Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Phương pháp dạy văn nghị luận trong chương trình THPT theo đặc trưng thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.51 KB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT ĐÔNG SƠN I

BÁO CÁO KHOA HỌC
ĐỀ TÀI :

PHƯƠNG PHÁP DẠY VĂN NGHỊ LUẬN
TRONG CHƯƠNG TRÌNH THPT THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI

Người thực hiện : Trương Thị Liên
Chức vụ
: Giáo viên
Đơn vị công tác : Trường THPT Đông Sơn 1
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ văn

A- PHẦN MỞ ĐẦU
I-LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1- Lí do khách quan

THANH HÓA, NĂM 2016


MỤC LỤC
A- PHẦN MỞ ĐẦU

Trang

I- Lí do chọn đề tài…………………………………………………………… 1
II- Mục đích nhiệm vụ của đề tài ……………………………………………..4
III-Đối tượng nghiên cứu và giới hạn của đề tài ……………………………...5
VI- Phương pháp nghiên cứu …………………………………………………5


B-PHẦN NỘI DUNG
I- Những vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận……………………………… .6
1. Các văn bản nghị luận trong chương trình ngữ văn chuẩn…………………6
2. Những đặc trưng về thể loại của văn nghị luận và phương pháp đọc hiểu…6
2.1. Luận đề của văn bản………………………………………………………9
2.2. Hệ thống luận điểm…................................................................................10
2.3. Phong cách nghị luận của nhà văn……………………………………….11
2.4. Tính hình tượng là đặc trưng của văn chương thẩm mĩ………………….11
2.5.Văn bản nghị luận thời kì trung đại………………………………………11
2.6. Vận dụng phương pháp tích hợp................................................................12
II- Ý tưởng thiết kế dạy học một tác phẩm văn nghị luận trên phương diện thể
loại………………………………………………………………………….. . 12
C- KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM………………………………………….. …15
D – KẾT LUẬN ……………………………………………………………..16

2


A- PHẦN MỞ ĐẦU
I-LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1- Lí do khách quan
Cuộc đổi mới chương trình THPT bắt đầu từ năm học 2006-2007 đã đặt ra
cho giáo viên bộ môn Ngữ văn nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Đó là đổi mới
nội dung chương trình sách giáo khoa; đổi mới phương pháp dạy và học; đổi mới
kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh; đổi mới việc sử dụng thiết bị dạy
học;… mà trọng tâm là đổi mới phương pháp dạy – học. Mọi phương pháp phải
được bắt nguồn từ nội dung công việc, cụ thể là từ nội dung chương trình của
sách giáo khoa, từ đối tượng học sinh…Vì vậy, công việc đầu tiên mà giáo viên
muốn đáp ứng được yêu cầu của chương trình đổi mới là phải nghiên cứu, tìm
hiểu chương trình sách giáo khoa.

Sách giáo khoa Ngữ văn THPT biên soạn lần này có nhiều thay đổi.
Chương trình được sắp xếp theo thể loại và các thời kì văn học lớn. Việc sắp xếp
này nhằm làm nổi bật vai trò của thể loại văn học, nhân vật chính của lịch sử văn
học, đồng thời phù hợp với việc đọc – hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại. Do
cấu tạo chương trình, nhất là phần Văn học, coi trọng sự phát triển của thể loại
nên các nhà biên soạn sách đã đưa vào nhiều hình thức thể loại văn học mới mà
có những thể loại giáo viên chưa từng dạy, thậm chí có những thể loại nhiều giáo
viên có biết nhưng chưa (hoặc ít) được tiếp xúc với văn bản như Bình sử, Văn
bia, Điều trần…Cũng có những thể loại tuy giáo viên được tiếp xúc nhiều nhưng
mới được dạy một vài bài trong chương trình Văn học trước đây, nay được đưa
vào chương trình Ngữ văn khá nhiều và trở thành trọng tâm của các thể loại mới
được bổ sung vào chương trình Ngữ văn, đó là văn Nghị luận.
Mục đích của văn bản nghị luận: phát ngôn cho một tư tưởng, một quan
điểm, một chủ trương, một lập trường xã hội nhất định. Đặc điểm: khô khan, ít
phù hợp với tâm lí và nhận thức của học sinh; ít tính văn chương, khó đi vào cảm
xúc của người đọc; ý tưởng thâm thuý khó nắm bắt,…; nguồn tư liệu bổ trợ khan
hiếm.
Một điểm thay đổi đáng kể nữa là số văn bản nghị luận được đưa vào sách
Ngữ văn THPT cũng không thuần nhất. Không thuần nhất về thời gian và không
gian văn hóa : có văn nghị luận trung đại (Chiếu cầu hiền ; Xin lập khoa luật,…),
văn nghị luận hiện đại (Tuyên ngôn Độc lập ; Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng
trong văn nghệ của dân tộc ;…), có văn nghị luận Việt Nam và văn nghị luận
nước ngoài (Đô-xtôi-ép-xki ; Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác ;…). Không
thuần nhất về phạm vi nghị luận : có nghị luận văn học (Nguyễn Đình Chiểu,
ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc ; Mấy ý nghĩ về thơ ;…) và nghị luận
xã hội chính trị (Hiền tài là nguyên khí quốc gia ; Về luân lí xã hội ở nước ta ;
Bàn về vốn văn hóa dân tộc ;…). Như vậy xét về thể loại, văn nghị luận được
dạy – học trong chương trình khá đa dạng.
So với phần văn chương nghệ thuật (nhiều văn bản mới được đưa vào song
với đa số giáo viên, những văn bản ấy cũng không phải là mới lạ, không gặp nhiều

3


khó khăn trong cảm nhận) thì dạy văn nghị luận là một vấn đề khá nan giải đối với
người đứng lớp, nhất là những người tuổi nghề còn ít. Trong quá trình giảng dạy,
giáo viên thường chỉ chú ý khai thác nội dung làm toát lên những quan điểm tư
tưởng của các tác giả mà ít chú ý đến vẻ đẹp về hình thức nghệ thuật của tác
phẩm. Việc dạy học tác phẩm nghị luận thường khó, không hấp dẫn đối với học
sinh nên dẫn đến tình trạng học sinh chán học, không hứng thú với thể loại văn
này. Vì vậy, để dạy tốt những văn bản thuộc văn nghị luận quả không hề dễ dàng.
Giáo viên không chỉ phải hiểu được đặc trưng chung của thể loại mà còn phải hiểu
những nét riêng biệt của từng tiểu loại. Trên cơ sở đó mới có thể hướng dẫn học
sinh đọc hiểu một cách có hiệu quả. Có thể nói, trong đổi mới phương pháp dạy
học, việc dạy các văn bản nghị luận là một vấn đề cấp thiết và không hề đơn giản
đối với nhiều giáo viên. Đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn là một vấn đề
mang tính thời sự của nước ta hiện nay. Các nhà chiến lược giáo dục đã và đang
đưa ra nhiều phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy học văn để góp
phần đưa nền giáo dục nước ta bắt kịp sự phát triển của giáo dục thế giới. Hệ
thống các phương pháp dạy học văn đó có thể nói là đã khá phong phú, đa dạng,
song dạy học văn theo đặc trưng thể loại vẫn là phương pháp dạy học căn bản.
Những năm gần đây việc rèn luyện kĩ năng lập luận cũng như kĩ năng sống
cho học sinh THPT qua văn học đang được rất nhiều giáo viên quan tâm, nhất là ở
thể loại văn nghị luận. Trong các đề thi tốt nghiệp THPTQG câu hỏi NLXH
chiếm số lượng 3điểm. Như vậy có nghĩa là dạy cho học sinh biết làm văn NLXH
thông qua dạy thể loại văn nghị luận sẽ có tác động rất lớn đến việc giáo dục nhận
thức xã hội và khả năng lập luận của học sinh trước nhiều vấn đề trong cuộc sống.
Ví dụ:
Từ việc dạy văn bản “Nhìn về vốn văn hóa dân tộc” của tác giả Trần Đình
Hượu, giáo viên sẽ giúp học sinh nhận thức về vai trò của bản thân trong việc giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thời kì hội nhập, sao cho văn hóa Việt

Nam hòa nhập mà không hòa tan. Vấn đề này xuất hiện trong câu NLXH của đề
thi là: Trong bài “Nhìn về vốn văn hóa dân tộc”, tác giả Trần Đình Hượu viết:
“Con đường hình thành bản sắc dân tộc của văn hoá không chỉ trông cậy vào sự
tạo tác của chính dân tộc đó mà còn trông cậy vào khả năng chiếm lĩnh, khả năng
đồng hoá các giá trị văn hoá bên ngoài”.
Với đề bài này học sinh sẽ phải trình bày nhận thức và lập luận của bản thân về
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa nước ngoài.
Dạy văn nghị luận sẽ giúp học sinh làm đề về nghị luận xã hội một cách dễ dàng
cũng như khi ra ngoài đời biết cách trình bày quan điểm của bản thân về những
vấn đề xã hội .
2- Lý do chủ quan
Là một giáo viên tuổi nghề chưa cao, thời gian theo nghiệp mà mình lựa
chọn chưa dài nhưng trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy việc dạy văn bản
nghị luận trong trường THPT còn nhiều khó khăn đối với giáo viên cũng như sự
4


lĩnh hội của học sinh đối với kiểu văn bản này. Đặc biệt sau công cuộc cải cách
giáo dục và thay sách giáo khoa vừa qua việc đòi hỏi phải tìm ra những phương án
tối ưu để dạy văn nghị luận đạt hiệu quả là một vấn đề tôi rất trăn trở.Việc áp dụng
phương pháp mới và tìm ra cách dạy cụ thể cho từng thể loại văn nghị luận ở cấp
học này không chỉ là nỗi lo đối với tôi mà còn là sự băn khoăn của nhiều giáo viên
khác. Tôi tự nhận thấy đây cũng là trách nhiệm của bản thân mình đối với chính
cái nghệp mà mình đã theo đuổi. Vì thế trong suốt thời gian qua tôi đã tìm tòi
nghiên cứu và đổi mới phương pháp dạy văn nghị luận dựa trên cơ sở những
phương pháp dạy học văn nói chung áp dụng những phương pháp ấy ở nhiều tiết
học và nhiều lớp qua vài năm. Cho đến năm học này tôi đã có những kết quả khả
quan.
Vì những lí do trên tôi mạnh dạn đưa ra đề tài nghiên cứu này với hi vọng bản thân
mình trong những năm tới không còn trăn trở và e ngại khi tiếp xúc hay hướng dẫn

học sinh đọc hiểu văn nghị luận nữa. Từ đó góp phần tháo gỡ một vài khó khăn
cho giáo viên trong việc dạy văn nghị luận ở trường THPT, tạo hứng thú cho học
sinh khi học thể loại văn học này.
II-MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
1-Mục đích của đề tài
Quan điểm mới trong biên soạn sách giáo khoa Ngữ văn là chương trình
được sắp xếp theo thể loại và các thời kì văn học lớn. Như vậy chương trình lấy
lịch sử phát triển của các thể loại văn học là chính, lấy thể loại văn học làm trục
chính để sắp xếp và phân chia tiết học. Trong tiêu chí đánh giá một tiết dạy học do
giáo sư Phan Trong Luận đưa ra, ta thấy việc dạy đúng đặc trưng thể loại là một
tiêu chí rất quan trọng. Mục đích của việc học theo sự phát triển của thể loại là, từ
việc học một loại thể nào đó của văn học, giáo viên phải giúp học sinh hiểu được
những đặc trưng thể loại, sao cho, qua một cụm văn bản cùng thể loại được học,
học sinh có phương pháp đọc - hiểu được những văn bản khác cùng thể loại. Như
vậy dạy và học hiện nay là dạy và học phương pháp.
Đề tài này không đi vào nghiên cứu phương pháp, kĩ thuật dạy-học bộ môn Ngữ
văn theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh như dạy học đặt và giải quyết
vấn đề, dạy học hợp tác...; kĩ thuật đặt câu hỏi, kĩ thuật khăn phủ bàn v.v.. Đề tài đi
vào nghiên cứu dạy học theo đặc trưng thể loại văn bản nghị luận theo chương
trình Chuẩn. Trong các kiểu văn bản nghị luận, đi sâu vào tìm hiểu những nét riêng
của một số tiểu loại để từ đó có cách dạy học sinh đọc – hiểu hiệu quả hơn.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tác giả báo cáo này cố gắng tìm ra được những nét riêng của văn nghị luận,
đặc biệt là của một số tiểu loại thuộc kiểu văn bản nghị luận được học trong
chương trình Ngữ văn THPT. Từ những nét riêng ấy, đề xuất cách dạy đọc – hiểu
văn bản nghị luận nói chung từ đặc trung thể loại và áp dụng cho một bài dạy cụ
thể.

5



III- ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI.
Văn bản nghị luận học trong nhà trường THPT khá phong phú và đa dạng.
Đối tượng nghiên cứu là đặc trưng của các loại và tiểu loại của các văn bản ấy.
Trên cơ sở đó tìm ra cách dạy đọc - hiểu theo đặc trưng thể loại nghị luận cho học
sinh trường THPT Đông Sơn I. Với đối tượng học sinh, tôi chọn các lớp học có
trình độ trung bình theo chương trình Chuẩn. Đề tài nghiên cứu cũng chỉ ứng dụng
trong giới hạn đối tượng ấy.
IV- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Nghiên cứu lý thuyết
Đọc, nghiên cứu các tài liệu về loại thể văn học, phương pháp dạy học,
phương pháp dạy học theo đặc trưng thể loại. Tham khảo các tài liệu viết về đổi
mới phương pháp dạy học, các thiết kế bài dạy có chất lượng của đồng nghiệp, tìm
kiếm các tư liệu cần thiết trên Intơnet có thể phục vụ được cho báo cáo này…
2. Nghiên cứu thực tiễn.
+ Dự một số giờ dạy bài của các đồng nghiệp.
+ Khảo sát trình độ học sinh.
Chọn 2 lớp có trình độ ngang nhau, 1 lớp dạy thực nghiệm, 1 lớp dạy không
chú ý đến đặc trưng thể loại. Đối chiếu, so sánh kết quả giờ học, chất lượng của
học sinh qua bài kiểm tra để rút ra kết luận.

6


B- PHẦN NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
1- Các văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ văn Chuẩn
Các văn bản nghị luận trong Ngữ văn THPT theo chương trình Chuẩn có
một số văn bản sau :
Lớp 10 : Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi), Tựa “Trích diễm thi tập” (Hoàng Đức

Lương), Hiền tài là nguyên khí của quốc gia (Thân Nhân Trung) Hưng Đạo Đại
Vương Trần Quốc Tuấn (Ngô Sĩ Liên) Thái sư Trần Thủ Độ (Ngô Sĩ Liên).
Lớp 11 : Chiếu cầu hiền (Ngô Thì Nhậm), Xin lập khoa luật (Nguyễn Trường Tộ),
Về luân lí xã hội ở nước ta (Phan Châu Trinh), Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các
dân tộc bị áp bức (Nguyễn An Ninh), Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác (Ăng
ghen), Một thời đại trong thi ca (Hoài Thanh).
Lớp 12 : Tuyên ngôn Độc lập (Hồ Chí Minh), Những ngày đầu của nước Việt Nam
mới (Võ Nguyên Giáp), Mấy ý nghĩ về thơ (Nguyễn Đình Thi), Đốt-xtôi-ép-xki
(X. X vai gơ), Nguyễn Đình Chiểu - ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc,
(Phạm Văn Đồng), Nhìn về vốn văn hóa dân tộc (Trần Đình Hượu).
2. Những đặc trưng của văn nghị luận và phương pháp đọc – hiểu.
Văn nghị luận là một thể văn ra đời từ rất lâu. Ở Trung Hoa, văn nghị luận
có từ thời Khổng Tử (551- 479TCN). Ở Việt Nam, văn nghị luận cũng là một thể
loại có truyền thống lâu đời, có giá trị và tác dụng hết sức to lớn trong trường kì
lịch sử, trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Văn nghị luận là một thể loại có
từ rất sớm và có giá trị hết sức to lớn trong đời sống của dân tộc qua nhiều thời kì
lịch sử. Ngay từ thời kì đầu của nhà nước phong kiến đã xuất hiện Chiếu dời đô (Lí
Thái Tổ). Các cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc đã sinh ra những áng văn
nghị luận lưu lại muôn đời: Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Đại cáo bình Ngô
(Nguyễn Trãi), Chiếu Cần Vương (Hàm Nghi), Tuyên ngôn Độc Lập, Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến, Không có gì quí hơn Độc lập - Tự do (Hồ Chí Minh)…
Trong thời bình, thể văn nghị luận cũng rất phát triển, đề cập đến nhiều mặt trong
đời sống chính trị văn hóa xã hội: Tựa “Trích diễm thi tập” của Hoàng Đức
Lương, Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm, bản điều trần Xin lập khoa luật của
Nguyễn Trường Tộ, Văn bia trong Văn miếu – Quốc Tử giám và khắp các làng xã
Việt Nam v.v.. Nhìn vào thế kỉ XX, ngoài Chủ tịch Hồ Chí Minh còn có hàng loạt
chí sĩ yêu nước đồng thời là các nhà chính luận cự phách như Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Nguyễn An Ninh... Rồi đến những
nhà cách mạng, những nhà văn hóa như Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng,
Võ Nguyên Giáp...và rất nhiều nhà viết văn nghị luận nổi tiếng như Hải Triều,

Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Chế Lan Viên , Nguyễn Đình Thi...
Có thể nói, trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam, văn nghị luận
đã phản ánh rất rõ tinh thần, tư tuởng, ý chí và khát vọng của cả nhân dân ta. Đó là
lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần tự hào về một dân tộc có truyền thống lịch sử
-văn hóa lâu đời. Đó là ý chí "Không có gì quý hơn độc lập tự do", là khát vọng
hòa bình: " Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng", là tinh thần quyết
7


tử cho tổ quốc quyết sinh: "Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu
mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ" (Hồ Chí Minh)... Đó là khát vọng muốn
xây dựng một quốc gia hùng cường, độc lập thể hiện rõ trong Chiếu dời đô của Lí
Thái Tổ, Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi ; là tư tưởng coi trọng người hiền tài
trong bài văn bia do Thân Nhân Trung soạn thảo (1442) đặt ở Văn Miếu - Quốc Tử
Giám và đặc biêt trong Chiếu cầu hiền của vua Quang Trung ban bố năm 1788. Có
thể nói càng ngày văn nghị luận càng phát triển mạnh mẽ, càng trở nên đa dạng, và
phong phú cả về nội dung lẫn hình thức thể loại. Tuy nhiên căn cứ vào nội dung đề
tài, ta có thể chia văn nghị luận làm hai loại lớn: Nghị luận xã hội và nghị luận văn
học
+ Nghị luận xã hội là những văn bản bàn về các vấn đề xã hội- nhân sinh:
một tư tưởng đạo lí, một lối sống cao đẹp; một hiện tượng tích cực hoặc tiêu cực
của đời sống; một vấn đề về thiên nhiên môi trường...
+ Nghị luận văn học là những văn bản bàn về các vấn đề văn chương - nghệ
thuật: phân tích, bàn luận về vẻ đẹp của tác phẩm văn học, trao đổi về một vấn đề lí
luận văn học, hoặc làm sáng tỏ một vấn đề văn học sử...
Các văn bản nghị luận theo chương trình Chuẩn như đã nêu ở trên, dựa vào nội
dung đề tài, ta sắp xếp như sau :
+ Nghị luận xã hội : Tựa “Trích diễm thi tập” (Tựa), Hiền tài là nguyên khí
của quốc gia (Văn bia), Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Thái sư Trần Thủ
Độ (Bình sử), Chiếu cầu hiền (Chiếu), Xin lập khoa luật (Điều trần), Về luân lí xã

hội ở nước ta, Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức, Ba cống
hiến vĩ đại của Các Mác, Tuyên ngôn Độc lập, Nhìn về vốn văn hóa dân tộc,
Những ngày đầu của nước Việt Nam mới.
+ Nghị luận văn học : Một thời đại trong thi ca, Mấy ý nghĩ về thơ, Đốt-xtôiép-xki, Nguyễn Đình Chiểu - ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc. Cùng là
nghị luận song ở văn học trung đại có nhiều tiểu loại như Tựa, văn bia, bình sử…
Bài viết này sẽ lần lượt tìm hiểu những đặc trưng chung của thể loại và những nét
riêng của tiểu loại, trên cơ sở đó, tìm phương pháp đọc – hiểu các loại văn bản này.
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ Văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc
Phi (chủ biên) của NXB Đại học Quốc gia năm 1999), các tác giả cho rằng, văn
nghị luận “Viết về những vấn đề nóng bỏng thuộc nhiều lĩnh vực đời sống khác
nhau: chính trị, kinh tế, triết học, văn hóa… Mục đích của văn nghị luận là bàn
bạc, thảo luận, phê phán hay truyền bá tức thời một tư tưởng, một quan điểm nào
đó nhằm phục vụ trực tiếp cho lợi ích của một tầng lớp, một giai cấp nhất định…
Đặc trưng cơ bản của văn nghị luận là tính chất luận thuyết – khác với văn học
nghệ thuật, văn chương nghị luận trình bày tư tưởng và thuyết phục người đọc chủ
yếu bằng lập luận, lý lẽ”.
Căn cứ vào định nghĩa khái niệm trên, ta có thể thấy rõ, văn nghị luận là
một thể loại văn học dùng lí lẽ, phán đoán, chứng cứ…để bàn bạc một vấn đề nào
đó trong cuộc sống và văn học. Từ nội hàm của khái niệm cũng như từ thực tế
giảng dạy, có thể rút ra những đặc trưng chủ yếu văn nghị luận là : dùng lý lẽ,
8


chứng cứ... để bàn bạc; sử dụng nhiều thao tác như: giải thích, chứng minh, phân
tích, bình luận, so sánh, bác bỏ… giúp người đọc hiểu vấn đề; bố cục chặt chẽ,
ngôn ngữ chính xác, giàu hình ảnh, giàu sắc thái biểu cảm và mang tính xã hội,
tính học thuật cao. Có thể lấy “Đại cáo bình Ngô” (Nguyễn Trãi) để soi sáng cho
những nội dung trên.
Phần mở đầu của Đại cáo bình Ngô nêu nguyên lí, chân lí làm cơ sở lí luận,
làm chỗ dựa để triển khai lập luận cho các phần tiếp theo. Phần thứ hai soi tiền đề

đã được thừa nhận ở phần đầu vào thực tiễn để chỉ ra cái đúng, cái sai, cái chính
nghĩa và phi nghĩa. Trên phương diện phi nghĩa, tác giả tố cáo mạnh mẽ và phê
phán sâu sắc giặc xâm lược (phần bản cáo trạng tội ác giặc Minh). Trên phương
diện chính nghĩa thì Nguyễn Trãi khẳng định và ngợi ca quân và dân ta (phần viết
về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn). Cuối cùng là rút ra kết luận trên cơ sở tiền đề và
thực tiễn: khẳng định chính nghĩa chiến thắng, kỉ nguyên mới của dân tộc đã mở
ra, những bài học lịch sử. Hệ thống lí lẽ được bố cục rất rõ ràng, lôgic và hợp lí.
Các thao tác nghị luận chủ yếu: phân tích, bác bỏ, so sánh, chứng minh…
Có thể lập sơ đồ kết cấu của “Đại cáo bình Ngô” như sau :

Luận
chính
Luận đề
đề chính
nghĩa
nghĩa
Tư tưởng chính nghĩa

Vua

Kẻ đi ngược với

nhân nghĩa

Quyền độc lập của dân tộc

Lãnh thổ

Văn hóa


Hào kiệt anh
hùng

Đối chiếu với hiện thực cuộc đấu
tranh sống
Giặc Minh phi nghĩa

Nhân dân Đại Việt chính nghĩa

Kết luận

9


Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi là áng văn chính luận nhưng giàu sắc
thái biểu cảm, mang tính hình tượng cao. Khi diễn tả tình cảnh thê thảm của người
dân vô tội và tố cáo tội ác man rợ của giặc Minh, tác giả sử dụng nhiều hình ảnh để
biểu đạt tư tưởng và cảm xúc. Khi thuật lại diễn biến cuộc khởi nghĩa, ông sử dụng
lối văn tự sự. Khắc họa những trận đánh, ông sử dụng cả văn miêu tả.
Về cơ bản văn nghị luận là sản phẩm của tư duy lô gíc. Nhưng vẻ đẹp của một áng
văn nghị luận không chỉ thể hiện ở những tư tưởng đúng đắn, sâu sắc, nó còn thể
hiện ở hình thức lập luận phong phú, lý lẽ đanh thép, giọng điệu thuyết phục và
hấp dẫn cuốn hút bởi thái độ của tác giả trước vấn đề nghị luận.
Với tư cách là môn học công cụ, môn Ngữ văn THPT còn phải hướng tới mục tiêu
hình thành cho học sinh phương pháp đọc-hiểu các kiểu, loại văn bản, nhất là các
văn bản ở dạng thức sáng tạo nghệ thuật trong và cả ngoài sách giáo khoa, nhưng
bắt đầu từ sách giáo khoa phổ thông. Học sinh “biết đọc các kiểu văn bản theo đặc
trưng kiểu văn bản, nâng cao năng lực tích hợp đọc và viết các văn bản thông
dụng” (Bộ GD&ĐT, Tài liệu bồi dưỡng GV dạy SGK Ngữ văn 11, NXBGD,
2005). Khi đã nắm được đặc trưng riêng của từng kiểu loại văn bản thì người học

thể tiếp nhận được dễ dàng hơn những văn bản văn học cùng thể loại trong
chương trình sách giáo khoa Ngữ văn. Điều này cho thấy, dạy học văn theo đặc
trưng thể loại là con đường khoa học để chiếm lĩnh các văn bản Ngữ văn nói riêng,
các văn bản văn học nói chung. Vì vậy đổi mới phương pháp dạy học văn bản Ngữ
văn THPT chính là dạy học văn bản Ngữ văn phù hợp với đặc trưng thể loại. Đó
được xem như là nguyên tắc dạy học đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình sách
giáo khoa cấp học này.
Vì những lí do trên, dạy văn nghị luận cần đạt cần khai thác các phương diện sau:
2.1. Luận đề của văn bản. Văn bản bàn bạc, thảo luận, phê phán hay truyền
bá… tư tưởng, quan điểm, hiện tượng… gì. Hay nói rõ hơn là ý nghĩa nội dung,
luận đề của văn bản.
Có thể dẫn ra một số ví dụ :
+ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn : Ca ngợi nhân cách cao đẹp và
đóng góp lớn lao của Hưng Đạo Đại vương cho đất nước.
+ Tựa “Trích diễm thi tập”: Niềm tự hào sâu sắc, lòng yêu nước và ý thức
trách nhiệm cao trong việc trân trọng, bảo tồn di sản văn học của dân tộc.
+ Chiếu cầu hiền : Tầm nhìn chiến lược của vua Quang Trung trong cầu hiền
tài phục vụ cho sự nghiệp dựng nước.
+Về luân lí xã hội ở nước ta: Tinh thần yêu nước, tư tưởng tiến bộ và ý chí
quật cường của Phan Chu Trinh : vạch trần thực trạng đen tối của xã hội đương
thời, đề cao tư tưởng đoàn thể vì sự tiến bộ, hướng về một ngày mai tươi sáng của
đất nước.
+Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức : Từ mối tương quan
giữa tiếng mẹ đẻ và nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức, bài viết đã thể hiện lập
trường dân tộc và yêu nước của Nguyễn An Ninh.
10


+ Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác : Với những đóng góp to lớn, Mác trở
thành nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong số những nhà tư tưởng hiện đại. Tên tuổi và sự

nghiệp của ông đời đời sống mãi.
+ Một thời đại trong thi ca : Nhận thức tinh tế và sâu sắc về tinh thần thơ
mới - động lực thúc đẩy sự phát triển của thi ca Việt Nam hiện đại.
+ Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc : Khẳng
định ý nghĩa cao đẹp của cuộc đời (một chiến sĩ phấn đấu hết mình cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc) và văn nghiệp (là một minh chứng hùng hồn cho địa vị và tác
dụng to lớn của văn học nghệ thuật cũng như trách nhiệm của người cầm bút đối
với đất nước, dân tộc) của Nguyễn Đình Chiểu.
+Đot-xtôi-ép-xki : Qua việc dựng chân dung văn học, tác giả đem đến cho
người đọc những hiểu biết về Đô-xtôi-ép-xki, nhà văn vĩ đại của nước Nga.v.v..
2.2. Hệ thống luận điểm.
Để đạt được nội dung trên, các lí lẽ được sắp xếp thành một hệ thống như
thế nào (tức là các luận điểm triển khai trong luận đề). Nếu so sánh luận đề là
xương sống thì các luận điểm là xương sườn. Luận đề và luận điểm tạo thành một
bộ xương, tức hệ thống nội dung của văn bản.
Xin dẫn ra đây vài ví dụ :
* Đô-xtôi-ép-xki
+ Cuộc đời bất hạnh và nghị lực phi thường của Đô-xtôi-ép-xki.
- Nỗi khổ về vật chất.
- Nỗi khổ về tinh thần.
- Lao động là sự giải thoát nỗi khổ.
+ Sự thành công trong sáng tác.
+ Cái chết của Đô-xtôi-ép-xki và tinh thần đoàn kết dân tộc.
* Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc
+ Nguyễn Đình Chiểu, một hiện tượng văn học độc đáo có vẻ đẹp riêng
không dễ nhận ra.
+ Ý nghĩa, giá trị to lớn của cuộc đời, văn nghiệp Nguyễn Đình Chiểu.
- Cuộc đời và quan niệm sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu.
- Thơ văn yêu nước chống ngoại xâm của Nguyễn Đình Chiểu.
- Truyện thơ Lục Vân Tiên.

+ Khẳng định vị trí của Nguyễn Đình Chiểu trong nền văn học của dân tộc.
* Chiếu cầu hiền.
+ Quy luật xử thế của người hiền
- Từ quy luật tự nhiên khẳng định người hiền phụng sự cho thiên tử là một
cách xử thế đúng đắn, là lẽ tất yếu, hợp với ý trời.
- Nêu lên một phản đề : người hiền có tài mà đi ẩn dật, lánh đời như ánh
sáng bị che lấp, như vẻ đẹp bị giấu đi.
- Viện dẫn Luận ngữ của Khổng Tử.
+ Cách ứng xử của sĩ phu Bắc Hà và nhu cầu của đất nước
- Cách ứng xử của sĩ phu Bắc Hà.
11


- Tính chất của thời đại mới và nhu cầu của đất nước.
+ Đường lối cầu hiền của vua Quang Trung
- Đối tượng cầu hiền : quan viên lớn nhỏ, thứ dân trăm họ.
- Biện pháp, cách thức cầu hiền
+ Lời kêu gọi, động viên khích lệ chung nhau gánh vác việc nước để cùng
hưởng hạnh phúc lâu dài.
* Một thời đại trong thi ca
+ Đi tìm tinh thần thơ mới
+ Xác định tinh thần thơ cũ là ở chữ ta, tinh thần thơ mới là ở chữ tôi.
+ Phân tích sự vận động của thơ mới với cái tôi cùng bi kịch của nó.

12


+ Chỉ ra tính chất tội nghiệp của cái tôi trong thơ mới.
2.3. Phong cách nghị luận của nhà văn.
Khi dạy học ta không thể chỉ dừng lại ở những điểm chung, ở bộ khung này.

Sức hấp dẫn của mỗi tác phẩm nghị luận nằm ở sự độc đáo trong cách chọn luận
điểm, cách triển khai luận điểm, cách lập luận, giọng điệu, ngôn từ… Hay nói cách
khác là ở phong cách nghị luận riêng của mỗi tác giả, tác phẩm. Do vậy cần triển
khai phân tích trên những bình diện đó để thấy giá trị nội dung và sự hấp dẫn thẩm
mỹ riêng của từng tác phẩm.
Khi dạy đọc – hiểu văn bản Hiền tài là nguyên khí quốc gia, phải hướng dẫn
học sinh phát hiện : lập luận chặt chẽ, có luận điểm, luận cứ rõ ràng ; lời lẽ sắc sảo,
thấu tình đạt lí. Với Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, cần làm rõ cách dựng
nhân vật lịch sử qua lời nói, cử chỉ và hành động ; sự kết hợp giữa biên niên sử và
tự sự ; lối kể chuyện kiệm lời, giàu kịch tính ; lựa chọn các chi tiết tiêu biểu, có sức
khái quát cao. Trong Tuyên ngôn Độc lập, phải giúp học sinh tìm hiểu được cách
lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng xác thực giàu sức thuyết phục ; Ngôn
ngữ vừa chính xác vừa gợi cảm ; giọng văn linh hoạt. Với văn bản Mấy ý nghĩ về
thơ, cần chỉ ra được sự chặt chẽ trong lập luận của tác giả và lối viết văn giàu hình
ảnh, cảm xúc. Còn, Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân
tộc, không thể không hướng dẫn học sinh tìm hiểu cách bố cục chặt chẽ, các luận
điểm triển khai bám sát vấn đề trung tâm ; cách lập luận từ khái quát đến cụ thể,
kết hợp cả diễn dịch, qui nạp và hình thức đòn bẩy ; lời văn có tính khoa học, vừa
mang màu sắc văn chương vừa khách quan, ngôn ngữ giàu hình ảnh.
2.4. Tính hình tượng là đặc trưng của văn chương thẩm mĩ.
Tính hình tượng trong văn nghị luận không thể hiện ở cấp độ chỉnh thể mà
chỉ ở cấp độ chi tiết, bộ phận phục vụ cho lập luận chứ không lấn át hệ thống lập
luận lôgíc của tác phẩm. Tính hình tượng của văn nghị luận thường thể hiện ở cấp
độ ngôn từ, ở cách diễn đạt tu từ, ở cách vận dụng thành ngữ, điển cố khéo léo…
Do nội dung đề tài thuộc lĩnh vực văn học nên tính hình tượng trong văn bản nghị
luận văn học được thể hiện nhiều hơn, mật độ dày hơn dù chỉ là ở cấp độ chi tiết,
bộ phận. Giáo viên cũng phải lưu ý điều này.
2.5. Về các văn bản nghị luận thời kì trung đại
Cũng như văn chương nghệ thuật, văn nghị luận thời trung đại được viết
bằng chữ Hán, hay sử dụng không ít những điển tích, điển cố mang yếu tố biểu

trưng. Văn nghị luận trung đại đưa vào chương trình khá đa dạng về tiểu loại. Vì
vậy, ngoài những nét chung, cần chú ý tới nét riêng của các tiểu loại.

13


Đại cáo bình Ngô là một kiệt tác trên nhiều mặt, khi dạy đọc – hiểu cần làm nổi bật
sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và yếu tố văn chương qua cách sử dụng
từ ngữ, cách xây dựng hình tượng và cách tạo giọng điệu. Tựa “Trích diễm thi
tập” là sự hòa quyện chất nghị luận với chất trữ tình. Các bài Bình sử càng thể hiện
rõ tính riêng biệt. Mang tính nghị luận nhưng không phải là thể văn độc lập như
cáo, tựa ; không tác thành bài riêng, do đó không có kết cấu hoàn chỉnh như một
bài văn nghị luận chúng ta thường gặp. Các tác giả bình sử thường phát biểu trực
tiếp quan điểm chính trị xã hội của mình trước sự kiện hoặc nhân vật lịch sử mình
ghi chép. Ngoài dũng khí (khen chê rõ ràng, không khuất phục trước cường quyền,
không bẻ cong ngòi bút), người chép sử phải có tài năng. Sử gia không hư cấu
nhưng phải chọn được những sự kiện thật sự tiêu biểu, có ý nghĩa làm nổi bật một
nhân cách hay một giai đoạn lịch sử mà phải ngắn gọn.
2.6. Vận dụng linh hoạt phương pháp tích hợp.
Tùy vào từng bài cụ thể để ta có một sự tích hợp ngang, dọc khác nhau
nhưng, dạy văn bản nghị luận do đặc trưng của nó nên việc tích hợp với phần làm
văn phải được đặc biệt chú ý. Tuy nhiên không phải dạy bài nào cũng có sự tích
hợp với phần làm văn giống nhau. Làm như thế sẽ gây sự nhàm chán, hiệu quả
không cao. Cách làm có hiệu quả nhất là chọn những nét tiêu biểu nhất của văn bản
nghị luận liên quan đến phần làm văn để tích hợp. Có thể văn bản này chủ yếu tích
hợp cách triển khai ý hoặc cách đưa dẫn chứng, văn bản kia tích hợp một vài thao
tác nghị luận được sử dụng thành công, như là một mẫu mực của thao tác nghị luận
hay cách lập luận chặt chẽ, lý lẽ đanh thép v.v.. Nghĩa là, căn cứ vào những mặt giá
trị nhất, thành công tiêu biểu nhất của văn bản nghị luận đang học để tích hợp với
phần làm văn.

Dù dạy học văn bản nghị luận như thế nào thì công việc giảng dạy phải dựa
trên yêu cầu của Chuẩn kiến thức-kĩ năng.
Do trình độ của bản thân còn hạn chế nên tôi chỉ có thể nêu ra được một số
phương diện cần chú ý để dạy đọc – hiểu văn bản nghị luận. Rất mong các thầy cô
dạy học văn đóng góp ý kiến để tìm ra những phương án dạy văn nghị luận đạt
được kết quả cao nhất.
II. Ý TƯỞNG THIẾT KẾ DẠY-HỌC MỘT TÁC PHẨM VĂN NGHỊ
LUẬN TRÊN PHƯƠNG DIỆN THỂ LOẠI.

14


Do yêu cầu về dung lượng số lượng trang của một báo cáo khoa học cấp
THPT , do mục đích của đề tài nghiên cứu nên tôi chỉ mạn phép đưa ra ý tưởng
thiết kế một tác phẩm văn nghị luận cụ thể. Mặt khác đề tài chỉ đề cập đến vấn đề
dạy theo đặc trưng thể loại nên người viết chỉ đưa ra phần nội dung chính của bài
dạy, tức chỉ nêu ý tưởng cho công việc dạy phần đọc - hiểu văn bản. Việc dạy học
theo đặc trưng thể loại là xuất phát từ phương diện đặc trưng của loại hình văn học.
Dạy học theo thể loại là phương pháp dạy học theo loại thể chứ không phải phương
pháp dạy học văn thông thường. Từ những đặc trưng thể loại, người dạy phải biết
vận dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để hướng dẫn học sinh đọc
hiểu. Đề tài này không đề cập đến phương pháp và kĩ thuật dạy học cụ thể nói
chung nên cũng không nêu đưa ra các phương pháp dạy học cũng như thiết kế một
một giáo án mẫu cho người đọc.
Về ý tưởng, xin nêu ra từ 1 bài cụ thể.
Tựa “Trích diễm thi tập”
a) Về thể loại : Có 2 nội dung cần làm sáng tỏ. Đây là văn bản nghị luận, cụ
thể, đây là bài tựa, đề cho một tập sưu tầm thơ, nó có nhiều nét tương đồng với lời
nói đầu của một tác phẩm văn học thời hiện đại (qua phần tìm hiểu chung cần cho
HS tìm hiểu điều này). Văn bản gồm 2 phần, qua phần tìm hiểu bố cục, cho học

sinh so sánh với bài làm văn các em thường làm có 3 phần để thấy rằng, kiểu bài
làm trong nhà trường là kiểu bài có tính chất mẫu mực. Trong thực tế, đôi khi ta
vẫn bắt gặp những văn bản không hoàn toàn giống mẫu mực đã học.
b) Về cách sắp xếp, trình bày ý và cách lập luận : Nội dung chính trong phần
đọc- hiểu văn bản gồm : Lí do biên soạn và Thuật lại quá trình hình thành Trích
diễm thi tập, nội dung và kết cấu văn bản.
Ở từng nội dung, cho HS tìm hiểu các ý như sau :
* Lí do biên soạn.
+ Những nguyên nhân để thơ văn không lưu hành hết ở trên đời.
- Nhà thơ mới thấy hết cái hay, cái đẹp của thơ.
- Bận rộn công việc, người có điều kiện ít để ý tới thơ.
- Có người thích thơ nhưng không có đủ tài năng tuyển chọn.
- Kiểm duyệt của nhà vua khắt khe.
- Ngoài 4 nguyên nhân bó buộc còn do thời gian bà binh lửa.
+ Sưu tầm thơ văn không phải do ý muốn chủ quan của tác giả mà là yêu cầu
của thời đại.
* Thuật lại quá trình hình thành Tích diễm thi tập, nội dung và kết cấu văn
bản.
- Động cơ làm Trích diễm thi tập.
- Những khó khăn khi biên soạn.
- Nội dung và kết cấu gồm sáu quyển chia làm hai phần.
Ở từng phần nội dung, GV cho HS nhận xét cách sắp xếp, trình bày các luận
điểm, cách lập luận của tác giả.
15


Ví dụ ở luận điểm Những nguyên nhân để thơ văn không lưu hành hết ở trên đời,
HS chỉ ra được : luận cứ rõ ràng, sắp xếp theo trình tự lô gíc (dấu hiệu thứ nhất,
thứ hai,…nguyên nhân chính trước, phụ sau …)
c) Tựa “Trích diễm thi tập” có sự kết hợp rất hài hòa yếu tố chính luận và

yếu tố biểu cảm. Cũng ở phần đọc hiểu hai nội dung, giáo viên hướng dẫn học sinh
phát hiện ra điều này. Cụ thể là khi nêu lí do làm cho thơ văn không lưu truyền hết
ở đời, tác giả xen vào những cảm xúc và suy nghĩ của mình : “Than ôi! Một nước
văn hiến xây dựng đã mấy trăm năm, chẳng lẽ không có quyển sách nào có thể làm
căn bản mà phải tìm xa xôi để học thơ văn đời nhà Đường. Như thế chả đáng
thương xót lắm sao !”.
Trình bày quá trình sưu tầm, tác giả thuyết minh những khó khăn, xen vào
đó những câu văn đầy cảm xúc, lối nói đầy khiêm nhường : “Trách nhiệm năng nề
mà tài hèn, đức mọn…mạn phép phụ thêm…may tránh được lời chê trách của
người đời sau”.
Về loại thể, có thể khai thác nhiều nữa nhưng cần căn cứ vào chuẩn kiến
thức – kĩ năng để tránh quá tải đối với học sinh trong một tiết học và đối với trình
độ, đặc điểm lứa tuổi.

16


C- KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
1. So sánh kết quả giờ học.
Lớp dạy theo phương pháp truyền thống, ít chú ý đến đặc trưng thể loại của
văn bản nghị luận, kết quả là bài giảng của giáo viên khô khan, không gây được
cảm xúc và hứng thú cho học sinh trong giờ dạy. Học sinh ít hoạt động. giáo viên
thuyết trình nhiều. Kiến thức mà học sinh lĩnh hội được ít. Bài kiểm tra có kết quả
không cao. Trong khi đó ở lớp dạy thực nghiệm, các em hứng thú học hơn. Bài dạy
tạo được rung cảm thẩm mĩ của văn bản nghị luận. Có những em có nhiều phát
hiện khá lí thú và không kém phần sâu sắc.
2. So sánh kết quả qua bài kiểm tra
Nghiên cứu đề tài này phải kiểm tra nhiều lần với các dạng bài khác nhau.
Lúc thì kiểm tra vào văn bản đã học, hoặc chuẩn bị học. Lúc thì kiểm tra văn bản
ngoài sách giáo khoa. Kết quả thật khả quan. Lớp thực nghiệm bao giờ kết quả đạt

cũng cao hơn.
Kết quả cụ thể của một lần kiểm tra như sau :
Điểm 0 => 4
Điểm 5, 6
Điểm 7 => 10
Lớp
Số bài
Số
%
Số
%
Số
%
bài
bài
bài
Lớp đối chứng
45
25
55
20
45
0
0
Lớp thực nghiệm
45
4
8
7
15

34
77

17


D- PHẦN KẾT LUẬN
Việc giảng dạy các văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ văn có một ý
nghĩa quan trọng: không chỉ là việc mở rộng phạm vi hiểu biết về các thể loại văn
học, hiểu biết về các vấn đề chính trị xã hội, văn hoá (trong nhiều không gian, thời
gian khác nhau)…mà còn nhằm xây dựng cho học sinh thái độ đúng, quan điểm
tiến bộ về các vấn đề chính trị xã hội, văn hoá, hình thành những phẩm chất cao
đẹp, năng lực ứng xử, biết phát hiện và giải quyết các vấn đề một cách thoả đáng,
hợp lí, bồi dưỡng các kĩ năng cần thiết cho hành trang tương lai của học sinh:
ngôn ngữ, diễn đạt, lập luận, óc phê phán, tinh thần phản bác trước các hiện tượng
tiêu cực trong đời sống hiện tại. Thể loại văn nghị luận giữ một vị trí khá quan
trọng trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn THPT. Các văn bản nghị luận
trong sách giáo khoa đều có tính tư tưởng cao và giàu tính nghệ thuật. Do đó, đảm
bảo một giờ dạy văn nghị luận có hiệu quả là một yêu cầu và cũng là một “thử
thách” đối với giáo viên dạy văn.
Vì vậy, việc nghiên cứu để nắm vững đặc điểm của thể loại nghị luận
và những phương pháp dạy học văn nghị luận ở trường THPT có một ý nghĩa
thực tiễn quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả của việc dạy học nghị luận. Thực
tiễn giảng dạy văn bản nghệ thuật nói chung, văn bản nghị luận nói riêng, việc tuân
thủ nguyên tắc: bám sát hoàn cảnh nảy sinh tác phẩm (hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh
cảm hứng), bám sát văn bản ngôn từ tác phẩm, dựa vào đặc điểm cá tính sáng tạo
của nhà văn, những tri thức về văn hoá và quy luật tâm lí, xã hội …vẫn là những
căn cứ khoa học vững chắc trong việc chiếm lĩnh và triển khai nội dung, hình thức
và ý nghĩa của tác phẩm.
Việc giảng dạy các văn bản nghị luận gặp không ít khó khăn về nhiều mặt

(tầm hiểu biết về chính trị, lịch sử, văn hoá, nghệ thuật, tài liệu tham khảo, thời
gian, không gian của văn bản, tâm lí giảng dạy của giáo viên và tiếp nhận của học
sinh…). Vì vậy, đòi hỏi giáo viên phải nỗ lực rèn luyện không ngừng mới mong
có những giờ học hiệu quả thật sự theo tinh thần đổi mới hiện nay. Phương pháp
dạy học không phải là mở “lý thuyết trừu tượng” mà là sự cụ thể hoá bằng việc
thiết kế và hiện thực hóa bài giảng.
Muốn hướng dẫn học sinh đọc - hiểu văn bản thuộc thể loại nghị luận, trước
hết giáo viên phải hiểu biết sâu sắc đặc trưng loại thể, thậm chí những nét riêng của
từng tiểu loại. Việc này không phải là bất khả tri và ngược lại, cũng không phải
quá dễ dàng. Không có gì bỗng dưng đến với mình, nhất là vấn đề thuộc lĩnh vực
tri thức, đặc biệt là tri thức chuyên ngành, chuyên môn hẹp.Từ việc nắm vững kiến
thức về thể loại, giáo viên phải vận dụng một cách linh hoạt vào những bài cụ thể,
căn cứ vào Chuẩn kiến thức- kĩ năng để xác định nội dung hướng dẫn học sinh đọc
- hiểu văn bản.Trên cơ sở đó mới vận dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học
tích cực sao cho phù hợp với đối tượng học sinh nhằm làm cho giờ dạy đạt hiệu
quả cao nhất.
Trên đây chỉ là kinh nghiệm của bản thân được đúc rút trong quá trình dạy
học theo chương trình và sách giao khoa mới được lưu hành từ năm học 200618


2007, nhất là trong năm học 2015-2016 này. Kinh nghiệm của tôi chắc còn mang
nhiều ý kiến chủ quan nên không tránh khỏi khiếm khuyết. Tôi rất mong nhận
được sự quan tâm và góp ý chân thành của đồng nghiệp.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hoá, ngày 21 tháng 5 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.


Trương Thị Liên

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Trọng Luận. Phân tích tác phẩm văn chương trong nhà trường. NXBGD
Nhiều tác giả- Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình thay SGK
Lớp 10,11,12-NXBGD năm 2006
2. Nhiều tác giả (1967), Giảng dạy văn học Việt Nam ở trường phổ thông cấp
III, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. Đỗ Ngọc Thống (2006), Tìm hiểu chương trình và sách giáo khoa
THPT, NXB Giáo dục, Hà Nội.
4. Phan Trọng Luận (tổng chủ biên – 2005), Ngữ văn 10, tập một, Nxb Giáo dục,
Hà Nội, tr. 155
5. Bộ Giáo dục (1963), Chương trình phổ thông cấp II, cấp III, NXB Giáo dục
6. Nhiều tác giả- Lí luận văn học.-Tập 2+3 NXBGD 1988
7. Phan Trọng Luận. Phương pháp dạy học văn. NXB ĐHQG 1996
8. Phan Trọng Luận. Thiết kế bài học tác phẩm văn chương trong nhà trườngPT
Tâp II– NXBGD 1999
9. Lê Bá Hán -Trần Đình Sử- Nguyễn Khắc Phi (Đồng Chủ Biên) -Từ điển thuật
ngữ văn học. Nhà xuất bản: NXB Giáo dục .

20



×