Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Một số phương pháp tiến hành thí nghiệm nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy môn hóa học lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.16 KB, 16 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Hóa học là một trong các môn khoa học cơ bản có đóng góp quan trọng vào
sự phát triển của xã hội. Quá trình phát triển của khoa học công nghệ đòi hỏi sự ra
đời của các vật liệu mới, thuốc chữa bệnh... Bên cạnh những vai trò của hóa học
với nền khoa học kĩ thuật thì hóa học còn giúp học sinh giải thích được nhiều hiện
tượng thú vị trong đời sống hàng ngày, các hiện tượng trong thiên nhiên....
Môn Hóa học có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo
nói chung, của trường THCS nói riêng. Môn Hóa học ở trường THCS có những
đặc trưng riêng. Nội dung kiến thức của môn học này luôn luôn gắn liền với sự vật
và hiện tượng xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Việc khám phá và tiếp thu kiến
thức phụ thuộc rất nhiều vào các thí nghiệm bởi đặc điểm của khoa học Hóa học
vốn là khoa học thực nghiệm và nguyên tắc dạy học là nguyên tắc trực quan “học
đi đôi với hành”.
Làm các thí nghiệm Hóa học có tác dụng to lớn trong việc phát triển nhận
thức của học sinh, phù hợp với nguyên lý giáo dục, giúp các em quen dần với
phương pháp nghiên cứu khoa học, vì qua đó các em được tập quan sát, tư duy
biện chứng, rèn luyện tính cẩn thận, kiên trì, góp phần giáo dục kỹ năng sống,
chuẩn bị cho học sinh tham gia hoạt động thực tế. Do được tự mình tiến hành các
thao tác thí nghiệm… các em có thể nhanh chóng làm quen với những dụng cụ và
thiết bị dùng trong đời sống và sản xuất sau này.
Trong chương trình Hóa học 8, học sinh đã làm quen với các thao tác thí
nghiệm đơn giản, tập đưa ra “Dự đoán’’ và được giáo viên hướng dẫn làm thí
nghiệm để kiểm tra tính đúng đắn của dự đoán. Lên lớp 9 phương pháp này được
phát triển và được nâng cao hơn, học sinh thường xuyên đưa ra nhiều dự đoán
khác nhau về cùng một hiện tượng, tự lực đề xuất các phương án thí nghiệm, và
thực hành thí nghiệm dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Như vậy, bên cạnh nhiệm
vụ trang bị kiến thức và những hiểu biết cần thiết, trong mỗi bài học Hóa học cần
nâng cao khả năng tự tiến hành thí nghiệm (thực hành) của học sinh, rèn luyện và
phát triển ở các em những kĩ năng, năng lực nhận thức và góp phần hình thành
những phẩm chất, nhân cách phù hợp với yêu cầu của xã hội hiện nay.


Đối với Trường THCS Nga Trung có chất lượng giáo dục chưa cao và
không đồng đều ở nhiều môn học nói chung, riêng bộ môn Hóa học đa số các em
được hỏi đều cho là môn học khó và các em thấy ngại học vì phải thao tác các thí
nghiệm và hiểu bài học thông qua thí nghiệm thực tế mà bản thân các em thấy khó
khăn với việc thao tác các thí nghiệm. Với nhiều năm giảng dạy Hóa học THCS,
qua việc thực hiện các thí nghiệm Hóa học tôi đã tiến hành nghiên cứu, áp dụng:
"Một số phương pháp tiến hành thí nghiệm nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy
môn Hóa học lớp 9".
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Rèn luyện cho Học sinh kỹ năng thao tác thực hành thí nghiện Hóa học
thành thạo giúp cho việc thực hành, thí nghiệm môn Hóa học được thành công và
làm cho học sinh tin tưởng vào chân lí khoa học, từ đó các em hứng thú học tập
môn Hóa học góp phần nâng cao chất lượng dạy và học.
1


III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Học sinh khối 9 Trường THCS Nga Trung – Nga Sơn
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1. Kiểm tra đánh giá kết quả làm thí nghiệm của Học sinh ngay từ đầu năm
học lớp 9.
2. Hướng dẫn học sinh phương pháp thực hành thí nghiệm hiệu quả trong các
giờ học có thí nghiệm Hóa học.
3. Kiểm tra quá trình chuẩn bị, thao tác và kết quả thực hành bằng phiếu đánh
giá.

2


B. NỘI DUNG

Năm học 2015 – 2016 giữ chức vụ Phó Hiệu trưởng và tham gia trực tiếp
giảng dạy môn Hóa học Khối 9 Trường THCS Nga Trung, cùng với kinh nghiệm
nhiều năm làm công tác giảng dạy tôi đã đi sâu tìm hiểu thực trạng của vấn đề và
tiến hành nghiên cứu áp dụng sáng kiến vào giảng dạy.
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
- Thí nghiệm hóa học là nguồn gốc, xuất xứ của kiến thức, qua quan sát thí
nghiệm, học sinh thấy được hiện tượng, từ đó có nhận xét và rút ra kết luận vấn đề
đang nghiên cứu, tức là từ thực tiễn đi đến tư duy lôgic có cơ sở khoa học.
- Qua thí nghiệm tạo cho học sinh hứng thú học tập, nâng cao lòng yêu khoa
học, phát huy được khả năng sáng tạo, tính tò mò ham học hỏi .
- Thí nghiệm hóa học còn giúp học sinh có khả năng vận dụng những kiến
thức đã học được trong nhà trường, trong phòng thí nghiệm vào các lĩnh vực trong
tự nhiên, trong sản xuất và đời sống của con người.
- Thí nghiệm hóa học có tác dụng phát triển tư duy, giáo dục thế giới quan
duy vật biện chứng, củng cố niềm tin vào khoa học của học sinh, giúp học sinh
hình thành những đức tính tốt của con người mới: Làm việc khoa học, thận trọng,
ngăn nắp, gọn gàng. Vì vậy việc hướng dẫn học sinh kĩ năng thực hành trong môn
Hóa học ở trường THCS là nhiệm vụ hết sức quan trọng của người giáo viên.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
1. Thực trạng:
1.1. Về cơ sở vật chất:
Một số thiết bị và hóa chất thí nghiệm qua một thời gian sử dụng đã bị hỏng
không còn đáp ứng được yêu cầu của bộ môn nên có một số thí nghiệm giáo viên
chỉ thông báo kết quả, học sinh không được trực tiếp làm thí nghiệm.
Nhà trường đã có phòng học bộ môn rất thuận lợi cho việc tổ chức các tiết
học có thực hành, thí nghiệm.
Trước những tình hình đó, tôi cố gắng phát huy những thuận lợi của nhà
trường, đồng thời khắc phục khó khăn, tìm mọi biện pháp để các thí nghiệm Hóa
học được thành công.
1.2. Về giáo viên:

Một số giáo viên thì ngại dạy môn Hóa học vì nó có nhiều thí nghiệm mà
giáo viên nghiên cứu chưa kĩ các phương pháp dạy thí nghiệm Hóa học nên vẫn
còn lúng túng trong cách tổ chức hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm. Một số giáo
viên khác lại ngại không cho học sinh thực hành thí nghiệm mà chỉ giáo viên làm
cho học sinh quan sát vì kĩ năng làm của các em quá chậm ảnh hưởng đến thời
lượng 45 phút của tiết học.
Ở một số thí nghiệm giáo viên làm không thành công từ đó làm học sinh
hoang mang tiếp thu kiến thức một cách bị thụ động ép buộc.
1.3. Về học sinh:
Học sinh còn rất lúng túng khi tiến hành thí nghiệm. Các em làm thí nghiệm
rất chậm đôi khi còn không theo đúng trình tự thí nghiệm dẫn đến kết quả thí
nghiệm chưa được chính xác, làm mất nhiều thời gian, ảnh hưởng rất nhiều đến
chất lượng của tiết học.
3


Vì hóa học là môn học khá mới và là một môn học khó, trừu tượng, nhiều
hiện tượng phức tạp nên phần lớn các em có tâm lí sợ học bộ môn. Bên cạnh đó
theo chương trình đổi mới sách giáo khoa Hóa học như hiện nay phần lớn các tiết
dạy Hóa học đều có thí nghiệm học sinh rất thích làm thí nghiệm nhưng kĩ năng
thực hành và xử lí kết quả thí nghiệm của các em còn rất lúng túng, thậm chí có thể
bị nguy hiểm do hóa chất và dụng cụ bị vỡ. Từ lí thuyết áp dụng vào thực tế còn
chưa tự tin, chưa thành thạo.
2. Kết quả thực trạng:
Qua thực tế tìm hiểu việc làm thí nghiệm hoá học của học sinh lớp 9 trong
giờ học Hoá học ở Trường THCS Nga Trung ngay từ đầu năm học 2015 - 2016
cho kết quả sau:
Lớp

Sĩ số


Làm thí nghiệm
thành thạo
SL
%

Làm thí nghiệm
chưa thành thạo
SL
%

9A
25
4
16,0
21
84,0
9B
26
6
23,1
20
76,9
Tổng
51
10
19,6
41
80,4
Từ thực trạng trên dẫn tới:

+ Chưa phát huy hết tác dụng của đồ dùng dạy học
+ Phương pháp dạy học chưa được đổi mới
+ Học sinh bị động trong việc tiếp thu kiến thức
+ Chất lượng giáo dục chưa được nâng cao như mục tiêu đề ra……
III. CÁC GIẢI PHÁP SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
Với thực trạng việc làm thí nghiệm hóa học của học sinh trong giờ học Hóa
học ở Trường THCS Nga Trung từ các năm học trước và kết quả khảo sát đầu năm
học 2015 - 2016 như trên tôi đã mạnh dạn đưa một số phương pháp tiến hành thí
nghiệm Hóa học áp dụng vào năm học 2015 - 2016 đối với đối tượng học sinh lớp
9 như sau:
Tôi đã tổng hợp các thí nghiệm Hóa học lớp 9 và phân chia các thí nghiệm
thành các loại thí nghiệm, với mỗi bài lại tìm ra các hình thức tổ chức khác nhau
đối với mỗi thí nghiệm:
1- Phân loại thí nghiệm: Phân theo mức độ hoạt động tích cực của học sinh
- Thí nghiệm biểu diễn; (ít tích cực): GV hoặc 1 HS thực hiện TN biểu
diễn: HS quan sát hiện tượng nhưng chỉ để chứng minh có phản ứng xảy ra hoặc
một tính chất, một quy luật mà GV đã nêu. ra.
- Thí nghiệm thực hành. (Rất tích cực): Nhóm HS trực tiếp thực hiện,
nghiên cứu thí nghiệm.
2- Các hình thức tổ chức thí nghiệm thực hành:
- Thí nghiệm thực hành đồng loạt;
- Thí nghiệm thực hành phối hợp;
- Thí nghiệm thực hành cá thể;
- Thí nghiệm thực hành ở ngoài lớp.
Trong đề tài này tôi sẽ trình bày các điểm cần lưu ý và những ví dụ minh hoạ
đối với mỗi loại thí nghiệm, với mỗi hình thức tổ chức thí nghiệm.
PHẦN I. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN THÍ NGHIỆM HÓA HỌC

4



1. Thí nghiệm biểu diễn
1.1. Nguyên tắc thực hiện:
Thí nghiệm biểu diễn là thí nghiệm do giáo viên hoặc một (một vài) học
sinh trình bày ở trên lớp. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của các thí nghiệm
biểu diễn, bản thân tôi luôn cố gắng thực hiện tốt các nội dung sau:
- Thí nghiệm phải đảm bảo thành công: Nếu thí nghiệm thất bại học sinh sẽ
mất tin tưởng vào bài học và ảnh hưởng xấu đến uy tín của giáo viên. Muốn làm
tốt được điều này, giáo viên phải:
+ Am hiểu bản chất của các hiện tượng Hóa học xảy ra trong thí nghiệm.
+ Nắm vững cấu tạo, tính năng, đặc điểm của từng dụng cụ thí nghiệm cùng
với những trục trặc có thể xảy ra để biết cách kịp thời khi phải sửa chữa. Muốn
vậy, giáo viên phải làm trước nhiều lần trong khi chuẩn bị bài.
+ Giáo viên phải làm trước thí nghiệm để đảm bảo thành công, tránh trường
hợp thí nghiệm thất bại do chất lượng hóa chất, dụng cụ…
- Thí nghiệm phải ngắn gọn một cách hợp lí: Nếu thí nghiệm kéo dài sẽ khó
tập trung sự chú ý của học sinh và dễ cháy giáo án. Muốn vậy giáo viên phải hạn
chế tối đa thời gian lắp ráp thí nghiệm. Thí nghiệm đảm bảo thành công ngay
không phải làm lại. Nếu thí nghiệm kéo dài có thể chia ra nhiều bước, mỗi bước
coi như một thí nghiệm nhỏ.
- Thí nghiệm phải đảm bảo cho cả lớp quan sát: Để làm tốt điều này, giáo
viên cần phải:
Chuẩn bị dụng cụ thích hợp, có kích thước đủ lớn, có cấu tạo đơn giản thể
hiện rõ được bản chất của hiện tượng cần nghiên cứu.
Sắp xếp dụng cụ một cách hợp lí. Điều này biểu hiện:
+ Chỉ bày những dụng cụ cần thiết cho thí nghiệm, không bày la liệt những
dụng cụ chưa dùng đến hoặc chưa dùng xong.
+ Bố trí sao cho cả lớp đều nhìn rõ. Muốn như vậy nên sắp xếp dụng cụ trên
mặt phẳng cao so với mặt đất, tốt nhất dùng mặt bàn giáo viên. Nếu không được
phải đem đến tận bàn cho học sinh xem. Giáo viên cũng cần chú ý không che lấp

thí nghiệm khi thao tác.
- Sử dụng thí nghiệm đối chứng: Nhằm giúp học sinh rút ra kết luận một
cách chính xác nhất và toàn diện nhất về hiện tượng hoặc tính chất của chất thể
hiện trong thí nhgiệm.
-Thí nghiệm phải đảm bảo an toàn cho người và dụng cụ thí nghiệm: Đối
với các chất dễ cháy, nổ phải để xa ngọn lửa và nếu nó bốc cháy thì phải dùng cát
hoặc bao tải ướt phủ lên. Với những chất độc hại như clo, khí SO 2 thì phải hết sức
thận trọng phải bố trí thí nghiệm ở nơi thoáng gió như cạnh cửa theo hướng hút
gió ra ngoài.
- Để phát huy được tác dụng của thí nghiệm biểu diễn:
+ Thí nghiệm phải được tiến hành hữu cơ với bài học, tuỳ vào mục đích của
bài học mà đưa thí nghiệm đúng lúc.
+ Thí nghiệm phải tiến hành kết hợp với phương pháp giảng dạy khác nhất
là phương pháp đàm thoại và vẽ hình.
+ Thí nghiệm chỉ có hiệu quả tốt khi có sự tham gia tích cực, có ý thức của
học sinh. Vì vậy giáo viên phải làm cho học sinh hiểu rõ mục đích của thí nghiệm,
5


cách bố trí thí nghiệm và các dụng cụ của thí nghiệm. Học sinh trực tiếp quan sát
và rút ra kết luận cần thiết.
1.2. Ví dụ minh hoạ:
Căn cứ vào mục đích, có thể chia thí nghiệm biểu diễn thành 3 loại:
1.2.1. Thí nghiệm nêu vấn đề
Thí nghiệm này nhằm nêu lên vấn đề cần nghiên cứu tạo ra tình huống có
vấn đề làm tăng hiệu quả của dạy học.
Ví dụ 1: BÀI 19:
SẮT
Khi tìm hiểu Tính chất hóa học của Sắt giáo viên có thể làm thí nghiệm Fe
tác dụng với H2SO4 đặc nguội.

Chuẩn bị:
Dụng cụ: 2 ống nghiệm, giá, kẹp…..
Hóa chất: Fe dạng phoi bào, dd H2SO4 đặc, HNO3 đặc
Thí nghiệm:
Thí nghiệm sắt tác dụng với HNO3 đặc, nguội và H2SO4 đặc, nguội. GV
nêu vấn đề: Sắt tác dụng với HCl, H 2SO4 loãng nhưng liệu sắt có (tác dụng) phản
ứng với HNO3 đặc nguội và H2SO4 đặc, nguội không?
Cách tiến hành thí nghiệm:
GV tiến hành thí nghiệm: cho mảnh sắt vào axit H2SO4 đặc nguội rồi yêu
cầu học sinh quan sát và nêu hiện tượng.
HS: Không có hiện tượng xảy ra. Vậy không có PƯHH.
GV: Vậy vấn đề được giải quyết. Sắt không phản ứng với H 2SO4 đặc, nguội
và tương tự như vậy Fe không phản ứng với HNO 3 đặc, nguội (vì có tính thụ
động)
1.2.2. Thí nghiệm giải quyết vấn đề:
Thí nghiệm thuộc bài này được thực hiện giải quyết vấn đề đặt ra sau phần
nêu vấn đề. Bao gồm hai loại thí nghiệm:
1.2.2.1. Sử dụng thí nghiệm nghiên cứu có so sánh đối chiếu(Thí nghiệm đối
chứng) để rút ra tính chất hoá học của chất:
Là thí nghiệm tiến hành nghiên cứu vấn đề đặt ra thông qua đó giáo viên
hướng dẫn học sinh đi đến khái niệm cần thiết.
Ví dụ 1:
Bài 39 :
BENZEN
Phần III: Tính chất hoá học
Mục 2: Ben zen có phản ứng thế với brom không?
Chuẩn bị: Dụng cụ: Ống nghiệm, kẹp gỗ, ống nhỏ giọt, giá đựng ống nghiệm
Hoá chất: Benzen, dung dịch Brôm
Thí nghiệm nghiên cứu:
- Giáo viên giới thiệu thí nghiệm: cho 2ml brôm lỏng vào ống nghiệm chưa 3 ml

benzen rồi cho 1 gam bột Sắt vào ống nghiệm sau đó đun trên ngọn lửa đèn cồn.
Học sinh quan sát thảo luận trả lòi câu hỏi:
? Màu sắc của brôm thay đổi như thế nào?
- GV: thuyết trình kết hợp mô hình động biểu diễn sự thay đổi liên kết trong phân
tử benzen.
Fe
→ C6H5Br(l) + HBr(k)
PTHH:
C6H6(l) + Br2(l) 
t0
đỏ nâu

không màu

6


? Phản ứng trên thuộc loại nào?
Học sinh nghe và ghi nhớ: Benzen phản ứng thế với brom lỏng (màu đỏ)
Giáo viên : ? Còn dung dịch brom thì thế nào?
- Thí nghiệm đối chứng: Cho benzen vào dung dịch brom màu vàng da cam
→ Giáo viên yêu cầu học sinh nhận xét hiện tượng và giải thích
Học sinh nhận xét: Không có hiện tượng gì xảy ra
→ Benzen không làm mất màu dung dịch brom
Giáo viên : ? Em có nhận xét gì về tính chất của benzen?→ Học sinh rút ra kết
luận: Benzen tham gia phản ứng thế với brom lỏng còn không tham gia phản ứng
cộng với dung dịch brôm (hay không làm mất màu dung dịch brom)
Ví dụ 2:
Bài 19: SẮT
Nghiên cứu tính chất hoá học của sắt tác dụng với dung dịch muối.

GV: Sắt tác dụng được với dd muối nào sau đây: CuSO4, MgSO4
HS dự đoán và sau đó kiểm tra bằng thực nghiệm thí nghiệm theo nhóm và
điền kết quả vào bảng sau:
TN nghiên cứu: Săt tác dụng với CuSO4.
Chuẩn bị: Đinh sắt (loại đinh 10), dây đồng, dung dịch CuSO 4, FeSO4, Ống
nghiệm, giá ...
Tiến hành:
- Cho đinh sắt vào ống nghiệm (1) đựng dd muối CuSO4
- Cho dây đồng vào ống nghiệm (2) đựng dung dịch FeSO4
HS quan sat, nhận xét hiện tượng:
Ô1. - Có chất rắn màu đỏ bám quanh đinh sắt
- Dung dịch màu xanh nhạt dần và xuất hiện màu lục nhạt.
Ô 2. Không hiện tượng
PT: Fe(r) +
CuSO4(dd) →
FeSO4(dd)
+
Cu(r)
Trắng xám

Xanh lam

Lục nhạt

Đỏ

Sau đó GV cho đại diện nhóm trình bày kết quả. Viết PTHH. GV hỏi: Có phải kim
loại sắt đều tác dụng với các dung dịch muối không?
Vậy điều kiện để phản ứng giữa sắt với dd muối thực hiện được là gì? Từ
đó dẫn đến kết luận về tính chất của sắt tác dụng với dd muối. (Chú ý hoá trị của

sắt)
Kết luận: Những kim loại mạnh có thể đẩy được kim loại yếu hơn ra khỏi dung
dịch muối
1.2.2.2. Thí nghiệm chứng minh
Là thí nghiệm dùng để chứng minh những giả thuyết được đặt ra.
Ví dụ: Bài 26: CLO
Thí nghiệm chứng minh Clo có tính chất hóa học của phi kim.
Chuẩn bị: Dụng cụ và hóa chất: đèn cồn, 2 bình clo, dây đồng, dây sắt xoắn
hình lò xo, kẹp sắt.
GV đặt vấn đề: Để chứng minh Clo có Tính chất hóa học của phi kim chúng
ta tiến hành làm một số thí nghiệm.
Cách tiến hành thí nghiệm:
GV phát phiếu học tập cho học sinh. Nội dung: Nêu hiện tượng và lập
PTHH cho các phản ứng trong thí nghiệm sau:
7


TN 1: Đồng tác dụng với Clo
GV dùng kẹp sắt kẹp dây đồng đốt nóng trên ngọn lửa đèn cồn rồi đưa
nhanh vào bình đựng Clo (Đồng thời dùng miếng bìa cứng đậy kín miệng bình)
TN 2: Sắt tác dụng với Clo
GV thao tác tương tự như trên
HS: TN1; Dây đồng cháy sáng sinh ra khói trắng
PTHH: Cu + Cl2 -to> CuCl2
TN 2: Dây sắt cháy sáng và sinh ra khói màu đỏ nâu
PTHH: 2Fe + 3Cl2 -to> 2FeCl3
GV. Tương tự như vậy clo tác dụng với hầu hết kim loại khác sinh ra muối
Clorua. Vậy chứng tỏ Clo có tính chất nào của phi kim ?
KL: Clo tác dụng với kim loại tạo muối
1.2.2.3. Thí nghiệm củng cố:

Thí nghiệm thuộc loại này dùng để củng cố kiến thức đã nghiên cứu bao
gồm cả những thí nghiệm nói lên ứng dụng của kiến thức Hóa học trong đời sống
và giải bài tập.
Ví dụ:
Bài 26:
CLO
Mục: Clo tác dụng với H2O.
Học xong mục này GV ra một bài tập: Thiết kế thí nghiệm nhận biết các chất khí
HCl, Cl2, O2 bằng phương pháp hóa học.
Chuẩn bị: 3 bình đựng khí HCl, Cl2, O2, giấy quỳ, cốc đựng nước, kẹp, ống hút...
Tiến hành thí nghiệm: Lấy 3 mẩu giấy quỳ nhúng vào nước rồi lần lượt cho vào
từng bình.
HS tiến hành, quan sát và giải thích:
- Bình làm giấy quỳ tím chuyển đỏ là HCl
- Bình làm giấy quỳ tìm chuyển đỏ sau mất màu ngay là Cl2
- Bình không làm giấy quỳ tìm chuyển màu là O2
KL: Giấy quỳ tím ẩm là thuốc thử để nhận biết khí Cl2
2. Thí nghiệm thực hành Hóa học:
2.1. Nguyên tắc thực hiện:
Thực hiện phương pháp này phải tuân thủ nguyên tắc sau:
- Thí nghiệm do tự tay học sinh tiến hành dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
- Thí nghiệm đơn giản, dễ làm, ít thao tác và nhanh cho hiện tượng rõ ràng.
- Thí nghiệm không độc hại hoặc dễ cháy nổ.
- Nêu cao tinh thần kỉ luật trong phòng thực hành.
2.2. Một số kỹ năng cần rèn luyện cho học sinh THCS:
- Sử dụng chai lọ, cốc và các dụng cụ thủy tinh: Bất kì một loại dụng cụ nào
khi sử dụng đều phải được rửa sạch, nếu rửa bằng nước không sạch thì phải rửa
bằng xà phòng hoặc bằng hóa chất cần thiết và sau đó lại rửa bằng nước cho sạch.
Rửa xong úp ngược miệng xuống dưới cho ráo nước. Với ống nghiệm phải rửa
bằng chổi lông.

- Đo khối lượng các vật: Bằng cân kĩ thuật.
- Tiến hành một số động tác cơ bản của thí nghiệm thực hành hóa học:
* Lấy chất lỏng từ lọ ra ống nghiệm hay dụng cụ khác, nếu lấy với lượng
nhỏ ta dùng ống hút, lấy với lượng từ 2ml trở lên thì rót nhưng không để hóa chất
8


chảy ra lọ và quay nhãn lên trên. Nút lọ khi mở đặt ngửa và khi không lấy nữa thì
đậy nút ngay để tránh nhầm lẫn. Ống hút sau khi lấy hóa chất xong phải hút nước
rửa sạch, để khi dùng hút hóa chất khác không bị trộn lẫn với hóa chất đã dùng.
* Lấy hóa chất rắn phải dùng thìa khô, sạch, lấy xong cũng rửa thìa lại cho
sạch và để vào giá cho khô ráo. Nếu làm thí nghiệm có sử dụng hỗn hợp các chất
rắn thì các chất rắn phải lấy riêng biệt ra các dụng cụ để xác định tỉ lệ khối lượng
đúng theo kĩ thuật rồi mới trộn đều bằng thìa hay dụng cụ thủy tinh như đũa hay
thìa thủy tinh rồi mới cho vào dụng cụ thí nghiệm.
* Hòa tan hóa chất rắn vào chất lỏng: cho chất rắn vào chất lỏng từng lượng
nhỏ một và dùng đũa thủy tinh khuấy tan dần, tránh hiện tượng bỏ chất rắn quá
nhiều không tan hết.
* Hòa tan chất lỏng vào chất lỏng: Cho lượng chất lỏng này vào chất lỏng
kia từng lượng nhỏ một, nếu dụng cụ hòa tan là ống nghiệm thì khi cho lượng nhỏ
chất lỏng vào ta gõ nhẹ đáy ống nghiệm vào gan bàn tay hay ngón tay trỏ, tuyết
đối không dùng ngón tay bịt miệng ống nghiệm mà xóc lên, xóc xuống.
* Đun nóng các chất trong ống nghiệm hay bình cầu: Dùng đèn cồn hơ
nóng nhẹ, đều ống nghiệm hay bình cầu rồi mới đặt đèn cồn cố định đun nóng tập
trung. Các dụng cụ sau khi đun nóng không được để vào chỗ có nước hoặc trên
nền gạch men để tránh vỡ dụng cụ và điều đó cũng có nghĩa không được rủa dụng
cụ khi còn nóng.
2.3. Chuẩn bị tốt dụng cụ thí nghiệm thực hành, đảm bảo đủ về số lượng,
chất lượng:
Điều này đòi hỏi giáo viên cần nghiên cứu kĩ chương trình thực hành ngay

từ đầu năm học, xác định cần dụng cụ gì, số lượng bao nhiêu, còn thiếu những gì
để có kế hoạch giải quyết trong năm bằng cách mua thêm hoặc tự làm hoặc hướng
dẫn học sinh tự làm.
2.3.1. Chuẩn bị của giáo viên:
Giáo viên sau khi nhận lớp, tìm hiểu kĩ về tình hình học tập của lớp về bộ
môn, sau đó phối hợp với giáo viên chủ nhiệm tiến hành việc phân loại học sinh
lớp thành từng nhóm, trong nhóm phải có đủ các đối tượng học sinh theo năng lực
học tập của bộ môn, có nhóm trưởng, nhóm phó để khi nhóm trưởng vắng thì
nhóm phó thay thế, có thư kí để ghi chép hiện tượng xảy ra trong quá trình làm thí
nghiệm, ý kiến thống nhất trong phần giải thích hiện tượng và viết PTHH đối với
mỗi thí nghiệm.
Nhóm trưởng chịu trách nhiệm phân công, điều hành hoạt động của nhóm
theo hướng dẫn của giáo viên, yêu cầu nhóm trưởng khi phân công các thành viên
trong nhóm phải thường xuyên đổi vị trí làm việc của mỗi thành viên để tất cả học
sinh trong nhóm đều được làm thí nghiệm, qua nhiều lần thí nghiệm mỗi học sinh
sẽ có kĩ năng thực hành tốt hơn.
Một trong những điều kiện giúp học sinh thực hiện thành công các thí
nghiệm thực hành là giáo viên phải tổ chức cho học sinh, nhóm học sinh nghiên
cứu trước bản hướng dẫn làm thí nghiệm thực hành do giáo viên soạn ra, học sinh
phải biết trước về mục đích của thí nghiệm thực hành, học sinh cần làm gì và làm
như thế nào? giải thích các hiện tượng xảy ra trong thí nghiệm, rút ra kết luận
đúng.
9


Giáo viên cần xác định nội dung và phương pháp thực hiện các thí nghiệm
thực hành sao cho phù hợp với đặc điểm, nội dung, thời gian cho phép và cơ sở
vật chất, thiết bị dạy học có liên quan của trường.
Căn cứ vào nội dung của thí nghiệm thực hành, giáo viên cần làm trước thí
nghiệm để viết bản hướng dẫn cụ thể và chính xác, cố gắng chuẩn bị tốt các dụng

cụ, hóa chất, phương tiện chuẩn bị cho thí nghiệm thực hành.
Tất cả dụng cụ thí nghiệm phải được để trên bàn thí nghiệm, không để các
em đi lại nhiều.
Những thí nghiệm với chất độc, chất dễ nổ như KClO 3, P, S, Cl2… hoặc axit
đặc,… không nên cho học sinh làm hoặc nếu làm giáo viên cần căn dặn, hướng
dẫn thật kỹ, cụ thể từng thao tác, hướng dẫn học sinh cách phòng tránh, cấp cứu
tạm thời khi sự cố không hay xảy ra để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho học sinh.
Giáo viên cần lưu ý các thí nghiệm thực hành trong giờ dạy lí thuyết hoặc
trong tiết thực hành phải đơn giản, rõ ràng, đảm bảo tính chính xác cao, mỹ thuật,
chú ý dùng lượng nhỏ hóa chất theo đúng hướng dẫn trong sách giáo khoa.
Trong quá trình học sinh thực hành giáo viên phải giám sát công việc làm
của học sinh nhóm, giữ trật tự chung, giúp đỡ kịp thời các nhóm khi cần thiết
nhưng không được làm thay cho học sinh.
2.3.2. Chuẩn bị của học sinh:
Nội quy học sinh cần thực hiện:
1/Học sinh phải nghiên cứu trước ở nhà các thí nghiệm mà các em phải thực
hiện trong giờ học hoặc trong tiết thực hành về những công việc cụ thể như: Dụng
cụ, hóa chất cho mỗi thí nghiệm, cách tiến hành từng thí nghiệm, dự đoán hiện
tượng xảy ra, viết PTHH nếu có và dự kiến về phần giải thích hiện tượng.
2/Trên bàn thí nghiệm không được để đồ dùng riêng như: Cặp sách, nón,
mũ….
3/Thực hiện đúng nội quy phòng thí nghiệm, quy tắc phòng độc, phòng
cháy và chú ý bảo quản dụng cụ, hóa chất thí nghiệm…
4/ Phải biết tiết kiệm hóa chất, hóa chất đã sử dụng không được đổ chung
vào lọ hóa chất ban đầu.
5/ Trong khi làm thí nghiệm không được nói chuyện riêng, không đi lại làm
mất trật tự chung, không tự động lấy dụng cụ, hóa chất ở bàn khác.
6/ Khi làm thí nghiệm xong phải rửa dụng cụ, lau dọn vệ sinh, sắp xếp dụng
cụ, hóa chất đúng nơi quy định.
2.4. Trình tự tổ chức một thí nghiệm thực hành:

Bước 1: Kiểm tra công tác chuẩn bị.
1/Về công tác chuẩn bị của học sinh, nhóm học sinh.
Sau khi giáo viên nêu mục tiêu của bài học, bài thực hành, giáo viên yêu
cầu học sinh các nhóm cho biết công tác chuẩn bị của học sinh , nhóm học sinh
đối với các thí nghiệm gồm:
Bảng 1
STT
Tên
Dụng cụ, hóa chất
Cách tiến
Dự đoán
thí nghiệm
hành thí
hiện tượng
nghiệm
1
10


Sau khi học sinh báo cáo công tác chuẩn bị của mình, giáo viên nhận xét,
chỉ ra những thiếu sót trong công tác chuẩn bị của học sinh trong từng thí nghiệm
để học sinh bổ sung vào bản chuẩn bị thí nghiệm của mình cho phù hợp, sau đó
giáo viên cho học sinh nhóm kiểm tra dụng cụ, hóa chất trên bàn thực hành.
2/ Kiểm tra dụng cụ, hóa chất thí nghiệm.
Học sinh nhóm kiểm tra dụng cụ, hóa chất trên bàn thực hành của nhóm.
Báo cáo với giáo viên những dụng cụ, hóa chất còn thiếu hoặc dụng cụ bị hư hỏng
để bổ sung kịp thời .
Bước 2: Giáo viên hướng dẫn chung:
Giáo viên nhắc lại nội dung, mục đích của toàn bộ công việc, hướng dẫn kĩ
thuật lắp ráp dụng cụ thí nghiệm, cách tiến hành từng thí nghiệm.

Giáo viên không chỉ hướng dẫn làm những công việc gì, làm như thế nào? Mà còn
giải thích cho học sinh vì sao lại làm như vậy.
Giáo viên cần báo trước cho học sinh một số sai lầm có thể mắc phải trong
khi làm thí nghiện dẫn tới kết quả thí nghiệm sai hoặc gây nguy hiểm cho học sinh
như:
Thí nghiệm nung hỗn hợp Fe với S ở lớp 9 bài “thực hành tính chất hóa
học của nhôm và sắt”, học sinh phải lấy lượng hóa chất theo đúng tỉ lệ Fe:S là
7:4.Khi nung hỗn hợp cần hơ đều ống nghiệm, sau đó tập trung ngọn lửa của đèn
cồn vào hỗn hợp , chú ý ngọn lửa phải lớn để đủ nhiệt cho hỗn hợp phản ứng , nếu
không phản ứng rất khó xảy ra.
Thí nghiệm đồng tác dụng với Axit sunfuric đặc trong bài Axit sunfuric,
lượng axit lấy chỉ 1ml ( khoảng 10 giọt) cho vào ống nghiệm, kép ống nghiệm
nằm ở 1/3 phía trên của ống nghiệm, khi đun nóng cần hơ nóng đều ống nghiệm
sau đó mới tập trung ngọn lửa vào nơi có chứa hóa chất, chú ý ngọn lửa nhỏ để dễ
quan sát hiện tượng.
Bước 3: Học sinh tiến hành thí nghiệm.
Trong quá trình làm thí nghiệm các thành viên phải thực hiện đúng phân
công của nhóm trưởng, tập trung quan sát hiện tượng thí nghiệm, thảo luận để đi
đến thống nhất về các hiện tượng xảy ra, đồng thời bàn bạc để đưa ra nhận xét
thống nhất đúng với hiện tượng xảy ra và rút ra kết luận chung hợp lí.
Bước 4: Viết tường trình thí nghiệm với bài thực hành:
Sau khi hoàn thành các thí nghiệm, giáo viên yêu cầu các nhóm làm vệ
sinh, rửa dụng cụ, thu dọn hóa chất để dụng cụ, hóa chất còn lại đúng theo quy
định như lúc ban đầu, lưu ý hóa chất dễ cháy, nổ không để gần nhau sau đó học
sinh tiến hành viết tường trình thí nghiệm theo cá nhân hoặc nhóm theo yêu cầu
của giáo viên.
Mẫu báo cáo thực hành được giáo viên hướng dẫn ở tiết học trước theo mẫu sau:
Tên nhóm:……..
BẢN TƯỜNG TRÌNH THÍ NGHIỆM
Họ tên học sinh:……………………

Tên bài thực hành:…………….
Lớp:……
Bảng 2
STT Tên thí
Cách tiến hành hiện tượng quan Giải thích, viết PTHH
nghiệm
thí nghiệm
sát được
nếu có
(1)
(2)
(3)
(4)
11


Mục (1), (2), (3) (ở bảng 1) học sinh chuẩn bị trước ở nhà, có điều chỉnh phù hợp
sau phần hướng dẫn chung của giáo viên.
Học sinh chỉ viết nội dung các mục (3), (4) (Bảng 2) sau khi tiến hành thí nghiệm
và được nhóm thảo luận đi đến thống nhất.
2.5. Ví dụ minh hoạ:
Ví dụ 1:
Tiết 14-Bài 9: Tính chất hoá học của muối
Phần 1: Tính chất hoá học của muối
Mục 1: Muối tác dụng với kim loại
Dụng cụ: Ống nghiệm, kẹp gỗ, ống nhỏ giọt, giá đựng ống nghiệm, thìa lấy hoá
chất
Hoá chất: Cu, AgNO3, ZnCl2
Hướng dẫn HS: Cho dây Cu vào Ô1 đựng bạc nitrat, cho dây Ag vào Ô2 đụng
đồng nitrat. Trả lời câu hỏi

1. Hiện tượng ở 2 ống nghiệm như thế nào?
2. Giải thích và lập PTHH
3. Có phải bất cứ dd muối nào cũng tác dụng với tất cả kim loại không?
HS tiến hành theo nhóm rồi trả lời:
- Học sinh nêu hiện tượng:
Ô1: Xuất hiện Ag màu xám bám vào dây Cu và dung dịch có màu xanh lam.
- Giải thích: Do Cu đã đẩy Ag ra khỏi dung dịch muối AgNO 3 và một phần Cu bị
hoà tan tạo thành dung dịch Cu(NO3)2 có màu xanh lam.
→ Cu(NO3)2(dd) + 2Ag(r)
- PTHH:
Cu(r) + 2AgNO3(dd) 
Ô2 : Không có hiện tượng gì.
Từ đó học sinh thấy được rằng: Không phải tất cả kim loại đều tác dụng với dung
dịch muối.
Giáo viên : ? Qua 2 thí nghiệm trên rút ra được kết luận gì?
Kết luận: Dung dịch muối có thể tác dụng với kim loại tạo thành muối mới và
kim loại mới.
Ví dụ 2: Tiết 23- Bài 17: Dãy hoạt động hoá học của kim loại
- Dụng cụ: Ống nghiệm, kẹp gỗ, ống nhỏ giọt, giá đựng ống nghiệm, thìa lấy hoá
chất
- Hoá chất: FeSO4 , CuSO4, AgNO3 , Cu(NO3)2, HCl, dung dịch phenolphtalein,
Fe, Cu, Ag, Na
- Thí nghiệm 1: Cho đinh Sắt vào Ô1 đựng Đồng sunfat, cho dây Cu vào Ô2 đựng
Sắt sunfat. Trả lời câu hỏi
1. Hiện tượng ở 2 ống nghiệm như thế nào?
2. Giải thích và lập PTHH
3. Fe và Cu, kim loại nào hoạt động hóa học mạnh hơn? Vì sao?
HS tiến hành theo hướng dẫn rồi trả lời
+ Ống nghiệm 1: Xuất hiện chất rắn màu đỏ bám vào đinh sắt.
→ FeSO4 (dd) + Cu(r)

PTHH:
Fe(r) + CuSO4 (dd) 
màu xanh

màu đỏ

+ Ống nghiệm 2: Không có hiện tượng gì
- Học sinh kết luận: Fe hoạt động hóa học mạnh hơn Cu vì Fe đẩy được Cu ra khỏi
dung dịch muối tạo ra kim loại Cu màu đỏ còn Cu không đẩy được Fe.

12


=> Fe hoạt động mạnh hơn Cu → xếp Fe đứng trước Cu: Fe,Cu
PHẦN II. CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC THÍ NGHIỆM THỰC HÀNH:
1. Thí nghiệm thực hành đồng loạt:
Loại thí nghiệm này tất cả các nhóm học sinh đều cùng làm một thí nghiệm,
cùng thời gian và cùng một kết quả. Đây là thí nghiệm được sử dụng nhiều nhất
hiện nay vì có nhiều ưu điểm. Đó là:
Trong khi làm thí nghiệm các nhóm trao đổi giúp đỡ nhau và kết quả trung
bình đáng tin cậy hơn.
Việc chỉ đạo của giáo viên tương đối đơn giản vì mọi việc uốn nắn hướng
dẫn, sai sót, tổng kết thí nghiệm đều được hướng dẫn đến tất cả học sinh.
Bên cạnh những ưu điểm, còn một số hạn chế:
Do trình độ các nhóm không đồng đều nên có nhóm vội vàng trong khi
thao tác dẫn đến kết quả không đạt.
Đòi hỏi nhiều bộ thí nghiệm giống nhau gây khó khăn về thiết bị.
2. Thí nghiệm thực hành loại phối hợp:
Trong hình thức tổ chức này học sinh được chia thành nhiều nhóm khác nhau,
mỗi nhóm chỉ làm thí nghiệm một phần đề tài trong thời gian như nhau, sau đó phối

hợp các kết quả của các nhóm lại sẽ được kết quả cuối cùng của đề tài.
Ví dụ: Trong bài 17 “Dãy hoạt động hóa học”. bài này có 4 thí nghiệm Giáo
viên phân công:
Nhóm 1, 2: Làm thí nghiệm 1.
Nhóm 3, 4: Làm thí nghiệm 2.
Nhóm 5, 6: Làm thí nghiệm 3.
Nhóm 7, 8: Làm thí nghiệm 4
=>Kết quả thí nghiệm của các nhóm khái quát thành dãy hoạt động hóa học
đơn giản: Na, Fe, H, Cu, Ag
- Ưu điểm của loại thí nghiệm này:
+ Tiết kiệm thời gian cho tiết học. Rèn luyện cho học sinh ý thức lao động
tập thể. Kích thích tinh thần thi đua làm việc giữa các nhóm.
- Một số hạn chế của loại thí nghiệm này:
+ Mỗi nhóm không được rèn luyện đầy đủ các kĩ năng làm toàn diện thí
nghiệm.
Vì vậy, nếu có thời gian, cần khắc phục bằng cách cho các nhóm luân phiên
nhau làm lại thí nghiệm.
3. Thí nghiệm thực hành ở ngoài lớp:
Qua thời gian giảng dạy, tôi thấy rằng khi hướng dẫn học sinh những thí
nghiệm đơn giản học sinh tự làm ở nhà giúp học sinh hiểu sâu hơn về kiến thức đã
được học trên lớp, góp phần phát triển khả năng tư duy cũng như các kĩ năng của
học sinh. Đồng thời qua những thí nghiệm Hóa học đó giúp học sinh khám phá,
giải thích được nhiều hơn các kiến thức Hóa học có liên quan tới đời sống hàng
ngày cũng như những ứng dụng của kiến thức Hóa học đó vào trong sản xuất và
đời sống. Qua đó tăng hứng thú trong học tập
Để thí nghiệm Hóa học có thể thực hiện được trong trong điều kiện ở nhà
thì phải bảo đảm những yêu cầu sau:

13



Thứ nhất: Thí nghiệm phải bảo đảm dễ làm, làm được trong thời gian
ngắn, dụng cụ thí nghiệm hóa chất đơn giản dễ tìm kiếm. Đối với những thí
nghiệm phải cần nhiều thời gian thì giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện ở nhà.
Mặt khác, thí nghiệm phải bảo đảm an toàn và không gây ra bất kỳ sự nguy hiểm
nào.
Thứ hai: Giáo viên phải hiểu rõ bản chất của thí nghiệm, phải chắc chắn
rằng thí nghiệm thành công và thí nghiệm phải liên quan tới kiến thức của bài học.
Thứ ba: HS ý thức đúng đắn vai trò của thí nghiệm, tích cực hợp tác với
bạn bè và giáo viên giảng dạy. Đối với những thí nghiệm được hướng dẫn về nhà
làm thì phải làm theo đúng hướng dẫn của giáo viên và phải giải quyết được vấn
đề mà giáo viên nêu ra.
Sau đây tôi xin đưa ra một vài thí nghiệm hướng dẫn học sinh về nhà tự làm
để các em khắc sâu hơn kiến thức bài học.
Ví dụ 1: BÀI TÍNH CHẤT HÓA HỌC CỦA KIM LOẠI
Ở bài trước, khi hướng dẫn học sinh về nhà GV hướng dẫn làm thì nghiệm
đốt nhôm trong không khí.
GV hướng dẫn: Lấy mảnh Nhôm hoặc dây Nhôm (VD móc treo quần áo
bằng nhôm bị hỏng) mài vào viên đá mài khô hoặc giũa lấy khoảng 0,5 gam. Cho
bột nhôm vào mảnh giấy gấp hình lòng máng rồi rắc từ từ trên ngọn nến. Nêu hiện
tượng , giải thích và dự đoán sản phẩm rồi lập PTHH.
4. Một số cách xử lí khi gặp tai nạn và những phướng pháp sơ cứu:
a. Tủ thuốc cấp cứu của phòng thí nghiệm:
Trong phòng thí nghiệm cần có tủ thuốc cấp cứu với các thứ thuốc thông dụng
sau:
- Cồn iot 5%
- Dung dịch CH3COOH 3%
- Dung dịch FeCl3
- Dung dịch CuSO4 5%
- Dung dịch NaHCO3 3%

- Dung dịch axit boric 2%
- Dung dịch KMnO4 2 - 3%
- Nước oxi già (H2O2)
- Dung dịch AgNO3 10%
- Bông, băng, gạc đã tẩy trùng.
b. Cách cứu chữa một số tai nạn thường gặp:
* Cứu chữa chảy máu nhẹ:
- Lấy bông tẩm máu.
- Cầm máu bằng dung dịch FeCl3.
- Lấy bông bôi sát trùng bằng dung dịch KMnO4, cồn iot.
- Dùng băng gạc băng lại.
* Cứu chữa bỏng A xit đặc, nhất là axit H2SO4 đặc:
- Dội nước rửa ngay nhiều lần, nếu có vòi nước thì cho chảy vào vết bỏng
khoảng 5 phút.
- Rửa lại bằng dung dịch NaHCO3( tuyệt đối không rửa bằng xà phòng).
* Cứu chữa bỏng kiềm:
- Lúc đầu rửa như bỏng axit.
- Rửa lại bằng dung dich CH3COOH 3-5% (giấm ăn)
* A xit bắn vào mắt ( Kiềm bắn vào mắt)
- Nhanh chóng phun nước cất ở bình tia vào mắt hoặc nhúng mắt vào chậu nước
cất và mở to mắt ra vài phút.
14


- Tiết theo rửa bằng dung dịch NaHCO 3 3% ( nếu axit bắn vào mắt) và dung dịch
axit boric 2% (nếu kiềm bắn vào mắt)
c. Cách phòng tránh cháy nổ:
- Cách phòng tránh: Trong phòng thí nghiệm phải được trang bị các dụng cụ
phòng tránh cháy nổ như bình CO2,túi cát, nước, tấm vải cotton dày…
- Dập tắt đám cháy trong phòng thí nghiệm

+Nước: Nước sử dụng có hiệu quả khi dập cháy các vật rắn thông thường
như gỗ, giấy, than, cao su, vải và một số chất lỏng hòa tan trong nước (axit hữu cơ,
axeton, rượu bậc thấp)
+ Bình CO2, bình bọt: Dễ sử dụng, nhất là trong các đám cháy nhỏ,
CO2 không làm hư hỏng máy móc thiết bị, kể cả thiết bị đang có điện.
+ Vải ướt: Để phủ lên đám cháy có diện tích nhỏ, nhằm ngăn đám cháy với
oxi.
+ Cát khô: Cát khô có thể sử dụng để dập đám cháy chứa những lượng nhỏ
chất lỏng, chất rắn khi không được dùng nước để dập cháy.
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN:
Sau khi sử dụng phương pháp này trong việc dạy Hóa học - 9 tại Trường
THCS Nga Trung năm học 2015 - 2016 nhất là đối với các tiết học Hóa học có thí
nghiệm. Theo dõi kết quả học tập của học sinh và qua thái độ của học sinh đối với
môn học tôi nhận thấy đa số các em làm thí nghiệm thành thạo hơn, kĩ năng thao
tác thí nghiệm theo quy trình khoa học hơn, nắm kiến thức sâu và bền vững hơn.
Kết quả học tập của các em có chuyển biến rõ rệt so với những năm trước đó khi
chưa áp dụng kinh nghiệm này.
Quan trọng là các em yêu thích học môn Hóa học, say mê nghiên cứu,
không còn thấy đó là một gánh nặng, là môn học khó nữa.
Sau một năm nghiên cứu, áp dụng tôi đã thu được kết quả khả quan, cụ thể
như sau :
Lớp

Sĩ số

Làm thí nghiệm
thành thạo
SL
%


Làm thí nghiệm
chưa thành thạo
SL
%

9A
25
19
76,0
6
24,0
9B
26
21
80,8
5
19,2
Tổng
51
40
78,3
11
21,7
Với kết quả trên cho thấy kỹ năng thao tác thực hành thí nghiệm của các
em được nâng lên rõ rệt, chất lượng giờ học được nâng cao góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục bộ môn Hóa học nói riêng, hoàn thành mục tiêu đặt ra trong
năm học.

C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ


15


I . KẾT LUẬN:
Để tiết học thành công theo cá nhân tôi người giáo viên cần phải nghiên cứu
trước bài học nắm vững được mục tiêu bài học. Cần xây dựng trước các hoạt động
sẽ tiến hành trên lớp, chuẩn bị tốt các phương tiện phục vụ cho dạy học, lường
trước các tình huống có thể xảy ra. Đối với các tiết có thí nghiệm cần phải trực
tiếp làm thử trước đảm bảo cho thí nghiệm thành công. Trong các tiết dạy có sử
dụng đồ dùng thí nghiệm người giáo viên cần phải tổ chức cho học sinh các hoạt
động nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, rèn luyện tư duy sáng tạo
cho học sinh, kích thích các em đề ra phương án và cách tiến hành thí nghiệm
khác… Trong sử dụng đồ dùng thí nghiệm cần coi trọng việc rèn luyện kĩ năng tự
học cho học sinh, kĩ năng tập đề xuất các phương án thí nghiệm. Trong việc tổ chức
sử dụng đồ dùng thí nghiệm cần phải kết hợp hài hòa việc học tập cá nhân với
việc học tập hợp tác nhóm. Qua thí nghiệm cần phải định hướng cho học sinh,
khuyến khích học sinh tự tìm tòi khám phá và vận dụng vào thực tiễn khuyến
khích khả năng tự chế tạo đồ dùng phục vụ học tập…
Để thực hiện được đề tài này tôi có được sự hỗ trợ rất lớn của Nhà trường và
các đồng nghiệp. Không những vậy, tôi còn nhận được sự đầu tư về cơ sở vật chất
cũng như sự góp ý của hội đồng khoa học nhà trường. Nhờ vậy tôi đã thực hiện
thành công đề tài này.
II. KIẾN NGHỊ:
- Các cấp ngành tổ chức các chuyên đề về đúc rút, viết Sáng kiến kinh nghiệm
đồng thời giới thiệu rộng rãi những sáng kiến có tính khả thi cao để đông đảo cán
bộ giáo viên cùng tham khảo.
- Với những kinh nghiệm của bản thân, không tránh khỏi những thiếu sót. Rất
mong các bạn đồng nghiệp bổ sung góp ý thêm để cùng học hỏi nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 12 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người thực hiện

Đỗ Xuân Hiền

16



×