Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

skkn một số biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử việt nam thcs cẩm tú

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.84 KB, 33 trang )

Phần 1: Đặt vấn đề
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lý do khách quan
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện nay ở nước ta đã
đem lại sự chuyển biến lớn trong đời sống vật chất tinh thần của con
người. Để đạt được những chuyển biến nhảy vọt đó không thể không
nhắc đến giáo dục.
Trong quá trình thực hiện công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại
hoá ở nước hiện nay, Đảng ta đã xác định “Giáo dục là quốc sách
hàng đầu”, “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát
triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề
nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
hình thành nhân cách phẩm chất, năng lực của công dân đáp ứng yêu
cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Mục tiêu giáo dục này kế thừa và
phát triển các mục tiêu được xác định từ sau Cách mạng tháng Tám
phù hợp với tình hình nhiệm vụ cách mạng mới.
Mục tiêu giáo dục nói chung được quán triệt và thể hiện cụ thể
ở tất cả các môn học và được thông qua nội dung, phương pháp của
từng môn học. Đối với bộ môn lịch sử trong nhà trường phổ thông
1
hiện nay có khả năng và sở trường không chỉ trang bị cho học sinh
kiến thức lịch sử dân tộc từ cổ đến kim, mà còn giúp cho học sinh
hình thành thế giới quan khoa học. Vì thế nhiều nước trên thế giới
xem môn lịch sử là môn học cực kì quan trọng trong nhà trường.
Trong nhà trường phổ thông ở Việt Nam hiện nay lịch sử là bộ
môn có ưu thế trong việc giáo dục tư tưởng tình cảm, giáo dục truyền
thống lịch sử dân tộc cho học sinh để trở thành những con người mới
nhưng trước hết phải là con người hiểu rõ lịch sử dân tộc và cội
nguồn dân tộc như Bác Hồ kính yêu đã từng nói:
" Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam"


Tuy nhiên trong thực tiễn dạy học lịch sử ở trường THCS nói
riêng hiện nay chưa hoàn thành nhiệm vụ chức năng bộ môn. Đặc
biệt hơn môn lịch sử là một môn khoa học xã hội có yêu cầu cao về
nhận thức, nó đòi hỏi có trí nhớ, tư duy sáng tạo, học tập thông minh.
Một yếu tố đầu tiên và quan trọng đối với học tập lịch sử là nếu biết
thì chưa đủ, mà quan trọng hơn là phải hiểu. Nếu không biết thì
không hiểu, nhưng không phải biết là đã hiểu, có hiểu thì mới biết
một cách sâu sắc, đầy đủ và vững chắc hơn.
2
Từ những hiểu biết về lịch sử, về quá khứ học sinh sẽ có thái
độ, trách nhiệm đúng đắn với hiện tại và tương lai, với lịch sử dân
tộc, hiểu rõ truyền thống dân tộc, tự hào về những gì ông cha ta đã
từng làm để bảo vệ Tổ quốc. Từ đó bồi dưỡng lòng yêu quê hương,
đất nước và góp công sức học tập của của mình đối với sự nghiệp xây
dựng đất nước ngày nay.
1.2. Lý do chủ quan
Do quan niệm chưa đầy đủ về chức năng của khoa học lịch sử
và môn lịch sử trong đời sống xã hội đã dẫn đến việc học tập nghiên
cứu, giảng dạy môn lịch sử của một số Giáo viên và học sinh còn
nhiều hạn chế cả nội dung và phương pháp. Nhiều khi học sinh không
nắm vững kiến thức cơ bản, nhớ sai, nhớ nhầm lịch sử dân tộc là một
hiện tượng phổ biến ở THCS.
Chính vì vậy để phát huy tính tích cực trong việc dạy học lịch
sử dân tộc phải tiến hành nhiều hoạt động học tập một cách tích cực,
chủ động thông qua hệ thống phương pháp dạy học phong phú, linh
hoạt gây được hứng thú trong hoạt động học của trò, tránh việc nhồi
nhét áp đặt. Vì vậy học sinh phải là trung tâm chủ động lĩnh hội.
Chương trình lịch sử Việt Nam lớp 8 THCS trang bị cho học
3
sinh kiến thức lịch sử dân tộc từ 1858 đến đầu thế kỷ XX. Đây là giai

đoạn có nhiều sự kiện phức tạp, hấp dẫn thể hiện truyền thống yêu
nước của dân tộc. Nhưng đây cũng là giai đoạn lịch sử phức tạp đòi
hỏi học sinh phải nắm vững để tránh tình trạng hiểu sai, hiểu nhầm
lịch sử. Do vậy để phát huy tính tích cực trong dạy học lịch sử ở
THCS nói chung và lớp 8 nói riêng là vấn đề được nhiều người quan
tâm.
Là giáo viên trực tiếp đứng lớp dạy lịch sử lớp 8 ở THCS tôi
thấy có nhiều trăn trở, đặc biệt khi nghiên cứu về phương pháp dạy
học lịch sử ở trường phổ thông, tôi cảm thấy đây là vấn đề có ý nghĩa
lớn trong việc nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn lịch sử ở
THCS nói chung và lớp 8 nói riêng. Chính vì lý do trên đã thôi thúc
tôi chọn đề tài này để tìm ra “Một số biện pháp phát huy tính tích cực
của học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam ở trường THCS”
2. Mục đích nghiên cứu
Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường phổ
thông nói chung và chất lượng giảng dạy môn lịch sử nói riêng.
Tạo điều kiện cho các em, nhất là học sinh lớp 8 khi học lịch sử
Việt Nam sẽ biết cặn kẽ, đầy đủ, toàn diện về môn học, tiếp cận môn
4
học trên những khía cạnh khác nhau.
Đề tài sử dụng cho giáo viên và học sinh THCS (Phần sách giáo
khoa đổi mới)
3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu “Một số biện pháp phát huy tính tích cực của
học sinh trong việc dạy học lịch sử Việt Nam ở THCS”.
Đề tài dùng cho giáo viên giảng dạy môn lịch sử Việt Nam ở
THCS, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, tìm tòi, sáng tạo của
Thầy - Trò trong “Dạy - Học” lịch sử Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là học sinh lớp 8 trường
THCS Cẩm Tú năm học 2011- 2012.

4. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu và làm đề tài này tôi đã dùng các phương pháp chủ
yếu sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận.
- Phương pháp quan sát lớp học.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu, phân tích các biện pháp cơ bản nhằm phát
5
huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam ở
trường THCS.
6. Thời gian nghiên cứu
Từ ngày 10 tháng 9 năm 2011
Đến ngày 28 tháng 2 năm 2012
Phần 2: Nội dung
1. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
Có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề phát huy tính tích cực của
học sinh trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng. Trong
những năm gần đây ngày càng xuất hiện nhiều tiết dạy tốt, học tốt
theo hướng phát huy tính tích cực trong việc dạy học lịch sử. Tuy
nhiên tình trạng phổ biến vẫn là tình trạng thầy đọc, trò chép hoặc
xen kẽ vấn đáp, giải thích minh hoạ bằng phương tiện trực quan. Việc
chống dạy học thụ động đã được đặt ra từ lâu.
Học tập của học sinh là một quá trình nhận thức song đó là quá
trình đặc thù “Một sự nhận thức đã làm dễ dàng đi và thực hiện dưới
6
sự chỉ đạo của giáo viên”. Vì vậy nói đến tính tích cực của học sinh là
nói đến tính tích cực của nhận thức. Trong quá trình dạy học lịch sử ở
trường phổ thông, giáo viên tổ chức dẫn dắt học sinh một cách có
mục đích, có kế hoạch để học sinh nắm vững tri thức cơ sở về văn

hoá, khoa học, dần dần hình thành cơ sở thế giới quan duy vật biện
chứng, nhân cách đạo đức học sinh.
Qua tìm hiểu đối chứng giữa dạy học cũ (truyền thống) và
phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh nói chung
và trong dạy học lịch sử nói riêng chúng ta có thể khẳng định: Các
biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh sẽ đem lại hiệu quả cao
hơn, nó đòi hỏi cả giáo viên và học sinh phải lao động sư phạm nhiều
hơn. Phải chủ động sáng tạo tiếp thu những tinh hoa của cách dạy học
truyền thống, đồng thời mạnh dạn tìm ra, sáng tạo ra các biện pháp tổ
chức dạy học mới nhằm khắc phục sự bảo thủ thụ động một chiều
trong quá trình dạy học.
2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
Môn lịch sử ở trường phổ thông có tác dụng to lớn đối với việc
giáo dục thế hệ trẻ về lịch sử dân tộc, truyền thống dân tộc, hình
thành nên thế giới quan khoa học…Song do đặc thù của bộ môn lịch
7
sử, do một số giáo viên còn chưa thực sự hiểu sâu về phương pháp
dạy học và kiến thức còn lệ thuộc vào sách giáo khoa, tức là chưa
làm chủ được kiến thức dẫn đến giờ học khô khan nhàm chán và
nặng nề. Tình trạng này đã làm mất đi tính hấp dẫn của môn lịch sử.
Hơn nữa, do tư tưởng coi môn lịch sử là “môn phụ”, học sinh “học gì
thi đấy” nên nhiều học sinh quay lưng với môn lịch sử. Quan niệm
sai lầm cho rằng học lịch sử chỉ cần trí nhớ không phải tư duy động
não, không có bài tập thực hành đã ảnh hưởng đến việc đánh giá, tổ
chức phương pháp dạy học.
Chúng ta đã có đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn chứng minh
rằng môn lịch sử không phải là “môn thứ yếu”, mà nó có tầm quan
trọng đặc biệt trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Do đó việc học tập lịch
sử không chỉ học thuộc, mà phải đòi hỏi có trình độ tư duy để hiểu.
Đặc điểm của lịch sử đã chi phối tới nhận thức lịch sử. Bản thân

lịch sử là một hiện thực khách quan đã xảy ra, không “hiện có” (song
đã tồn tại), vận động theo quy luật từ thấp đến cao, trải qua những
bước quanh co, khúc khuỷu, song phát triển không ngừng. Con người
có khả năng nhận thức lịch sử, không thể “trực quan sinh động”, kể
cả những sự kiện đang diễn ra, nhưng ngoài tầm mắt của người học
8
tập, nghiên cứu. Lịch sử xảy ra không tái diễn nguyên vẹn như cũ,
không lặp lại, nên nhận thức lịch sử không thể quan sát trực tiếp và
cũng không thể tiến hành trong phòng thí nghiệm (dù sân khấu, các lễ
hội đã cố gắng khôi phục lại sự kiện quá khứ qua các hình thức nghệ
thuật; Với sự phát triển của khoa học người ta cũng chỉ có thể tái tạo
trong một phạm vi mức độ nhất định sự kiện đã xảy ra).
Do vậy, việc học tập, nghiên cứu lịch sử không chỉ có những nét
riêng của sự nhận thức nói chung mà chúng ta phải tính đến việc phát
huy tính tích cực của học sinh. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy lịch
sử nên tôi mạnh dạn đưa ra các phương pháp phát huy tính tích cực
cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 8, góp phần dạy
môn lịch sử để nó xứng đáng với vị trí là bộ môn quan trọng ở trường
phổ thông.
3. Những biện pháp để thực hiện
3.1. Hướng dẫn, xác định rõ ràng động cơ học kiến thức lịch sử
cho học sinh
Công việc đầu tiên trong giảng dạy lịch sử là làm thế nào để khơi
dậy được hứng thú của học sinh đối với việc học tập, xác định rõ động
cơ mục đích của môn học. Tuy nhiên động cơ học tập của các em đa
9
dạng, song chưa bền vững.
Để các em có động cơ, thái độ đúng đắn thì tài liệu học tập phải
có nội dung khoa khọc, xúc tích, phải được định hướng rõ rệt gắn liền
với thực tiễn cuộc sống. Giáo viên phải biết gợi mở nhu cầu tìm hiểu

của học sinh giúp các em có phương pháp học tập phù hợp. Mở đầu
bài giảng giáo viên giúp học sinh thấy được mục đích yêu cầu của
bài, đưa ra một số vấn đề trong nội dung bài học, có khả năng khơi
dậy hứng thú học tập của học sinh, khiến các em khao khát muốn
được biết, kích thích tính tích cực học tập của học sinh.
Ví dụ: Bài 30: Phong trào yêu nước chống Pháp từ đầu thế kỷ
XX đến năm 1918. Mục 3: Hoạt động của Nguyễn Tất Thành sau khi
ra đi tìm đường cứu nước, giáo viên có thể khơi gợi, kích thích nhu
cầu nhận thức của học sinh như sau: “Các em theo dõi quá trình xâm
lược của thực dân Pháp đối với nước ta và phong trào chống Pháp từ
1858 đến đầu thế kỷ XX, em thấy trong bối cảnh nào Nguyễn Tất
Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước? Động lực nào thúc đẩy
Người đi tìm đường cứu nước? Tại sao Người sang phương Tây?
Ví dụ: Bài 24 Cuộc kháng chiến từ năm 1958 đến 1873… Có
thể nêu câu hỏi đầu giờ định hướng nhận thức cho học sinh, đặt các
10
em vào nhu cầu theo dõi bài giảng: “Các em đã tìm hiểu các nước Á,
Phi, Mỹ La-tinh cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX hầu hết các nước trở
thành thuộc địa của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Việt Nam là dân
tộc yêu nước, đứng trước nguy cơ của chủ nghĩa thực dân, liệu Việt
Nam có trở thành thuộc địa của chúng?
Tuy nhiên câu hỏi giáo viên nêu ra không yêu cầu học sinh trả lời
ngay mà chỉ ra động cơ học tập cho các em. Phần này chính là tạo
tình huống có vấn đề.
3.2. Hướng dẫn học sinh một số phương pháp ghi nhớ sự kiện lịch
sử
Trong môn lịch sử thì sự kiện, hiện tượng và khái niệm lịch sử có
liên quan đến nhau và sau khi giảng một lần không còn lặp lại nữa,
bắt buộc các em phải có phương pháp ghi nhớ.
Ví dụ: Bài 26. Phong trào kháng chiến chống Pháp cuối thế

kỷ XIX. Năm 1885 Tôn Thất Thuyết thay mặt vua Hàm Nghi
soạn Chiếu Cần vương, học sinh chỉ được tiếp xúc một lần các bài
sau không nhắc đến nữa. Vì vậy điều này khó khăn cho việc ghi nhớ
sự kiện, kiến thức lịch sử. Thực tế chứng tỏ rằng rất nhiều em yêu
thích môn lịch sử, muốn giải đáp nhiều vấn đề của lịch sử như: Ai?
11
Khi nào? Ở đâu? Diễn ra như thế nào? Vì nội dung lịch sử quá nhiều,
trước khối lượng kiến thức quá lớn từ năm, tháng, địa danh, nhân vật,
diễn biến, kết quả, ý nghĩa…, học sinh khó có thể nhớ nổi và học
thuộc các kiến thức đó, nên cần hướng dẫn các em một số biện pháp
sau:
- Thứ nhất: Là ghi nhớ thời gian xảy ra sự kiện lịch sử: Mỗi bài,
mỗi chương, mỗi quá trình đều có những sự kiện gắn liền với thời
gian nhất định. Vì vậy cần dạy cho các em kỹ năng ghi nhớ lôgic biết
tìm ra điểm tựa để nhớ, lập dàn ý, lập bảng hệ thống hoá.
- Thứ hai: Là hướng dẫn học sinh ghi nhớ nhân vật lịch sử: Thông
thường mỗi sự kiện đều gắn liền với những nhân vật nhất định. Giáo
viên cần cân nhắc trong các sự kiện lịch sử, có những nhân vật lịch sử
quan trọng nào, cần làm nổi bật những nhân vật nào? Nhằm đạt yêu
cầu giáo dục nào? Thông thường có các cách: Lấy người để nói việc,
hoặc lấy việc để nói người, hoặc dựa vào các đặc điểm của nhân vật.
Ví dụ:
Nhân vật Việc (cống hiến, nét tiêu biểu…)
Nguyễn Trung
Trực
Người đốt cháy tàu Et-pê-răng (trên sông
Vàm Cỏ) với câu nói “Bao giờ người tây
12
nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người
Nam đánh tây”.

Tôn Thất Thuyết Người soạn Chiếu Cần vương.
Hoàng Hoa Thám Lãnh đạo khởi nghĩa nông dân Yên Thế.

3.3. Sử dụng sách giáo khoa nhằm phát triển tư duy học sinh
Việc sử dụng sách giáo khoa có vị trí, ý nghĩa quan trọng việc
phát huy tính tích cực trong giờ lên lớp và về nhà tự học của học sinh.
Tránh việc giáo viên đọc nội dung sách giáo khoa cho học sinh ghi
trên lớp, mà phải soạn bài giảng của mình, đồng thời chấm dứt tình
trạng học sinh thụ động học thuộc lòng trong sách giáo khoa và vở
ghi. Dĩ nhiên việc ghi nhớ chính xác những sự kiện cơ bản trong sách
giáo khoa và bài giảng của giáo viên là điều kiện không coi nhẹ trong
học tập lịch sử. Do đó cả thầy và trò cần tích cực "làm việc" với sách
giáo khoa thì mới góp phần nâng cao hiệu quả bài học.
Việc sử dụng sách giáo khoa đòi hỏi sự tích cực nỗ lực của học
sinh và giáo viên ở trên lớp, tự học ở nhà. Đồng thời cần làm tốt một
số điểm sau:
a. Sách giáo khoa để chuẩn bị bài giảng:
Trước khi soạn giáo án, cần phải nghiên cứu nội dung toàn bài
13
trong sách giáo khoa. Xác định kiến thức trọng tâm của bài, hiểu rõ
nội dung tinh thần mà tác giả mong muốn ở học sinh về giáo dục,
giáo dưỡng, phát triển.
Khi nắm được khái quát, cần đi sâu vào từng mục để tìm ra
kiến thức cơ bản của mục đó, sự liên quan của kiến thức đó với kiến
thức cơ bản của toàn bài. Mỗi mục có 2 đến 3 mục nhỏ có quan hệ
chặt chẽ với nhau. Không nên dàn đều về mặt thời gian mà xác định
đâu là kiến thức cơ bản, đâu là kiến thức lướt qua. Mỗi bài cần xác
định rõ góp phần cụ thể về mặt nội dung, tư tưởng, kỹ năng, kỹ xảo,
tức là ở cuối bài giáo viên phải xác định được cần cung cấp kiến thức
gì, giáo dục tư tưởng tình cảm, kỹ năng cần rèn.

Ví dụ: Bài 25. Kháng chiến lan rộng ra toàn quốc (1873-
1884): Học sinh cần nắm được những nét cơ bản của cuộc kháng
chiến chống Pháp của nhân dân ta từ 1873-1884; Các hiệp ước mà
triều đình Huế đã ký với thực dân Pháp; Vì sao với hiệp ước Pa-tơ-
nôt, triều đình phong kiến nhà Nguyễn đã sụp đổ và nước ta từ một
nước phong kiến độc lập trở thành nước thuộc địa- nửa phong kiến;
Hiểu rõ khái niệm nước “Thuộc địa- nửa phong kiến”: Thực chất là
nước thuộc địa, nhưng chế độ phong kiến được duy trì để làm tay sai
14
cho thực dân Pháp trong việc đàn áp bóc lột nhân dân.
b. Sách giáo khoa trong quá trình dạy học trên lớp
Trong giờ học, học sinh chăm chú nghe giảng tái hiện lại hình ảnh
của sự kiện lịch sử, ghi chép làm cho tư duy phát triển. Tính tích cực học
tập của học sinh sẽ được biểu hiện qua nét mặt, ánh mắt của thao tác, của
giác quan. Qua quan sát lớp học theo dõi thái độ của học sinh sẽ phát hiện
được có tích cực hoạt động tư duy hay không, từ đó mà điều chỉnh các
thao tác sư phạm cho phù hợp.
Học sinh theo dõi bài giảng rồi đối chiếu, so sánh với sách giáo
khoa, thậm chí nhiều học sinh không ghi chép trong sách giáo khoa.
Vì vậy bài giảng của giáo viên không nên lặp lại nhiều ngôn ngữ
trong sách giáo khoa, mà nên diễn đạt bằng lời của mình.
c. Sách giáo khoa học sinh sử dụng khi học ở nhà
Vở ghi trên lớp và sách giáo khoa là phương tiện, là nguồn kiến
thức chủ yếu để học sinh tự học ở nhà.
Ví dụ: Khi học “Các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần
Vương” và “Khởi nghĩa nông dân Yên Thế”. Cần nêu rõ thời gian,
lãnh đạo, địa điểm, diễn biến chính… Sau khi kết thúc bài học hướng
dẫn học sinh làm bài tập:
15
Tên khởi nghĩa Thời gian Lãnh đạo Địa điểm

Ba Đình
Bãi Sậy
Hương Khê
Yên Thế
Khi được giao những công việc cụ thể các em phải hoàn thành và
phải học tập một cách sáng tạo độc lập.
3.4. Sử dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực
a. Nêu câu hỏi đầu giờ
Khi bắt đầu giờ học, giáo viên có thể kiểm tra hoặc không kiểm
tra. Trước khi cung cấp kiến thức mới, có thể nêu câu hỏi định hướng
nhận thức cho học sinh. Câu hỏi loại này thường có tính chất bài tập,
trả lời được phải huy động kiến thức toàn bài.
Câu hỏi đầu giờ có hai tác dụng lớn:
- Thứ nhất: Xác định nhiệm vụ nhận thức của học sinh trong giờ
học.
- Thứ hai: Hướng dẫn học sinh vào kiến thức trọng tâm của bài
huy động cao nhất các hoạt động của giác quan học sinh trong quá
trình học tập: nghe, nhìn, kết hợp với tư duy có định hướng. Tuy
nhiên đặt câu hỏi không yêu cầu học sinh trả lời ngay, mà chỉ khi học
16
sinh học song bài mới thì mới có thể trả lời được.
Ví dụ: Bài 28. Trào lưu cải cách duy tân ở Việt Nam nửa
cuối thế kỷ XIX giáo viên có thể đưa ra câu hỏi lớn : Đứng trước
nguy cơ xâm lược của chủ nghĩa tư bản phương Tây, Nhật Bản đã
tiến hành cải cách - cải cách đã giúp Nhật Bản thoát khỏi là thuộc địa
và trở thành nước công nghiệp phát triển. Vậy đứng trước nguy cơ xâm
lược của thực dân Pháp, các sỹ phu yêu nước Việt Nam có yêu cầu phải
cải cách duy tân không? Và nội dung, kết cục của cải cách đó như thế
nào? Sau khi học xong bài học hôm nay các em sẽ có câu trả lời.
b. Xây dựng hệ thống câu hỏi ở trên lớp

Trong sách giáo khoa, thường mỗi mục có 1 đến vài câu hỏi,
đây là câu hỏi để giáo viên định hướng kiến thức. Giáo viên có thể sử
dụng luôn câu hỏi trong sách giáo khoa, hoặc có thể trẻ nhỏ câu hỏi
đó ra làm nhiều câu hỏi sao cho phù hợp với trình độ tư duy của các
đối tượng.
Xây dựng hệ thống câu hỏi ở trên lớp có nhiều câu hỏi về sự
phát sinh các sự kiện, hiện tượng lịch sử như :
- Loại câu hỏi nêu lên đặc trưng bản chất các hiện tượng lịch sử.
- Loại câu hỏi tìm hiểu kết quả, nguyên nhân dẫn đến kết quả đó,
17
ý nghĩa lịch sử đó.
Ví dụ: Bài 26. Phong trào kháng chiến chống Pháp những năm
cuối thế kỷ XIX. Chúng ta có thể nêu câu hỏi: Nguyên nhân của phong
trào Cần vương? Kết quả và ý nghĩa của cuộc khởi nghĩa lớn trong
phong trào Cần vương.
- Loại câu hỏi so sánh đối chiếu sự kiện hiện tượng lịch sử này
với sự kiện, lịch sử khác cùng loại.
- Đây là loại câu hỏi khó đối với học sinh, song câu hỏi này giúp
học sinh củng cố ôn tập kiến thức cũ, tiếp nhận kiến thức mới.
Ví dụ: Bài 27. Khởi nghĩa Yên Thế và phong trào kháng
chiến chống Pháp của đồng bào miền núi cuối thế kỷ XIX. Có thể
nêu câu hỏi : Khởi nghĩa nông dân Yên Thế có những đặc điểm gì
khác so với khởi nghĩa Ba Đình, Bãi Sậy, Hương Khê?.
3.5. Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học
Sử dụng đồ dùng trực quan tốt sẽ huy động được sự tham gia
của nhiều giác quan. Ngược lại nếu sử dụng không đúng mức thì sẽ bị
hạn chế hiệu quả và bị lạm dụng làm cho học sinh phân tán sự chú ý,
không tập trung vào những dấu hiệu cơ bản, chủ yếu và hạn chế năng
lực tư duy trừu tượng…Thông thường ta sử dụng một số loại đồ dùng
18

sau :
a. Sử dụng bản đồ
Trên bản đồ lịch sử các sự kiện được thể hiện trong một không
gian, thời gian , địa điểm cùng chung một số yếu tố địa lý nhất định,
nên kết hợp với lời nói sinh động để tạo biểu tượng .
Ví dụ: Mục II. Những cuộc khởi nghĩa lớn trong phong trào
Cần Vương. Bài 26- 1: Khởi nghĩa Ba Đình, giáo viên treo lược đồ
giới thiệu công sự Ba Đình nằm trong 3 làng Thượng Thọ, Mậu
Thịnh, Mỹ Khê mỗi làng có một cái đình, đứng ở đình làng này có
thể quan sát được đình ở làng kia. Vị trí của Ba Đình án ngữ đường
số 1 có thể tiếp tế lương thực bằng đường biển các công sự và hầm
chiến đấu kiên cố, nổi trên vùng nước mênh mông lầy lội có lợi cho
phòng thủ chiến đấu, quân Pháp nếu tấn công sẽ gặp rất nhiều khó
khăn. Song điểm yếu nhất của căn cứ là dễ bị cô lập, nếu quân Pháp
dùng lực lượng tấn công, bao vây, nghĩa quân sẽ khó rút lui.
Việc sử dụng bản đồ lịch sử góp phần phát triển khả năng quan
sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ, đặc biệt kỹ năng đọc bản đồ,
củng cố thêm kiến thức địa lý.
19
Lược đồ: Công sự phòng thủ Ba Đình
b. Sử dụng chân dung nhân vật lịch sử
Sử dụng chân dung nhân vật lịch sử có ý nghĩa rất quan trọng
trong dạy học lịch sử góp phần giáo dục, giáo dưỡng, phát triển tư
duy năng lực của học sinh. Chân dung nhân vật có hai loại là chính
diện và phản diện.
Qua việc sử dụng chân dung nhân vật lịch sử học sinh học tập
được đạo đức, tài trí từ đó rèn luyện theo tấm gương nhân vật chính
diện. Còn nhân vật phản diện cần hướng dẫn học sinh nhận xét những
biểu hiện tính gian ác, tham lam, xảo quyệt của nhân vật.
Khi sử dụng chân dung phải phân tích, giải thích, định hướng

20
cho học sinh tự mình đánh giá vai trò của nhân vật đó.
Ví dụ: Bài 30. Phong trào yêu nước chống Pháp từ đầu thế kỷ
XX đến năm 1918. Mục 1. Phong trào Đông Du (1905- 1909) với
nhân vật Phan Bội Châu cho các em quan sát hình dáng bên ngoài
của cụ để rút ra nhận xét. So sánh trang phục, cách ăn mặc của cụ với
nhân vật Hoàng Hoa Thám để thấy cụ là trí thức phong kiến theo xu
hướng dân chủ tư sản sinh ra trong một gia đình nho giáo, có truyền
thống yêu nước ở huyện Nam Đàn - Nghệ An, nơi có phong trào
chống Pháp phát triển mạnh mẽ. Ngay từ hồi còn trẻ Phan Bội Châu
đã sục sôi nhiệt tình cứu nước. Năm 17 tuổi viết “Hịch Bình Tây thu
Bắc”… Năm 19 tuổi hưởng ứng chiếu Cần vương. Năm 1895 dạy
học, tuyên truyền yêu nước… Năm 1904 cùng các đồng chí của mình
lập hội Duy tân… để các em thấy được Phan Bội Châu là nhân vật
yêu nước tiêu biêu trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đàu thế kỷ XX.
Đồng thời sử dụng câu chuyện, những cống hiến của các nhân
vật lịch sử không chỉ có sức truyền cảm giáo dục sâu sắc, mà còn
giúp các em suy nghĩ, đánh giá.
21
Chân dung: Phan Bội Châu (1867-1940)
c. Sử dụng hình vẽ, tranh ảnh trong sách giáo khoa
Đây là đồ dùng trực quan trong quá trình dạy học, có ý nghĩa
hết sức to lớn, đồng thời là một nguồn kiến thức không chỉ có tác
dụng giáo dục tư tưởng, tình cảm, tính cách mà còn phát triển tư duy
cho học sinh, từ việc quan sát sẽ đi tới tư duy trừu tượng. Đồng thời
thông qua quan sát, miêu tả tranh ảnh, học sinh được rèn kỹ năng
diễn đạt, lựa chọn ngôn ngữ từ đó có khả năng sử dụng ngôn ngữ của
các em ngày càng phong phú, trong sáng. Từ việc quan sát tranh ảnh
lịch sử giáo viên luyện cho các em có thói quen quan sát và khả năng
quan sát các vật thể một cách sinh động, khoa học, có phân tích giải

thích một cách khái quát, rút ra những kết luận lịch sử, nhờ những
việc làm thường xuyên như vậy mà các thao tác tư duy được rèn
22
luỵên, khả năng phát huy trí thông minh, sáng tạo của học sinh ngày
càng nâng cao.
3.6. Kết quả và số liệu đối chứng
- Dạy bài: Phong trào yêu nước chống Pháp từ đầu thế kỷ XX đến
năm 1918 ở 2 lớp 8A, 8B Trường THCS Cẩm Tú.
- Lớp 8A: Dạy theo phương pháp truyền thống.
- Lớp 8B: Dạy theo hướng áp dụng một số biện pháp phát huy
tính tích cực trong dạy học lịch sử.
- Kết quả thu được như sau:
Lớp áp dụng phương pháp phát huy tính tích cực.
Lớp/ Sĩ
số
Giỏi khá Trung bình Yếu kém
Số
lượng
% Số
lượng
% Số
lượng
%
8B/30 23 76,6 7 23,3 0 0
Lớp áp dụng phương pháp truyền thống.

Lớp /Sĩ số
Giỏi khá Trung bình Yếu kém
Số
lượng

% Số
lượng
% Số
lượng
%
23
8A/33 20 60,7 13 39,3 0 0
Kết luận: Trong cùng bài dạy nhưng áp dụng hai phương
pháp khác nhau như vậy thì việc áp dụng một số biện pháp phát huy
tính tích cực trong dạy học lịch sử cho kết quả cao hơn, khả quan
hơn.

Phần 3: Kết luận
1. Những kết luận quan trọng
Trong giáo dục không thể nói chính xác tuyệt đối của một đề tài
24
có lợi bao nhiêu về kinh tế mà điều quan trọng là hiệu quả của các đề
tài đối việc giảng dạy thực tiễn.
Ở đề tài này, tôi đã dành lượng thời gian là cả quá trình giảng
dạy để đúc kết và hiệu quả rất lớn là sự vận dụng của thầy và tiếp cận
của trò rất khả quan. Chắc chắn sự đơn điệu “khô khan”, “nhàm
chán” của môn lịch sử sẽ phần nào được khắc phục và pháp huy được
tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam nói chung
và ở lớp 8 nói riêng. Mỗi đồng nghiệp giảng dạy lịch sử chúng ta đều
có thể thực hiện được.
2. Ý nghĩa của kết luận quan trọng
Phương pháp dạy học lịch sử là một yếu tố quan trọng trong quá
trình dạy học lịch sử ở trường phổ thông, nó tuân thủ những quy luật
của việc dạy học nói chung. Song chức năng, nội dung, đặc điểm của
bộ môn học, việc xác định hệ thống phương pháp dạy học lịch sử

cũng có nét riêng làm cho học sinh biết những sự kiện cơ bản và hiểu
sâu sắc quá khứ, theo quy luật, từ đó hành động đúng và định hướng
đúng trong hiện tại và tương lai.
Vì vậy, việc xác định hệ thống phương pháp dạy học lịch sử
không chỉ quán triệt, thực hiện mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục ,
25

×