Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Biện pháp phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong việc thu thập và sử dụng đồ dùng dạy học môn sinh học ở trường THCS chu văn an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (766.08 KB, 23 trang )

MỤC
I
1
2
3
4
5
II
1
2
3
3.1
3.2
4
III
1
2

MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG
MỞ ĐẦU
1
Lý do chọn đề tài
1
Mục đích nghiên cứu
2
Đối tượng nghiên cứu
2
Phương pháp nghiên cứu


2
Những điểm mới của SKKN
2
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2
Cơ sở lý luận SKKN
2
Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
3
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
4
Tăng cường thực hành thí nghiệm trong các bài học
4
chính khóa
Tăng cường tổ chức các tiết học tập ngoại khóa
14
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động
15
giáo dục, đối với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
17
KẾT LUẬN
17
Kết luận
17
Kiến nghị

I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Mục tiêu của Giáo dục nước ta hiện nay là “ Đào tạo học sinh thành những con
người năng động đọc lập và sáng tạo, tiếp thu được những tri thức khoa học- kỹ

1


thuật hiện đại, biết và tận dụng tìm ra các giải pháp hợp lý cho những vấn đề
trong cuộc sống của bản thân và xã hội”[3]
Để đáp ứng được yêu cầu này thì việc đổi mới phương pháp dạy học là điều
cốt yếu. Tại Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp
dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và
vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một
chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự
học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển
năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa
dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học...”[3]
Để góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu trên thì phải có sự đổi
mới đồng bộ của từng ngành học, cấp học, môn học...Trong đó có sự đổi mới
của môn Sinh học - Đây là môn khoa học thực nghiệm, nội dung kiến thức hết
sức sinh động, phong phú, hấp dẫn, dễ kích thích tính tò mò, ham hiểu biết của
học sinh. Các kiến thức về cấu tạo, sinh lý, sinh thái, giải phẫu, cũng như chức
năng và mối quan hệ giữa cơ thể sinh vật với môi trường…cơ bản được hình
thành trên cơ sở quan sát mẫu vật, mô hình, tranh ảnh, thí nghiệm…Vì thế trong
quá trình giảng dạy giáo viên không những trang bị cho học sinh những kiến
thức lý thuyết đơn thuần đã có sẵn trong chương trình SGK mà còn phải rèn cho
các em kỹ năng làm thí nghiệm, thực hành và đặc biệt giúp các em tìm tòi, vận
dụng linh hoạt vào thực tiễn đời sống. Có như thế mới đáp ứng được mục tiêu
giáo dục, đổi mới PPDH hiện nay là“ Tích cực hóa hoạt động học tập của học
sinh theo hướng tổ chức cho học sinh được tự lực, chủ động chiếm lĩnh tri thức
khoa học”
Tuy nhiên, hiện nay trong các nhà trường THCS đa số học sinh chưa thực sự
yêu thích, say mê môn học này, coi đây là môn học “phụ” nên học qua loa, đối

phó, đủ điểm là xong.... Một số ít học sinh có ý thức học tập nhưng chưa tự chủ
động tìm tòi kiến thức, phát huy tư duy sáng tạo mà còn thụ động vào SGK và
kiến thức mà thầy cô cung cấp. Điều này có thể thấy rõ qua các tiết học các em
còn lúng túng trong việc quan sát, sử dụng đồ dùng dạy học và đặc biệt rất yếu
về kỹ năng thực hành trong các tiết thực hành. Do đó chất lượng dạy học môn
sinh học chưa cao.
Mặt khác qua thực tế giảng dạy, thường xuyên đi dự giờ giáo viên và tham gia
chấm thi giáo viên dạy giỏi nhiều năm, tôi nhận thấy hầu như trong các tiết dạy,
giáo viên là người chuẩn bị hết các loại đồ dùng, tranh ảnh, mô hình, mẫu vật…
như thế rất vất vả cho bản thân giáo viên, mặt khác không phát huy được tính
tích cực, sáng tạo của học sinh trong việc thu thập, sưu tầm mẫu vật. Trong khi
đó có nhiều loại mẫu vật dễ quan sát, tìm kiếm, thu thập ngay tại địa phương các
em, đây là một nguồn mẫu vật vô cùng phong phú, giá trị, rất dễ kiếm mà lại
không mất tiền mua, đem lại hiệu quả học tập cao.
Từ những lý do nêu trên, cùng với những kinh nghiệm vốn có của bản thân,
tôi đã quyết định chọn đề tài nghiên cứu: “Biện pháp phát huy tính tích cực,
2


sáng tạo của học sinh trong việc thu thập và sử dụng đồ dùng dạy học môn
sinh học ở trường THCS Chu Văn An ”.
2. Mục đích nghiên cứu :
- Trang bị cho học sinh kỹ năng quan sát, làm thí nghiệm thực hành từ đó để khai
thác, ghi nhớ lâu kiến thức và vận dụng linh hoạt vào đời sống thực tế.
- Phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong việc thu thập và sử dụng
đồ dùng trong học tập môn sinh học.
- Giáo dục ý thức tự học, lòng say mê, yêu thích môn học.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu các biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh
trong việc thu thập và sử dụng đồ dùng dạy học môn sinh học ỏ trường THCS

Chu Văn An một cách khoa học, hiệu quả, nhằm đáp ứng mục tiêu đổi mới
PPDH.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết:
Nghiên cứu các Công văn, Thông tư, Nghị quyết… về đổi mới phương pháp
giáo dục. Các hiện tượng, mâu thuẫn hiện tại của giáo viên, học sinh và nhà
trường.
- Điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin:
Sử dụng câu hỏi để điều tra, khảo sát mức độ học tập, ghi nhớ kiến thức, kĩ
năng cơ bản về quan sát thực hành và cách làm thí nghiệm, kỹ năng làm các bài
tập quan sát, xem băng hình,…của học sinh
- Nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm giáo dục:
Lắng nghe, trao đổi, rút kinh nghiệm từ những nhận xét, góp ý của đồng
nghiệp để trau rồi, nâng cao trình độ nghệp vụ sư phạm của bản thân.
- Thống kê, xử lý số liệu:
Để làm sáng tỏ hiệu quả của việc phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh
trong việc thu thập và sử dụng đồ dùng dạy học, tôi đã tiến hành dạy thực
nghiệm, tổ chức kiểm tra, cuối cùng dùng phương pháp phân tích kết quả thực
nghiệm bằng thông kê toán học để rút ra những kết luận quan trọng.
5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.
Sáng kiến này được làm, áp dụng lần đầu tại trường THCS Chu Văn An và đã
đem lại hiệu quả cao.

II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Luật giáo dục 2005 (Điều 5) quy định “ Phương pháp giáo dục phải phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy, sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho
3



người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí
vươn lên”[3]
Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định số
16/2006/QĐ-BGD ĐT ngày 5/5/2006 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo
cũng đã nêu “ Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học
sinh; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện
của từng đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; Bồi dưỡng cho học
sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách
nhiệm học tập cho học sinh”[3]
Với những căn cứ nêu trên cho thấy, để đáp ứng được mục tiêu giáo dục
phổ thông hiện nay, người giáo viên trong quá trình giảng dạy phải luôn nhạy
bén, có cái nhìn mới sâu sắc, chú ý đến kĩ năng thực hành. Đặc biệt phải biết
phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong việc thu thập và sử dụng đồ
dùng dạy học để từ đó khai thác hiệu quả và đào sâu suy nghĩ, tư duy lôgíc
của học sinh, giúp bồi dưỡng trí tò mò khoa học và lòng ham mê hiểu biết
"thích phát minh "cần cù, chịu khó của các em. Từ đó hình thành nhu cầu sẵn
sàng tích cực hoạt động sức lực và trí tuệ để hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập .
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
2.1. Thực trạng về thiết bị đồ dùng dạy học phục vụ giảng dạy môn Sinh
học của nhà trường.
- Trang thiết bị phục vụ giảng dạy môn Sinh học còn thiếu thốn. Nhiều tranh
ảnh, mô hình, đồ thí nghiệm hiện nay đã cũ, xuống cấp chưa được cấp mới bổ
sung
- Số lớp học đông, nhà trường chỉ có 1 phòng thực hành do đó nhiều tiết thực
hành chồng chéo không tiến hành được.
- Do diện tích trường hẹp nên việc thiết kế khu vườn sinh học còn nhỏ, số
lượng sinh vật chưa phong phú, đa dạng
2.2. Thực trạng về vấn đề dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, sáng
tạo của học sinh trong việc thu thập và sử dụng đồ dùng học tập môn sinh

học ở trường THCS Chu Văn An.
* Về phía giáo viên:
- Giáo viên giảng dạy số tiết trong tuần còn nhiều (Bình quân 18 tiết thực dạy).
Mặt khác nhà trường chưa có phụ tá thí nghiệm nên việc chuẩn bị cho một bài
thực hành, một thí nghiệm... rất vất vả và khó khăn.
- Do nội dung chương trình SGK mới biên soạn theo hướng ưu tiên thực hành,
giảm lý thuyết hàn lâm dẫn đến một số giáo viên chưa bắt nhịp kịp thời nên việc
vận dụng giảng dạy, hướng dẫn các em thao tác, kỹ năng thực hành còn lúng
túng, chưa thường xuyên, chưa có hiệu quả.
4


- Một số giáo viên vốn hiểu biết kiến thức thực tế tự nhiên còn hạn chế. Trình
độ sử dụng công nghệ thông tin để khai thác tài liệu phục vụ cho công tác giảng
dạy còn yếu nên việc hướng dẫn học sinh thu thập và sử dụng đồ dùng dạy học
chưa tốt.
*Về phía học sinh:
- Do đặc thù riêng của nhà trường, học sinh được tuyển chọn từ tất cả các xã
trong huyện, có những học sinh nhà xa phải ở trọ lại, nhiều học sinh con nhà
nông dân hoàn cảnh khó khăn các em phải vừa học, vừa lao động giúp đỡ bố mẹ
nên thời gian dành cho học tập còn ít. Điều này gây khó khăn cho giáo viên
trong việc phân công các cá nhân hoặc nhóm học sinh thu thập mẫu vật phục vụ
tiết học.
- Trình độ của HS không đồng đều (Do nhà trường vẫn phải nhận cả đối tượng
HS có hộ khẩu Thị Trấn nhưng không đủ điều kiện dự tuyển vào trường) nên
tính tự giác, khả năng tư duy của các em còn hạn chế. Do đó các em ngại trau
dồi kiến thức, học đối phó, miễn cưỡng, tư tưởng ỉ nại, dựa vào các tài liệu có sẵn,
các sách tham khảo…Điều này đã gây khó khăn cho giáo viên trong việc cung
cấp kiến thức, giao việc chuẩn bị đồ dùng, rèn kỹ năng thực hành trong các tiết
học.

Trên cơ sở tìm hiểu tình hình của nhà trường, thực trạng của GV và HS.
Năm học 2016-2017, tôi đã tiến hành điều tra cơ bản về mức độ tiếp thu bài, ghi
nhớ kiến thức; kỹ năng quan sát và thao tác thực hành; kỹ năng làm bài tập (Bài
tập quan sát, xem băng hình, thí nghiệm ở nhà…); mức độ hứng thú với môn
học của 43 học sinh lớp 6B. Kết quả thu được như sau:
- 33/43= 76,7% số HS học bài một cách thụ động, chỉ học thuộc lòng nội dung
giáo viên cho ghi và sách giáo khoa
- 31/43 = 72,1% số HS chưa có kỹ năng cơ bản về quan sát thực hành và cách
làm thí nghiệm
- 35/43 = 81,4% số HS không có kĩ năng làm các bài tập quan sát, xem băng
hình, thí nghiệm ở nhà
- 33/43 = 76,7% số HS không có hứng thú học môn sinh học
Để khẳng định tính chính xác từ kết quả điều tra cơ bản trên, giữa HKI tôi tiến
hành khảo sát tiếp 43 em học sinh lớp 6B, thông qua bài kiểm tra thường xuyên
15 phút.
Nội dung đề kiểm tra như sau:
Câu 1: Kể tên một số loại thân biến dạng, chức năng đối với cây?
Câu 2: Lá có những đặc điểm bên ngoài và cách sắp xếp trên cây như thế nào
giúp nó nhận được nhiều ánh sáng?
Kết quả thu được:
Loại giỏi
Số lượng

Loại khá
%

Số lượng

Loại TB
%


Số lượng

Loại yếu
%

Số lượng

%
5

0

0

20

46,5

15

34,9

8

18,6


Từ chất lượng trên, cho thấy tỷ lệ học sinh yếu còn rất cao, điều này hoàn
toàn không xứng với một trường chất lượng cao của huyện. Nhận thức được tính

cấp thiết của vấn đề này, tôi quyết định đưa ra “Biện pháp phát huy tính tích
cực, sáng tạo của học sinh trong việc thu thập và sử dụng đồ dùng dạy học
môn sinh học ở trường THCS Chu Văn An ” góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục chung của nhà trường.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
3.1. Tăng cường thực hành thí nghiệm trong các bài học chính khóa
3.1.1. Đối với loại bài có thí nghiệm yêu cầu giáo viên biểu diễn:
- Đối với loại thí nghiệm yêu cầu giáo viên biểu diễn thường được sử dụng để
nghiên cứu kiến thức mới. Ngoài việc giao cho các nhóm học sinh chuẩn bị
trước giáo viên cũng phải chuẩn bị chu đáo, làm thử trước khi dạy, sau đó mới
thực hiện các thí nghiệm trong giờ giảng. Để phát huy được tính tích cực, sáng
tạo của học sinh, giáo viên phải yêu cầu học sinh quan sát, theo dõi, so sánh với
thí nghiệm của nhóm mình đã chuẩn bị để nêu hiện tượng xảy ra, sau đó GV tổ
chức cho HS giải thích nguyên nhân xảy ra hiện tượng rồi rút ra kiến thức mới.
Thông thường để kích thích khả năng tìm tòi độc lập, chủ động của học sinh
trong việc thu nhập thông tin, nêu giả thiết, dự đoán kết quả thì giáo viên thường
nêu câu hỏi hoặc ra bài tập định hướng. Như vậy, học sinh sẽ được tự lực xử lý
thông tin, thiết lập các mối quan hệ nhân quả để tìm ra bản chất, quy luật của
hiện tượng....
- Đối với những bài tập thí nghiệm cần nhiều thời gian hơn 30 phút và khó với
học sinh, giáo viên cần làm trước từ nhà, đến lớp chỉ nêu các bước tiến hành,
yêu cầu học sinh dự đoán kết quả hoặc giáo viên đưa kết quả (hoặc làm bước
cuối của thí nghiệm), yêu cầu học sinh nghiên cứu, phân tích kết qủa thí
nghiệm.
- Trên cơ sở giáo viên làm thí nghiệm của giáo viên đã hướng dẫn yêu cầu từng
nhóm học sinh báo cáo kết quả thí nghiệm của các nhóm đã chuẩn bị và đối
chiếu lại kết quả với thí nghiệm của giáo viên.
Ví dụ: Khi dạy bài 21- tiết 23- Sinh học 6: Quang hợp, có hai thí nghiệm quan
trọng, khó tiến hành, khó thành công nên giáo viên phải làm thí nghiệm biểu
diễn.

- Thí nghiệm 1: Xác định chất lá cây chế tạo được khi có ánh sáng.
Đây là thí nghiệm khó, tiến hành trong thời gian dài. Vì vậy để có kết quả cho
học sinh quan sát thì giáo viên cần làm thí nghiệm trước ở nhà mấy tiếng, chuẩn

6


bị lá cây bịt băng đen trước, đến lớp chỉ thao tác huỷ diệp lục và thử bằng iôt
rồi cho học sinh quan sát kết quả, sau đó rút ra kết luận.
- Thí nghiệm 2: Xác định chất khí thải ra khi cây quang hợp:
Giáo viên chuẩn bị làm thí nghiệm trước ở nhà, sao cho khí thu được hơn một
nửa ống nghiệm thì đem đến lớp cho học sinh quan sát hiện tượng và thử khí
trong lọ....
Từ kết quả thực tế của thí nghiệm GV làm thì các em sẽ rút ra được kết luận
kiến thức là khi có ánh sáng lá cây sẽ chế tạo ra tinh bột và nhả khí oxi. Nhưng
điều quan trọng là qua thí nghiệm này các em được phát huy kĩ năng quan sát,
tính tích cực, sáng tạo trong việc thu thập, sử dụng đồ dùng thí nghiệm. Mặt
khác kích thích tính tò mò, tạo hứng thú học tập, từ đó khắc sâu kiến thức cho
các em..
3.1.2. Đối với loại bài có thí nghiệm, bài tập thực hành yêu cầu học sinh
thực hiện:
3.1.2.1. Loại bài thực hành quan sát:
Loại bài thực hành này dễ tiến hành nên GV thường yêu cầu học sinh tiến
hành quan sát mẫu vật để nhận biết về dạng thân, các loại quả, dạng lá, tập tính
của động vật, môi trường sống của sinh vật ....
Đối với loại bài này, để tổ chức thành công giờ dạy thì giáo viên phải biết kích
thích, phát huy được tư duy, sáng tạo của học sinh trong việc thu thập, sưu tầm
mẫu vật. Bằng cách GV phân công nhóm HS về nhà sưu tầm trước mẫu vật để
chuẩn bị cho tiết thực hành. Điều lưu ý ở đây là GV phải biết cách phân công,
hướng dẫn, kích thích các nhóm để làm sao các em không những sưu tầm đầy đủ

mà còn đa dạng các loại mẫu vật, đảm bảo yêu cầu quan sát được và không làm
ảnh hưởng đến môi trường chung, không mang tính chất hủy hoại sinh vật…
Làm được như thế thì khi đến bài dạy, học sinh có đầy đủ mẫu vật để quan sát
trực tiếp, từ đó rút ra được kiến thức và sẽ ghi nhớ được lâu hơn.
Ví dụ:
- Khi dạy bài 12- tiết 12- Sinh học 6: Thực hành Quan sát biến dạng của rễ
Trước khi dạy bài này giáo viên phân công cho các nhóm (Tổ) chuẩn bị 1 số
rễ biến dạng như: Rễ cây Cải củ, củ Đậu, củ Khoai lang, Trầu không, cành cây
Si có mang rễ, Dây Tơ hồng, cây Tầm gửi, và ảnh của một số cây như Bụt mọc,
Bần, Đước....Bên cạnh đó giáo viên cũng cần sưu tầm thêm mẫu vật thật và
tranh ảnh của một số rễ biến dạng mà các em khó tìm thấy ở địa phương như:
Sắn, cây Tầm gửi, dây Tơ hồng…
Chúng tôi xin giới thiệu một số mẫu vật thật về rễ biến dạng mà các em đã
sưu tầm được tại địa phương để chuẩn bị cho tiết học:
7


Củ Cải trắng

Củ Sắn

Củ cà rốt

Củ Đậu

Củ Khoai lang

Cành cây Si mang rễ

Dây Tơ hồng


Rễ Trầu không
8


Một số tranh ảnh mà các em sưu tầm được như:

Tầm gửi

Cây Bụt mọc

Cây Đước
Cây Bần
- Tương tự khi dạy bài 18- Tiết 18- Sinh 6: Quan sát biến dạng của thân
Bằng cách phân công cho các nhóm (Tổ) sưu tầm mẫu vật thật: Củ dong, Củ
Su hào, Củ gừng hoặc Riềng, xương rồng…để chuẩn bị cho tiết học. Có thể nói
các em rất tích cực, hào hứng và sáng tạo trong việc thu thập, sưu tầm mẫu vật.
Chúng tôi xin giới thiệu một số mẫu vật mà các em thu thập, sưu tầm được tại
địa phương phục vụ tiết học:

9


Củ Su hào

Củ Dong ta

Cây Xương rồng

Củ Riềng


Cây Hành

Cây Giao

Chú ý:
Đối với bài khó sưu tầm, thu thập được mẫu vật thật như dạng bài: Thực hành
quan sát tập tính hoạt động của động vật hoặc thực hành quan sát mối quan hệ
dinh dưỡng của sinh vật… ngoài việc giáo viên chuẩn bị một số tài liệu như:
Tranh ảnh, băng hình, video…thì để phát huy tính tích cực, sáng tạo của học
sinh trong việc thu thập, sử dụng đồ dùng dạy học, giáo viên phải phân công cho
từng học sinh hoặc nhóm học sinh tự thu thập tài liệu để bổ sung cho tiết học
(Tranh ảnh, mô hình, đoạn băng hình, Video…) liên quan đến bài học.
Đến tiết thực hành, giáo viên tổ chức cho các em xem các đoạn băng hình hoặc
video kết hợp với tài liệu của các em thu thập được để trao đổi, thảo luận kết quả
quan sát, tư liệu thu thập, trả lời các câu hỏi hoặc làm bài tập của giáo viên đưa
ra...Từ đó các em tự rút ra kiên thức bài học dưới sự định hướng, hướng dẫn của
giáo viên.
Ví dụ: Khi dạy bài 29- Tiết 29 – Sinh học 7: Thực hành xem băng hình về tập
tính của sâu bọ
- Giáo viên chuẩn bị sẵn băng hình về tập tính của lớp Sâu bọ
10


- Giáo viên phân công các nhóm học sinh về nhà sưu tầm các tranh ảnh, tư liệu
về tập tính như: Môi trường sống, cách dinh dưỡng, cách làm tổ, tự vệ tấn công,
sinh sản…của một số sâu bọ thường gặp như: Dế mèn, Ong, Bướm, Kiến,
Châu chấu , Bọ xít, Bọ ngựa, chuồn chuồn…
- Đến khi thực hành, giáo viên tổ chức cho các em hoạt động theo nhóm để
phân tích, sắp xếp các tranh theo chủ đề, so sánh những điều rút ra từ tư liệu sau

đó các nhóm trao đổi tranh ảnh, tư liệu của nhóm mình với nhóm khác và tiếp
tục thảo luận. Qua đó các em sẽ nắm vững được các tập tính của Sâu bọ.
Chúng tôi xin giới thiệu một số tranh ảnh mà các em đã thu thập, sưu tầm
được.
- Tranh mô tả về tập tính bắt mồi và dinh dưỡng của một số sâu bọ:

Bọ Ngựa bắt mồi

Chuồn chuồn bắt mồi

Kiến bắt mồi

Sâu ăn tạp bắt mồi

- Tranh mô tả về tập tính làm tổ của một số sâu bọ:

11


Tổ Kiến Đen

Tổ Ong Mật

.
Tranh mô tả về tập tính tự vệ, tấn công của một số sâu bọ:

Sâu Rọm dựng lông tự vệ

Bọ ngựa tự vệ


3.1.2.2. Loại bài thí nghiệm thực hành
Đối với dạng bài này, trong quá trình giảng dạy giáo viên cần tiến hành đúng
theo trình tự các bước của một bài thực hành (Rất nhiều GV xem nhẹ hay bỏ qua
các bước làm thực hành vì thế mà các em không biết cách làm thực hành)
- Nêu mục tiêu, yêu cầu của thí nghiệm, hoặc tiết học thực hành.
- Phân chia nhóm học sinh, phân công nhiệm vụ cụ thể cho mỗi nhóm.
- Nêu từng nội dung thực hành và hướng dẫn tỉ mỉ về phương tiện thiết bị, ý
nghĩa của các dụng cụ, cách bảo quản và các điều kiện để thí nghiệm thành
công.
- Hướng dẫn cả lớp tiến hành theo nhóm nhỏ.
- Sau mỗi nội dung thực hành, giáo viên yêu cầu các nhóm trình bày các bước
tiến hành và nêu kết quả thí nghiệm
- Tổ chức cho các nhóm thảo luận giải thích kết quả thí nghiệm, rút ra kiến
thức mới hoặc củng cố kiến thức đã học.
Ở đây, học sinh đóng vai trò của người nghiên cứu thực sự, chủ động tìm
hiểu, phát hiện các hiện tượng, sự thay đổi các hiện tượng trong quá trình thí
nghiệm. Tự thiết lập các mối quan hệ nhân quả, giải thích các kết quả thí nghiệm
để tìm ra kết luận.
Ví dụ: 1) Khi dạy bài 17- Tiết 17- Sinh 6: Vận chuyển các chất trong thân.
- Để cho tiết học đạt kết quả tốt thì trước khi dạy bài này giáo viên cần chuẩn
bị mẫu vật và dụng cụ thực hành chu đáo:
+ Mẫu vật: Hoa (Hồng trắng, huệ trắng....), cành cây đã cắt bỏ vỏ trước một
tháng, cành làm thí nghiệm...
+ Dụng cụ: Cốc thuỷ tinh, đũa dùng để khuấy dung dịch, dao nhỏ....
12


+ Hoá chất: Mực màu hoặc phẩm màu, nước pha.
- Để phát huy tính tích cực, sáng tạo và rèn kỹ năng thực hành cho học sinh thì
giáo viên hướng dẫn, phân công cho các nhóm trước 1 tháng về nhà làm TN cắt

khoanh vỏ ở cành cây và theo dõi sau mỗi tuần xem có hiện tượng gì khác
không, sau đó đến ngày học bài này yêu cầu các em chặt cành cây đó mang đến
lớp để học và chấm điểm.
Chú ý:
- Đối với thí nghiệm tìm hiểu sự vận chuyển nước và muối khoáng hoà tan:
Giáo viên hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm theo nhóm như trên (nội dung
sách giáo khoa). Sau đó các nhóm nhận xét hiện tượng, thảo luận tìm ra nguyên
nhân bông hoa chuyển màu, từ đó rút ra kết luận về chức năng của mạch gỗ.
- Đối với thí nghiệm vận chuyển các chất hữu cơ: Giáo viên yêu cầu các nhóm
báo cáo cách tiến hành, kết quả và giải thích (Thí nghiệm giáo viên hướng dẫn
cắt khoanh vỏ trước một tháng). Sau đó tổ chức cho học sinh các nhóm nhận xét
kết quả của nhóm bạn, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến thí nghiệm không thành
công (nếu có), thảo luận để rút ra kết luận về chức năng của mạch rây. Sau đó
giáo viên nhận xét, chốt lại kiến thức.
- Ngoài ra giáo viên cần lưu ý học sinh: Cần cắt cành hoa trong nước để tránh
không khí lọt vào rồi mới cắm vào cốc. Nước pha màu cần phải trong suốt
không có cặn, tốt nhất giáo viên pha dung dịch màu cho học sinh bằng loại
phẩm màu tan tốt, hoặc loại mực không có cặn.
2) Hoặc khi dạy bài 12-Tiết 12- Sinh học 8: Thực hành: Tập sơ cứu và băng bó
cho người gãy xương.
- Đề bài thực hành này đạt kết quả cao thì ngay ở tiết trước GV phải dặn dò học
sinh về nhà chuẩn bị dụng cụ: Mỗi em 2 thanh nẹp, bốn cuộn băng y tế, bốn
miếng vải sạch đảm bảo kích cỡ như yêu cầu của bài học.
- Khi đến bài học, GV sẽ chiếu các hình ảnh để giới thiệu một số nguyên nhân
dẫn đến bị gãy xương. Đồng thời hướng dẫn, làm mẫu cho các em cách thao tác
sơ cứu, băng bó khi gặp người bị thương. Sau đó GV yêu cầu mỗi nhóm gồm 2
em học sinh tiến hành.
Như vậy với cách giao việc, phân công nhiệm vụ cho học sinh, các em sẽ rất
tích cực, hào hứng, say sưa nghiên cứu…mặt khác bản thân các em được trực
tiếp làm thí nghiệm không chỉ một lần mà tiến hành nhiều lần. Điều này giúp

các em rèn thành thạo được kỹ năng sơ cứu, băng bó vết thương, từ đó có thể tự
tin xử lý các tình huống khi gặp trường hợp nạn nhân bị gãy xương.
Chúng tôi xin giới thiệu một số hình ảnh của lớp học trong giờ thực hành:
13


Thực hành băng bó vết thương
3.1.2.3. Loại bài thực hành ở nhà
Gồm các bài về sưu tầm thực vật, mẫu bách thảo, giâm cành, chiết cành, tập
làm báo cáo về đề tài nghiên cứu nhỏ....Thường là bài tập giáo viên giao sau khi
học xong bài học nhằm hoàn thiện, khắc sâu kiến thức và rèn luyện kĩ năng. Với
dạng bài tập này giáo viên phân công và yêu cầu học sinh về nhà làm, sau đó thu
sản phảm chấm và nhận xét. Các bài tập này thường đơn giản, không đòi hỏi
phải có thiết bị phức tạp, dễ làm nên phải có tính chất bắt buộc với mọi học sinh.
Ví dụ: Khi dạy xong bài 21- Tiết 21- Sinh 6: Đặc điểm bên ngoài của lá
Để củng cố, khắc sâu kiến thức, rèn kỹ năng quan sát, phát huy được tính tích
cực, sáng tạo trong việc thu thập mẫu vật của học sinh thì giáo viên cần hướng
dẫn các em cách làm tiêu bản về ép lá...
Mẫu nhãn đính kèm tiêu bản:
Tên cây: ...............................
Loại lá......................Gân..............
Địa điểm lấy mẫu: ........................
Người lấy mẫu: ............................
Ngày lấy mẫu: .............................
Yêu cầu học sinh về nhà làm tiêu bản, sau đó giáo viên thu lại, nhận xét, có
thể chấm lấy điểm và lưu lại các tiêu bản đẹp để làm bộ sưu tập về lá trong
phòng thực hành bộ môn.
Qua bài tập này giúp các em biết cách làm một tiêu bản thực vật và kích thích
lòng say mê tìm hiểu tự nhiên, lòng yêu thích bộ môn.... Cũng qua đó nhà
trường có thêm một phần của bộ sưu tập về thực vật làm tài liệu dạy học qua các

năm học.
Chúng tôi xin giới thiệu một số mẫu lá ép mà các em đã làm:

14


Lá Hoa Hồng

Lá cây Trắc Bách Diệp

Lá cây Rau Bợ

Lá Lốt

Chú ý:
- Đối với các thí nghiệm cần nhiều thời gian nhưng đơn giản dễ làm ở nhà,
giáo viên yêu cầu các em chuẩn bị trước ở nhà, lên lớp hoàn thành thí nghiệm
(hoặc đem kết quả đến lớp) để nghiên cứu (như một số thí nghiệm ở trên)...
- Đối với một số bài cần nhiều mẫu vật, tư liệu để học sinh quan sát, nghiên
cứu nhưng trong trường không có hoặc thiếu thì cuối bài học trước đó, hoặc
trước một thời gian giáo viên yêu cầu học sinh sưu tầm tranh ảnh, thông tin... để
tiết học thuận lợi và các em cũng có ý thức chuẩn bị bài học.
3.2. Tăng cường tổ chức các tiết học tập ngoại khóa.
3.2.1. Học tập ở vườn thực hành sinh học
Để nâng cao hiệu quả của phương pháp dạy học tích cực, ngoài những đồ
dùng trực quan như tranh ảnh, mô hình, mẫu vật hiện có trong các thư viện
trường học thì vườn thực hành sinh học có vị trí đặc biệt quan trọng. Nó là một
hình ảnh thu nhỏ của thế giới động, thực vật hết sức phong phú và đa dạng. Nó
là nơi để học sinh học tập, vận dụng các kiến thức khoa học vào thực tiễn sản
xuất. Ngoài ra vườn thực hành sinh học còn có tác dụng bổ sung cho phòng thí

nghiệm vào việc lên lớp, nó cung cấp cho phòng thí nghiệm nhiều đồ dùng
15


giảng dạy và đây cũng là nơi tiến hành thí nghiệm dài ngày mà trong lớp không
thể thực hiện. Học tập dưới hình thức này sẽ gây nhiều hứng thú học tập, kích
thích được tư duy, sáng tạo và kĩ năng vận dụng thức tế rất tốt của học sinh.
Khi tổ chức cho học sinh học tập ở vườn thực hành sinh học giáo viên chú ý
hướng dẫn học sinh quan sát một cách tỉ mỉ, cụ thể về đặc điểm hình thái, sinh
lí, phân loại …của các loài sinh vật. Đồng thời yêu cầu học sinh ghi chép bài cẩn
thận, đánh giá, viết bài thu hoạch.
Qua bài thực hành giáo viên có thể yêu cầu học sinh sưu tầm, thu thập thêm
một số động, thực vật có tại địa phương để bổ sung cho vườn sinh học thêm
phong phú và đa dạng về số lượng cá thể, số lượng loài để phục vụ mục đích học
tập của các em.
Chúng tôi xin giới thiệu một số hình ảnh học sinh lớp 6 học tập tại vườn thực
hành Sinh học:

3.2.2. Học tập tham quan thiên nhiên
Trong chương trình giảng dạy môn sinh học, từ lớp 6 cũng đã có nhiều bài
thực hành tham quan thiên nhiên cuối năm. Đây là hình thức học tập rất phức
tạp, đòi hỏi đến kinh phí lớn, số học sinh đông, với bản tính thích đùa nghịch,
không cẩn thận, khi đi ra thiên nhiên giáo viên khó quản lý dễ dẫn đến xảy ra
các tình huống đáng tiếc, do đó về trách nhiệm giáo viên tương đối nặng nề. Vì
thế nên hình thức học tập này rất ít được giáo viên giảng dạy sinh học trong các
nhà trường thực hiện.
Riêng ở trường THCS Chu Văn An, mỗi năm một khối lớp, chúng tôi thường
xin ý kiến của UBND huyện, cha mẹ học sinh, ban giám hiệu nhà trường tổ chức
cho các em học tập tham quan thiên nhiên ở các địa điểm gần trong huyện như:
Rừng ngập mặn ven biển và các đầm nuôi tôm, cá ở xã Nga Tân hoặc Nga Tiến,

Nga Thủy…
Để tổ chức cho học sinh học tập tham quan thiên nhiên an toàn và hiệu quả
thì giáo viên cần phải bàn bạc, xin ý kiến góp ý của giáo viên trong tổ bộ môn,
sự chỉ đạo, góp ý và cho phép của ban giám hiệu nhà trường. Hướng dẫn, giao
việc cho học sinh chuẩn bị các dụng cụ cần thiết để thu thập mẫu vật…
16


Lợi ích của học tập tham quan thiên nhiên rất lớn, giúp các em không những
ôn tập lại toàn bộ kiến thức đã học ở chương trình mà còn góp phần nâng cao ý
thức hơn trong việc gìn giữ bảo vệ thiên nhiên.
Chúng tôi xin giới thiệu một số hình ảnh của lớp 6B trong buổi học tập ngoại
khóa: Tham quan Rừng ngập mặn và Đê chắn mặn Tại xã Nga Tân.

3.3. Tổ chức thi tự làm và sử dụng đồ dùng học tập môn Sinh học cấp
trường (Phối hợp với các GV dạy môn Sinh trong nhà trường)
- Đối tượng dự thi: Học sinh các lớp của trường THCS Chu Văn An.
- Yêu cầu đồ dùng học tập tự làm dự thi:
+ Tranh ảnh, sơ đồ, biểu bảng...
+ Mô hình, mẫu vật, tiêu bản...
- Tiêu chuẩn về sản phẩm dự thi:
+ Phù hợp với nội dung chương trình học tập
+ Đảm bảo tính sư phạm, tính khoa học, tính thẩm mỹ.
+ Sử dụng thuận tiện, an toàn, hiệu quả.
+ Đảm bảo chất lượng và độ bền để có thể sử dụng nhiều lần.
- Đánh giá: GV tổ Sinh cùng đánh giá đồ dùng học tập tự làm của các em.
- Lựa chọn những đồ dùng đẹp, sáng tạo có tính ứng dụng cao để bổ sung vào
phòng thiết bị đồ dùng dạy học của nhà trường. Công bố kết quả và trao thưởng
cho học sinh trước toàn trường.
Việc tổ chức thi tự làm và sử dụng đồ dùng học tập cho học sinh có ý nghĩa

rất lớn: Nhằm phát huy tính tích cực và tiềm năng, trí tuệ của các em trong việc
17


nghiên cứu tự làm đồ dùng học tập, các sản phẩm sáng tạo phục vụ thiết thực
cho việc học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
Chúng tôi xin trích giới thiệu một số đồ dùng HS tự làm có chất lượng tốt.

Cây phát sinh động vật
(HS lớp 7A)

Sơ đồ Tư duy bài 26
(HS lớp 7D)

Sơ đồ vòng Tuần hoàn
( HS lớp 8B)

Bộ sưu tập Côn trùng
( HS lớp 7B)
3. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
• Đối với học sinh:
Sau một thời gian áp dụng đề tài:“ Biện pháp phát huy tính tích cực, sáng
tạo của học sinh trong việc thu thập và sử dụng đồ dùng dạy học môn sinh
học ở trường THCS Chu Văn An”, tôi đã thu được kết quả khả quan. Cụ thể:
Có tới 80% học sinh có hứng thú và kĩ năng thực hiện các bài tập thực hành thí
nghiệm. Phần lớn học sinh chủ động nghiên cứu, tìm tòi phát hiện kiến thức.
Bước đầu học sinh có hứng thú với môn học, thích học giờ sinh học. Chính vì
vậy mà chất lượng môn học được nâng cao.
Hiệu quả này được thể hiện rõ qua kết quả khảo sát chất lượng lần hai, cuối

học kì II của 43 học sinh lớp 6B, thu được như sau:
18


Loại giỏi

Loại khá

Loại TB

Loại yếu

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

6


13,9%

25

58,1%

10

23,3%

2

4,7%

Kết quả trên cho thấy, số học sinh yếu giảm, số học sinh khá và giỏi tăng lên
đáng kể so với khảo sát lần 1. Chứng tỏ chất lượng môn học đã được nâng lên rõ
rệt.
* Đối với bản thân và đồng nghiệp:
Đề tài này, sau khi được áp dụng triển khai trong quá trình giảng dạy, thật sự
rất hữu ích đối với bản thân tôi và đồng nghiệp
- Giáo viên từ chỗ lúng túng, thiếu kinh nghiệm trong việc tổ chức giảng dạy
các tiết học có liên quan đến thí nghiệm hoặc các tiết thực hành thí nghiệm hay
các tiết học tập ở vườn sinh học, tham quan thiên nhiên… nay đã được tháo gỡ,
bổ sung vào vốn kinh nghiệm giảng dạy của mình để nâng cao hiệu quả chất
lượng giảng dạy chung của nhà trường.
- Giáo viên được tăng cường trao đổi, thảo luận, rút kinh nghiệm trong việc
việc lựa chọn phương pháp, lựa chọn cách thức dạy học. Nhờ đó mỗi giáo viên
được chủ động về kiến thức, tự tin khi tổ chức các hoạt động dạy học và lựa
chọn phương pháp dạy học tối ưu
* Đối với nhà trường :

- Biện pháp phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong việc thu thập và
sử dụng đồ dùng dạy học môn sinh học không những được duy trì áp dụng
thường xuyên đối với môn học mà còn nhân rộng ở nhiều bộ môn có nội dung
học tập liên quan đến thực hành, nhờ đó chất lượng giáo dục của nhà trường
được nâng lên rõ rệt so với nhiều năm học trước.
- Bổ sung, làm phong phú, đa dạng thêm đồ dùng dạy học cho nhà trường.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Từ kết quả của quá trình thực hiện, chúng tôi rút ra một số kết luận sau đây:
1.1. Trong quá trình giảng dạy việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của học sinh trong việc thu thập và sử dụng đồ dùng dạy học là một việc làm vô
cùng cần thiết, hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu dạy học đổi mới hiện nay là lấy
học sinh làm trung tâm.
19


1.2. Trên cơ sở lý luận và thực trạng của vấn đề phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo, chủ động của học sinh trong việc thu thập và sử dụng đồ dùng
dạy học môn sinh học ở trường THCS Chu Văn An nói riêng, tôi đã thực hiện
nhóm giải pháp cơ bản, mang lại hiệu quả cao. Đó là:
- Tăng cường thực hành thí nghiệm trong các bài học chính khóa
- Tăng cường tổ chức các tiết học tập ngoại khóa.
- Tổ chức thi tự làm và sử dụng đồ dùng học tập môn Sinh học cấp trường
Từ hiệu quả của đề tài, bản thân nhận thấy sẽ tiếp tục học hỏi, nghiên cứu, tìm tòi
vận dụng phương pháp dạy học này vào nhiều bài, chương, phần học của bộ môn và
nhièu khối lớp. Mặt khác tích cực trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp để
nhân rộng ở các môn học khác, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục chung của nhà
trường.
2. Kiến nghị:
2.1.Đối với nhà Trường:

- Tăng cường chỉ đạo các tổ chuyên môn sinh hoạt theo nội dung chuyên đề đổi
mới phương pháp dạy học tích cực nhằm nâng cao chất lượng dạy học của nhà
trường.
- Cần nâng cấp, bổ sung thêm nhiều loại động vật, cây trồng làm phong phú, đa
dạng vườn sinh học trong nhà trường để phục hoạt động dạy, học bộ môn.
- Hằng năm nhà trường nên tổ chức hội thi tự làm và sử dụng đồ dùng học tập cho
học sinh để các em có thể phát huy được khả năng tự học, tự nghiên cứu và sáng
tạo của mình.
2.2. Đối với giáo viên dạy bộ môn Sinh học trong nhà trường
- Khi dạy các dạng bài có trong đề tài này GV cần dành ít thời gian ở cuối bài
để hướng dẫn các em cách về nhà chuẩn bị mẫu vật cho bài sau
- Ở cuối lớp 6 và lớp 7 có một bài thực hành tổng hợp về tham quan thiên
nhiên tính khả thi của loại bài này là rất khó, nếu nhà trường không có điều kiện
tổ chức cho HS thì có thể thay vào đó là một bài thực hành tổng hợp thực tế như
quan sát nhận dạng và phân loại các thực vật, động vật có ở địa phương bằng
cách áp dụng đề tài này vào dạy thì chắc chắn sẽ đạt hiệu quả cao hơn.
Chắc chắn kinh nghiệm chúng tôi trình bày trên đây còn có những thiếu sót.
Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của đồng nghiệp và những người quan
tâm đến nội dung này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Nga Sơn, ngày 15 tháng 3 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
20


Trần Văn Dậu


Những tài liệu tham khảo:
1.Bộ sách giáo khoa Sinh học 6,7,8,9 của nhà xuất bản giáo dục
2.Bộ sách giáo giáo viên Sinh học 6,7,8,9 của nhà xuất bản giáo dục
3.Thông qua nguồn internet

21


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD & ĐT, CẤP SỞ GD & ĐT VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trần Văn Dậu
Chức vụ và đơn vị công tác: Hiệu trưởng trường THCS Chu Văn An – Huyện
Nga Sơn
TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh

Kết quả

Năm học

giá xếp loại đánh giá

đánh giá
22



(Phòng, Sở,
Tỉnh…)
Sơ đồ hóa kiến thức trong giảng
1

dạy môn Sinh học THCS
Một số biện pháp nhằm phát huy
tính tích cực, chủ động của học

2

sinh trong học môn Sinh học tại
trường THCS Nga Nhân – Huyện
Nga Sơn
Một số biện pháp chỉ đạo nâng

3

cao chất lượng giáo dục toàn diện
tại trường THCS Nga Nhân –
Huyện Nga Sơn
Tổ chức các hoạt động ngoại
khóa nhằm nâng cao chất lượng

4

giáo dục toàn diện tại trường
THCS Chu Văn An huyện Nga
Sơn


Phòng GD&
ĐT
-Phòng
GD& ĐT
-Sở
GD&ĐT
Tỉnh Thanh
Hóa
Phòng GD&
ĐT

-Phòng
GD& ĐT
-Sở
GD&ĐT
Tỉnh Thanh
Hóa

xếp loại
(A, B,

xếp loại

C, D)
A

2000– 2001

A

2008 - 2009
C

A

2011 - 2012

A
2013 - 2014
C

23



×