Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Sưu tầm; vận dụng ca dao, tục ngữ để dạy họchiệu quả các chủ đề đạo đức trong môn GDCD lớp 9 ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.59 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

NỘI DUNG



A. PHẦN MỞ ĐẦU
I- LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
II- MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
III-ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
IV - CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I- CƠ SỞ LÍ LUẬN
II- THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
III- CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Sưu tầm; lựa chọn ca dao, tục ngữ để giảng dạy các chủ
10 đề đạo đức lớp 9:

11
12
13
14
15

2. Sử dụng ca dao tục ngữ trong các hoạt động dạy học
VI - HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
C- KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
I- KẾT LUẬN
II- KIẾN NGHỊ.


TRANG
2
2
2
2
2
3
3
4
5
5
8

14
15
15
15

1


A - PHẦN MỞ ĐẦU
I - LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giáo dục công dân (GDCD) là môn khoa học xã hội - nhân văn mang tính đặc
thù Việt Nam rất cao vì nó phản ánh những yêu cầu của xã hội Việt Nam và hình

thành ở học sinh những chuẩn mực giá trị của xã hội Việt Nam, góp phần vào việc
bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc.
Cùng với những môn học khác, môn GDCD góp phần đào tạo những người
công dân mới vừa có tri thức khoa học vừa có năng lực hoạt động thực tiễn, có ý thức
trách nhiệm với bản thân, gia đình và đất nước. Từ đó các em thấy rõ trách nhiệm của
mình: Luôn luôn có ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp, Pháp luật, biết tự rèn
luyện bản thân để trở thành người công dân hữu ích cho quê hương, đất nước. Môn
GDCD là một môn học phục vụ cho công tác giáo dục tư tưởng, chính trị đạo đức cho
học sinh những tri thức cần thiết để trở thành công dân tốt. Dạy học môn GDCD
không chỉ đơn giản là truyền thụ tri thức mà là tổ chức hoạt động, chỉ có thông qua
hoạt động mới hình thành tình cảm, niềm tin đạo đức và nhất là hình thành thói quen
đạo đức ở mỗi học sinh. Vì vậy những lối dạy lí thuyết khô khan, xa rời thực tiễn

không phù hợp sẽ làm cho giờ dạy không cuốn hút, học sinh sẽ cảm thấy nhàm chán
không còn hứng thú động cơ học tập nữa từ đó mà ảnh hưởng đến kết quả học tập.
Bên cạnh đó đội ngũ giáo viên phần nhiều là kiêm nhiệm nên có nhiều khó khăn lúng
túng trong phương pháp, với những giáo viên này việc truyền thụ kiến thức cơ bản đã
là cả một vấn đề nói gì đến việc đầu tư, tham khảo, tìm tòi để tạo hiệu quả giờ dạy.
Dạy môn GDCD là phải khai thác chất liệu cuộc sống và vốn kinh nghiệm ở mỗi bản
thân học sinh trong cuộc sống. Qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy bộ môn, với sự trăn
trở tìm giải pháp khơi dậy sự hứng thú học tập ở học sinh, ®Ó trong qu¸ tr×nh
häc, häc sinh dÔ n¾m ®îc néi dung bµi häc, dÔ nhí bµi vµ ghi nhí
s©u s¾c h¬n néi dung bµi häc, t«i mạnh dạn nghiên cứu và sử dụng kinh
nghiệm của bản thân trong việc “Sưu tầm, vận dụng ca dao, tục ngữ trong dạy học
các chủ đề đạo đức môn Giáo dục công dân lớp 9 ở trường THCS"

II- MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Môn GDCD không đơn giản là chỉ truyền thụ tri thức, giúp học sinh nhận thức
đúng, mà qua đó hình thành ở học sinh thái độ đúng đắn đối với các vấn đề, các sự
kiện dạo đức, pháp luật cụ thể là yêu cái tốt, ghét cái xấu, cái sai, có tình cảm trong
sáng, lành mạnh, có niềm tin vào tính dúng đắn và sự cần thiết của các chuẩn mực
đạo đức, pháp luật. Chính vì vậy làm thế nào để con đường đến với tâm hồn, tình cảm
của học sinh là ngắn nhất, đơn giản và hiệu quả nhất. Mục tiêu của đề tài nghiên cứu
chính là việc sử dụng kết hợp kiến thức văn học mà cụ thể là ca dao, tục ngữ vào
giảng dạy để tạo hứng thú học tập cho học sinh, giúp học sinh dễ nhớ bài, dễ thuộc
bài hơn từ đó nâng cao chất lượng hiệu quả dạy học,
III- ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Các bài học thuộc chủ đề đạo đức trong chương trình GDCD 9

- Ca dao, tục ngữ Việt Nam
- Học sinh khối 9 Trường THCS Thạch Quảng
IV - CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- PP nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết;

2


- PP điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin;
- PP thống kê, xử lý số liệu.
B-NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I- CƠ SỞ LÍ LUẬN

Đạo đức là những quy định, những chuẩn mực ứng xử của con người với
người khác, với công việc, với thiên nhiên và môi trường sống, được nhiều người
ủng hộ và tự giác thực hiện.
Giáo dục đạo đức là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến học sinh
nhằm giúp cho nhân cách của mỗi học sinh được phát triển đúng đắn, giúp cho học
sinh có những hành vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ: của cá nhân với xã
hội, của cá nhân với lao động, của cá nhân với mọi người xung quanh và của cá nhân
với chính mình.
Từ xưa cha ông ta đã rất coi trọng việc giáo dục đạo đức cho con, cháu qua sinh
hoạt, cuộc sống hằng ngày bằng những lời dạy, lời khuyên nhẹ nhàng, thấm thía.
Những lời dạy, lời khuyên đó được thể hiện bằng những câu ca dao, tục ngữ cô đọng,
hàm xúc giàu hình ảnh, thấm đượm tình cảm, dễ đi vào lòng người. Nhân dân ta đã

từng coi ca dao, tục ngữ như là những luật tục, những khuôn phép nề nếp, những
thuần phong mỹ tục, ca ngợi cái tốt cái thiện, phê phán cái xấu, cái ác. Những tình
cảm đạo đức được mô tả chân thực vì được rút ra từ chính cuộc sống của những
người sáng tạo. vì vậy nó trở thành chân lí vĩnh cửu, được nhân dân yêu mến và luôn
ghi nhớ. Ca dao, tục ngữ đã gần gũi như là máu thịt, như hơi thở, nếp nghĩ của người
dân ta vậy. Tục ngữ, ca dao vốn là hình thức văn học dân gian có vần điệu, dễ thuộc,
dễ nhớ lại giàu triết lý nhân sinh, ra đời từ rất lâu trong lịch sử, phản ánh đời sống
tinh thần của người dân Việt Nam và vẫn luôn đồng hành cùng dân tộc.
Trong tục ngữ, ca dao chứa đựng nhiều quan điểm nhân sinh sâu sắc đồng thời ẩn
chứa nhiều giá trị đạo đức nổi bật. Mặc dù đạo đức là hệ thống giá trị chuẩn mực
đánh giá và điều chỉnh hành vi của con người dựa trên niềm tin cá nhân, dư luận xã
hội nhưng giữa tục ngữ ca dao và đạo đức có thể lồng ghép vào nhau vì cùng dựa trên

cơ sở khuyến khích tinh thần tự giác, tự thẩm thấu của mỗi người với các chuẩn mực
tốt đẹp. Vấn đề đặt ra là nên khai thác như thế nào để phát huy được lợi thế của tục
ngữ và ca dao trong việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ Việt Nam nói riêng và người
Việt Nam nói chung đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập hiện nay. Do đó một trong
những việc đổi mới phương pháp dạy học chính là cách mà người thầy giúp cho học
sinh hiểu và thẩm thấu được sự gắn kết giữa kiến thức bác học (nghiên cứu) với kiến
thức dân gian (truyền miệng). Bởi GDCD là gắn với thực tiễn phạm trù đạo đức xã
hội. Dạy GDCD là nhằm giáo dục cho học sinh các chuẩn mực đạo đức xã hội. Điều
đó đòi hỏi đơn vị kiến thức dạy học phải phù hợp với lứa tuổi học sinh, với xu thế
thời đại, trên cơ sở đó góp phần hình thành nhân cách của con người Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay. Do đó nếu giáo viên biết vận dụng những câu ca dao, tục ngữ, vào
quá trình dạy - học bài học sẽ hay hơn, sinh động tạo hứng thú học tập cho học sinh,

học sinh dễ nắm bài, dễ nhớ dễ thuộc và hiểu một cách sâu sắc hơn nội dung bài học .
Thông qua giờ học, học sinh được ôn lại những giá trị đạo đức truyền thống của dân
tộc, những bài học kinh nghiệm sống cho mọi thời đại. Hơn thế nữa nó lại là một vấn

3


đề hết sức gần gũi với cuộc sống thường ngày của học sinh nên việc tiếp nhận sẽ rất
dễ dàng.
II- THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Giáo dục có vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành nhân cách học sinh.
Để phát triển toàn diện nhân cách häc sinh, các môn học, các hoạt động giáo dục

trong nhà trường đều có ý nghĩa, vai trò nhất định, trong đó môn GDCD có vị trí đặc
biệt quan trọng trong giáo dục tư tưởng tình cảm, lí tưởng, niềm tin đạo đức, thẩm
mĩ, văn hoá lối sống, mà chính những c¸i đó làm nền tảng, động lực cho sự phát
triuển đúng đắn của thế hệ trẻ. Nhưng trong thực tế, môn GDCD ở trường THCS từ
trước đến nay được xem là môn phụ, có vai trò thứ yếu và mờ nhạt trong nhà trường.
Việc dạy và học thường diễn ra một cách khô khan nặng nề, ít gây hứng thú cho học
sinh, do đó hiệu quả giáo dục thấp, chưa đem lại cho các em những điều bổ ích rõ rệt.
Việc học tập còn tách rời với cuộc sống của học sinh. Thực tế đó cụ thể như sau:
1. Đôi với học sinh:
Thực tế giảng dạy ở trường THCS Thạch Quảng trước đây cho thấy học sinh nhà
trường là học sinh miền núi tư duy tổng hợp của các em cßn yếu.vốn từ và kiến thức
về ca dao tục ngữ còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó do ảnh hưởng của các luồng văn

hoá ngoại lai, các em không mặn mà với việc tìm hiểu, học tập văn hoá dân tộc, đặc
biệt là các phạm trù đạo đức nên chất lượng của các bài dạy của môn GDCD ít nhiều
bị tác động, các em không hứng thú với môn học. Phần lớn học sinh khi học bộ môn
này thường chưa tự giác học tập, chưa chịu khó tìm hiểu khám phá, tiếp thu bài một
cách thụ động, học trên lớp hay khi chuẩn bị bài ở nhà đều mang tính đối phó vì vậy
mà kết quả học tập chủ yếu chỉ ở mức bình thường, mức khá. Trước sự phát triển của
nền kinh tế thị trường, hội nhập của nền kinh tế mở cửa bên cạnh những mặt tích cực
thì nó cũng tác động tiêu cực đến sự hình thành giáo dục đạo đức nhân cách học
sinh.Vì vậy nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho học sinh là một trong những nhiệm vụ
quan trọng của người giáo viên đặc biệt là giáo viên dạy môn GDCD. Việc quan
trọng đặt ra là làm thế nào để tạo được hứng thú học tập cho học sinh, giúp học sinh
chủ động trong học tập hướng học sinh vào những việc làm, hành vi đúng đắn một

cách tích cực, chủ động, tự nhiên, nhẹ nhàng.
2. Đối với giáo viên
Quá trình công tác giảng dạy ở trường THCS Thạch Quảng, bản thân người viết
nhận thấy ngoài những khó khăn mang tính khách quan nói trên, bản thân còn gặp
phải những khó khăn chủ quan đó là bản thân không được đào tạo chuyên sâu về bộ
môn GDCD vì vậy cũng gặp không ít trở ngại trong quá trình giảng dạy. Tuy nhiên vì
là một giáo viên dạy bộ môn chính là môn Ngữ văn nên ít nhiều cũng có vốn kiến
thức văn học để có thể áp dụng, hỗ trợ phÇn nào trong dạy học bộ môn GDCD
Thông qua việc dự giờ các lớp và tình hình giảng dạy chung của khối lớp 9, người
viết nhận thấy điểm hạn chế tồn tại tập trung ở phương pháp truyền thụ kiến thức của
giáo viên cho học sinh. Trước hết là sự đầu tư cho giờ dạy còn hạn chế dẫn đến giờ
học khô khan, không đọng lại trong tâm trí học sinh một hình ảnh hoặc một ấn tượng

sâu sắc, mặc dù trong những năm gần đây môn GDCD đã phần nào được chú trọng ,
quan tâm nhiều hơn nhằm khẳng định đúng vị trí, vai trò giáo dục vốn có của môn
học, điều đó được thể hiện bằng việc thay sách giáo khoa, đào tạo, giảng dạy đúng

4


chuyên môn hay cả việc kết hợp môn học trong đánh giá xếp loại hạnh kiểm học sinh.
Tuy nhiên vấn đề là vẫn chưa phát huy hết được khả năng giáo dục đạo đức cho học
sinh qua môn học một cách nhẹ nhàng, tự nhiªn mà thấm thía.
Những mặt hạn chế trên dẫn đến kết quả bộ môn GDCD chưa cao. Để kiểm
nghiệm tính hiệu quả của quá trình thực hiện đề tài này, tôi đã tiến hành khảo sát học

sinh ( khối 9) và thu được kết quả như sau:
- Tỉ lệ học sinh cảm thấy cần, thích học môn GDCD: 25%
- Tỉ lệ học sinh không thích học môn GDCD: 40%
- Tỉ lệ học sinh không có sự lựa chọn rõ ràng ( học cũng được, không học cũng
được): 35%
Kết quả cụ thể minh chứng cho việc khảo sát trên:
Tổng
Khối
TT
số
(Lớp)
HS

1

9

96

Đánh giá, xếp loại
Giỏi
Khá
TB
Yếu
(9-10 điểm) (7-8.5 điểm) (5-6.5 điểm)

(3-4.5 điểm)
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
4 4.16 19 19.8 67 69.84 6
6.2


Kém
(< 3 điểm)
SL %
0
0

Các chủ đề đạo đức trong chương trình GDCD ở THCS gắn bó chặt chẽ với cuộc
sống thực tiễn của học sinh trong các mối quan hệ với những người xung quanh, với
bản thân, với môi trường sống. Nội dung cụ thể của từng bài học môn GDCD ở
THCS là những yêu cầu thiết thực của xã hội hiện đại đối với mỗi công dân, gắn bó
với cuộc sống hàng ngày của mỗi cá nhân, với sự kiện đạo đức của địa phương, đất
nước, phù hợp với lứa tuổi học sinh. Chính vì vậy bản thân tôi thấy, học sinh có thể

vận dụng ca dao, tục ngữ để học và nhớ các chủ đề đạo đức cần lĩnh hội.
III - CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Sưu tầm; lựa chọn ca dao, tục ngữ để giảng dạy các chủ đề đạo đức lớp 9:
Dân tộc Việt Nam từ ngàn năm lịch sử đã sáng tạo ra cả kho tàng ca dao, tục ngữ
đồ sộ. Có thể coi đó như pho sách giáo khoa có giá trị vào bậc nhất về luân lý đạo
đức. Đã từ rất lâu người Việt Nam đã khéo léo lồng ghép việc răn giảng đạo đức vào
tục ngữ, ca dao nhằm góp phần rèn giũa nhân cách cho con người. Trong tục ngữ, ca
dao có thể khai thác nhiều khía cạnh giá trị đạo đức sâu sắc có tác dụng khuyên răn
và giáo dục đến các đối tượng lĩnh hội. Học sinh là những chủ nhân tương lai của đất
nước cần được giáo dục một cách toàn diện. Nhiệm vụ của giáo dục Việt Nam là đào
tạo những học sinh ấy trở thành những con người vừa “hồng” vừa “chuyên”. Trong
nhà trường ngoài việc giúp học sinh lĩnh hội tri thức thì giáo dục còn có nhiệm vụ

hình thành và phát triển đạo đức, nhân cách cho người học. Vì vậy việc lồng ghép tục
ngữ, ca dao vào trong quá trình giảng dạy chính là góp phần bồi đắp và phát triển
những tư tưởng đạo đức tốt đẹp cho các em học sinh.
Tuy nhiên chúng ta đều biết rằng ca dao, tục ngữ Việt Nam vô cùng phong phú đa
dạng về nội dung sâu sắc về ý nghĩa vì vậy lựa chọn những câu ca dao tục ngữ có nội
dung phù hợp cho từng chủ đề từng bài dạy là một việc không dễ. Giáo viên cần đầu
tư thời gian để nghiên cứu tìm tòi các câu ca dao, tục ngữ phù hợp với từng chủ đề,
từng bài dạy.
5


Một lưu ý vô cùng quan trọng đối với người dạy học là: không phải bất cứ bài nào

cũng có thể vận dụng ca dao, tục ngữ để giảng dạy, có những bài, khó có thể tìm
được những câu ca dao, tục ngữ phù hợp, hoặc có bài không cần thiết phải sử dụng ca
dao tục ngữ trong giảng dạy. Nếu người dạy không chú ý đến điều này sẽ dẫn đến
việc lạm dụng ca dao, tục ngữ, hoặc sử dụng ca dao, tục ngữ chỉ mang tính hình thức
mà không mang lại hiệu quả dạy học. Bởi vì vận dụng ca dao, tục ngữ trong quá trình
dạy chỉ mang tính hỗ trợ góp phần đem lại hiệu quả cho hoạt động dạy học.
Bên cạnh đó người dạy học cũng cần phải lưu tâm một vấn đề đó là: khi sưu tầm
ca dao, tục ngữ không chỉ lựa chọn những câu có nội dung mang tính ca ngợi, biểu
dương mà cũng cần lựa chọn những câu ca dao, tục ngữ có nội dung phê phán, lên án.
Trong quá trình giảng dạy các chủ đề đạo đức để mang lại hiệu quả cao giáo viên
cần sưu tầm các câu ca dao, tục ngữ có nội dung liên quan, phù hợp đến nội dung bài
học. Sẽ hiệu quả hơn nếu người giáo viên kết hợp các hình ảnh minh họa cho câu ca

dao tục ngữ đang đề cập đến. Trong thời gian giảng dạy ở trường THCS Thạch
Quảng bản thân tôi đã sưu tầm được một số câu ca dao, tục ngữ và sử dụng chúng
trong giảng dạy các chủ đề đạo đức GDCD lớp 9, bước đầu đã mang lại hiệu quả. Tôi
mạnh dạn trình bày ra đây để trao đổi với đồng nghiệp.
a) Sưu tầm ca dao, tục ngữ phục vụ cho chủ đề: Quan hệ với bản thân
(Bài: Tự chủ)
Trong chủ đề này chỉ có duy nhÊt một bài nên sưu tầm ca dao, tục ngữ phù hợp
cũng không quá khó khăn. Quá trình sưu tầm tôi lựa chọn những câu sau:
+ Dù ai nói ngả nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân
+ Ai ơi giữ chí cho bền
Dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai

+ Gió chiều nào che chiều ấy.
+ Cây ngay không sợ chết đứng.
+ Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo
b) Sưu tầm ca dao, tục ngữ phục vụ cho chủ đề: Quan hệ với công việc:
(Các bài: Chí công vô tư; Năng động sáng tạo; Làm việc năng suất, chất lượng,
hiệu quả; Dân chủ và kỉ luật)
Đây là một chủ đề rộng với nhiều bài cụ thể sẽ có nhiều câu ca dao, tục ngữ để
phục vụ cho từng bài, có cả những câu ca dao tục ngữ có thể phục vụ cho nhiều bài
khác nhau. Tuy nhiên chúng ta chỉ nên lựa chọn vừa đủ những câu tục ngữ ca dao phù
hợp. Trong chủ đề này các câu ca dao tục ngữ tôi lựa chọn cụ thể cho từng bài như
sau
* Bài Chí công vô tư, sử dụng những câu ca dao, tục ngữ sau:

+ Luật pháp bất vị thân
+ Trống chùa ai vỗ thì thùng
Của chung ai khéo vẫy vùng nên riêng
+ Thương em anh để trong lòng
Việc quan anh cứ phép công anh làm
+ Nhất bên trọng, nhất bên khinh
+ Công ai nấy nhớ, tội ai nấy chịu

6


* Bài Dân chủ và kỉ luật, sử dụng những câu ca dao, tục ngữ sau:

+ Bề trên ở chẳng kỉ cương
Cho nên kẻ dưới lập đường mây mưa
+ Muốn tròn phải có khuôn
Muốn vuông phải có thước
+ Nước có vua, chùa có bụt
* Bài Năng động sáng tạo, sử dụng những câu ca dao, tục ngữ sau:
+ Miệng nói tay làm
+ Siêng làm thì có
Siêng học thì hay
+ Non cao cũng có đường trèo
Đường dẫu hiểm nghèo cũng có lối đi
+ Ai ơi đã quyết thì hành

Đã đan thì lặn, tròn vành mới thôi
* Bài Làm việc năng suất chất lượng hiệu quả, sử dụng những câu ca dao, tục ngữ
sau:
+ Bởi anh chăm việc canh nông
Nên anh mới có bồ trong, bịch ngoài
+ Một người lo bằng kho người làm
c) Sưu tầm ca dao, tục ngữ phục vụ cho chủ đề: Quan hệ với cộng đồng, đất
nước, nhân loại (Các bài: Tình hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới, Hợp tác
cùng phát triển, Bảo vệ hòa bình, Kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của
dân tộc)
* Bài Tình hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới, sử dụng những câu ca dao, tục
ngữ sau:

+ Thêm bạn bớt thù.
+ Lá lành đùm lá rách
+ Thương người như thể thương thân
+ Tứ hải giai huynh đệ
* Bài Hợp tác cùng phát triển, sử dụng những câu ca dao, tục ngữ sau:
+ Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
+ Buôn có bạn, bán có phường
* Bài Kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, sử dụng những câu
ca dao, tục ngữ sau:
+ Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng

+ Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy
+ Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
+ Thương người như thể thương thân
+ Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
+ Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh

7


+ Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng

Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông
+ Ai về Hậu Lộc Phú Điền
Nơi đây Bà Triệu trận tiền xung phong
2. Sử dụng ca dao, tục ngữ trong các hoạt động dạy học các chủ đề đạo đức lớp
9:
Như ở trên đã trình bày, ca dao, tục ngữ Việt Nam vô cùng đa dạng, phong phú. Vì
vậy trong quá trình giảng dạy, người dạy học cần lựa chọn các câu ca dao tục ngữ phù
hợp với từng hoạt động dạy học để đạt hiệu quả cao nhất. Các hoạt động dạy học bao
gồm:
- Hoạt động giới thiệu bài mới
- Hoạt động hình thành kiến thức mới
- Hoạt động luyện tập, củng cố, đánh giá

- Hoạt động tiếp nối
a) Sử dụng ca dao, tục ngữ trong hoạt động giới thiệu bài mới:
Giới thiệu bài mới tuy không phải là hoạt động trọng tâm trong quá trình dạy học,
nhưng như vậy không có nghĩa là không quan trọng. Hoạt động giới thiệu bài mới có
thể xem như việc chúng ta mở cánh cổng của ngôi nhà: mở ra bao điều kì thú, hấp
dẫn chờ chúng ta khám phá, tìm hiểu. Trong thực tế giảng dạy nhiều giáo viên thường
không thực hiện khâu này, hoặc nếu có thực hiện cũng thực hiện qua loa, đại khái, có
lẽ họ chưa thấy hết được vai trò quan trọng của hoạt động này. Thực hiện hoạt động
giới thiệu bài mới sao cho cuốn hút, tạo ấn tượng tốt cho người học không phải là
việc làm dễ dàng. Tuy nhiên kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm tôi thấy rằng sử dụng
ca dao tục ngữ trong hoạt động giới thiệu bài mới sẽ tạo cho học sinh ấn tượng, kích
thích sự tò mò, ham hiểu biết, tìm tòi của học sinh, tạo cho học sinh hứng thú ban

đầu, hình thành tâm thế tiếp nhận bài học mới.
Khi sử dụng ca dao, tục ngữ trong hoạt động giới thiệu bài mới, người dạy có thể
yêu cầu học sinh chuẩn bị trước những câu ca dao, tục ngữ theo chủ đề bài học. Khi
dạy bài mới giáo viên kết hợp kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh, từ đó dẫn vào giới
thiệu bài mới. Hoặc giáo viên có thể cung cấp, tung ra những câu ca dao, tục ngữ mà
mình đã sưu tầm chuẩn bị trên bảng phụ hoặc máy chiếu
Khi dạy bài Chí công vô tư, tôi viết lên bảng phụ những câu sau:
+ Thương em anh để trong lòng
Việc quan anh cứ phép công anh làm
Sau đó giáo viên đặt câu hỏi:
Theo em câu ca dao trên có ý nghĩa như thế nào?
- HS: Phát biểu cá nhân.

+ Câu ca dao khẳng định: trong công việc phải đăt lợi ích của tập thể lên trên mối
quan hệ cá nhân.
- GV: Nhận xét, giới thiệu bài mới: Ý nghĩa của câu câu ca dao trên là một trong
những nội dung thể hiện phẩm chất Chí công vô tư, một phẩm chất đạo đức cần thiết
của con người. Vậy để hiểu rõ thế nào là chí công vô tư, ý nghĩa của phẩm chất này
trong cuộc sống, chúng ta cùng tìm hiểu bài học hôm nay.

8


Như vậy tùy từng bài giảng mà chúng ta sẽ có những lựa chọn, vận dụng ca dao tục
ngữ để giới thiệu bài. Dù thế nào cũng hướng tới mục tiêu tạo ấn tượng, hứng thú cho

người học.
b) Sử dụng ca dao, tục ngữ khi thực hiện hoạt động hình thành kiến thức mới (nội
dung chính của bài):
Hoạt động hình thành kiến thức mới (dạy phần nội dung bài học) là hoạt động
trọng tâm, quan trọng nhất trong giờ dạy. Chính vì vậy để thực hiện hiệu quả, tạo
hứng thú cho học sinh trong giờ học người GV cần vận dụng tối đa các phương pháp,
cách thức dạy học nhằm giúp học sinh lĩnh hội kiến thức một cách chủ động, nhẹ
nhàng, nhưng sâu sắc. Thực tế có nhiều con đường, nhiều cách đi để hướng tới trang
bị cho học sinh những nội dung kiến thức bài học như đưa ra vấn đề để giải quyết và
rút ra nội dung, hoặc phân tích các dữ liệu có sẵn trong SGK. Tuy nhiên nếu làm như
vậy mãi sẽ trở thành lối mòn, dễ gây nhàm chán cho người học.Vì vậy bản thân tôi
thấy rằng vận dụng ca dao, tục ngữ trong hoạt động hình thành kiến thức mới là một

trong những cách giúp học sinh tiếp nhận kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên,
học sinh nắm bài dễ dàng, nhớ nhanh và nhớ lâu những kiến thức đã được hình thành.
Khi dạy bài Tự chủ. Sau khi đã hình thành khái niệm của tự chủ, để tìm ra biểu
hiện của người có tính tự chủ, giáo viên đưa ra các câu sau:
+ Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo
+ Dù ai nói ngả nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân
Sau đó giáo viên đặt câu hỏi:
Những câu ca dao trên khuyên chúng ta điều gì?
HS: Câu ca dao khuyên con người trong cuộc sống phải vững lòng, bình tĩnh tự tin
trong mọi tình huống, không nao núng hoang mang, không dao động ý chí, tâm phải
vững, dù có ai nói gì cũng không thay đổi được. Phải kiên định trước sau như một,

không bị ngả nghiêng lôi kéo.
GV: Đó chính là biểu hiện của người có tính tự chủ. Vậy người tự chủ có những biểu
hiện như thế nào
HS: Người tự chủ luôn bình tĩnh, tự tin trong mọi tình huống ; không hoang mang,
nao núng khi khó khăn ; không bị ngả nghiêng lôi kéo....
Như vậy hoạt động hình thành kiến thức mới phải tùy dung lượng của từng bài, nội
dung của từng phần trong bài, mà người giáo viên có thể lựa chọn cách thức tổ chức,
linh hoạt trong vận dụng ca dao, tục ngữ để đem lại hiệu quả cao nhất trong dạy- học.
Sử dụng ca dao, tục ngữ trong hoạt động dạy học chỉ mang tính hỗ trợ vì vậy người
giáo viên cần lưu ý để không lạm dụng làm mất đi bản chất của một giờ GDCD.
c) Sử dụng ca dao, tục ngữ khi thực hiện hoạt động luyện tập, củng cố, đánh giá:
Hoạt động luyện tập, củng cố có thể xem là hoạt động cuối cùng trong quá trình

dạy - học. Đây là hoạt động để đánh giá quá trình dạy - học của thầy và trò, đánh giá,
khẳng định kết quả dạy - học. Vận dụng ca dao, tục ngữ trong hoạt động này cần phải
thực sự khéo léo để tránh kiểu thực hiện hình thức. Bởi vì không bài nào cũng có thể
vận dụng ca dao, tục ngữ và không phải bài nào, hoạt động nào cũng có thể tìm được
những câu ca dao tục ngữ phù hợp để vận dụng minh họa.

9


Sử dụng ca dao, tục ngữ trong hoạt động này chính là kiểm tra việc tiếp nhận kiến
thức của học sinh, kiểm tra việc học sinh hiểu và thể hiện những phẩm chất đạo đức
đó trong cuộc sống thực tiễn. Sử dụng ca dao, tục ngữ để khắc sâu nội dung bài học

Khi dạy bài Năng động sáng tạo, sau khi hoàn thành nội dung bài học tôi kết hợp
cho học sinh làm bài tập SGK với bài tập bổ sung như sau:
Bài tập: Cho câu ca dao sau
+ Non cao cũng có đường trèo
Đường dẫu hiểm nghèo cũng có lối đi
GV: Câu ca dao trên nói lên điều gì?
Học sinh trả lời, sau đó giáo viên nhận xét và chốt lại vấn đề:
Ý nghĩa của câu ca dao khuyên chúng ta trong cuộc sống dù khó khăn ,gian khổ
nhưng nếu chúng ta có sự năng động sáng tạo thì chúng ta cũng dễ dàng vượt qua
Vì năng đông sáng tạo là luôn say mê tìm tòi ,phát hiện và linh hoạt xử lí các tình
huống trong cuộc sống nhằm đạt kết quả cao.
Như vậy từ việc tìm hiểu ý nghĩa của câu ca dao học sinh hiểu một cách sâu sắc

hơn ý nghĩa của năng động sáng tạo trong cuộc sống. Từ đó hình thành ở học sinh ý
thức rèn luyện phẩm chất năng động sáng tạo trong cuộc sống.
d). Sử dụng ca dao, tục ngữ cho hoạt động tiếp nối:
Hoạt động tiếp nối là hoạt động cần thiết trong hoạt động dạy- học mục đích của
hoạt động này chính là nhắc nhở học sinh về ý thức học tập thông qua việc học bài
cũ, làm bài tập và chuẩn bị cho bài mới. Tuy nhiên trong thực tế có nhiều giáo viên
chỉ thực hiện hoạt động này một cách qua loa, chiếu lệ, chưa tạo cho học sinh ý thức
trách nhiệm với bản thân, với mọi người. Vận dụng ca dao, tục ngữ cho hoạt động
này nhằm mục đích tạo cho học sinh ý thức trách nhiệm trong hoạt động học tập ở
nhà, học sinh sẽ tự giác thực hiện nhiệm vụ được giao một cách vui vẻ, bước thực
hiện hoạt động này cũng là một lần nữa giúp học sinh tự củng cố kiến thức đã học.
Khi dặn dò học sinh học ở nhà ngoài việc dặn dò học sinh về nhà học bài cũ, làm

bài tập giáo viên có thể yêu cầu học sinh về nhà sưu tầm những câu ca dao, tục ngữ
liên quan đến nội dung bài đã học. Thực hiện điều này một lần nữa học sinh nhớ lại
nội dung bài học và thực sự hiểu nội dung bài học thì học sinh sẽ tìm được những câu
ca dao, tục ngữ phù hợp.
Học xong bài Dân chủ và kỉ luật giáo viên yêu cầu học sinh về nhà sưu tầm những
câu ca dao, tục ngữ có nội dung nói về thực hiện dân chủ và kỉ luật.
- Học sinh về nhà có thể tìm được những câu sau:
- Ở quen thói, nói quen sáo.
- Người trên đứng đắn, kẻ dưới dám nhờn.
- Thượng bất chính, hạ tắc loạn.
- Bề trên ở chẳng kỉ cương.
Cho nên kẻ dưới lập đường mây mưa.

- Dột từ nóc dột xuống.
- Nhà dột tại nóc.
- Đục từ đầu sông đục xuống.
Muốn tròn phải có khuôn, muốn vuông phải có thước.
- Tôn ti trật tự.

10


Như vậy bằng thực tế giảng dạy bộ môn GDCD ở trường THCS Thạch Quảng, bản
thân tôi đã vận dụng ca dao, tục ngữ vào giảng dạy các bài thuộc chủ đề đạo đứcbước
đầu đã tạo được sự hứng thú học tập của học sinh, học sinh nắm bài nhanh hơn, hiểu

sâu sắc và dễ thuộc, dễ nhớ nội dung bài học. Giờ học trở nên lôi cuốn, nhẹ nhàng,
sâu sắc. Hơn thế nữa học sinh có thêm cơ hội tiếp cận, tìm hiểu thể loại văn học dân
gian quý giá của dân tộc.
Sau đây là một bài soạn cụ thể có vận dụng ca dao, tục ngữ trong hoạt động hình
thành kiến thức mới:
Tiết 10
KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG
TỐT ĐẸP CỦA DÂN TỘC.
A/ Mục tiêu.
1. Kiến thức:
- Nêu được thế nào là truyền thống tốt đep của dân tộc
- Nêu được số truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

2. Về kỹ năng: Biết rèn luyện bản thân theo các truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
3. Thái độ: Tôn trọng, bảo vệ, giữ gìn truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
- Các kĩ năng sống cơ bản được giáo dục trong bài
+ Kĩ năng xác định giá trị
+ Kĩ năng trình bày suy nghĩ của bản thân
+ Kĩ năng đặt mục tiêu rèn luyện
+ Kĩ năng thu thập và xử lí thông tin
4.Những năng cần hướng tới :
- Năng lực giao tiếp
- Năng lực giải quyết vấn đề
- Năng lực sáng tạo
- Năng lực hoạt động nhóm

B Các phương pháp kĩ thuật dạy học tích cực có thể sử dụng
- Động não
- Nghiên cứu trường hợp điển hình
- Thảo luận nhóm
C/ Tài liệu, phương tiện:
SGK, SGV GDCD lớp 9, Chuẩn kiến thức kĩ năng GDCD, Ca dao tục ngữ Việt
Nam
D/ Hoạt động dạy học.
1/ Kiểm tra bài cũ.
Thế nào là hợp tác, bản thân có trách nhiệm gì trong việc rèn luyện tinh thần hợp
tác?
2/ Bài mới: Là người con của dân tộc Việt mỗi chúng ta ai cũng có quyền tự hào về

những truyền thống tốt đẹp của dân tộc đã hình thành từ ngàn xưa. Vậy thế nào là
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và dân tộc ta có những truyền thống tốt đẹp nào,
chúng ta cùng tìm hiểu nội dung bài học hôm nay.
11


Hoạt động của thầy - trò
Nội dung cơ bản
Hoạt động 1: Tìm hiểu các khái niệm
Giáo viên chia lớp làm 2 nhóm thảo luận 2
câu chuyện SGK ?
Nhóm 1:

- Bác đã chứng minh Lòng yêu nước là một
truyền thống của dân tộc như thế nào ?
Bằng thực tế lịch sử của dân tộc ( Ngày
xưa và ngày nay...)
Nhóm 2:
- Nhận xét của em về cách cư xử của học
trò cũ với thầy Chu Văn An ? thể hiện
truyền thống gì của dân tộc ta ?
(Họ cư xử đúng tư cách của người học trò,
kính cẩn lễ phép).
Thể hiện truyền thống tôn sư trọng đạo.
Ngày nay các cách ửng xử đó vẫn kế thừa

1. Truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Qua phân tích trên em hiểu thế nào là truyền là những giá trị tinh thần hình thành
thống tốt đẹp của dân tộc?
trong quá trình lịch sử lâu dài của
dân tộc, được truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác
Cho các câu ca dao, tục ngữ sau. Hãy cho
biết những câu ca dao, tục ngữ nào nói lên
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, và đó là
những truyền thống gì?
GV đưa nội dung lên bảng phụ và yêu cầu
học sinh lên bảng thực hiện yêu cầu ( đánh

dấu và ghi chú những truyền thống tốt đẹp
của dân tộc)
+ Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau
cùng( TT đoàn kết)
+ Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy
( TT tôn sư trọng đạo)
+ Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh
( TT yêu nước)
+ Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng
Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông

(TT về làng nghề)
+ Ai về Hậu Lộc Phú Điền
Nơi đây Bà Triệu trận tiền xung phong
( TT yêu nước, bất khuất chống giặc ngoại

12


xâm )
+ Tham thì thâm
+ Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
+ Chim có tổ, người có tông

(TT uống nước nhớ nguồn)
+ Lá lành đùm lá rách
( TT nhân nghĩa)
+ Đi ra vừa gặp bạn hiền
Khác gì ăn quả đào tiên trên trời
+ Thương người như thể thương thân
+ Nhường cơm sẻ áo
( TT nhân nghĩa)
+ Ăn cháo đá bát
Từ việc tìm hiểu trên và bằng sự hiểu biết 2. Những truyền thống tốt đẹp của
của mình,em hãy kể những truyền thống tốt dân tộc Việt Nam.
đẹp của dân tộc Việt Nam ?

Yêu nước , bất khuất chống giặc
ngoại xâm, đoàn kết, nhân nghĩa,
cần cù lao động, hiếu học, tôn sư
trọng đaọ,......; các
truyền thống về văn hóa , về nghệ
thuật.
Có phải tất cả những lối sống, nếp nghĩ, tư
tưởng hình thành từ lâu đời và truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác đều là truyền thống
tốt đẹp?
- Không phải tất cả những lối sống, nếp
nghĩ, tư tưởng hình thành từ lâu đời và

truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác đều .
là truyền thống tốt đẹp lối sống tiêu cực
Em hãy nêu ví dụ minh họa ?
Tập quán lạc hậu
- Nạn tảo hôn
- Nếp nghĩ, lối sống tùy tiện
- Coi thường pháp luật.
- Tư tưởng trọng nam khinh nữ
- Tục lệ ma chay, cưới xin, lễ hội lãng phí,
mê tín dị đoan.
3. Củng cố, luyện tập.
GV cho hs làm BT 1SGK.

Những thái độ và hành vi nào sau đây thể hiện sự kế thừa và phát huy truyền thống
tốt đẹp của dân tộc ?
1. Thích trang phục, truyền thống Việt Nam.
2. Tìm hiểu VH dân gian
3. Tham gia hoạt động đền ơn đáp nghĩa

13


4. Theo mẹ đi xem bói
5. Thích quần bò, áo đen, tóc nhuộm vàng là mốt.
( Đáp án 1,2,3 )

4. Hoạt động tiếp nối:
HS về nhà làm bài tập 2.
Chuẩn bị bài mới: phần còn lại của bài học và bài tập.
- Sưu tầm thêm các câu ca dao, tục ngữ thể hiện chủ đề đã học
*************************
IV - HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Trong năm học 2015 - 2016 ở trường THCS Thạch Quảng tôi áp dụng sáng kiến
này và bản thân thấy hiệu quả rõ rệt trong giảng dạy cụ thể:
- Thứ nhất bản thân thấy hứng thú trong việc soạn giáo án lên lớp. Việc sưu tầm ca
dao tục ngữ giúp bản thân có cơ hội để lĩnh hội vốn kiến thức văn học phong phú đa
dạng của dân tộc Việt
- Trong các tiết thao giảng tôi đã tiến hành áp dụng sáng kiến, chất lượng giờ dạy tốt

được đồng nghiệp đánh giá cao
- Giờ dạy trên lớp tiến hành nhẹ nhàng, gây được sự tập trung chú ý của học sinh.
Học sinh hứng thú học tập từ đó tích cực xây dựng bài, hiểu bài và vận dụng, liên hệ
thực tế rất tốt. Kết quả điểm các lần kiểm tra được nâng lên. Vận dụng ca dao tục ngữ
đã tác động trực tiếp đến tư tưởng tình cảm, hành vi đạo đức của các em. Thông qua
kiến thức bài học, học sinh biết trân trọng, kế thừa và phát huy những truyền thống
tốt đẹp của dân tộc.
Trong quá trình giảng dạy thử nghiệm áp dụng sáng kiến tôi đã thực hiện tại khối
lớp 9. Kết quả chất lượng cuối học kỳ I như sau:
Tổng
Khối
TT

số
(Lớp)
HS
1

9

96

Đánh giá, xếp loại
Giỏi
Khá

TB
Yếu
(9-10 điểm) (7-8.5 điểm) (5-6.5 điểm)
(3-4.5 điểm)
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%

12 12.5 26 27.1 57 59.37 1 1.03

Kém
(< 3 điểm)
SL %

Trong số những em học sinh giỏi bộ môn cấp trường đã có 4 em đạt học sinh giỏi
trong kì thi học sinh giỏi văn hóa cấp Huyện bao gồm các em:
1. Nguyễn Thị Bình - Lớp 9A
2. Nguyễn Thị Hương - Lớp 9A
3. Vũ Thị Kim Tuyến - Lớp 9A
4. Bùi Thị Hà

- Lớp 9A
Trong số đó có một em đạt học sinh giỏi cấp Tỉnh: Em Nguyễn Thị Bình - Lớp 9A
Như vậy từ kết quả trên có thể thấy hiệu quả của việc áp dụng sáng kiến Sưu tầm,
sử dụng ca dao tục ngữ vào giảng dạy là không nhỏ. Bên cạnh đó ngoài bản thân tôi,
có một số đồng nghiệp cũng đã bước đầu áp dụng cách làm này và cũng đã có những
phản hồi tích cực về hiệu quả của việc vận dụng ca dao, tục ngữ vào giảng dạy các
chủ đề đạo đức trong môn GDCD.
14


C - KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I - KẾT LUẬN

Để thực hiện công cuộc đổi mới giảng dạy đạt hiệu quả cao và thành công trước
hết mỗi giáo viên phải tự phấn đấu nâng cao nghiệp vụ của mình, trao đổi kinh
nghiệm của đồng nghiệp để trau dồi thêm nghiệp vụ của mình.
Để có thể phát huy tính tích cực của học sinh trong công việc học tập nói chung
và môn GDCD nói riêng; giáo viên phải biết vận dụng linh hoạt các điều kiện cụ thể,
các phương pháp dạy học tích cực làm sao dẫn dắt học sinh hứng thú học tập, tin
tưởng vào cơ sở lí thuyết của bài học. Từ đó tiếp thu kiến thức dễ dàng hơn, tạo
không khí học tập sôi nổi, tạo cảm giác thích thú, say mê trong học tập, tránh sự
nhàm chán trong tiết học. Qua thực tế giảng dạy ở đơn vị Trường THCS Thạch
Quảng trong một số năm gần đây, tôi nhận thấy: Trong các bài dạy chủ đề đạo đức
nếu có sử dụng ca dao, tục ngữ thì bài dạy trở nên sinh động rất nhiều, tạo hứng thú
cho học sinh trong giờ học từ đó nâng cao hiệu quả dạy - học. Những quan điểm mà

ông cha ta đúc kết qua ca dao, tục ngữ kích thích sự tò mò, ham hiểu biết, tạo cho học
sinh động lực khi giải quyết tình huống có vấn đề. Việc sử dụng ca dao, tục ngữ còn
giúp cho học sinh kĩ năng liên hệ thực tế cuộc sống xung quanh mình. Ngoài ra còn
giúp cho học sinh có cái nhìn thực tế hơn về cuộc sống.
Trên đây là một vài vấn đề được xem là kinh nghiệm mà bản thân tôi đã từng áp
dụng tại đơn vị mình công tác. Qua kiểm nghiệm tôi thấy đề tài này đem lại hiệu quả
trong việc đổi mới phương pháp dạy học góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở bộ
môn GDCD. Tất nhiên quá trình vận dụng thực tế cũng cần tính đến đặc điểm riêng
như khả năng giáo viên, điều kiện học sinh, trường lớp.
Với bản thân qua quá trình áp dụng tôi thấy rằng sự sinh động của bộ môn phụ
thuộc rất nhiều đến sự linh hoạt của giáo viên. Nếu thực sự đầu tư và biết cách đầu tư
cho từng tiết dạy học thì môn GDCD không phải là bộ môn khô khan, nhàm chán như

nhiều người vẫn nghĩ. Việc đưa ca dao, tục ngữ, vào dạy - học bộ môn GDCD ngoài
việc gây hứng thú cho học sinh thì đây còn là biện pháp góp phần gìn giữ và phát
huy một di sản văn hóa mà ông cha ta để lại.
II- KIẾN NGHỊ
1. Đối với các cấp quản lí giáo dục
- Nên tổ chức các hoạt động chuyên đề, triển khai các đề tài, sáng kiến được xếp loại
tốt qua các năm học.
- Đầu tư cơ sở vật chất phục vụ môn học như tranh ảnh, tài liệu tham khảo ngoài
SGK.
- Nên đưa môn GDCD vào một trong những môn thi bắt buộc để khẳng định đúng vai
trò, vị trí của môn học giáo dục đạo đức, pháp luật trong nhà trường.
2. Đối với đồng nghiệp

Trong quá trình sưu tầm, vận dụng ca dao, tục ngữ vào trong quá trình giảng dạy
cần chú ý một số điểm sau:
- Ca dao, tục ngữ Việt Nam vốn rất phong phú, đa dạng vì vậy cần phải lựa chọn
những câu ca dao, tục ngữ phù hợp với các chủ đề, phù hợp với từng bài, từng nội
dung. Muốn đảm bảo yêu cầu đó giáo viên cần dành thời gian cần thiết cho việc sưu
tầm.

15


- Phải trang bị cho mình vốn kiến thức văn học cần thiết để hiểu đúng, hiểu đủ ý
nghĩa của các câu ca dao, tục ngữ.

- Khi sử dụng, giáo viên có thể linh hoạt tùy vào nội dung của từng bài, từ đó có thể
lồng ghép vào nội dung của bài học hoặc có thể sử dụng trong phần củng cố bài học.
tất nhiên nếu thời gian không đảm bảo chúng ta có thể đưa vào phần hướng dẫn học
sinh làm bài tập về nhà.
- Việc khai thác ý nghĩa ca dao, tục ngữ cũng tùy thuộc vào dụng ý của người dạy học
để có thể khai thác một tầng nghĩa hay tất cả các tầng nghĩa vì ca dao tục ngữ thường
có tính đa nghĩa.
- Ca dao, tục ngữ vốn hàm súc, cô đọng nhưng ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Một câu ca
dao, tục ngữ có thể sử dụng ở nhiều bài khác nhau. Vì vậy khi lựa chon chúng ta cần
lưu ý dến điểm này để định hướng khai thác cho phù hợp đúng nội dung, đúng trọng
tâm.
Xã hội ngày càng phát triển, các luồng văn hóa khác, trong đó có cả các luồng văn

hóa không lành mạnh du nhập vào Việt Nam ngày càng nhiều, văn học truyền miệng
phần nào mai một đi trong tâm hồn thế hệ trẻ. Do đó đây cũng chính là việc làm có ý
nghĩa góp công, sức trong việc bảo tồn nền văn hóa dân tộc.
Trên đây là một vài vấn đề liên quan đến kinh nghiệm dạy học bộ môn mà tôi
mạnh dạn trình bày với mục đích được cùng bạn bè đong nghiệp trao đổi, tìm giải
pháp nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Mặc dù đã rất cố gắng song vẩn còn có
phần hạn chế cũng như vốn kinh nghiệm còn ít ỏi chắc chắn sẽ không tránh khỏi
những thiếu sót cần được khắc phục. Rất mong nhận được ý kiến góp ý của các đồng
nghiệp, để đề tài có sức thuyết phục hơn và góp phần nâng cao hiệu quả chất lượng
dạy, học môn GDCD ở trường THCS.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị


Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thạch Thành, tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của bản
thân không sao chép của người khác.
Người thực hiện

Nguyễn Thị Chinh

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1 TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN CHO GIÁO VIÊN THCS CHU KÌ
III (2004 - 2007)
2. HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN CHUẨN KIẾN THỨC KĨ NĂNG MÔN GDCD
THCS
3. CA DAO TỤC NGỮ VIỆT NAM
4. SGK GDCD 9
5. SGV GDCD 9
6.THIẾT KẾ BÀI GIẢNG GDCD 9

17




×