sử, là một hình thức ngoại khóa gọn nhẹ, dễ tổ chức, mà hấp dẫn
học sinh. Đây không chỉ là một việc giải trí, mà đòi hỏi người tham dự phải phát
huy năng lực tư duy, trí thông minh để giải quyết các vấn đề đặt ra. Nếu trò chơi
không đòi hỏi sự nỗ lực, không đòi hỏi sự hoạt động tích cực của tư duy thì trò chơi
đó chưa đạt yêu cầu về mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển mà chỉ là công việc
giải trí, không có ích gì cho việc dạy học lịch sử. Cần đạt những yêu cầu sau:
- Trò chơi phải có mục đích giáo dục rõ rệt, có nội dung phong phú, với nhiều hình
thức thích hợp phát huy được sự ham hiểu biết, giàu trí tưởng tượng, biết suy luận,
nhanh trí, khéo tay, sôi nổi nhưng không ồn ào, tư duy sâu sắc nhưng không quá
trầm lặng…
- Trò chơi phải thu hút đông đảo học sinh tham gia.
- Trong trò chơi, người làm chủ là học sinh, song giáo viên có vai trò rất quan
trọng: vừa là người hướng dẫn, tổ chức trò chơi, vừa là người tham gia khéo léo
dẫn dắt các em đạt kết quả tốt.
- Có nhiều loại trò chơi lịch sử: ”thi đố kiến thức về lịch sử”, “ô chữ”, “ô số”, “súc
sắc”, “lập niên biểu”, “rung chuông vàng”, “nhà sử học nhỏ tuổi”…
* Tôn tạo, chăm sóc công trình di tích lịch sử
Chăm sóc, tôn tạo công trình di tích văn hóa lịch sử tại địa phương là trách
nhiệm của toàn xã hội, trong đó các em học sinh thường xuyên đóng góp công sức
của mình trong phong trào "Uống nước nhớ nguồn" mà thầy cô giáo phụ trách là
người hướng dẫn để các em tham gia với tinh thần tự nguyện, tự giác. Thông qua
việc làm các em sẽ nhận thấy công sức của các em quá nhỏ bé so với công lao của
16


thế hệ cha ông đã đổ máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Cụ thể là hàng

tuần cử hai lớp tham gia quét dọn vệ sinh khu đình Tám Mái và Khu tưởng niệm
liệt sĩ của xã XuânThọ.
Công tác chăm sóc các di tích lịch sử không chỉ có tác dụng củng cố, hiểu
sâu sắc hơn kiến thức, mà còn là biện pháp gắn nhà trường với xã hội, rèn luyện
năng lực hoạt động cho học sinh. Qua những phong trào trên, sự tham gia nhiệt tình
của các em cùng với những việc làm cụ thể tôi nhận thấy ở các em một niềm vui to
lớn, sự hài lòng với việc làm đầy tính nhân văn. Các em cũng thấy được trách
nhiệm của mình đối với những người đã quên mình vì quê hương đất nước.
2.4. Hiệu quả của đề tài
Sau gần một năm học áp dụng các phương pháp dạy học tích cực vào chương
trình Lịch sử Việt Nam và phần Lịch sử địa phương Thanh Hóa, tôi đã nhận thấy
những hiệu quả rõ ràng đối với bản thân và học sinh.
a. Đối với giáo viên:
- Khi nghiên cứu tư liệu để giảng dạy mỗi bài học, tôi đã có thêm được nhiều
kiến thức lịch sử quý giá; hơn thế nữa, tôi cảm thấy xúc động, tự hào hơn về lịch sử
quê hương. Điều đó càng thôi thúc tôi phải truyền tinh thần ấy cho các em học sinh.
- Mặt khác, việc nghiên cứu đề tài đã trang bị cho tôi nhiều phương pháp dạy
học hay, giúp tôi thêm vững vàng về chuyên môn. Chính vì vậy trong các đợt Hội
giảng cấp trường, hay các tiết dạy chuyên đề tôi đều được Tổ chuyên môn xếp loại
giỏi.
b. Đối với học sinh
Qua gần một năm học ( 2016-2017 ) áp dụng các phương pháp dạy học mới, tôi
nhận thấy học sinh đã có sự thay đổi rõ rệt, đặc biệt là sự thay đổi về hứng thú đối
với môn Lịch sử nói chung và Lịch sử địa phương nói riêng, có nhiều em thích tự
tìm tài liệu về bài học trên mạng, nhiều em tự vẽ tranh về nhân vật được nghe kể.
Đặc biệt là có nhiều em rất say mê nghiên cứu lịch sử đã tham gia kì thi học sinh
giỏi cấp huyện, cấp tỉnh và đạt được thành tích cao. Cụ thể là:
- Có 02 em đạt học sinh giỏi cấp tỉnh, trong đó có 01 giải ba và 01 giải
khuyến khích.
- Có 06 em đạt giải học sinh giỏi cấp huyện của lớp 9, (có 5 em lớp 8 dự thi

lớp 9): 1 giải nhì, 1 giải ba và 4 giải khuyến khích.
- Có 06 em đạt giải trong kì thi kiểm định chất lượng học sinh giỏi lớp 8: 1
giải nhất, 3 giải nhì, 1 giải ba và 1 giải khuyến khích.
- Có 01 em đạt giải trong Cuộc thi “Em yêu Lịch sử xứ Thanh”
- Chất lượng môn học đã được nâng cao qua kiểm định chất lượng kì II. Cụ
thể là:

17


Lớp
9A
9B
8A
8B
7A
7B
6A
6B

Bảng thống kê khảo sát chất lượng học kì II
của học sinh trường THCS Xuân Thọ.
Năm học 2016-2017.
Sĩ số Xếp loại
Giỏi
Khá
Trung bình
SL
%
SL

%
SL
%
28
3
10,7
15
53,6
10
35,7
27
4
14,8
12
44,4
11
40,8
25
1
4,0
10
40,0
12
48,0
30
4
13,3
13
43,3
10

33,7
31
3
9,6
12
38,7
15
48,3
32
4
12,5
15
46,8
12
37,6
33
3
9,1
15
45,4
12
36,3
33
2
6,0
15
45,4
14
42,4


Yếu-Kém
SL
%
0
0
0
0
2
8,0
3
9,7
1
3,4
1
3,1
3
9,2
2
6,2

So với chất lượng khảo sát đầu năm, tỉ lệ học sinh khá giỏi, khá đã được nâng
lên, học sinh yếu giảm xuống. Tuy nhiên, tôi nhận thấy khả năng diễn đạt nói của
các em còn nhiều hạn chế, các em còn rụt rè, thiếu tự tin khi tham gia các hoạt
động giao lưu ngoại khoá trả lời câu hỏi. Đây là vấn đề khó khăn tiếp theo được đặt
ra để tôi tiếp tục suy nghĩ và tìm ra các biện pháp khắc phục trong những năm học
tới.
3. Kết luận và Kiến nghị
3.1. Kết luận chung
Dạy học Lịch sử trong trường phổ thông là một nhiệm vụ vô cùng quan
trọng, bởi nó gắn liền với mục tiêu hình thành, bồi đắp tình cảm yêu mến lịch sử

dân tộc, góp phần vào quá trình hình thành nhân cách ở học sinh.
Để làm tốt được nhiệm vụ này, người giáo viên phải tìm cách phát huy tính
tích cực của học sinh khi dạy học bằng cách phối hợp các phương pháp và các hình
thức tổ chức dạy học lịch sử thật đa dạng. Muồn làm được điều đó, giáo viên phải
thực hiện: Nắm vững chương trình, nắm vững đặc trưng phương pháp bộ môn; sưu
tầm tư liệu, tranh ảnh để minh hoạ; chuẩn bị các phương tiện và đồ dùng trực quan
cho việc dạy học; thiết kế nhiều hoạt động học tập vui vẻ, bổ ích,… Có như vậy
học sinh mới hứng thú, tạo hiệu quả cao trong những tiết học lịch sử.
3.2. Một số ý kiến đề xuất:
* Đối với Sở - Phòng Giáo dục:
- Cần tạo điều kiện trang bị thêm cho nhà trường các bộ tranh ảnh, mô hình,
bản đồ lịch sử, các trích đoạn phim tư liệu về các chiến dịch; và đặc biệt là hệ thống
18


máy tính, máy chiếu để chúng tôi có thể cung cấp nguồn sử liệu cho các em học tập
một cách hiệu quả nhất.
* Đối với nhà trường:
- Cần tổ chức nhiều đợt ngoại khoá tham quan các bảo tàng, di tích lịch sử để
học sinh được học tập từ thực tế.
Trên đây là một vài kinh nghiệm mà tôi đã đúc kết được trong nhiều năm
giảng dạy môn Lịch sử, phần nào đã đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục của
đất nước. Song những kết quả đạt được chỉ là bước đầu. Rất mong được sự góp ý
kiến của các đồng nghiệp để sao cho việc dạy học môn lịch sử ngày càng hoàn
thiện, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo trong nhà trường.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 04 năm2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của

người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Phạm Thị Ngọc

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
*********
[1]. Phương pháp dạy học lịch sử, Phan Ngọc Liên, Nhà xuất bản Giáo Dục – năm
1999.
[2]. Phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học Lịch sử ở THCS, Phan Ngọc
Liên- Trịnh Đình Tùng, Nhà xuất bản Giáo Dục – năm 1998.
[3]. Lịch sử địa phương Thanh Hóa, Nguyễn Văn Hồ- Trịnh Trung Châu, Nhà xuất
bản Giáo Dục – năm 2013.
[4]. Dấu ấn Lịch sử và Danh tích đất Việt, Lê Tuấn Nhựa, Hội văn nghệ các dân tộc
Việt Nam – năm 2003.
[5]. Nguyễn Thị Phương Loan, giáo viên trường THPT Thác Bà, huyện Yên Bình,
tỉnh Yên Bái. “ Hoạt động ngoại khóa trong dạy học Lịch sử ở trường THPT.”
SKKN năm học 2009-2010.
[ 6] Tham khảo một số tài liệu trên mạng internet
- Nguồn Tô Vĩnh Diện

20



×