Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

VẬN DỤNG MỘT SỐ KỸ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG GIẢNG DẠY NGỮ VĂN LỚP 9 Ở TRƯỜNG THCS NGA THẠCH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.45 MB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GD&ĐT NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

VẬN DỤNG MỘT SỐ KỸ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC
TRONG GIẢNG DẠY NGỮ VĂN LỚP 9
Ở TRƯỜNG THCS NGA THẠCH

Người thực hiện: Nguyễn Thị Hồng
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Nga Thạch
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Ngữ văn

THANH HÓA NĂM 2015

1


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giáo dục học sinh phát triển toàn
diện về đức - trí - thể - mĩ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân,
tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp
tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định số
16/2006/QĐ - BGDĐT ngày 5/5/2006 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo
cũng đã nêu: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của học sinh phù hợp với đặc điểm của từng lớp học,
môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn
luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại


niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Vậy muốn cho học sinh, nhất là học sinh Trung học cơ sở (THCS) phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo, có năng lực tự học, khả
năng thực hành, có lòng say mê học tập và ý chí vươn lên thì đòi hỏi giáo viên
và học sinh phải hướng tới phương pháp dạy và học tích cực. Các hoạt động học
tập được tổ chức, định hướng bởi giáo viên, học sinh không thụ động chờ đợi
mà tự lực, tích cực tham gia vào quá trình tìm kiếm, khám phá, phát hiện kiến
thức, vận dụng linh hoạt kiến thức để giải quyết các hoạt động học tập một cách
hiệu quả.
Mục tiêu của chương trình giáo dục THCS nhấn mạnh tới sự hình thành
và phát triển các năng lực chủ yếu của học sinh nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển
trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, năng lực hành động, năng
lực thích ứng, năng lực giao tiếp, năng lực tự khẳng định.
Vấn đề tìm tòi sáng tạo những con đường để phát huy chủ thể học sinh
trong dạy học nói chung, trong môn Ngữ văn nói riêng đã được chú ý trong suốt
những năm qua. Dạy học ngữ văn theo hướng tổ chức hoạt động phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh đang là yêu cầu hàng đầu của
sự đổi mới.
Để làm được yêu cầu trên, từ khi cải cách giáo dục, thay sách giáo khoa,
chúng ta đã đổi mới nội dung giáo dục THCS: Giảm quá tải, tăng tính thực tiễn
và tính thực hành, đảm bảo tính vừa sức, tính khả thi...Nhìn chung, trong các giờ
học, giáo viên đã chuyển tải kiến thức, học sinh tiếp nhận bài học khá sinh động.
Năm học 2010 – 2011, Bộ giáo dục và Đào tạo đã triển khai và ban hành
hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức - kĩ năng trong chương trình giáo dục phổ
thông các môn học và đưa ra một số kĩ thuật dạy học tích cực có thể sử dụng
trong dạy – học Ngữ văn ở trường THCS. Tuy nhiên, việc vận dụng các kĩ thuật
dạy học (KTDH) tích cực trong môn ngữ văn không phải là vấn đề đơn giản, nó
phụ thuộc khá nhiều vào các yếu tố khách quan như cơ sở vật chất, thiết bị dạy
học, trình độ học sinh...Vì vậy, đối với giáo viên dạy môn ngữ văn ở nhiều
trường, nhiều địa phương thì các KTDH tích cực vẫn là vấn đề khá mới mẻ, việc

2


vận dụng vào thực tiễn chưa thật thường xuyên, nhiều nơi còn mang tính hình
thức... Riêng với trường THCS Nga Thạch, việc ứng dụng các KTDH tích cực
trong môn ngữ văn còn khá khiêm tốn, một phần do trang bị của giáo viên về
KTDH còn hạn chế, phần vì điều kiện cơ sở vật chất, khả năng của học sinh...
Từ thực tế trên, tôi mạnh dạn nêu lên một vài kinh nghiệm về "Vận dụng
một số kỹ thuật dạy học tích cực trong giảng dạy Ngữ văn lớp 9 ở trường
THCS Nga Thạch” với hi vọng cùng sẻ chia kinh nghiệm, hiểu biết về KTDH
với đồng nghiệp, đồng thời để cùng nhau vận dụng vào thực tiễn dạy học nhằm
nâng cao chất lượng dạy - học môn ngữ văn.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
1. Tính tích cực học tập.
Tính tích cực (TTC) là một phẩm chất vốn có của con người, bởi vì để tồn
tại và phát triển con người luôn phải chủ động, tích cực cải biến môi trường tự
nhiên, cải tạo xã hội. Vì vậy, hình thành và phát triển TTC học tập là một trong
những nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục.
Tính tích cực học tập - về thực chất là TTC nhận thức, đặc trưng ở khát
vọng hiểu biết, cố gắng trí lực và có nghị lực cao trong qúa trình chiếm lĩnh tri
thức. TTC nhận thức trong hoạt động học tập liên quan trước hết tới động cơ
học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng
thú và tự giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Tính tích cực sản sinh nếp tư
duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm mống của sáng tạo. Ngược lại, phong
cách học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự giác, hứng thú, bồi dưỡng
động cơ học tập. TTC học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái trả lời
các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến
của mình trước vấn đề nêu ra; hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những
vấn đề chưa đủ rõ; chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức

vấn đề mới; tập trung chú ý vào vấn đề đang học; kiên trì hoàn thành các bài tập,
không nản trước những tình huống khó khăn… TTC học tập thể hiện qua các
cấp độ từ thấp lên cao như:
- Bắt chước: gắng sức làm theo mẫu hành động của thầy, của bạn…
- Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm cách giải quyết khác
nhau về một số vấn đề…
- Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.
2. Phương pháp dạy học tích cực
Phương pháp dạy học (PPDH) tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được
dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. PPDH tích cực hướng
tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là
tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập trung
vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương
pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ
động.
3


Đặc trưng của các phương pháp dạy học tích cực.
- Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
- Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
- Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.
- Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
3. Kĩ thuật dạy học tích cực
Kỹ thuật dạy học là biện pháp, cách thức tiến hành các hoạt động dạy học
dựa vào các phương tiện thiết bị nhằm đảm bảo chất lượng và hiệu quả giảng
dạy và giáo dục hay có thể nói cách khác đó là cách thức hoạt động dạy học, tổ
chức hoạt động giáo dục để bảo đảm hiệu quả, chất lượng giảng dạy. Năng lực
sử dụng các KTDH trong từng giáo viên khác nhau và nó được xem là rất quan

trọng đối với người đứng lớp, nhất là trong bối cảnh đổi mới PPDH hiện nay ở
trường phổ thông. Rèn luyện để nâng cao năng lực này là một nhiệm vụ, một
vấn đề thật cần thiết của mỗi giáo viên, nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao chất
lượng dạy và học ở nhà trường.
Kỹ thuật dạy học tích cực là những KTDH có ý nghĩa đặc biệt trong việc
phát huy sự tham gia tích cực của học sinh vào quá trình dạy học, kích thích tư
duy, sự sáng tạo và sự cộng tác làm việc của học sinh.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
1. Đối với giáo viên
Theo chương trình của Bộ Giáo dục thì đến năm 2016 sẽ thực hiện thay
sách giáo khoa mới. Vì vậy việc áp dụng những phương pháp và KTDH tích cực
vào trong quá trình dạy học là hết sức cần thiết.
Hè năm 2012, Sở giáo dục đào tạo Thanh Hóa đã triển khai chuyên đề giới
thiệu một số phương pháp và KTDH tích cực. Tuy nhiên việc áp dụng các
KTDH này để phát huy TTC, sáng tạo của học sinh còn hạn chế, nhiều nơi còn
mang tính hình thức. Kiểu dạy học phổ biến trong nhiều môn học hiện nay vẫn
là giáo viên truyền thụ những nội dung được trình bày trong sách giáo khoa, học
sinh nghe và ghi nhớ một cách thụ động.
Hiện nay, việc áp dụng các KTDH tích cực vào giảng dạy còn hạn chế.
Nguyên nhân là do một số giáo viên vẫn còn có quan điểm cho rằng những
KTDH tích cực rất khó áp dụng vào giảng dạy trong thời gian 45 phút trên lớp
nên cũng rất ít sử dụng. Mặt khác cơ sở vật chất ở các trường học hầu như chưa
đáp ứng được triệt để. Sĩ số lớp học quá đông, bàn ghế, cách kê bàn trong lớp
học vẫn theo kiểu truyền thống nên khi hoạt động nhóm gặp nhiều khó khăn.
Các em phải kê bàn ghế lại tạo nên sự ồn ào, mất thời gian. Hay nếu cần sử dụng
máy chiếu thì phòng máy cố định, máy chiếu chưa đủ, lớp học thiết kế chưa
đúng quy cách nên màn hình để chưa đúng chỗ…cũng tạo khó khăn cho giáo
viên và học sinh trong quá trình di chuyển.
Thực trạng nữa mà tôi nhận thấy khi vận dụng KTDH tích cực khó tiến
hành đồng bộ ở tất cả các trường, các lớp, các giáo viên đó là do đời sống của

một bộ phận cán bộ giáo viên còn nhiều khó khăn nên chưa đầu tư thỏa đáng
vào việc đổi mới phương pháp, KTDH. Soạn giảng có sử dụng các KTDH mới
4


tốn khá nhiều thời gian, công sức của người dạy so với thực hiện các PPDH
truyền thống. Đây là điều thực tế trong việc áp dụng các phương pháp, KTDH
mới hiện nay không chỉ ở địa bàn huyện ta nói riêng mà hầu như trong toàn tỉnh
nói chung.
2. Đối với học sinh:
Đa số học sinh đã chú ý nghe giảng, tập trung suy nghĩ trả lời các câu hỏi
mà giáo viên đặt ra như các em đã chuẩn bị bài mới ở nhà, trả lời các câu hỏi
cuối mục trong bài cho nên khi học các em luôn chú ý để nắm chắc bài hơn. Hầu
hết học sinh đều tích cực thảo luận nhóm và đã đưa lại hiệu quả cao trong quá
trình lĩnh hội kiến thức.
Tuy nhiên vẫn còn một số học sinh lười học, chưa có sự say mê học tập,
một bộ phận học sinh thường xuyên không chuẩn bị bài ở nhà, không làm bài
tập đầy đủ, trên lớp các em thiếu tập trung suy nghĩ nên không nắm vững được
nội dung bài học. Một số học sinh chỉ có thể trả lời được những câu hỏi dễ, đơn
giản, còn một số câu hỏi tổng hợp, phân tích, giải thích, so sánh…thì còn rất
lúng túng khi trả lời hoặc trả lời mang tính chất chung chung.
Đầu năm học 2014 – 2015 tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng và tình
trạng học tập của học sinh lớp 9B(31 em), trường THCS Nga Thạch.Kết quả thu
được như sau:
*Kết quả khảo sát tình trạng học tập của học sinh :
Hoạt động của học sinh

Thường xuyên

Đôi khi


Không

Tham gia trả lời câu hỏi

16

8

7

Nhận xét ý kiến của bạn

15

9

7

Tự giác làm bài tập

17

8

6

Qua kết quả kiểm tra trên cho thấy: mức độ chú ý nghe giảng còn hạn
chế. Học sinh tham gia trả lời câu hỏi, nhận xét ý kiến của bạn còn ít, vẫn còn
học sinh chưa tự giác làm bài tập. Đồng thời, ở nhiều học sinh hoạt động giao

tiếp, kỹ năng sống rất hạn chế, chưa mạnh dạn nêu chính kiến của mình trong
các giờ học, không dám tranh luận nhất là với thầy cô giáo, chưa có thói quen
hợp tác trong học tập. Điều này đã ảnh hưởng rất không tốt đến việc học tập của
học sinh. Có nhiều nguyên nhân cho những hạn chế trên nhưng nguyên nhân chủ
yếu vẫn là do phương pháp giáo dục.
*Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm:
Loại
Số HS
31

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

Kém

SL

%

SL

%

SL


%

SL

%

SL

%

0

0

4

12,9

14

45,2

9

29

4

12,9
5



Trên đây là những vấn đề, là thực trạng dễ thấy nhất trong quá trình áp
dụng các KTDH mới. Bên cạnh đó vẫn còn rất nhiều khó khăn nữa mà người
trực tiếp đứng lớp như tôi đã gặp phải trong các giờ dạy của mình. Song vượt
qua những khó khăn đó, bản thân tôi đã xác định được trách nhiệm của người
giáo viên đứng lớp: dạy học không chỉ là dạy kiến thức mà còn phải bồi dưỡng
cho các em lòng say mê học tập, ý thức vươn lên trong cuộc sống, vì thế tôi đã
luôn chủ động áp dụng các KTDH mới trong những giờ dạy của mình. Sau đây
là một số bài dạy có áp dụng các KTDH tích cực mà bản thân tôi đã vận dụng có
hiệu quả trong giảng dạy.
III. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Có rất nhiều KTDH khác nhau mà người giáo viên có thể sử dụng trong
quá trình giảng dạy để phát huy TTC của học sinh. Ở đây tôi chỉ đề cập đến một
số KTDH tích cực mà bản thân thường xuyên sử dụng có hiệu quả trong các giờ
dạy ngữ văn lớp 9 để nâng cao chất lượng học tập của học sinh ở trường THCS
Nga thạch, bao gồm các kỹ thuật: kỹ thuật huy động tư duy, kỹ thuật đặt câu hỏi,
kỹ thuật động não, kỹ thuật sử dụng sơ đồ tư duy. Sau đây là phần ứng dụng một
số KTDH tích cực ở một số bài dạy cụ thể.
1.Kỹ thuật huy động tư duy (động não tập thể)
Đây là một hình thức học có thể áp dụng cho bất kỳ một tiết dạy nào, huy
động tư duy là một kỹ thuật nhằm huy động những ý tưởng mới, những kiến
thức mới cần sự phối hợp nhiều người trong lớp. Các thành viên được cổ vũ
tham gia một cách tích cực thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, kỹ
thuật huy động tư duy thường được cụ thể bằng hoạt động nhóm. Đây là cách tổ
chức giờ học không chỉ giúp học sinh củng cố, phát huy kiến thức mà còn nhằm
phát triển tình bạn, ý thức tổ chức kỷ luật, tính tập thể, tinh thần tương trợ, hợp
tác, ý thức cộng đồng tạo không khí sôi nổi, có hứng thú trong giờ học .
Học theo nhóm làm tăng hiệu quả học tập nhất là lúc giải quyết những vấn
đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn

thành nhiệm vụ chung. Hiện nay trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện nhu
cầu hợp tác liên quốc gia, năng lực hợp tác sẽ trở thành một mục tiêu giáo dục
mà giáo viên phải hình thành được cho học sinh trong các giờ học.
Tôi đã áp dụng KTDH theo nhóm trong nhiều giờ dạy. Dưới đây là một số
ví dụ cụ thể mà tôi đã vận dụng đối với các bài phần Đọc - hiểu văn bản.
Ví dụ 1: - Ở bài : “Chuyện Người con gái Nam Xương”, phần cuối bài
ta có thể cho học sinh (HS) thảo luận câu :
Một con người có phẩm chất tốt đẹp, khát khao hạnh phúc gia đình như
Vũ Nương đã từ chối nhân gian. Điều đó giúp em hiểu gì về hiện thực cuộc sống
và hạnh phúc của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến ?

6


Nội dung cần đạt: Hiện thực cuộc sống áp bức bất công. Trong cuộc sống
ấy những con người bé nhỏ, đức hạnh không thể tự bảo vệ được hạnh phúc
chính đáng của mình .
Ví dụ 2: - Ở bài “ Làng”, cuối bài cho HS thảo luận câu:
Vì sao khi xây dựng hình tượng nhân vật chính luôn hướng về làng chợ
Dầu nhưng Kim Lân lại đặt tên truyện ngắn của mình là “Làng” mà không phải
là “Làng chợ Dầu ”?
Nội dung cần đạt: Đặt tên là “Làng” vì truyện đã khai thác một tình cảm
bao trùm, phổ biến trong con người thời kì kháng chiến chống Pháp: tình cảm
với quê hương, với đất nước. Làng ở đây cũng chính là cái làng Chợ Dầu mà
ông Hai yêu như máu thịt của mình, nơi ấy với ông là niềm tin, là tình yêu và
niềm tự hào vô bờ bến, là quê hương đất nước thu nhỏ. Bởi vậy tình cảm yêu
làng, yêu nước không chỉ là tình cảm của riêng ông Hai mà còn là tình cảm
chung của những người dân Việt Nam thời kì ấy. Chủ đề của tác phẩm là viết về
lòng yêu nước của người nông dân mà làng là nơi gần gũi, gắn bó với người
nông dân, người ta không thể yêu nước nếu không yêu làng. Nhan đề “Làng”

gợi hình ảnh người nông dân và nông thôn, đây là mảng sáng tác thành công
nhất của Kim Lân. Có thể nói nhan đề tác phẩm rất hay và giàu ý nghĩa.
Ví dụ 3: - Trong bài “ Lặng lẽ Sa Pa”, ở cuối bài cho HS thảo luận câu:
Vì sao tác giả không đặt tên cụ thể cho từng nhân vật trong tác phẩm mà
lại đặt tên tên theo giới tính nghề nghiệp của các nhân vật?
Nội dung cần đạt: Để ca ngợi những con người có phẩm chất tốt đẹp ở
mọi lứa tuổi, mọi ngành nghề, những con người âm thầm lặng lẽ cống hiến cho
tổ quốc, làm tăng thêm sức khái quát của truyện….
Ví dụ 4 - Ở bài “Ánh trăng”, có thể cho HS thảo luận câu:
Từ sự xa cách giữa người và trăng, nhà thơ muốn nhắc nhở điều gì? Vì sao
có sự xa lạ, cách biệt giữa người và trăng?
Nội dung cần đạt: Vì không gian khác biệt; thời gian khác biệt; điều kiện
sống khác biệt nên có sự cách biệt. Từ đó nhà thơ muốn nhắc nhở không nên
quên quá khứ, phải thủy chung...
Hoặc câu : Nếu ánh trăng tượng trưng cho vẻ đẹp và những giá trị truyền
thống, thì lời thơ nói về sự vô tình và giật mình của con người trước trăng có ý
nhắc nhở ta điều gì trong cuộc sống ?
Nội dung cần đạt: Phải trân trọng, giữ gìn vẻ đẹp và những giá trị truyền
thống, lãng quên quá khứ tốt đẹp là phản bội lại chính bản thân mình. Nhắc nhở
con người thái độ sống ân tình ân nghĩa, thủy chung, uống nước nhớ nguồn…
Qua cách tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh (huy động tư duy) tôi nhận
thấy rằng hoạt động này không chỉ thu được kết quả về mặt kiến thức mà còn
xây dựng cho học sinh các kỹ năng cần thiết. Bằng cách nói ra những điều đang
nghĩ mỗi người có thể hiểu rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề hay bài tập
đưa ra, nhận thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Bài học sẽ trở thành quá
trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải chỉ là sự tiếp nhận thụ động từ giáo viên.

7



Do đó hoạt động nhóm thực sự cần thiết trong các giờ học nói chung và giờ Ngữ
Văn nói riêng.
2. Kỹ thuật đặt câu hỏi ( Nêu vấn đề)
Dạy học nêu vấn đề là kiểu dạy học hiện đại đáp ứng được nhiệm vụ dạy
học trong thời kỳ bùng nổ thông tin và phát triển của khoa học kĩ thuật đó là
không chỉ dạy học sinh tri thức mà còn dạy cách làm ra tri thức, không chỉ dạy
học sinh tiếp nhận ghi nhớ thông tin mà còn dạy học sinh chủ động lựa chọn
thông tin xử lý thông tin hiệu quả.
Dạy học nêu vấn đề phù hợp với xu thế của giáo dục hiện đại. Vận dụng
dạy học nêu vấn đề trong bộ môn Ngữ văn là phương pháp tích cực hóa các hoạt
động học tập của học sinh giúp cải thiện tình trạng học sinh chán học văn, nhằm
kích thích hứng thú học tập ở học sinh.
Dưới đây là một số ví dụ cụ thể về kỹ thuật đặt câu hỏi nêu tình huống có
vấn đề mà bản thân đã vận dụng trong phần dạy Đọc – hiểu văn bản.
- Tình huống bất ngờ:
Trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng, hình ảnh
ông Sáu khi bị đạn giặc bắn trúng ngực, theo lời kể của Bác Ba “ Anh đưa tay
vào túi, móc cây lược đưa cho tôi và nhìn tôi một hồi lâu” và Bác Ba nhận xét
“chỉ có tình cha con là không thể chết được”. Từ cái nhìn của ông Sáu mà có lời
nhận xét của Bác Ba.
Vậy theo em, vì sao Bác Ba có thể nhận xét như vậy?
Điều bất ngờ mà học sinh đã nhận ra là ông Sáu đang ở vào tình thế nguy
kịch đối mặt với cái chết, giờ phút cuối cùng ấy ông không đủ sức để trăng trối
lại điều gì chỉ đủ sức làm cái việc cuối cùng là “Anh đưa tay vào túi, móc cây
lược, .... nhìn tôi một hồi lâu” cái nhìn ấy của ông như muốn nói với người đồng
đội thay mình thực hiện mong ước của con bởi thế nên người đồng đội - Bác Ba
đã cảm nhận được sự bất tử của tình phụ tử thiêng liêng kiên định “chỉ có tình
cha con là không thể chết được”.
- Tình huống mâu thuẫn:
Tìm hiểu bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương, giáo viên có nêu

tình huống sự mâu thuẫn: Mở đầu tác giả xưng “con”- “ Con ở miền Nam ra
thăm lăng Bác” tất cả bài thơ là diễn biến tâm trạng và cảm xúc của tác giả
nhưng đến khổ thơ kết thúc bài tác giả viết:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Tại sao có đến bốn câu thơ vắng chủ thể như vậy?
Với câu hỏi này, học sinh đã phát hiện và nêu: Từ “con” có đến bốn lần
vô nhân xưng, đó là một mâu thuẫn. Những câu thơ vắng chủ thể ấy trước hết là
tâm trạng cảm xúc chính xác hơn là mong muốn của nhà thơ và cũng là mong
muốn của tất cả nhân dân miền Nam, dân tộc Việt Nam. Kết lại bài thơ trong

8


cảm xúc ấm áp tin tưởng tấm lòng thủy chung của nhân dân Miền Nam đối với
Bác vẫn sắt son.
- Tình huống lựa chọn
Cũng trong bài thơ “Viếng lăng Bác”: Nếu thay từ “con” trong câu thơ:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” bằng từ: “cháu”, “tôi”, “ta”, “mình” thì
sắc thái ý nghĩa của các từ đó có phù hợp với tình cảm tác giả muốn bộc lộ
không?
Học sinh chọn cách giải quyết vấn đề: Nếu thay từ “con” bằng các từ
“cháu”, “tôi”, “ta”, “mình” thì sắc thái biểu cảm thay đổi, ý thơ không thay đổi
nhiều song không phù hợp với tình cảm tác giả muốn bộc lộ. Bởi sinh thời:
“ Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”
Tình cảm của tác giả đối với Bác là tình cảm ruột thịt. Không từ ngữ nào
có thể diễn tả được cảm xúc gần gũi, ấm áp thiêng liêng hơn từ “con”.

Nói tóm lại, trong quá trình dạy học, nếu biết vận dụng tốt kĩ thuật đặt
câu hỏi, nêu vấn đề phù hợp sẽ kích thích được hứng thú học tập của học sinh;
tích cực hóa hoạt động học tập sẽ cải thiện được tình trạng chán học văn hiện
nay ở một bộ phận học sinh.
3. Kỹ thuật động não.
Động não là kỹ thuật giúp cho học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh
được những ý tưởng mới mẻ, độc đáo về một chủ đề nào đó. Các thành viên
được cổ vũ tham gia một cách tích cực không hạn chế các ý tưởng (nhằm tạo ra
cơn lốc các ý tưởng).
Động não thường được:
- Dùng trong giai đoạn giới thiệu về một chủ đề.
- Sử dụng để tìm các phương án giải quyết vấn đề.
- Dùng để thu thập các khả năng lựa chọn và suy nghĩ khác nhau.
Động não có thể tiến hành theo các bước sau:
- Giáo viên nêu câu hỏi hoặc vấn đề (có nhiều cách trả lời) cần được tìm
hiểu trước cả lớp hoặc cả nhóm.
- Khích lệ học sinh phát biểu và đóng góp các ý kiến ngày càng nhiều
càng tốt.
- Ghi tất cả mọi ý kiến lên bảng hoặc giấy khổ to không loại trừ một ý
kiến nào, trừ trường hợp trùng lặp.
- Phân loại các ý kiến.
- Làm sáng tỏ các ý kiến chưa rõ ràng.
- Tổng hợp ý kiến của học sinh và rút ra kết luận.
* Một số ví dụ về sử dụng kỹ thuật động não.
Ví dụ 1: Khi dạy văn bản “Phong cách Hồ Chí Minh” của tác giả Lê
Anh Trà, Giáo viên dẫn dắt học sinh tìm hiểu vẻ đẹp phong cách Hồ Chí Minh:
Đó là sự kết hợp tinh hoa văn hóa truyền thống của dân tộc và nhân loại. Sau đó
giáo viên yêu cầu học sinh động não suy nghĩ về vẻ đẹp, phong cách Hồ Chí

9



Minh, rút ra những bài học thiết thực về lối sống cho bản thân từ tấm gương Hồ
Chí Minh.
Những vấn đề mà học sinh cần nhận thức được là:
- Vẻ đẹp của phong cách Hồ Chí Minh là sự kết hợp giữa cái bình
thường, giản dị với cái vĩ đại.
- Đó là một phong cách sống bình thường nhưng không tầm thường, giản
dị nhưng không giản đơn, thể hiện bởi sự giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc hòa
quện với văn hóa tinh hoa của thời đại trong thời kỳ hội nhập và phát triển. Học
tập về đạo đức, lối sống, phong cách Hồ Chí Minh mỗi người tự suy nghĩ và
điều chỉnh lối sống của mình (từ cách ăn, mặc, sử dụng vật chất, năng lực phấn
đấu vươn lên trong cuộc sống tinh thần vượt qua gian khổ khó khăn chiến thắng
hoàn cảnh của chính bản thân mình.
Ví dụ 2: Khi dạy bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải (tiết 116)
giáo viên cũng có thể sử dụng kỹ thuật động não, giáo viên bắt đầu dẫn dắt học
sinh từ khát vọng được cống hiến, được hòa nhập của nhà thơ để yêu cầu cá
nhân các học sinh trong lớp động não bộc lộ ý kiến cá nhân thể hiện suy nghĩ về
những gì cần làm để góp phần nhỏ bé có ý nghĩa vào cuộc sống.
- Rất nhiều ý kiến được đưa ra sau khi yêu cầu học sinh động não. Trong
đó có những ý kiến gắn liền với yêu cầu cuộc sống thực tiễn hiện nay như:
- Giúp đỡ những bạn có hoàn cảnh khó khăn trong lớp.
- Tham gia bảo vệ môi trường.
- Tuyên truyền, phòng chống các tệ nạn xã hội.
- Sẵn sàng bảo vệ biển, đảo quê hương (Trường Sa, Hoàng Sa).
Vậy kỹ thuật động não cũng là một KTDH hết sức tích cực. Nó đơn giản
hơn so với các KTDH khác bởi không phải thảo luận, không phải chuẩn bị nhiều
đồ dung và kỹ thuật này cũng thu được kết quả khả quan trong quá trình học tập.
Giáo viên và học sinh sẽ gần gũi nhau, hiểu nhau nhiều hơn.
4. Kỹ thuật sử dụng sơ đồ tư duy.

Sơ đồ tư duy (SĐTD) là KTDH nhằm tổ chức và phát triển tư duy, giúp
người học chuyển tải thông tin vào bộ não rồi đưa thông tin ra ngoài bộ não một
cách dễ dàng. Đồng thời là một phương tiện ghi chép đầy sáng tạo và rất hiệu
quả.
Sơ đồ tư duy là một hình thức ghi chép có thể sử dụng màu sắc và hình
ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Nhờ sự kết nối giữa các nhánh, các ý
tưởng được liên kết với nhau khiến SĐTD có thể bao quát được các ý tưởng trên
phạm vi sâu rộng. Tính hấp dẫn của hình ảnh gây ra những kích thích mạnh trên
hệ thống của não giúp cho việc ghi nhớ được lâu bền.
Sơ đồ tư duy sử dụng trong dạy học mang lại hiệu quả cao, phát triển tư
duy lôgic, khả năng phân tích tổng hợp, học sinh hiểu bài, nhớ lâu, thay cho ghi
nhớ dưới dạng thuộc lòng, học “vẹt”. Đồng thời SĐTD phù hợp với tâm sinh lí
học sinh, đơn giản, dễ hiểu thay cho việc ghi nhớ lí thuyết bằng ghi nhớ dưới
dạng sơ đồ hóa kiến thức.

10


Sơ đồ tư duy có thể sử dụng trong nhiều bài học với các mức độ và nội
dung khác nhau. Về mức độ sử dụng, có thể là một phần hoặc toàn phần. Về
hoạt động sử dụng, có thể sử dụng trong phần kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài
mới, hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài, luyện tập củng cố và cả hoạt động chuẩn
bị bài ở nhà của học sinh hay cả trong kiểm tra thường xuyên, định kì.
Trong quá trình giảng dạy Ngữ văn 9, bản thân tôi thường sử dụng SĐTD
trong phần củng cố bài để hệ thống những nội dung cơ bản cho học sinh. Ngay
từ đầu năm học, tôi hướng dẫn học sinh cách vẽ SĐTD. Sau đó yêu cầu mỗi học
sinh phải có 1 quyển vở riêng để vẽ SĐTD. Sau mỗi bài học, học sinh về nhà sẽ
hệ thống lại bài bằng SĐTD. Mỗi khi kiểm tra miệng, học sinh sẽ phải mang vở
SĐTD cho giáo viên kiểm tra. Cuối kỳ giáo viên sẽ thu vở SĐTD để chấm lấy
điểm kiểm tra thường xuyên. Tôi đã sử dụng SĐTD trong các hoạt động dạy học

cụ thể là:
* Sử dụng SĐTD để kiểm tra bài cũ.
Ví dụ: Sau khi học xong hai tiết về “Các phương châm hội thoại”,
trước khi tìm hiểu các kiến thức mở rộng có liên quan đến phương châm hội
thoại (Tiết 13 trong PPCT), giáo viên kiểm tra bài cũ bằng cách cho các em lập
SĐTD để củng cố, hệ thống kiến thức đã học ở hai tiết học trước thông qua câu
hỏi sau:
Em đã học qua những phương châm hội thoại nào, hãy lập SĐTD để hệ
thống kiến thức về các phương châm hội thoại này?
Sau đó, giáo viên nêu cụm từ khóa “Phương châm hội thoại”, rồi gọi một
em xung phong lên bảng vẽ. Các học sinh khác vẽ vào vở SĐTD. Học sinh sẽ
dễ dàng vẽ được SĐTD theo nội dung yêu cầu.
Khi học sinh vẽ xong, giáo viên cho cả lớp quan sát, gọi một vài em nhận
xét, góp ý sơ đồ rồi giáo viên nhận xét và cho điểm.
*Sử dụng SĐTD trong dạy học bài mới và ghi bảng:
Ví dụ: Khi dạy văn bản “Truyện Kiều của Nguyễn Du”, giáo viên có
thể sử dụng SĐTD để trình bày nội dung phần I: Nguyễn Du, như sau:

11


Sau bài học, giáo viên yêu cầu học sinh sẽ vẽ lại SĐTD trình bày đầy đủ cả
về tác giả và tác phẩn theo cách vẽ của mình. Hầu hết học sinh đều tham gia
hoạt động này rất sôi nổi và hào hứng .
* Sử dụng SĐTD trong việc ôn tập kiến thức:
Cũng như các cách làm trên, chúng ta có thể sử dụng SĐTD để ôn tập và
hệ thống kiến thức đã học cho các em.
Ví dụ: Lập SĐTD hệ thống kiến thức bài “Ôn tập Tiếng Việt” (tiết 139,
140). Quá trình ôn tập giáo viên sẽ hệ thống kiến thức theo sơ đồ tư duy như
sau:


Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh tự lập được SĐTD để hệ thống kiến
thức của bài học
* Sử dung SĐTD để hệ thống kiến thức, củng cố bài học
Ví dụ: Sau khi học xong văn bản “ Nghị luận trong văn bản tự sự”, giáo
viên yêu cầu học sinh hệ thống kiến thức nội dung bài học bằng SĐTD. Giáo
viên ghi cụm từ khóa lên giữa bảng phụ “Nghị luận trong văn bản tự sự”, rồi gọi
12


một em xung phong lên bảng vẽ. Học sinh sẽ dễ dàng vẽ được SĐTD theo nội
dung yêu cầu.
Giáo viên sử dụng máy chiếu để chiếu hình ảnh minh họa đã chuẩn bị cho
học sinh quan sát. Đây là hình ảnh minh họa của giáo viên:

Tóm lại, với những ưu điểm riêng, kỹ thuật dạy học sử dụng SĐTD đã
trở thành một công cụ gợi mở, kích thích quá trình tìm tòi kiến thức của học
sinh.Việc sử dụng SĐTD trong quá trình dạy học giúp các em học tập một cách
chủ động, tích cực và huy động được tất cả học sinh tham gia xây dựng bài một
cách sôi nổi. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng em
không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên SĐTD), hệ thống hóa kiến thức (huy động
những điều đã học trước đó vào việc chọn lọc các ý để ghi), mà còn thể hiện
được khả năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc),
sự vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống.
Sơ đồ tư duy còn là một công cụ tư duy thực sự hiệu quả trong hoạt động
nhóm bởi nó tối đa hoá được nguồn lực của cá nhân và tập thể. Mỗi thành viên
đều rèn luyện được khả năng tư duy, kỹ năng thuyết trình và làm việc khoa học.
Sử dụng SĐTD giúp cho các thành viên hiểu được nội dung bài học một cách rõ
ràng và hệ thống. Việc ghi nhớ cũng như vận dụng cũng sẽ tốt hơn. Chỉ cần nhìn
vào SĐTD, bất kỳ thành viên nào của nhóm cũng có thể thuyết trình được nội

dung bài học.
Việc vận dụng SĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho HS tư duy
mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ
thống, khoa học. Sử dụng SĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực
13


khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình,…cũng có tính khả thi cao góp phần đổi
mới PPDH, đặc biệt là đối với các lớp ở cấp THCS.
IV. KIỂM NGHIỆM.
Trong quá trình giảng dạy môn ngữ văn 9 ở trường THCS Nga Thạch
trong suốt năm học 2014 - 2015, bản thân tôi đã thường xuyên sử dụng các
phương pháp và KTDH tích cực vào những bài giảng có thể vận dụng được để
không ngừng cải thiện và nâng cao chất lượng học tập của học sinh. Đến giữa
học kì II của năm học tôi lại tiến hành khảo sát chất lượng và tình trạng học tập
của học sinh lớp 9B(31 em), trường THCS Nga Thạch. Kết quả như sau:
* Kết quả khảo sát tình trạng học tập:
Hoạt động của HS

Thường xuyên

Đôi khi

không

Tham gia trả lời câu hỏi

26

4


1

Nhận xét ý kiến của bạn

24

5

2

Tự giác làm bài tập

27

3

1

* Kết quả khảo sát chất lượng giữa học kì II:

Loại
Số HS
31

Giỏi

Khá

Trung bình


Yếu

Kém

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

3

9,7

11


35,5

13

41,9

4

12,9

0

0

Như vậy, so với chất lượng khảo sát đầu năm, tôi nhận thấy một thực tế
đó là trong các giờ học phần lớn các em đã tham gia hoạt động một cách sôi nổi,
tích cực hơn; động cơ, thái độ học tập đối với bộ môn Ngữ văn đã có nhiều
chuyển biến rõ rệt. Số học sinh thường xuyên tham gia trả lời câu hỏi xây dựng
bài, nhận xét ý kiến của bạn cũng như ý thức tự giác học bài và làm bài tập ở lớp
và ở nhà đã tăng lên. Số học sinh chưa dám mạnh dạn phát biểu ý kiến hoặc
nhận xét ý kiến của bạn chỉ còn một vài em. Chất lượng học sinh giỏi tăng 9,7%,
loại khá tăng 12,9%, loại yếu giảm 16,1%, không còn học sinh kém. Đây chính
là kết quả có được từ việc không ngừng vận dụng đổi mới các phương pháp và
KTDH tích cực của bản thân trong quá trình dạy học.

C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
14



1 Kết luận:
Trên đây là một số trong rất nhiều kỹ KTDH tích cực đã được áp dụng
trong những năm gần đây. Tùy theo kiến thức giờ học, năng lực của giáo viên và
đặc điểm của học sinh mà chúng ta có thể vận dụng cho phù hợp trong từng bài,
từng phần. Nếu vận dụng KTDH phù hợp thì giáo viên phần nào đã giúp học
sinh nắm bắt kiến thức nhanh hơn và sẽ đem đến kết quả tốt cho giờ dạy của
mình.
Trong quá trình thực hiện, ở kỹ thuật này hay kỹ thuật khác có thể có lúc
dễ thực hiện, không tốn kém, sử dụng được hiệu ứng cộng hưởng, huy động tối
đa trí tuệ của tập thể, huy động được nhiều ý kiến, tạo điều kiện cho nhiều học
sinh tham gia. Song, có lúc kỹ thuật này hay kỹ thuật khác có thể đi lạc đề, mất
nhiều thời gian trong việc chọn các kiến thức thích hợp. Và có thể có một số học
sinh tích cực nhưng lại có học sinh thụ động...
Như vậy, không phải giờ học nào cũng thực hiện được tất cả các KTDH
trên. Vì vậy, tuỳ từng tiết học, từng kiểu bài, giáo viên vận dụng các KTDH tích
cực cho phù hợp
Một điều mà tôi thấy thành công nhất đó là khi áp dụng các KTDH mới
này, học sinh hăng hái học tập hơn, các em mạnh dạn và dám thể hiện ý thức tập
thể. Tình trạng ngồi im hay “thu mình trong vỏ ốc” đã không còn nữa. Đặc biệt
trong các giờ học huy động tư duy tập thể kể cả những em học sinh lâu nay bị
xem là học yếu kém thì đến bây giờ cũng khẳng định chính mình bằng nhiều
đóng góp cho tổ, nhóm (có khi đó chỉ là kê lại bàn, treo hộ tranh hay cử người
lên trình bày)….Tinh thần đoàn kết, ý thức hợp tác và năng lực cá nhân của các
em được bộc lộ rất rõ ràng trong các tiết học có sử dụng KTDH tích cực. Sự
chuyển mình của học sinh ở những bài kiểm tra đánh giá với số điểm trung bình
trở lên ngày càng tăng, đó là niềm động viên lớn cho tôi trong quá trình vận
dụng KTDH mới. Với những kinh nghiệm nhỏ của riêng mình khi vận dụng
KTDH tích cực, tôi mong muốn được trao đổi với các đồng nghiệp tham khảo
đóng góp ý kiến để công tác dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường hiện nay
ngày càng đem lại hứng thú hơn cho học sinh.

2. Đề xuất:
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận dụng các KTDH tích cực có hiệu
quả nhằm phát huy được vai trò tích cực và chủ động học tập của học sinh, nhà
trường cần đầu tư mua sắm thêm trang, thiết bị như máy chiếu đa năng lắp đặt
tại các phòng học; giá đỡ, móc treo tranh ảnh; bàn ghế phải phù hợp…
Với khoảng thời gian chưa nhiều cho nên những ý tưởng mà tôi trình bày ở
trên có lẽ cũng còn nhiều hạn chế, nhưng thực tế đó là những gì tôi đã làm, đã áp
dụng, đã trăn trở rất nhiều trong 2 năm qua. rất mong muốn nhận được sự góp ý

15


chân tình của đồng nghiệp, các nhà quản lý giáo dục về những vấn đề mà tôi đã
trao đổi ở trên.
Xin chân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 10 tháng 4 năm 2015
CAM KẾT KHÔNG COPY
Người viết
Nguyễn Thị Hồng

PHẦN PHỤ LỤC

16


Một số hình ảnh về hoạt động học tập của học sinh lớp 9B trường THCS
Nga Thạch năm học 2014 – 2015 trong các giờ học Ngữ văn.


HÌNH ẢNH HS LỚP 9B TRƯỜNG THCS NGA THẠCH
ĐANG THẢO LUẬN NHÓM

17


HÌNH ẢNH HS LỚP 9B TRƯỜNG THCS NGA THẠCH ĐANG VẼ SĐTD

HÌNH ẢNH HS LỚP 9B TRƯỜNG THCS NGA THẠCH THUYẾT TRÌNH SĐTD
18


HÌNH ẢNH SĐTD CỦA HS LỚP 9B TRƯỜNG THCS NGA THẠCH VẼ

19



×