Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Kinh nghiệm sử dụng bản đồ tư duy trong giảng dạy hóa học lớp 8 THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (756.51 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
Nội dung

Trang

1.MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài ..........................................................................................1
1.2.
Mục
đích
của
đề
tài .................................................................... ..................1
1.3 Đối tượng nghiên cứu......................................................................................1
1.4Phương pháp nghiên cứu..................................................................................2
2.NỘI DUNG SKKN
2.1

sở

luận ..................................................................................................3
2.2 Thực trạng .................................................................................................. ...4
2.3 Kinh nghiệm sử dụng BĐTD trong dạy học hóa học 8 .............. .......... ..4-14
2.4 Hiệu quả của SKKN .....................................................................................15
3.KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1 Kết luận ........................................................................................................16
3.2 Kiến nghị .................................................................................................16-17
Tài liêu tham khảo...............................................................................................18


1. MỞ ĐẦU


1.1.Lí do chọn đề tài
Trong nhiều năm qua Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến giáo dục nói
chung và vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở nhà trường nói riêng ,vấn đề
này đã dược đề cập nhiều lần trong các văn kiện đại hội Đảng, phương hướng
phát triển giáo dục đào tạo đến năm 2020 là : Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy
học khắc phục cơ bản lối truyền thụ một chiều. Phát huy phương pháp dạy học
tích cực, sáng tạo hợp tác, giảm thời gian giảng lí thuyết, tăng thời gian tự học,
tự tìm hiểu cho học sinh . Giáo viên gắn bó chặt chẽ giữa học lý thuyết và thực
hành, đào tạo gắn với nghiên cứu khoa học, sản xuất và đời sống.
Định hướng đổi mới phương pháp giảng dạy hiện nay là tích cực hoá hoạt
động học tập của học sinh. Nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự
giác,chủ động, sáng tạo , rèn luyện thói quen và khả năng tự học , tinh thần hợp
tác , kỹ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập
và trong thực tiễn, tạo niềm tin niềm vui , hứng thú trong học tập
Việc phát triển tư duy cho học sinh luôn là một trong những ưu tiên hàng
đầu của mục tiêu giáo dục. Để hướng học sinh có cách thức học tập tích cực và
tự chủ, chúng ta không chỉ cần giúp các em khám phá các kiến thức mới mà còn
phải giúp các em hệ thống được những kiến thức đó. Việc xây dựng được một
chuỗi liên kết thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức có tác dụng về các mặt:
tổng hợp, ghi nhớ, phát triển nhận thức, tư duy, óc tưởng tượng và khả năng
sáng tạo…Một trong những công cụ hết sức hữu hiệu để tạo nên các “hình ảnh
liên kết” là Bản đồ tư duy (BĐTD).
Hoá học là môn học mới và rất khó đối với học sinh cấp trung học cơ sở,
đặc biệt là học sinh khối 8. Nhiều kiến thức và khái niệm rất trừu tượng, khó
nhớ. Việc truyền thụ kiến thức mới đã khó, việc củng cố và hoàn thiện kiến thức
là một vấn đề hết sức khó khăn.Vì vậy để nâng cao chất lượng dạy và học môn
hoá học ở trường THCS chúng ta luôn tìm cách đổi mới phương pháp và áp
dụng triệt để các phương pháp đó để hoạt động dạy và học đạt kết quả cao nhất.
Sử dụng bản đồ tư duy góp phần đổi mới PPDH các môn học nói chung và
môn hóa học nói riêng, vận dụng vào dạy học kiến thức mới hoặc hệ thống hóa

kiến thức một chủ đề, một bài, một chương giúp học sinh ghi nhớ, ôn tập, liên
kết các mạch kiến thức, phát huy tính tích cực , chủ động sáng tạo, phát triển tư
duy, gây hứng thú say mê học tập…cho học sinh một cách tốt nhất và hết sức
cần thiết .Vì vậy tôi chọn đề tài " Kinh nghiệm sử dụng bản đồ tư duy trong
giảng dạy hóa học lớp 8 THCS,, để nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng dạy
học bộ môn hóa học lớp 8 ngày càng tốt hơn .
1.2.Mục đích nghiên cứu.
Nhiệm vụ của đề tài này là tìm hiểu những kinh nghiệm sử dụng bản đồ tư
duy trong giảng dạy hoá học 8 THCS .
1.3.Đối tượng nghiên cứu
2


Soạn giảng bộ môn hóa 8 theo bản đồ tư duy .
Học sinh lớp 8 trường THCS Lưu Vệ Quảng Xương.
1.4. Phương pháp nghiên cứu .
- Phương pháp nghiên cứu dựa trên những tài liệu, công trình khoa học có
liên quan, phương pháp dạy học, lý luận dạy học, sách giáo khoa, sách giáo viên
hoá học lớp 8, tài liệu bồi dưỡng thường xuyên và một số sách báo, tạp chí...
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý kết quả thực nghiệm.

3


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1.Cơ sở lý luận
Bản đồ tư duy là gì?
Bản đồ tư duy (BĐTD) còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy,… là hình
thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ

đề hay một mạch kiến thức,… bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình
ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây là một sơ
đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết khắt khe như bản đồ địa lí, lich sử có thể vẽ
thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình
ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một chủ đề nhưng mỗi người có thể
“thể hiện” nó dưới dạng BĐTD theo một cách riêng, do đó việc lập BĐTD phát
huy được tối đa năng lực tư duy , sáng tạo của mỗi người.
BĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng (các
nhánh). Có thể vận dụng BĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến
thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương, mỗi học
kì... BĐTD một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ
thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù
hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não giúp con người khai thác
tiềm năng vô tận của bộ não. Nó được coi là sự lựa chọn cho toàn bộ trí óc
hướng tới lối suy nghĩ mạch lạc. Tony Buzan là người đi đầu trong lĩnh vực
nghiên cứu tìm ra hoạt động của bộ não. Theo Tony Buzan “một hình ảnh có giá
trị hơn cả ngàn từ…” và “màu sắc cũng có tác dụng kích thích não như hình
ảnh. Màu sắc mang đến cho BĐTD những rung động cộng hưởng, mang lại sức
sống và năng lượng vô tận cho tư duy sáng tạo”.
Cơ chế hoạt động của BĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các
mạng lưới liên tưởng (các nhánh). BĐTD là công cụ đồ họa nối các hình ảnh có
liên hệ với nhau vì vậy có thể vận dụng BĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức
mới, ôn tập, hệ thống hóa kiến thức,...
BĐTD rất phù hợp với đặc điểm tâm lí của học sinh cấp THCS (thích tư
duy bằng hình ảnh trực quan, màu sắc rực rỡ, thích khám phá những cái mới…)
BĐTD có thể vẽ trên giấy, bìa, bảng phụ,… bằng cách sử dụng bút chì
màu, phấn, tẩy,…Bất kì học sinh nào cũng có thể lập được dưới sự hướng dẫn
của thầy cô và bạn bè. BĐTD cũng có thể thiết kế trên powerpoint hoặc các
phần mềm bản đồ tư duy. Tuy nhiên, việc dùng giấy, bút chì, bút màu, tẩy,… để
vẽ BĐTD có ưu điểm là giúp người lập BĐTD dễ dàng phát triển ý tưởng và bổ

sung ý tưởng qua đó phát huy tối đa tính sáng tạo của mỗi người, phát triển
năng khiếu hội họa, sở thích của mỗi người, được tự do chọn màu sắc (xanh, đỏ,
vàng, tím,…), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong…), tự “sáng tác” nên mỗi
BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng cá nhân và cũng
do mỗi người tự làm nên càng yêu quí, trân trọng “tác phẩm” của mình. Với vật

4


liệu dễ kiếm, rất kinh tế cách làm đơn giản BĐTD có thể vận dụng được với bất
kì điều kiện nào của các nhà trường hiện nay.
2.2.Thực trạng sử dụng bản đồ tư duy trong giảng dạy ở các trường
THCS hiện nay.
Vấn đề ứng dụng (BĐTD) trong dạy học mới được áp dụng từ năm 20062007 trong Dự án « Ứng dụng công cụ phát triển tư duy – sơ đồ tư duy » của
nhóm Tư duy mới (New Thinking Group) Đại học Quốc gia triển khai.
Kể từ đó có một số giáo viên đã vận dụng bản đồ tư duy trong công việc
và trong dạy học. Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy hiện nay, việc sử dụng bản
đồ tư duy (BĐTD) trong dạy học vận còn hạn chế, một số giaó viên chưa nắm
vững, ít khi thực hiện hoặc có thực hiện thì cũng mang tính hình thức, chưa
phát huy được hiệu quả tích cực của nó .
Trong trường tôi, qua các giờ dự tôi thấy rằng, giáo viên các bộ môn đã
biết vận dụng BĐTD như một phương tiện dạy học mới, đã biết kết hợp với các
phương tiện dạy học khác để dạy học có hiệu quả cao hơn cách dạy thông
thường. Song còn một bộ phận giáo viên vẫn chưa vận dụng tối đa vào bài dạy
của mình hoặc sử dụng qua loa chưa phát huy hết tác dụng của việc sử dụng sơ
đồ tư duy trong dạy học . Mặt khác có 1 số học sinh học chưa tốt .lười suy
nghĩ,ngại tư duy quen với kiểu hoc vẹt theo lối mòn cũ...nên tiếp cận với
phương pháp dạy và học này còn hạn chế dẫn đến giờ học nhàm chán và kém
hiệu quả.
Trường THCS Lưu Vệ đối tượng học sinh không đồng đều một bộ phận

học sinh học tốt chăm chỉ,chịu khó tư duy, thích khám phá cái mới...Nên thuận
lợi cho việc đổi mới phương pháp . Song có 1 bộ phận số học sinh học chưa tốt
.lười suy nghĩ, ngại tư duy ...nên tiếp cận với phương pháp dạy và học mới còn
hạn chế dẫn đến giờ học nhàm chán và kém hiệu quả.
Mặt khác trường vừa sát nhập tâm lí giáo viên và học sinh có ít nhiều xáo
trộn, học sinh trong một lớp tăng lên, số lớp tăng, phòng học không đủ học 1 ca
phải học 2 ca ...Nên ít nhiều có ảnh hưởng đến việc đổi mới phương pháp .
Bản thân tôi nhận thấy : Sử dụng thành thạo và linh hoạt BĐTD trong dạy
học các môn nói chung và môn hóa học nói riêng sẽ mang lại nhiều kết quả tốt
và đáng khích lệ. Học sinh học được phương pháp học tập tích cực, tăng tính đa
dạng hóa cách học, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Với học sinh, việc
tự vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo, biết thâu chuỗi các kiến
thức một cách logic, lôi cuốn học sinh tham gia vào bài giảng, tạo điều kiện phát
triển năng khiếu hội họa, sở thích của học sinh…qua đó, các em tự chiếm lĩnh
kiến thức mới một cách nhẹ nhàng, tự nhiên với tinh thần say mê và hứng thú
học tập . Với các bài tập nhóm, sử dụng BĐTD còn giúp các em biết cách lập kế
hoạch, phân công công việc, hợp tác để hoàn thành yêu cầu của giáo viên.Chính
vì vây trước thực trạng trên tôi đã chỉ đạo giáo viên các bộ môn trong đó có môn
hóa học sử dụng triệt để bản đồ tư duy trong dạy học nhằm nâng cao chất lượng
dạy và học trong nhà trường.
2.3 Kinh nghiệm sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học hóa học 8
5


Hoá học lớp 8 là môn học mới đối với học sinh cấp trung học cơ sở, việc
tiếp thu kiến thức và hình thành các kĩ năng cơ bản đầu tiên của môn hoá học
đối với các em rất khó khăn. Việc hiểu bài đối với các em đã rất khó thì việc nhớ
và vận dụng kiến thức còn khó khăn hơn. Tôi thấy rất nhiều học sinh mặc dù có
hiểu bài nhưng các em vẫn chưa biết liên kết các kiến thức với nhau, chưa biết
vận dụng kiến thức cũ để tìm tòi xây dựng kiến thức mới.

Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học hoá học giúp giáo viên hệ thống kiến
thức một cách khoa học và logic, nội dung bài học được thể hiện trên bản đồ
một cách trực quan mà không bị bỏ sót ý. Không những thế, sử dụng BĐTD
cũng giúp giáo viên tạo ra các hình thức học tập khác nhau, sử dụng linh hoạt
các phương pháp dạy học, phối hợp sử dụng các thiết bị dạy học với nhau…góp
phần thiết thực vào việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
Việc sử dụng BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối
đa tiềm năng của bộ não. Tập cho học sinh có thói quen tự ghi chép hay tổng kết
một vấn đề, một chủ đề đã đọc, đã học theo cách hiểu của các em dưới dạng
BĐTD. Việc lập BĐTD còn giúp cho mỗi người phát triển khả năng thẩm mỹ, do
việc thiết kế nó phải bố cục màu sắc, các đường nét, các nhánh sao cho đẹp, sắp
xếp các ý tưởng một cách khoa học súc tích, hợp lý, trực quan, dễ hiểu, dễ “đọc”,
dễ tiếp thu.
Để ghi chép sử dụng BĐTD một cách hiệu quả , cần thực hiện những
nguyên tắc như: Làm bật ý tưởng chính; Tạo các nhánh; Dùng các từ khoá; Viết
các ý tưởng quan trong to hơn, gần ý tưởng chính hơn; Sử dụng biểu tượng và
hình minh hoạ…
Khi vẽ BĐTD không nên cho quá đầy đủ thông tin , như thế bộ não lười
hoạt động. Nên tìm các từ khoá và chỉ nên dùng vài từ cho mỗi điểm, BĐTD
càng đơn giản càng kích thích não tìm tòi phần thiếu.
Có thể sử dụng BĐTD trong tất cả các khâu của quá trình lên lớp từ kiểm
tra bài cũ, triển khai bài mới đến củng cố kiến thức, giao bài về nhà; từ việc thể
hiện lượng kiến thức nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến phức tạp; từ việc học cá nhân
đến nhóm, tập thể…
2.3.1. Sử dụng BĐTD trong việc kiểm tra kiến thức cũ
Vì thời gian kiểm tra bài cũ lúc đầu giờ không nhiều chỉ khoảng 5 - 7 phút nên
yêu cầu của giáo viên thường không quá khó,thông thường giáo viên chỉ yêu cầu
học sinh tái hiện lại một phần nội dung bài học bằng cách gọi học sinh lên bảng trả
lời câu hỏi. Cách làm này vô tình để nhiều học sinh rơi vào tình trạng học vẹt, đọc
thuộc lòng mà không hiểu. Do đó, cần phải có sự thay đổi trong việc kiểm tra, đánh

giá nhận thức của học sinh, yêu cầu đặt ra không chỉ kiểm tra “phần nhớ” mà cần
chú trọng đến “phần hiểu”. Cách làm này vừa tránh được việc học vẹt, vừa đánh
giá chính xác học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng học tập, không nhàm chán .
Sử dụng BĐTD vừa giúp giáo viên kiểm tra được phần nhớ lẫn phần hiểu của học
sinh đối với bài học cũ. Các bản đồ được giáo viên đưa ra ở dạng thiếu thông tin,
yêu cầu học sinh điền các thông tin còn thiếu và rút ra nhận xét về mối quan hệ của
các nhánh thông tin với từ khoá trung tâm.
6


Việc hoàn thiện thông tin ở các nhánh còn thiếu là một yêu cầu đơn giản,
không mất thời gian nhưng nếu học sinh không học bài thì sẽ không điền được
thông tin hoặc điền không chính xác.
Ví dụ: Trước khi học bài 10 (Hoá học 8), giáo viên yêu cầu 1 học sinh lên bảng
điền các thông tin còn thiếu để hoàn thiện BĐTD về công thức hoá học như sau:

Sau khi đã hoàn thiện bản đồ, học sinh cần rút ra nhận xét cách viết CTHH
của đơn chất , hợp chất và ý nghĩa của CTHH , hay nói cách khác là nhận xét về
mối quan hệ giữa các nhánh thông tin với từ khoá trung tâm. Đây chính là phần
hiểu bài của học sinh mà giáo viên nên căn cứ vào đó để đánh giá và nhận xét
việc học bài ở nhà của học sinh.
2.3.2. Sử dụng BĐTD trong việc giảng bài mới
Có thể sử dụng BĐTD hỗ trợ hình thành kiến thức mới. Mục tiêu bài học
được cô đọng trong một từ khóa hay hình ảnh đặt ở trung tâm. Hoặc giáo viên tự
xây dựng hoặc giáo viên hướng dẫn học sinh lần lượt vẽ các nhánh theo tiến
trình hình thành kiến thức bài học mới, kết hợp với các phương pháp: trực quan,
thảo luận nhóm, gợi mở - vấn đáp... để giúp học sinh tự khám phá kiến thức
mới. Từ mỗi nhánh lại triển khai các nhánh phụ và mỗi nhánh phụ lại đi sâu
khai thác những kiến thức mới và cụ thể hơn…
Nhìn vào BĐTD, học sinh sẽ nhìn thấy bức tranh tổng thể kiến thức vừa

học một cách dễ dàng.
Ví dụ: Bài 26 Oxit (Hoá học 8), để biết được định nghĩa , cách phân loại
và gọi tên oxit . Nếu giáo viên sử dụng phương pháp trình bày truyền thống thì
vấn đề vẫn được giải quyết nhưng không hiệu quả vì vấn đề trình bày sẽ dàn trải,
BĐTD xung quanh từ khóa đã mang lại cái nhìn tổng thể về oxit.

7


AxOy
Fe2O3 ; Na2O ; SO3 ; P2O5

thường

(Nếu kim loại có nhiều hóa trị thì gọi kèm hóa trị)

Giáo viên nên tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân hoặc theo nhóm nhỏ,
dựa vào nội dung trong sách giáo khoa, Giáo viên thể hiện từ khoá trên bảng,
yêu cầu học sinh trả lời và điền tiếp thông tin hoặc mỗi học sinh tự vẽ BĐTD
vào vở của mình.Việc vẽ BĐTD theo nhóm nên thực hiện trước khi nghiên cứu
tài liệu mới, kiến thức mới để cả nhóm tìm chiến lược giải quyết vấn đề hoặc
cũng có thể thực hiện để hệ thống hoá kiến một chủ đề, một chương. Sau khi
mỗi nhóm “vẽ” xong, đại diện của mỗi nhóm hoặc một số thành viên trong
nhóm “thuyết trình” BĐTD cho cả lớp nghe để thảo luận, góp ý, bổ sung (nếu
cần thiết).
Đặc biệt khi sử dụng cùng giáo án điện tử, BĐTD được thiết kế trên phần
mềm với các hiệu ứng lần lượt hiện ra các thông tin để học sinh so sánh với bài
của mình thì bài giảng rất hiệu quả.
2.33. Sử dụng BĐTD trong việc củng cố kiến thức
Sử dụng BĐTD để củng cố kiến thức bài học là vệc làm rất có hiệu quả,

đặc biệt đối với môn hoá học. Giáo viên sử dụng BĐTD để thể hiện lại những
nội dung cơ bản của bài học, tránh bị bỏ sót ý, khắc sâu những kiến thức trọng
tâm, liên kết các kiến thức trong bài để học sinh có cái nhìn tổng thể về các kiến
thức vừa học,từ đó vận dụng để giải các bài tập và định hướng trong việc tìm ra
kiến thức cho bài tiếp theo. Học sinh sử dụng BĐTD để thể hiện lại sự hiểu biết
của mình qua việc tiếp thu nội dung bài học, đồng thời là một kênh thông tin
phản hồi mà qua đó giáo viên có thể đánh giá nhận thức của học sinh, định
hướng cho từng học sinh và điều chỉnh cách dạy, cách truyền đạt của mình cho
phù hợp.
Với bản thân, tôi sử dụng BĐTD trong việc củng cố kiến thức nhiều hơn tất
cả. Hấu hết cuối tiết học nào tôi cũng cho học sinh hình thành BĐTD về nội
dung vừa học bằng nhiều hình thức khác nhau, phụ thuộc vào thời gian giờ học
còn nhiều hay ít như :cho học sinh lên bảng vẽ BĐTD hoặc ra câu hỏi củng cố
8


bài rồi phát vấn, học sinh đứng dưới lớp trả lời.Từ nội dung câu hỏi giáo viên
hình thành BĐTD trên bảng,có nhấn mạnh kiến thức trọng tâm và giới thiệu nội
dung bài tiếp theo có liên quan đến kiến thức vừa học. sau đó học sinh vẽ lại
BĐTD này vào vở ở cuối bài vừa học.
Ví dụ một số BĐTD tôi thiết kế dùng để củng cố bài như sau:

....

9


Thể lỏng: sát nhau, trượt lên nhau

Thể rắn:. Khít nhau, giao động tại chỗ

Thể lỏng: Sát nhau trượt lên nhau
Thể khí: Xa nhau, chuyển động nhanh

x = 1…
x = 2…
Cu, O2 , Al, C,
H2

AxBy
H2O, Ca(OH)2 , CuSO4

10


Nước: là hợp chất tạo bởi 2 ngtố H, O

Phân tử gồm 2 ngtử H và 1 ngtử O
H2O

Sôi ở 1000C, hóa rắn ở 00C, D = 1g/ml

H2
Một số oxit kim loại (K2O; Na2O; BaO …)

Nhiều Oxit Axit (trừ SiO2) -> Axit

-> dd bazơ
tương ứng

Cần thiết cho đời sống hàng ngày, SXCN, NN, XD, GTVT...


Có thể dùng BĐTD vừa để củng cố kiến thức vừa giới thiệu bài mới theo các
BĐTD sau:
là chất khí,không màu, k mùi
Tính chất vật lí

nhẹ nhất trong tất cả các khí
ít tan trong nước
Tác dụng với oxi
0

Hi®ro

Tính chất hoá học

t
2 H 2 + O 2 
→ 2 H 2O

Tác dụng với oxit KL
t0 → H O + Cu
H 2 + CuO 
2

Dùng làm nhiên liệu
Ứng dụng

Là nguyên liệu điều chế NH3, …
Là chất khử …..
Nạp vào khí cầu, bóng thám không


Điều chế
chÕ

11


BĐTD này dùng để củng cố kiến thức về Hiđro ở tiết 47- 48 và giới thiệu
mảng kiến thức sẽ học ở tiết 49 :Điều chế Hiđro .
2.3.4.BĐTD hỗ trợ cho tiết tổng kết ôn tập kiến thức.
Tổng kết, ôn tập, hệ thống hoá kiến thức là việc làm bắt buộc không thể
thiếu với giáo viên hoá học. Tuy nhiên không ít các tiết ôn tập củng cố đã không
được giáo viên chú ý. Một số giáo viên thường cho học sinh nhắc lại một vài
khái niệm, một vài kiến thức, chữa một vài bài tập, thế là xong. Với cách dạy
như thế, học sinh không nắm được một cách khái quát kiến thức chương đó,
không để lại một dấu ấn đáng nhớ nào và vì thế kiến thức các em nắm được
không sâu sắc và chỉ nhớ được láng máng vài bài tập về chương đó.
Với thế mạnh của BĐTD là kiến thức được hệ thống dưới dạng sơ đồ, các
đường nối là sự diễn tả mạch lôgic kiến thức hoặc các mối tương đương, cộng
thêm màu sắc của các đường nối, màu sắc của các đơn vị kiến thức, sẽ giúp học
sinh nhìn thấy "Bức tranh tổng thể"cả một phần kiến thức đã học.
VD: Có thể sử dụng BĐTD để tổng kết chương I như sau:
TỔNG KẾT CHƯƠNG I

KHHH

CTHH

NTHH


Nguyên tử

p n
(+)

CHẤT

Đơn chất
(do 1 NTHH
tạo nên)

Phân tử

Hợp chất
(do từ 2 NTHH
tạo nên)

p n
(+)

e
(-)

Kim loại
Phi kim

Hc Vô cơ
Hc Hữu



e
(-)

Số p = số e

Một số cách hướng dẫn học sinh xây dựng BĐTD trong tiết ôn tập, củng cố.
Cách 1: Giáo viên cho một số câu hỏi và bài tập để học sinh chuẩn bị ở
nhà. Trong tiết ôn tập, củng cố, giáo viên hướng dẫn học sinh tự lập BĐTD,
sau đó cho học sinh trao đổi kết quả với nhau và sau cùng đối chiếu với BĐTD
do giáo viên lập ra. Từng em có thể bổ sung hay sửa lại BĐTD của mình và coi
đó là tài liệu ôn tập của chính mình.
Cách 2: Giáo viên lập BĐTD mở. Trong giờ ôn tập, củng cố, giáo viên chỉ
12


vẽ một số nhánh chính, thậm chí không đủ nhánh, hoặc thiếu (hoặc thừa) thông
tin…trong tiết học đó, giáo viên yêu cầu học sinh tự bổ sung, thêm hoặc bớt
thông tin… để cuối cùng toàn lớp lập được một BĐTD ôn tập, củng cố kiến thức
chương đó tương đối hoàn chỉnh và hợp lí. Với cách làm này sẽ lôi cuốn được
sự tham gia của học sinh (Suy nghĩ nhiều hơn, trao đổi nhiều hơn, tranh luận
nhiều hơn) và giờ ôn tập tổng kết chương sẽ không tẻ nhạt và có chất lượng hơn.
Cách 3: Chia nhóm và từng nhóm lập BĐTD. Tiếp đó các nhóm lên trình
bày BĐTD của nhóm, các nhóm khác nhận xét lẫn nhau.
Cách 4: Giáo viên cho học sinh tự lập BĐTD ôn tập, củng cố chương ở
nhà, coi đó là một bài tập cần thực hiện. Sau đó giáo viên thu lại, phân loại, nhận
xét, đánh giá và giới thiệu một số BĐTD tương đối hợp lí và đẹp để cả lớp tham
khảo về các mặt như sau:
- Nội dung cơ bản cần ôn tập tổng kết kiến thức trong chương đã đủ chưa?
Còn sót kiến thức nào không ?
- Cách trình bày, cấu trúc của BĐTD đã hợp lí chưa?

- Màu sắc sử dụng đã hợp lí chưa? Đã chú ý làm nổi bật nội dung kiến thức
cơ bản chưa?
- Nhìn tổng thể có hợp lí không, có hấp dẫn lôi cuốn được người học
không?
Cứ học hết mỗi chương giáo viên nên giao cho mỗi học sinh vẽ BĐTD vào
giấy A3 để tổng kết kiến thức của chương , sau đó chấm lấy điểm hệ số một. Tôi
thật sự bất ngờ trước những sáng tạo của các em, cùng một nội dung kiến thức
nhưng các em có rất nhiều cách thể hiện khác nhau, rất ngộ nghĩnh, và sinh
động, hấp dẫn thu hút người xem.Giờ trả bài giáo viên nhận xét rất kỹ, khen và
giới thiệu một số BĐTD đẹp ,sáng tạo,thông minh. Động viên và hướng dẫn
những học sinh làm chưa tốt. Sau đó hướng dẫn các em dán những BĐTD tự
mình vừa làm vào góc học tập để lúc nào ngồi học cũng nhìn thấy và có thể sử
dụng như một bảng tra cứu nếu chẳng may quên kiến thức.Qua cách làm này tôi
thấy học sinh rất hứng thú say mê học tập và sáng tạo ra những BĐTD hay . Các
em cũng được ôn tập một cách đầy đủ chi tiết về kiến thức vừa học nên đến giờ
kiểm tra viết các em làm bài rất tốt.(vì bài kiểm tra một tiết thường sau ngay bài
tổng kết chương). Chất lượng học tập của các em được nâng lên rõ rệt.
Sau đây tôi xin giới thiệu một số BĐTD tổng kết ôn tập chương 4: oxi –
không khí và chương 5 : Hiđro - Nước, của học sinh thể hiện.

13


14


15


2.4.Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm .

Để làm sáng tỏ khả năng sử dụng Bản đồ tư duy.Trong quá trình giảng dạy
tôi luôn sử dụng phương pháp dạy học này nhằm khuyến khích các em tích cực
hoạt động trong mỗi tiết học.
Để kiểm nghiệm chất lượng đại trà tôi tiến hành thực nghiệm với một tiết
dạy cụ thể . Tôi chọn 2 lớp 8. Qua thăm dò, xem xét, khẳng định 2 lớp có trình
độ ngang nhau.
Tên bài dạy :
Tiết 40
OXIT
- Lớp thực nghiệm 8B (có 38 học sinh) – Sử dụng BĐTD khi củng cố bài .
- Lớp đối chứng 8C (có 36 học sinh) – Không sử dụng BĐTD khi củng
cố bài.
- Kiểm tra đánh giá bằng hình thức: Trắc nghiệm - kiểm tra viết 15'.
- Kết quả kiểm tra thu được như sau:
Điểm < 5
Điểm 5 - 6
Điểm 7 - 8
Điểm 9 – 10
Lớp Sĩ số
Số HS
%
Số HS
%
Số HS
% Số HS
%
8B
38
3
7,9

16
42,1
12
31,6
7
18,4
8C

36

10

27,8

15

41,6

9

25

2

5,6

* Nhận xét:
- Ở lớp 8C - Khi dạy tôi không sử dụng BĐTD để củng cố bài nên học sinh
hiểu bài không sâu, nhớ bài không nhiều do đó kết quả kiểm tra chất lượng học
tập của các em rất thấp. Loại yếu chiếm tỷ lệ nhiều - khá giỏi chiếm tỷ lệ ít.

- Ở lớp 8B – Khi dạy tôi sử dụng BĐTD để củng cố bài nên các em hiểu
bài ngay tại lớp, nhớ nhanh, nhớ sâu, nhớ lâu, nhớ chính xác nội dung bài học,
khắc phục tình trạng học trước quên sau , biết vận dụng những điều đã biết để
tìm kiếm kiến thức mới... Do đó chất lượng học tập của các em nâng lên rõ rệt,
yếu kém giảm xuống nhiều. Tỷ lệ khá giỏi tăng lên.

16


3.KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

3.1 Kết luận
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi khi sử dụng BĐTD trong dạy học
một số kiến thức Hoá học 8.
Như vậy BĐTD là một công cụ hữu ích trong giảng dạy và học tập ở
trường phổ thông cũng như ở các bậc học cao hơn vì chúng giúp giáo viên và
học sinh trong việc trình bày các ý tưởng một cách rõ ràng, suy nghĩ sáng tạo,
tích cực và độc lập. Giúp học sinh tiếp thu bài mới được nhẹ nhàng hơn,dễ hiểu,
dễ nhớ hơn, học sinh sẽ học được phương pháp học tập, tăng tính chủ động, sáng
tạo và phát triển tư duy. Khắc sâu những kiến thức trọng tâm, liên kết các kiến
thức trong bài để học sinh có cái nhìn tổng thể hơn về các kiến thức vừa học, từ
đó có thể vận dụng để giải các bài tập và định hướng trong việc tìm ra kiến thức
cho bài tiếp theo.
Nhìn chung, có thể sử dụng BĐTD trong tất cả các khâu của quá trình lên
lớp từ kiểm tra bài cũ, triển khai bài mới đến củng cố kiến thức, giao bài về nhà;
từ việc thể hiện lượng kiến thức nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến phức tạp; từ việc
học cá nhân đến nhóm, tập thể…Giáo viên cần nghiên cứu nội dung chương
trình, nội dung bài học, lựa chọn ra những phần, những bài có khả năng áp dụng
BĐTD. Sau đó, giáo viên phân tích nội dung bài dạy, tìm ra những vấn đề,
những biểu tượng, khái niệm cần hình thành và truyền đạt cho học sinh, xác

định các dạng bài tập với BĐTD phù hợp với đối tượng học sinh, quỹ thời gian,
điều kiện trường lớp, trang thiết bị dạy học.
Tuy nhiên, không phải bất cứ nội dung nào, bài học nào cũng có thể sử
dụng BĐTD và cũng không phải sử dụng một cách áp đặt cho mọi giờ học.
Cũng như các thiết bị dạy học khác, BĐTD cũng có những ưu điểm và hạn chế
riêng của nó, do đó sử dụng BĐTD cần sử dụng đúng lúc, đúng cách, phù hợp
với đối tượng học sinh và quan trọng là đảm bảo việc truyền tải nội dung bài
học.
Nghệ thuật của người thầy giáo là biết lựa chọn, sử dụng mỗi phương pháp
một cách hợp lí và sáng tạo và phải hiểu được đối tượng học sinh của mình để
vận dụng .Vì vậy trong quá trình giảng dạy tôi luôn cố gắng tìm hiểu về học sinh
thật nhiều và luôn học hỏi các kinh nghiệm hay của đồng nghiệp cùng với lòng
say sưa, nhiệt tình,tâm huyết với nghề nghiệp tất cả vì học sinh , luôn tìm tòi ,
học hỏi và sáng tạo mới có thể đi đến thành công.
3.2 Kiến nghị
Tôi xin đề xuất với PGD hàng năm tổ chức các buổi chuyên đề để tổng kết,
đúc rút kinh nghiệm và nhân rộng những sáng kiến kinh nghiệm hay để cho giáo
viên các nhà trường học hỏi và áp dụng trong công tác giảng dạy của mình
nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
Trên đây là những kinh nghiệm sử dụng bản đồ tư duy trong giảng dạy hóa
hoc 8, và tôi đã áp dụng có hiệu quả nhưng không tránh khỏi những hạn chế, sơ
suất khi thực hiện và viết thành đề tài. Do đó tôi rất mong được sự thông cảm,

17


giúp đỡ, đóng góp ý kiến của đồng nghiệp và hội đồng đánh giá SKKN cấp trên
để tôi rút kinh nghiệm và hoàn chỉnh đề tài tốt hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ


Thanh Hóa, ngày 10 tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.

Nguyễn Thị Thủy

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Đình Châu, Sử dụng bản đồ tư duy – một biện pháp hiệu quả hỗ
trợ học sinh học tập môn toán.
2. Trần Đình Châu, Đặng Thị Thu Thủy, Sử dụng BĐTD góp phần TCH
HĐ học tập của HS.
3. Trần Đình Châu, Đặng Thị Thu Thủy, Thiết kế, sử dụng BĐTD giúp HS
tự học và tập dượt nghiên cứu toán học.
4.Adam khoo: Tôi tài giỏi- Bạn cũng thế – Nhà xuất bản phụ nữ.

19



×