Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Phương pháp hướng dẫn học sinh lớp 12 ban KHTN ôn tập văn nghị luận xã hội một cách hứng thú ở trường THPT nông cống 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.97 KB, 23 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm

Bùi Thị Thuỷ

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT NÔNG CỐNG 3

----------o0o----------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:

PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH
LỚP 12 - BAN KHTN ÔN TẬP VĂN NGHỊ LUẬN
XÃ HỘI MỘT CÁCH HỨNG THÚ
Ở TRƯỜNG THPT NÔNG CỐNG 3
------------*****------------

Họ và tên tác giả: Bùi Thị Thủy
Chức vụ:
Giáo viên
SKKN thuộc môn: Ngữ văn.

THANH HÓA NĂM 2016

1


Sáng kiến kinh nghiệm

Bùi Thị Thuỷ


MỤC LỤC

MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn đề tài
II. Mục đích nghiên cứu
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
IV. Phương pháp nghiên cứu
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận
II. Thực trạng nghiên cứu
III. Phương pháp hướng dẫn học sinh lớp 12 Ban KHTN ôn tập văn
nghị luận xã hội một cách hứng thú.

1
2
2
3
3
3
3
3
4
5

1. Khái quát chung về nghị luận và nghị luận xã hội.

6

1.1. Nghị luận.


6

1.2. Nghị luận xã hội.

6

2. Rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 Ban
KHTN.

7

2.1. Kĩ năng nhận dạng đề văn.

7

2.2. Kĩ năng tìm hiểu đề.

9

2.3. Kĩ năng lập ý.

11

2.4. Kĩ năng lập dàn ý.

13

3. Kĩ năng tìm dẫn chứng.


18

4. Kĩ năng diễn đạt.

19

IV. Hiệu quả đạt được:

20

C. KẾT LUẬN

21

2


Sáng kiến kinh nghiệm

Bùi Thị Thuỷ

PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH LỚP 12 - BAN KHTN
ÔN TẬP VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI MỘT CÁCH HỨNG THÚ
Ở TRƯỜNG THPT NÔNG CỐNG 3
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn đề tài:
Trong nhà trường, môn Ngữ văn có đặc trưng riêng: vừa là môn khoa học,
vừa là môn nghệ thuật. Môn Ngữ văn cùng với các môn học khác có nhiệm vụ
cung cấp cho học sinh những hiểu biết, những kĩ năng nhất định. Làm văn là
một phân môn của môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông. Khi học phân môn

này, học sinh được rèn luyện các thao tác nghị luận như giải thích, phân tích,
chứng minh, so sánh, bác bỏ, bình luận, qua các kiểu bài tự sự, biểu cảm, thuyết
minh, nghị luận (Nghị luận văn học và Nghị luận xã hội).
Thời gian trước đây, môn làm văn trong nhà trường chỉ tập trung vào
nghị luận văn học, coi trọng nghị luận văn học, khiến học sinh chỉ quẩn quanh
với kiến thức sách vở, sự liên hệ với thực tế đời sống ít ỏi. Việc dạy và học văn
phần nào đó trở nên phiến diện, máy móc, giáo điều. Kiểu bài nghị luận văn học,
giúp học sinh cách cảm thụ, phân tích đánh giá một áng văn, một bài thơ, nhân
vật, tình tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương.
Những năm gần đây chương trình dạy học và thi môn văn có nhiều đổi
mới. Văn nghị luận xã hội được đưa vào chương trình các cấp học từ THCS đến
THPT. Kiểu bài này, rèn luyện cho học sinh cách nhìn nhận, kiến giải, trình bày
những ý kiến riêng về một vấn đề tư tưởng đạo lí hoặc một vấn đề xã hội đáng
quan tâm. Rèn luyện cho học sinh kiểu bài nghị luận xã hội không chỉ đáp ứng
cho việc làm bài kiểm tra, tham gia các kì thi mà còn cần thiết cho học sinh
những kĩ năng bước vào đời. Bởi vì, trong cuộc sống, dù làm bất cứ việc gì,
trong lĩnh vực nào, mỗi người đều phải trình bày chính kiến, quan điểm của bản
thân về một vấn đề xã hội đáng quan tâm.
Đối với học sinh lớp 12, đặc biệt là học sinh lớp 12 học theo Ban KHTN
học văn, thi văn luôn là một áp lực gây căng thẳng tâm lí. Thời gian ôn tập
không nhiều, kiến thức của các môn học thì quá lớn. Vậy làm thế nào để cho
việc ôn tập và thi đạt kết quả tốt? Thiết nghĩ đây là một bài toán không đơn giản
cho học sinh và cũng là cho mỗi người thầy trong quá trình hướng dẫn học sinh
học tập và ôn thi đạt hiệu quả.
Trong thực tế các môn thi THPT Quốc gia, môn Ngữ văn bao giờ cũng là
một trong những môn cố định có tính bắt buộc đối với học sinh. Môn học này
chiếm một lượng kiến thức tương đối lớn đòi hỏi học sinh cần phải có kế hoạch
học tập, ôn tập chu đáo thì mới có thể đạt hiệu quả cao. Để làm được điều này
bên cạnh việc nắm vững các kĩ năng làm bài đòi hỏi mỗi học sinh cần phải có
phương pháp học tập hữu hiệu thì mới có thể đạt được kết qủa tốt. Tuy nhiên,

vấn đề học môn Văn hiện nay không phải học sinh nào cũng làm được điều đó.
Để tránh gây áp lực căng thẳng vể tâm lí và tạo được hứng thú cho học sinh
3


Sáng kiến kinh nghiệm

Bùi Thị Thuỷ

trong quá trình học tập, vấn đề đặt ra cho mỗi người thầy là cần phải có một
phương pháp thiết thực để hướng dẫn các em học tập đạt được hiệu quả cao
nhất. Trong phạm vi đề tài nhỏ này, tôi chỉ đi sâu vào một vấn đề cụ thể đó là
“Phương pháp hướng dẫn học sinh lớp 12 - Ban KHTN ôn tập văn nghị luận xã
hội một cách hứng thú ở Trường THPT Nông Cống 3”
II. Mục đích nghiên cứu
Không tham vọng nhiều, tôi tiến hành đề tài này với mục đích cơ bản sau:
Một là, giúp học sinh nắm được những kĩ năng cơ bản về kiểu bài nghị
luận xã hội nhằm nâng cao hứng thú học tập và giúp các em ôn thi THPT Quốc
gia đạt hiệu quả.
Hai là, thông qua quá trình rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận xã hội
giúp học sinh nâng cao khả năng trình bày quan điểm của mình; cung cấp cho
các em vốn tri thức phong phú về các vấn đề xã hội để các em nâng cao nhận
thức và kĩ năng sống, từng bước hoàn thiện nhân cách của mình.
Ba là, đề tài này có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các giáo viên
Ngữ văn khi dạy phần nghị luận xã hội.
III. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Học sinh các lớp 12B1, 12B2 Trường THPT
Nông Cống 3, năm học 2015-2016.
- Phạm vi nghiên cứu: Hướng dẫn học sinh lớp 12 Ban KHTN hứng thú
học tập với phần Làm văn Nghị luận xã hội.

IV. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát thực tế qua các kì thi: kiểm tra định kì, thi khảo
sát chất lượng, thi thử THPT Quốc gia.
- Phương pháp nghiên cứu qua sản phẩm: bài viết của học sinh và thống
kê kết quả điểm kiểm tra.
- Khảo sát mức độ hứng thú của học sinh với Văn nghị luận xã hội.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận
Trong thời đại khoa học kĩ thuật phát triển như vũ bão, giáo dục đóng vai
trò vô cùng quan trọng. Mục tiêu giáo dục của quốc gia là đào tạo con người
phát triển toàn diện “vừa hồng vừa chuyên”. Tổ chức khoa học giáo dục thế giới
UNESCO cũng đã đề xướng mục đích học tập là: “Học để biết, học để làm, học
để chung sống và học để khẳng định mình”.
Từ năm học 2008 - 2009 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chính thức đưa vào
đề thi môn văn kì thi tốt nghiệp THPT và thi tuyển sinh vào các trường Đại học,
Cao đẳng một câu nghị luận xã hội, chiếm 3 điểm trong tổng số đề ra. Từ năm
học 2013-2014, trong kì thi THPT Quốc gia ngoài câu nghị luận xã hội (3 điểm),
ở phần Đọc – hiểu còn có một câu hỏi nhỏ để các em học sinh bày tỏ chính kiến
4


Sáng kiến kinh nghiệm

Bùi Thị Thuỷ

của mình về vấn đề được đặt ra trong đề bài bằng một đoạn văn ngắn (5 đến 7
dòng). Kiểu bài nghị luận xã hội được đưa vào chương trình Ngữ văn ở bậc
trung học là hoàn toàn phù hợp với xu hướng giáo dục hiện nay. Nghị luận xã
hội là phưong pháp nghị luận lấy đề tài từ các lĩnh vực xã hội, chính trị, đạo đức
làm nội dung bàn bạc nhằm làm sáng tỏ cái đúng, sai, tốt, xấu của vấn đề được

nêu ra. Từ đó đưa ra một cách hiểu thấu đáo về vấn đề nghị luận cũng như vận
dụng nó vào đời sống và bản thân. Những đề tài và nội dung này thường là
những vấn đề có ý nghĩa thiết thực trong cuộc sống, có tính giáo dục và tính thời
sự cao. Đối với học sinh THPT, các bài văn nghị luận xã hội thường mang đến
cho các em những suy nghĩ và nhận thức đúng đắn về cuộc sống; có ý nghĩa
giáo dục rất lớn, đặc biệt là uốn nắn nhận thức cho các em về những vấn đề có
tính hai mặt của đời sống xã hội đang tác động trực tiếp đến giới trẻ hiện nay.
II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu:
Trên thực tế, việc giảng dạy môn Ngữ văn ở trường phổ thông còn nhiều
bất cập. Đặc biệt ở Trường THPT Nông Cống 3, địa bàn dân cư là vùng nông
thôn, sức đầu tư cho con em của gia đình còn hạn chế, trình độ học sinh phần
đông là yếu, kém. Điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường chưa đáp ứng đầy đủ
cho nhu cầu dạy và học.
Vấn đề đặt ra là những vấn đề mang tính xã hội rộng lớn, kiến thức chứa
đựng rất nhiều vấn đề cần khám phá. Những vấn đề nghị luận xã hội được đưa
ra cho học sinh bàn bạc rất phong phú, đa dạng; đề cập đến tất cả các phương
diện của đời sống. Vừa có dạng đề về tư tưởng đạo lí lại vừa có dạng đề về các
hiện tượng đời sống. Thế nhưng thời lượng chương trình dành cho việc giảng
dạy và rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận xã hội trong phân phối chương trình
THPT theo qui định của Bộ Giáo dục là quá ít ỏi. Ở lớp 12 cả Ban cơ bản chỉ có
hai tiết lí thuyết về cách làm bài nghị luận xã hội: một tiết cho dạng bài nghị
luận về một tư tưởng đạo lí, một tiết cho dạng bài nghị luận về một hiện tượng
đời sống. Cả năm học 12 các em chỉ có hai bài viết rèn luyện nghị luận xã hội,
còn lại thì tập trung vào nghị luận văn học. Thực tế đó khiến học sinh không có
điều kiện để rèn luyện nghị luận xã hội một cách thường xuyên dẫn tới kết quả
đạt được không cao.
Các giáo viên bộ môn Ngữ văn đã chú ý đến rèn luyện kĩ năng làm văn
nghị luận xã hội đặc biệt là ở chương trình lớp 12. Nhưng do thời lượng chương
trình hạn chế nên không có nhiều điều kiện bổ sung kiến thức cũng như rèn
luyện kĩ năng viết bài nghị luận xã hội cho học sinh. Với thời gian hai tiết lí

thuyết chỉ đủ để giáo viên giới thiệu khái niệm, kiểu bài, dạng đề và cách làm
bài một cách đơn giản nhất. Qua một số bài kiểm tra định kì, mỗi bài một câu
nghị luận xã hội chiếm khoảng 30% bài viết chỉ đủ để các em tiếp cận và làm
quen với cách làm bài chứ chưa thể đạt đến độ thuần thục, nhuần nhuyễn được.
Về phía học sinh, một thực tế ở hai lớp 12B1 và lớp 12B2 do tôi trực tiếp
giảng dạy, đó là học sinh không thích học văn, bởi nhu cầu xã hội ngày càng ít.
Các em tập trung nhiều vào các môn KHTN (Toán, Lý, Hóa) để ôn thi Đại học,
5


Sáng kiến kinh nghiệm

Bùi Thị Thuỷ

thời gian giành cho môn Văn không nhiều (nếu không nói là không còn thời
gian). Hơn nữa, các em học sinh đều ở độ tuổi mới lớn, lại ở vùng nông thôn
chưa có điều kiện tiếp xúc nhiều với thực tế đời sống đa sắc, đa chiều, vốn kiến
thức xã hội còn ít ỏi. Số học sinh hiểu thấu đáo vấn đề, có kĩ năng làm bài nghị
luận xã hội tốt không nhiều. Đa phần các em thường ngợp trước các vấn đề xã
hội, hiểu lơ mơ, viết hời hợt. Không có những trăn trở sâu sắc, không có cái nhìn
toàn diện, đa chiều. Học sinh thường cảm thấy khó khăn, ngần ngại trong việc
làm văn khi không hứng thú với đề văn, không nắm vững các thao tác nghị luận,
không nắm vững quy trình làm văn, không có ý tưởng để xây dựng dàn ý, không
tìm được dẫn chứng cho bài viết. Đôi khi viết theo cảm hứng, gặp phải đề lắt léo
hay vấn đề nghị luận ẩn sau câu chữ, hình ảnh ... là không làm được. Nếu không
đặt ra kế hoạch ôn tập cụ thể thì hiệu quả của môn học không cao.
Phụ huynh học sinh và một số giáo viên ở bộ môn khác cho rằng: ôn tập
môn Văn thì cần gì đến giáo viên. Sách tham khảo bán thiếu gì, mua về đọc là
được. Hơn nữa, học sinh khối A thi Văn chỉ cần chống điểm liệt, cần gì phải học
nhiều để dành thời gian ôn tập các môn thi Đại học.

Nhà trường cũng đã có kế hoạch dạy phụ đạo cho học sinh, song thời
lượng dành cho bộ môn không nhiều (chỉ 1 đến 2 tiết/tuần) trong khi vấn đề của
bộ môn vô cùng phong phú. Cho nên chưa thể giảm hết khó khăn cho người dạy
và người học.
Từ thực trạng trên, tôi thiết nghĩ vấn đề đặt ra là phải định hướng cho học
sinh phương pháp phù hợp để khích lệ, động viên học sinh vượt qua những khó
khăn ấy, rèn luyện các kĩ năng viết và trình bày vấn đề, một kĩ năng cần thiết
trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ trong thời đại mới. Từ đó, giúp cho giờ
học văn có ý nghĩa, khơi dậy ở học sinh sự hứng thú với môn học. Và, điều quan
trọng là giúp học sinh sau khi học các em rút ra được những nhận thức và hành
động cụ thể cho bản thân.
III. Phương pháp hướng dẫn học sinh lớp 12 Ban KHTN ôn tập văn
nghị luận xã hội một cách hứng thú.
Ở trường THPT, mục đích của dạy văn là tạo sự phát triển cân đối, toàn
diện về tâm hồn và trí tuệ, về thẩm mĩ và hiểu biết cho học sinh để xây dựng
nhân cách hoàn thiện. Trong giờ dạy văn, giáo viên vừa là nghệ sĩ giàu cảm xúc,
giàu tâm hồn, rung động trước cái đẹp, trước nỗi đau con người, đồng thời là
nhà sư phạm phải lựa chọn hành động, ngôn ngữ mang tính giáo dục.
Theo Tiến sĩ Chu Văn Sơn: “Mối quan hệ giữa thầy và trò là mối quan hệ
khép kín giữa người phát tín hiệu và người nhận tín hiệu, hay ta còn gọi giữa
cho và nhận. Đối tượng học sinh tiếp nhận vấn đề theo hướng tích cực thì sẽ
khơi gợi được hứng thú sáng tạo, ngược lại theo theo hướng tiêu cực thì sẽ làm
thui chột mọi mầm mống sáng tạo linh hoạt. Người truyền đạt và định hướng
kiến thức, tức là người thầy luôn ý thức cụ thể và chính xác vấn đề mà bản thân
mình cung cấp cho người tiếp nhận, tức là học sinh. Đồng thời, người tiếp nhận

6


Sáng kiến kinh nghiệm


Bùi Thị Thuỷ

phải luôn phát huy tính năng động sáng tạo của bản thân mình để lĩnh hội tri
thức”.
Trong quá trình hướng dẫn học sinh ôn tập tôi chỉ đưa ra một số nội dung
mang tính định hướng và một vài ví dụ minh họa giúp học sinh nhận biết về lí
thuyết và vận dụng vào các bài tập thực hành theo từng dạng đề.
1. Khái quát chung về nghị luận và nghị luận xã hội.
1.1. Nghị luận.
Nghị luận là bàn bạc đánh giá một vấn đề. Văn nghị luận là dạng bài văn
người viết bàn bạc, trao đổi ý kiến, thái độ của mình về một vấn đề nhằm thuyết
phục người đọc, người nghe chấp nhận, đồng tình với quan điểm của mình. Để
thực hiện điều này, người viết phải vận dụng hợp lý, nhuần nhuyễn các thao tác
lập luận như: giải thích, phân tíc, chứng minh, bác bỏ, so sánh…Văn nghị luận
có tính khoa học, đòi hỏi khả năng phân tích, tổng hợp bên cạnh khả năng diễn
đạt, cảm thụ. Sức mạnh của văn nghị luận là ở sự sâu sắc của tư tưởng, tình cảm,
tính mạch lạc, chặt chẽ của suy nghĩ và trình bày, sự thuyết phục của lập luận.
Như vậy, làm văn nghị luận là một cơ hội để học sinh bộc lộ rõ nét nhất, tập
trung nhất vốn hiểu biết về nhiều mặt cùng những phẩm chất và năng lực của
mình, đặc biệt là năng lực tư duy sáng tạo, năng lực hoạt động ngôn ngữ.
Dựa vào phạm vi vấn đề được bàn bạc trong bài văn, có thể chia văn nghị
luận thành hai dạng: Nghị luận văn học và Nghị luận xã hội.
1.2. Nghị luận xã hội.
Nghị luận xã hội là dạng bài văn nghị luận dùng lí lẽ, phán đoán, chứng
cứ để bàn luận về một vấn đề xã hội: chính trị, xã hội, triết học, đạo đức, đời
sống... nhằm thể hiện quan điểm tư tưởng, lập trường của người viết. Vấn đề
được nêu ra như một câu hỏi cần được giải đáp, làm sáng tỏ.
Luận là bàn về đúng, sai, phải, trái, khẳng định điều này, bác bỏ điều kia,
để người ta nhận ra chân lí, đồng tình với mình, chia sẻ quan điểm và niềm tin

của mình. Nghị luận xã hội vận dụng các thao tác như giải thích, phân tích,
chứng minh, bình luận, bác bỏ, so sánh. Bài văn nghị luận xã hội tác động vào lí
trí, nhận thức và cả tâm hồn người đọc, giúp họ hiểu rõ vấn đề được nêu ra.
Đề tài của dạng bài này hết sức rộng mở, bao gồm tất cả những vấn đề về
tư tưởng, đạo lí, lối sống, những hiện tượng tích cực, tiêu cực trong đời sống,
vấn đề thiên nhiên, môi trường, vấn đề hội nhập, vấn đề giáo dục nhân cách....
Nghị luận xã hội là dạng bài in đậm dấu ấn cá nhân của người viết. Trước các
vấn đề xã hội, người viết có quyền bộc lộ thẳng thắn suy nghĩ, quan điểm của
mình, có quyền đồng tình hoặc phản đối, bảo vệ quan điểm của mình hoặc phản
bác ý kiến đi ngược lại với quan điểm của mình.

7


Sáng kiến kinh nghiệm

Bùi Thị Thuỷ

2. Rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận xã hội cho học sinh Lớp 12
Ban KHTN.
2.1. Kĩ năng nhận dạng đề văn.
Như ta đã nói ở trên, đề tài mà bài nghị luận xã hội hướng đến rất đa
dạng, phong phú. Có thể quy về hai dạng đề cơ bản: Nghị luận về một tư tưởng
đạo lí và nghị luận về một hiện tượng đời sống. Dạng nghị luận về một vấn đề
xã hội trong tác phẩm văn học xét cho cùng thì cũng phải quy về một trong hai
dạng đề trên. Trên thực tế các đề nghị luận xã hội rất phong phú và đa dạng, sự
phân chia dạng đề chỉ là tương đối, nhiều khi giới hạn giữa các dạng đề rất nhỏ
nên học sinh khó xác định rạch ròi.
Để làm tốt bài văn nghị luận nói chung và nghị luận xã hội nói riêng, việc
nhận dạng đề trước khi làm bài văn rất quan trọng, giúp học sinh định hướng

đúng cho bài làm, tránh sai lạc trong trong quá trình làm bài. Nhận dạng đề là
khâu mở đường, xác định hướng đi của bài văn. Nếu như người viết xác định
đúng yêu cầu của đề thì sẽ có hướng viết đúng đáp ứng yêu cầu của đề văn còn
nếu như đã xác định đề nhầm ngay từ đầu thì giống như một người đi nhầm
đường lạc lối, không thể đến được cái đích cần tới, và toàn bộ giá trị của bài văn
coi như bằng không.
2.1.1. Dạng đề nghị luận về một tư tưởng đạo lí:
Nghị luận về một tư tưởng đạo lí là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực tư
tưởng đạo đức, lối sống, quan niệm của con người. Vấn đề tư tưởng đạo lí
thường được nêu lên trong các ý kiến, nhận định của các bậc vĩ nhân, hay nhà
thơ, nhà văn, hoặc được nêu ra ở tục ngữ, ca dao….
Đề tài được đưa ra trong đề là những vấn đề về tư tưởng, đạo lí vô cùng
phong phú. Các vấn đề tiêu biểu thường gặp là :
- Nhận thức: Lí tưởng, mục đích sống, mục đích học tập, ý chí, nghị lực…
- Tâm hồn, tích cách: Lòng yêu nước, lòng nhân ái, lòng vị tha, lòng bao
dung, tính trung thực, dũng cảm, chăm chỉ cần cù, thái độ hòa nhã, khiêm tốn,
thói ba hoa, ích kỉ, vụ lợi…
- Quan hệ gia đình: Tình mẫu tử, tình anh em, tình cảm gia đình…
- Quan hệ xã hội: Tình đồng bào, tình thầy trò, tình bạn…
- Cách ứng xử của mọi người trong cuộc sống.
Học sinh có thể nhận ra dạng đề nghị luận về một tư tưởng đạo lí khi nhận
thấy đề bài yêu cầu bàn luận:
- Về một nhận định, một câu tục ngữ, tục ngữ hay một câu châm ngôn,
danh ngôn hoặc một câu thơ mang ý nghĩa triết lí.
- Về một mẫu truyện ngắn, một bài thơ ngắn mang tính triết lí.
Nhận định, tư tưởng thường được trích dẫn nguyên văn và được đặt trong
dấu ngoặc kép.

8



Sáng kiến kinh nghiệm

Bùi Thị Thuỷ

Ví dụ:
1. “Chặng đường nào trải bước trên hoa hồng. Bàn chân cũng thấm đau vì
những mũi gai. Đường vinh quang đi qua muôn ngàn sóng gió”.
(Trích “Đường đến ngày vinh quang” – nhạc sĩ, ca sĩ Trần Lập)
Anh (chị) hãy viết một bài văn nghị luận trình bày suy nghĩ của mình về
nhận định trên.
2. Nhà văn Nga L.Tôn-xtôi nói: "Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không
có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng
thì không có cuộc sống”.
Từ câu nói trên anh (chị) suy nghĩ gì về vai trò của lý tưởng trong cuộc
sống con người.
3.
Đừng quên
Cái Ác vỗ vai cái Thiện
Cả hai cùng cười đi về tương lai
(Đừng quên – Trần Nhật Minh)
Dựa vào ý những câu thơ trên, viết một bài văn nghị luận trình bày suy
nghĩ của anh (chị) về mối quan hệ giữa cái thiện và cái ác.
4. “Đời phải trải qua giông tố nhưng không được cúi đầu trước giông tố”.
(Trích Nhật ký Đặng Thùy Trâm)
Suy nghĩ của anh (chị) về câu nói trên.
5. Đọc câu chuyện sau
Vết nứt và con kiến.
Khi ngồi ở bậc thềm trước nhà, tôi nhìn thấy một con kiến đang tha chiếc
lá trên lưng. Chiếc lá lớn hơn con kiến rất nhiều lần.

Bò được một lúc, con kiến chạm phải một vết nứt khá lớn trên nền xi
măng. Nó dừng lại giây lát. Tôi nghĩ con kiến hoặc là quay lại, hoặc là nó sẽ một
mình bò qua vết nứt đó. Nhưng không. Con kiến đặt chiếc lá ngang qua vết nứt
trước, sau đó đến lượt nó vượt qua bằng cách vượt lên trên chiếc lá. Đến bờ bên
kia, con kiến lại tha chiếc lá và tiếp tục cuộc hành trình.
Hình ảnh đó bất chợt làm tôi nghĩ rằng tại sao mình không thể học loài
kiến nhỏ bé kia, biến những trở ngại, khó khăn của ngày hôm nay thành hành
trang quý giá cho ngay mai tươi sáng hơn!
(Theo Hạt giống tâm hồn, tập 5, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2013)
Anh (chị) hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ
của mình về câu chuyện trên.
6. “Đời người cũng như một bài thơ, giá trị của nó không tùy thuộc vào số
câu mà tùy thuộc vào nội dung” (Seneca).
Suy nghĩ của em về ý kiến trên.
2.1.2. Dạng đề nghị luận về một hiện tượng đời sống:
Nghị luận về một hiện tượng đời sống là bàn bạc về một hiện tượng đang
diễn ra trong thực tế đời sống xã hội mang tính chất thời sự, thu hút sự quan tâm
của nhiều người.
9


Sáng kiến kinh nghiệm

Bùi Thị Thuỷ

Những hiện tượng có ý nghĩa đối với đời sống xã hội, đáng khen, đáng
chê, hay đáng suy nghĩ; có tính bức xúc, cập nhật nóng hổi diễn ra trong đời
sống hàng ngày, được xã hội quan tâm như: ô nhiễm môi trường, nếp sống văn
minh đô thị, an toàn giao thông, gian lận trong thi cử, bạo lực học đường, bạo
hành gia đình, lối sống thờ ơ vô cảm, đồng cảm và chia sẻ, bệnh thành tích, bệnh

đạo đức giả, hiện tượng mê muội thần tượng.... …). Đó có thể là một hiện tượng
tốt hoặc xấu, đáng khen hoặc đáng chê. Từ đó làm cho người đọc hiểu rõ, hiểu
đúng, hiểu sâu, để đồng tình hoặc bác bỏ trước những hiện tượng đó.
Học sinh nhận ra dạng đề nghị luận về một hiện tượng đời sống nhờ vào
đối tượng được đề cập đến trong đề bài và yêu cầu của đề bài. Đối tượng được
đề cập không phải là một câu nói nào đó mà là một vấn đề đang xảy ra trong
cuộc sống hiện tại. Thông thường trên dạng đề này có các từ ngữ như: hiện
tượng, vấn đề, vấn nạn…. nhờ các từ ngữ nói trên, học sinh có thể xác định được
dạng đề.
Ví dụ:
1. Hiện nay ở nước ta, có nhiều cá nhân, gia đình, tổ chức thu nhận trẻ em
cơ nhỡ, lang thang kiếm sống trong các thành phố, thị trấn về những mái ấm tình
thương để nuôi dạy, giúp các em học tập, rèn luyện, vươn lên sống lành mạnh,
tốt đẹp.
Anh (chị) hãy bày tỏ suy nghĩ của mình về hiện tượng đó (khoảng 600 chữ)
2. Anh (chị) suy nghĩ gì về hiện tượng buôn bán phụ nữ và trẻ em qua
biên giới đang diễn ra nhức nhối hiện nay.
3. Anh (chị) hãy viết một bài văn nghị luận trình bày suy nghĩ của mình
về hiện tượng biến đổi khí hậu đang diễn ra ở nước ta hiện nay.
4. Suy nghĩ của anh (chị) về phong trào “Góp đá xây Trường Sa” do
Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và báo Tuổi trẻ phát động
đang diễn ra sôi nổi trên cả nước.
5. Tuổi trẻ học đường suy nghĩ và hành động để góp phần giảm thiểu tai
nạn giao thông.
6. Từ truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, anh
(chị) hãy phát biểu suy nghĩ về nạn bạo hành gia đình.
Tuy nhiên với một số đề thì vấn đề lại không hoàn toàn đơn giản như vậy.
Có những đề có sự giao thoa giữa nghị luận về một tư tưởng đạo lí với nghị luận
về một hiện tượng đời sống.
Ví dụ: Nhà hoạt động xã hội Martin Luther King từng nói: “Trong thế

giới này, chúng ta không chỉ xót xa vì những hành động và lời nói của người xấu
mà còn cả vì sự im lặng đáng sợ của người tốt”. Anh (chị) hãy viết một bài văn
nghị luận trình bày suy nghĩ của mình gì về ý kiến trên?
2.2. Kĩ năng tìm hiểu đề.
Sau khi nhận dạng đề, học sinh cần tiến hành khâu tìm hiểu đề. Đây
không phải là công đoạn riêng của văn nghị luận xã hội mà bất cứ bài làm văn
10


Sáng kiến kinh nghiệm

Bùi Thị Thuỷ

nào cũng cần thiết phải được chú ý. Tìm hiểu đề là tìm hiểu ba yêu cầu của đề,
bao gồm:
- Yêu cầu về nội dung.
- Yêu cầu về phương pháp.
- Yêu cầu về phạm vi dẫn chứng.
Yêu cầu về phương pháp gần như cả hai dạng đề nghị luận về một tư
tưởng đạo lí hay nghị luận về một hiện tượng đời sống đều là bình luận. Về dẫn
chứng, người viết phải biết huy động mọi loại kiến thức trong nhà trường cũng
như trong cuộc sống đặc biệt là những hiểu biết thực tế để làm cho bài viết vừa
sâu sắc vừa sống động, đầy sức thuyết phục. Yêu cầu quan trọng nhất là về nội
dung đòi hỏi học sinh phải xác định đúng trọng tâm của đề thì bài viết mới đúng
hướng.
Một khâu quan trọng ở phần tìm hiểu đề là học sinh phải đọc thật kĩ đề ra,
gạch chân những từ ngữ quan trọng (tìm từ hoặc cụm từ then chốt) có chứa ẩn ý
được gọi là từ khóa hay cụm từ khóa. Sau đó giải mã các từ khóa để tìm ra yêu
cầu trọng tâm của đề là gì. Để giải mã các từ ngữ đó cần hiểu đúng nghĩa của từ
ngữ nếu không sẽ lạc đề.

Ví dụ 1: Nhà văn Nga L.Tôn-xtôi nói: "Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường.
Không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương
hướng thì không có cuộc sống”. Từ câu nói trên anh (chị) suy nghĩ gì về vai trò
của lý tưởng trong cuộc sống con người.
Để làm tốt đề này, học sinh cần hiểu đúng nghĩa của từ “lý tưởng” mới có
thể giải thích, phân tích, chứng minh đúng hướng. Theo Từ điển Tiếng Việt, “lý
tưởng” được hiểu là:
- Lý tưởng: điều tốt đẹp xuất hiện trong tâm lí con người, do con người
tưởng tượng, mong muốn.
- Lý tưởng: khái niệm diễn tả một vẻ đẹp tuyệt vời, một hình ảnh hoàn
hảo (người yêu lý tưởng, chỗ ở lý tưởng…)
- Lý tưởng sống: quan niệm về lối sống tốt đẹp, toàn thiện mà con người
ước mơ, khát khao kiếm tìm, xây dựng, nỗ lực phấn đấu để đạt tới. (Lý tưởng
sống của tuổi trẻ)
Ví dụ 2: Anh (chị) hãy viết bài văn nghị luận bàn về lòng vị tha trong
cuộc sống.
Đối với đề bài này, học sinh thường nhầm lẫn “vị tha” là “tha thứ”, khi
viết bài chỉ bàn về một vấn đề là phải tha thứ cho người khác. Cách hiểu này chỉ
đúng một phần, vì “vị tha” có nghĩa là vì người khác, không vị kỉ, không ích kỉ
vì mình.
Giáo viên có thể liên hệ thêm cho học sinh hiểu nghĩa của từ “vị tha” một
cách hứng thú, bằng cách ôn lại kiến thức đã học.

11


Sáng kiến kinh nghiệm

Bùi Thị Thuỷ


- Vị có nghĩa là vì, như trong quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật” của
các nhà văn lãng mạn và “nghệ thuật vị nhân sinh” của các nhà văn hiện thực
phê phán giai đoạn 1930 - 1945.
- Tha có nghĩa là khác, như trong từ “tha hương” đi đến một nơi ở khác.
Liên hệ với câu thơ trong bài Thu hứng của Đỗ Phủ “Tùng cúc lưỡng khai tha
nhật lệ. Cô chu nhất hệ cố viên tâm”
2.3. Kĩ năng lập ý.
Khi viết bài văn nói chung, văn nghị luận xã hội nói riêng học sinh không
có thói quen tìm ý trước khi viết bài. Các em thường nghĩ đến đâu viết đến đó
cho nên bài viết thường lộn xộn, lặp ý, thiếu ý. Vấn đề đưa ra không được bàn
luận sâu sắc mà chỉ viết cho có bài để nạp, còn không cần đến một bài viết đầy
đủ, sâu sắc về nội dung và đạt yêu cầu về bố cục, hành văn, diễn đạt.
Nhận thức được đây là một khâu quan trọng, nên giáo viên cần hướng dẫn
các em lập ý một cụ thể, rõ ràng thông qua các luận điểm, luận cứ ở phần thân
bài. Từ đó các em nắm vững lí thuyết và áp dụng vào đề bài thực hành.
Các bước lập ý cho bài văn nghị luận xã hội:
- Xác định luận đề:
Bài văn cần làm sáng tỏ vấn đề gì? Quan điểm của chúng ta về vấn đề đó
như thế nào?
- Xác định luận điểm:
Căn cứ vào đề bài, giáo viên giúp học sinh xác định các luận điểm cho
luận đề.
- Xác định luận cứ:
Căn cứ vào các luận điểm đã được hình thành, học sinh xác định các luận
cứ cho từng luận điểm.
2.3.1. Nghị luận về một tư tưởng đạo lí.
Cách làm bài văn nghị luận về một tư tưởng đạo lí, Sách giáo khoa Ngữ
văn 12 trong phần Ghi nhớ nhấn mạnh nội dung như sau:
+ Giới thiệu, giải thích tư tưởng, đạo lí cần bàn luận;
+ Phân tích những mặt đúng, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan

đến vấn đề bàn luận;
+ Nêu ý nghĩa, rút ra bài học nhận thức và hành động về tư tưởng đạo lí.
+ Diễn đạt cần chuẩn xác, mạch lạc; có thể sử dụng một số phép tu từ và
yếu tố biểu cảm nhưng phải phù hợp và có chừng mực.
(SGK Ngữ văn 12 Tập 1, NXB Giáo dục, trang
21)
Tôi xin triển khai cụ thể hơn về cách thiết lập luận điểm trong một bài
nghị luận về một tư tưởng đạo lí (các luận điểm trong phần thân bài) để học sinh
dễ nắm bắt hơn.
- Luận điểm 1: Giải thích tư tưởng đạo lí cần bàn luận.
12


Sáng kiến kinh nghiệm

Bùi Thị Thuỷ

Cần giải thích rõ nội dung tư tưởng đạo lí; giải thích các từ ngữ, thuật
ngữ, khái niệm, nghĩa đen, nghĩa bóng (nếu có); rút ra ý nghĩa chung của tư
tưởng, đạo lí.
Nếu vấn đề thể hiện dưới dạng trích dẫn một câu tục ngữ, một câu danh
ngôn hay một nhận định, người viết cần lần lượt giải thích, làm rõ nghĩa của vấn
đề theo cách đi từ khái niệm, ý nghĩa của các từ ngữ, hình ảnh đến các vế câu và
cuối cùng là toàn bộ ý tưởng được trích dẫn; rút ra ý nghĩa chung của tư tưởng,
đạo lí; quan điểm của tác giả qua câu nói.
- Luận điểm 2: Bàn luận, mở rộng vấn đề.
+ Luận cứ 1: Phân tích và chứng minh các mặt đúng của tư tưởng, đạo lí
(thường trả lời câu hỏi tại sao nói như thế? Dùng dẫn chứng cuộc sống xã hội để
chứng minh. Từ đó chỉ ra tầm quan trọng, tác dụng của tư tưởng, đạo lí đối với
đời sống xã hội).

+ Luận cứ 2: Bình luận mở rộng vấn đề; bác bỏ những biểu hiện sai lệch
có liên quan đến tư tưởng, đạo lí vì có những tư tưởng, đạo lí đúng trong thời đại
này nhưng còn hạn chế trong thời đại khác, đúng trong hoàn cảnh này nhưng
chưa thích hợp trong hoàn cảnh khác; dẫn chứng minh họa.
- Luận điểm 3: Rút ra bài học nhận thức và hành động.
+ Luận cứ 1: Bài học về nhận thức
+ Luận cứ 2: Bài học về hành động.
Đây là vấn đề cơ bản của một bài nghị luận bởi mục đích của việc nghị
luận là rút ra những kết luận đúng để thuyết phục người đọc áp dụng vào thực
tiễn đời sống.
2.3.2. Nghị luận về một hiện tượng xã hội.
Cách làm bài văn nghị luận về một hiện tượng đời sống, Sách giáo khoa
Ngữ văn 12 trong phần Ghi nhớ nhấn mạnh nội dung như sau:
- Nêu rõ hiện tượng.
- Phân tích các mặt đúng - sai, lợi - hại.
- Chỉ ra nguyên nhân và bày tỏ thái độ, ý kiến của người viết về hiện
tượng xã hội đó.
- Diễn đạt cần chuẩn xác, mạch lạc; có thể sử dụng một số phép tu từ và
yếu tố biểu cảm, nhất là phần nêu cảm nghĩ riêng.
(SGK Ngữ văn 12 Tập 1, NXB giáo dục, trang
67)
Tôi xin triển khai cụ thể hơn về cách thiết lập luận điểm trong một bài
nghị luận về một hiện tượng đời sống (các luận điểm trong phần thân bài) để học
sinh dễ nắm bắt hơn.
- Luận điểm 1: Giải thích sơ lược hiện tượng đời sống; làm rõ những
hình ảnh, từ ngữ, khái niệm trong đề bài (Tùy vào yêu cầu cụ thể của đề bài).
- Luận điểm 2: Nêu rõ thực trạng các biểu hiện của hiện tượng đời sống;

13



Sáng kiến kinh nghiệm

Bùi Thị Thuỷ

- Luận điểm 3: Nêu hậu quả mà hiện tượng đó gây ra, thực tế vấn đề
đang diễn ra như thế nào, có ảnh hưởng ra sao đối với đời sống, thái độ của xã
hội đối với vấn đề.
Chú ý liên hệ với thực tế địa phương để đưa ra những dẫn chứng sắc bén,
thuyết phục từ đó làm nổi bật tính cấp thiết phải giải quyết vấn đề.
- Luận điểm 4: Lý giải nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đời sống, đưa ra
các nguyên nhân nảy sinh vấn đề, các nguyên nhân từ chủ quan, khách quan, do
tự nhiên, do con người.
- Luận điểm 5: Đề xuất giải pháp để giải quyết hiện tượng đời sống (từ
nguyên nhân nảy sinh vấn đề để đề xuất phương hướng giải quyết trước mắt, lâu
dài. Chú ý chỉ rõ những việc cần làm, cách thức thực hiện, đòi hỏi sự phối hợp
với những lực lượng nào).
Để làm tốt kiểu bài này, học sinh cần phải hiểu hiện tượng đời sống được
đưa ra nghị luận có thể có ý nghĩa tích cực cũng có thể là tiêu cực, có hiện tượng
vừa tích cực vừa tiêu cực… Do vậy, cần căn cứ vào yêu cầu cụ thể của đề tìm ý
cho hợp lý, tránh làm bài chung chung, không phân biệt được mặt tích cực hay
tiêu cực.
2.4. Kĩ năng lập dàn ý.
Sau khi đã huy động kiến thức cần thiết cũng như đã tìm được các ý cho
bài viết, học sinh cần phải sắp xếp các ý theo một hệ thống nhất định, đảm bảo
yêu cầu mà đề đặt ra.
Lập dàn ý giúp học sinh viết đúng trọng tâm, tránh tình trạng lạc đề, lặp ý,
tránh việc bỏ sót ý hoặc triển khai không cân xứng. lập dàn ý giúp người viết
phân phối thời gian hợp lý cho từng phần, không bị rơi vào tình trạng “đầu voi,
đuôi chuột” như khá nhiều bài viết thường gặp. Điều quan trọng hơn là viết bài

văn đúng bố cục.
2.4.1. Nghị luận về một tư tưởng đạo lí:
Đề xuất dàn ý cho bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí.
A. Mở bài:
- Nêu vấn đề cần nghị luận
- Trích dẫn vấn đề được đặt ra trong đề bài
(Dẫn dắt và giới thiệu khái quát nhận định, đánh giá có nêu ra ở đề bài. Sau
đó định hướng vấn đề nghị luận.
Lưu ý: Học sinh phải trích dẫn nhận định và nêu luận đề của đề bài trong
phần mở bài).
B. Thân bài:
1. Giải thích
Làm rõ nội dung vấn đề tư tưởng đạo lí được dẫn trong đề.
2. Bàn luận, mở rộng vấn đề

14


Sáng kiến kinh nghiệm

Bùi Thị Thuỷ

- Tác dụng, ý nghĩa của tư tưởng đạo lí (chứng minh, so sánh, đối chiếu,
phân tích… để chỉ ra cái đúng). Hoặc nêu tác hại của tư tưởng đạo lí (chứng
minh, so sánh, đối chiếu, phân tích… để chỉ ra cái sai).
- Phê phán, bác bỏ tư tưởng trái ngược. Hoặc biểu dương, ngợi ca những
tư tưởng nhân văn, tốt đẹp.
3. Bài học nhận thức và hành động
- Về nhận thức: đúng hay sai?
- Về hành động: ta cần làm gì?

C. Kết bài:
Đánh giá chung về tư tưởng đạo lý cần nghị luận.
Ví dụ minh họa.
Đề 1:
Viết bài văn nghị luận trình bày suy nghĩ của anh (chị) về câu nói của
Nguyễn Bá Học: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì
lòng người ngại núi e sông”.
A. Mở bài:
- Nêu vấn đề cần nghị luận.
- Trích dẫn đề bài.
B. Thân bài:
1. Giải thích câu nói:
- Nghĩa tường minh: Trước đây, giao thông chưa thuận tiện, muốn đến
nơi nào đó phải trèo đèo lội suối rất vất vả. Những cuộc hành trình dài thường
khiến người ta mệt mỏi, sợ hãi, không dám đến đích cần tới.
- Nghĩa hàm ẩn: Đường đi còn có nghĩa là đường đời, cuộc sống con
người; Sông, núi là hình ảnh ẩn dụ cho những khó khăn thử thách.
- Ý cả câu: Mọi khó khăn thử thách đều có thể vượt qua nếu con người có
ý chí và nghị lực.
2. Bàn luận, mở rộng vấn đề.
- Cuộc sống luôn chứa đựng muôn vàn khó khăn, trắc trở. Vượt qua
những khó khăn trắc trở đó, con người sẽ thành công.
Dẫn chứng: Mạc Đĩnh Chi phải học dưới ánh đèn đom đóm mà đỗ đạt
thành công.
Thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí từ một cậu bé tật nguyền viết bằng đôi chân mà
trưởng thành.
Nick Vujicick, chàng trai khuyết tật bẩm sinh, không có cả tay và chân
nhưng anh không hề nản chí, với sự nỗ lực vượt bậc, anh đã vượt lên số phận,
vượt lên chính mình để trở thành một diễn viên xuất sắc, một nhà diễn thuyết nổi
tiếng, anh đã truyền lửa sống cho biết bao người đặc biệt là thế hệ thanh niên.

- Những khó khăn thử thách là cơ hội để thử sức, rèn luyện bản thân
mình, là cơ hội để nhận diện năng lực mình, và là cơ hội để có những bài học.
Dẫn chứng: Nhà diễn thuyết nổi tiếng thời cổ đại Hi Lạp Demosthenes
thưở nhỏ bị nói lắp. Khi đứng trên sân khấu diễn giảng, giọng nói ông không rõ
15


Sáng kiến kinh nghiệm

Bùi Thị Thuỷ

ràng, phát âm không chuẩn, vẫn thường bị mọi người chế nhạo. Nhưng ông
không hề chán nản. Để khắc phục khó khăn này, ngày ngày ông đều ngậm một
viên đá trong miệng, rồi đứng trước biển tập đọc. Sau một thời gian kiên trì tập
luyện, ông đã chứng minh được năng lực của mình, và trở thành nhà diễn thuyết
nổi tiếng nhất Hi Lạp.
Nhà bác học Marie Curie đã từng bị bệnh ung thư máu, nhưng bà đã
không chịu cúi đầu bỏ cuộc, không cam tâm để mình trở thành người vô dụng,
và cuối cùng bà đã hai lần được nhận giải thưởng Nobel (về vật lí và hóa học).
Từ hai luận cứ trên, khẳng định câu nói của Nguyễn Bá Học là hoàn toàn
đúng. Nếu con người kiên trì nghị lực thì “không có việc gì khó”.
- Phê phán một bộ phận trong xã hội thiếu ý chí, nghị lực trong cuộc sống,
không có lý tưởng sống. Gặp chuyện khó khăn là chán nản, sinh ra bi quan, hoặc
sa vào con đường tội lỗi. (Nêu dẫn chứng)
3. Bài học nhận thức và hành động:
- Nhận thức: Con người cần ý thức được vai trò, tầm quan trọng của tinh
thần vượt khó trong cuộc sống.
- Hành động: Mỗi con người cần mài sắc ý chí, nghị lực của mình trên
mọi bước đường, mọi hành trình của cuộc sống.
Liên tưởng bài thơ của Bác Hồ: “Không có việc gì khó; Chỉ sợ lòng không

bền; Đào núi và lấp biển; Quyết chí ắt làm nên.”
C. Kết bài:
Khẳng định tính đúng đắn của tư tưởng đạo lý. Câu nói có ý nghĩa vô
cùng lớn lao đối với thế hệ trẻ ngày hôm nay và luôn đúng trong mọi thời đại.
Đề 2:
Suy nghĩ của anh (chị) về ý nghĩa của bài thơ sau:
Ví không có cảnh đông tàn
Thì không có cảnh huy hoàng ngày xuân
Nghĩ mình trong bước gian truân
Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng.
(Tự khuyên mình – Nhật kí trong tù – Hồ Chí Minh)
A. Mở bài:
- Nêu vấn đề cần nghị luận
- Trích dẫn đề bài.
B. Thân bài:
1. Giải thích ý nghĩa của bài thơ.
- Bài thơ đề cập đến hiện tượng tự nhiên: Nếu không có cảnh mùa đông
tàn thì cũng không có được cảnh huy hoàng của mùa xuân. Đông qua rồi mới
đến xuân, đó là qui luật tất yếu của tự nhiên.
- Từ qui luật tự nhiên, bài thơ liên tưởng đến con người: Trong khó khăn
gian khổ, nếu con người chịu đựng được, vượt qua được những khó khăn thử
thách thì sẽ đến được với cảnh huy hoàng của cuộc sống.

16


Sáng kiến kinh nghiệm

Bùi Thị Thuỷ


- Những bước gian truân, tai ương gặp phải là những thử thách, rèn luyện
làm cho tinh thần thêm hăng. Bài thơ thể hiện tinh thần lạc quan của người chiến
sĩ cách mạng.
2. Bàn luận, mở rộng vấn đề.
- Khẳng định quan niệm của Bác trong bài thơ là hoàn toàn đúng:
+ Trong cuộc sống, không mấy ai không gặp khó khăn, gian khổ. Trước
những trở ngại không được bi quan, chán nản mà phải giữ vững niềm tin vào lí
tưởng, mục đích cuộc sống của mình.
+ Những vất vả, khó khăn gặp phải như cơn gió lạnh mùa đông . Nếu chịu
đựng và vượt qua được mùa đông lạnh lẽo thì sẽ được sống trong cảnh huy
hoàng của ngày xuân. Điều đó có nghĩa vượt qua gian khổ sẽ đến được với
thành công. Niềm tin đó sẽ giúp chúng ta vươn lên trong cuộc sống. Chính trong
gian khổ con người sẽ vững vàng hơn. Tai ương gặp trong cuộc đời sẽ sẽ giúp
tinh thần thêm hăng hái. HS có thể lấy dẫn chứng (cuộc đời Bác Hồ và các chiến
sĩ cách mạng trong đấu tranh là dẫn chứng hùng hồn về sự kiên trì, nhẫn nại, về
quyết tâm vượt qua những thử thách, về niềm tin và tinh thần lạc quan cách
mạng).
- Phê phán những kẻ sợ khó khăn gian khổ, hay nản chí ngã lòng, bi quan
trước những khó khăn thử thách trong cuộc sống.
3. Bài học nhận thức và hành động.
- Sống ở trên đời, khi đã xác định được mục đích đúng đắn, muốn đi đến
thành công thì phải trải qua những gian nan thử thách. Nếu vượt qua được chắc
chắn sẽ đạt được điều ta mong muốn.
- Chấp nhận đương đầu với khó khăn thử thách, đem hết khả năng của
mình góp phần vào sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất
nước.
- Bài thơ giúp ta hiểu được qui luật tất yếu của cuộc sống, từ đó hăng hái
học tập và rèn luyện.
C. Kết bài:
Đánh giá, tổng kết, nêu ý nghĩa của vấn đề cần nghị luận.

2.4.2. Nghị luận về một hiện tượng đời sống:
Đề xuất dàn ý cho bài nghị luận về một hiện tượng đời sống.
A. Mở bài:
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề cần nghị luận (nêu hiện tượng được đặt ra ở đề bài)
B. Thân bài:
1. Giải thích hiện tượng (nếu có).
2. Bàn luận, mở rộng vấn đề
- Nêu thực trạng của hiện tượng.
- Hậu quả của hiện tượng ảnh hưởng đến đời sống xã hội, con người.
- Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đó.
17


Sáng kiến kinh nghiệm

Bùi Thị Thuỷ

+ Nguyên nhân chủ quan.
+ Nguyên nhân khách quan.
- Giải pháp cụ thể để khắc phục những hậu quả mà hiện tượng gây ra cho
xã hội và con nghười.
3. Rút ra bài học cho bản thân
(Bày tỏ thái độ, ý kiến của người viết về hiện tượng xã hội đó)
C. Kết bài:
Đánh giá chung về hiện tượng.
Ví dụ minh họa:
Trình bày suy nghĩ của anh (chị) về “bệnh vô cảm” trong xã hội hiện nay.
A. Mở bài:
Hiện tượng lạnh lùng thiếu quan tâm lẫn nhau trong quan hệ giữa người

với người trong xã hội hiện tại…Hiện tượng đó gọi là “bệnh vô cảm”.
B. Thân bài:
1. Giải thích khái niệm:
“Vô cảm” là không có cảm giác, không có tình cảm, không xúc động trước
một sự vật, hiện tượng, một vấn đề gì đó trong đời sống. Bệnh vô cảm là căn
bệnh của những người không có tình yêu thương, sống dửng dưng trước nỗi đau
của con người, xã hội, nhân loại…
2. Nêu thực trạng của bệnh vô cảm
- Thiếu sự đồng cảm, chia sẻ với người khác, nhất là với những người
gặp khó khăn hơn mình.
Dẫn chứng: Đi đường gặp người hoạn nạn thì làm ngơ. Đi xe bus không
nhường ghế cho người già, trẻ em, phụ nữ mang thai.
- Sự vô cảm giữa người với người trong đời sống xã hội (bác sĩ vô cảm
với bệnh nhân, thầy cô giáo với học sinh, cha mẹ với con cái…)
- Thế hệ trẻ ngày nay rất nhiều người thơ ơ, vô cảm, bàng quan với những
vấn đề của cuộc sống xung quanh mình, coi như đó không phải việc của mình
nên nhắm mắt làm ngơ.
3. Nguyên nhân
- Về khách quan: Xã hội phát triển trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt đã
khiến con người dễ quan tâm đến quyền lợi của bản thân mình một cách thái quá.
- Về chủ quan: Thói ích kỉ có sẵn trong mỗi con người.
Một bộ phận được xã hội trao quyền lực nhưng không ý thức đầy đủ trách
nhiệm đối với xã hội, đã tỏ ra hống hách, chuyên quyền.
Cá nhân, nhà trường, xã hội chưa thường xuyên giáo dục tuyên truyền kịp
thời một cách hài hòa giữa trí, đức và mĩ.
4. Hậu quả:
- Xã hội thiếu tình người, thiếu sự đồng cảm trong đời sống cộng đồng.
- Ảnh hưởng đến tương lai của những con người đang trong quá trình
hoàn thiện nhân cách, hoàn thiện đời sống tâm lí.
18



Sáng kiến kinh nghiệm

Bùi Thị Thuỷ

- Đời sống tâm hồn con người trở nên nghèo nàn, vô trách nhiệm.
- Xã hội nhức nhối vì những bất công, ngang trái đang diễn ra trước mắt.
5. Giải pháp:
- Tích cực tham gia ngăn chặn và tuyên truyền giáo dục mọi người về một
lối sống đẹp, biết quan tâm chia sẻ lẫn nhau.
- Mỗi người cần tự rèn luyện để có lẽ sống đẹp, cao cả, nhân ái, vị tha.
- Cần tham gia những phong trào thanh niên với mục đích giúp đỡ, quan
tâm đến những số phận bất hạnh.
C. Kết bài :
Lên án nghiêm khắc trước những suy nghĩ và hành động vô cảm của con
người trước những vấn đề của cuộc sống đang diễn ra…
3. Kĩ năng tìm dẫn chứng.
Bài làm thiếu dẫn chứng cụ thể cũng là một thiếu sót thường xuyên xảy ra
trong các bài làm văn nghị luận xã hội của các em học sinh. Để chứng minh một
cách thuyết phục cho các luận điểm của một bài văn nghị luận xã hội, người viết
phải sử dụng các dẫn chứng cụ thể, tiêu biểu về những người thật, việc thật. Đây
là một công việc vô cùng khó khăn đối với học sinh, bởi vì vốn hiểu biết về thực
tế xã hội của các em còn quá ít.
Để có thể có những hiểu biết nhất định về thời sự, về các vấn đề chính trị
xã hội nóng bỏng của đất nước, đặc biệt là các vấn đề đang được đưa ra bàn
luận, được dư luận xã hội quan tâm, từ đó tích lũy thành những dẫn chứng cụ thể
để đưa vào bài làm của mình, học sinh cần tích lũy từ nhiều kênh thông tin khác
nhau như: sách vở, báo chí, truyền hình, internet, đời sống thực tế.… như thông
tin về các vụ tai nạn giao thông, thống kê số người tử vong vì tai nạn giao thông

trong một năm, thông tin về tình hình biến đổi khí hậu, về nạn gian lận thi cử
trong các kì thi tốt nghiệp THPT và Đại học, Cao đẳng, thông tin về sự kiện
chàng trai Nick Vujicick đến Việt Nam, hiện tượng nhạc sĩ, ca sĩ Trần Lập,….
1. “Tháng 5-2013, Nick Vujicick chàng trai diệu kì đã đến Việt Nam. Anh
sinh ra ở Austrailia, hiện sống tại California (Mĩ). Từ khi ra đời anh đã mắc hội
chứng rối loạn gen hiếm gặp, gây ra sự thiếu hụt chân tay. Chàng trai không
chân, không tay đã gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống. Nhưng với ý chí và
nghị lực phi thường, với lòng lạc quan vô bờ bến, anh đã vươn lên, tự luyện tập
để có thể vượt qua tật nguyền, làm được mọi việc mà những người bình thường
vẫn làm, thậm chí là những việc người bình thường khó làm được. Nick Vujicick
đã là tác giả của hai cuốn tự truyện nổi tiếng “Cuộc sống không giới hạn” và
“Đừng bao giờ từ bỏ khát vọng”; anh từng là diễn viên điện ảnh xuất sắc, là nhà
diễn thuyết tài năng với hơn 1600 bài nói chuyện ở 24 quốc gia. Một lần nữa
Nick Vujicick đã truyền lửa sống cho những người khuyết tật và những bạn trẻ ở
Việt Nam”. (Theo báo Dân trí ngày 28-5-2013).
Nick Vujic – con người tàn tật biết chấp nhận sự thiếu thốn, không vẹn
nguyên về thể xác để thành công và trở thành biểu tượng của bản lĩnh, nghị lực
sống trên toàn thế giới.
19


Sáng kiến kinh nghiệm

Bùi Thị Thuỷ

2. Cuộc đời ca sĩ Trần Lập cũng là cuộc đời thành công của một người
luôn biết vươn lên, đẩy lùi bóng tối và kéo ánh sáng lại gần mình.
Sinh ra trong gia đình nghèo, đông anh em, Trần Lập phải chịu vất vả từ
nhỏ. Bố mẹ đi làm để kiếm kế sinh nhai khóa cửa Trần Lập một mình. Vì vậy, để
xua đi nỗi cô đơn của bản thân anh mở chiếc đài cũ kĩ của Liên Xô để tự “ thỏa

chí” đam mê âm nhạc. Chính việc đó đã giúp anh trở thành một nhạc sĩ sáng tác
và hát Rock thành công trong suốt 20 năm làm nghề.
Ở tuổi ngoài 40, khi bị mắc bệnh ung thư trực tràng anh vẫn say mê hát và
cống hiến. Có lẽ, không ít người đã phải rơi nước mắt cảm phục khi nhìn thấy
hình ảnh vị nhạc sĩ quá cố mũi đeo ống thở ô-xi, tay chằng chịt những dây dẫn
nước; nằm điều trị tại bệnh viện mà anh vẫn nở một nụ cười thật tươi, giơ tay
chào khán giả. Định mệnh cuộc đời đã không cho con người nghị lực ấy có cơ
hội vượt qua cửa tử thần một lần nữa. Nhưng những gì anh để lại cho đời vẫn
vững chãi như “ Bức Tường” anh đã đặt tên.
3. Khi học đoạn trích “Ông già và biển cả” của nhà văn Hê-minh-uê, chú
ý câu nói của ông: “Con người có thể bị hủy diệt, nhưng không thể bị đánh bại”.
Trong quá trình đọc sách báo, nghe tin tức trên các phương tiện thông tin
đại chúng, học sinh cần ghi lại thông tin về những nhân vật tiêu biểu, những sự
kiện, những con số chính xác về một sự việc nào đó để có thể huy động làm dẫn
chứng cho bài viết của mình.
Dĩ nhiên là các tư liệu về đời sống thực tế phải được các em tích lũy dần
dần trong cuộc sống của mình. Điều đặc biệt chú ý là học sinh phải nhớ được tên
cụ thể của con người hay hiện tượng đưa ra làm dẫn chứng, tránh việc đưa dẫn
chứng chung chung kiểu như: có những người, có bạn học sinh, ở một trường
học nọ.…
4. Kĩ năng diễn đạt.
Trong quá trình viết bài làm văn nghị luận xã hội, có một yêu câu vô cùng
quan trọng không thể bỏ qua là kĩ năng diễn đạt. Học sinh cần rèn luyện kĩ năng
diễn đạt tốt bằng cách vận dụng kết hợp các thao tác lập luận (thao tác lập luận
so sánh, giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, bác bỏ) và các phương
thức biểu đạt (thuyết minh, biểu cảm, nghị luận) đã học. Với những học sinh có
khả năng diễn đạt tốt và văn viết có cảm xúc, chắc chắn bài viết của các em sẽ
đạt được kết quả cao nhất nếu có sự chuẩn bị tốt theo các hướng dẫn ở phần này.
Trong quá trình dạy, trong các tiết trả bài, giáo viên cần quan tâm nhiều
đến việc rèn luyện các thao tác lập luận cho học sinh thông qua các dẫn chứng

cụ thể trong bài viết của các em.
Lời văn, câu văn, đoạn văn viết phải cô đúc, ngắn gọn. Lập luận phải chặt
chẽ. Cảm xúc trong sáng, lành mạnh. Để bài văn thấu tình đạt lý thì phải thường
xuyên tạo lối viết song song (đồng tình, không đồng tình; ngợi ca, phản bác…).
Hay bắt đầu bằng những từ ngữ: Tuy nhiên bên cạnh đó; Nhưng vấn đề khác
được đặt ra ở đây là; Mặt trái của vấn đề ít ai biết đến là; …
20


Sáng kiến kinh nghiệm

Bùi Thị Thuỷ

IV. Hiệu quả đạt được:
- Hứng thú học tập phần văn nghị luận xã hội.
Mức đạt
được

Trước khi áp dụng sáng kiến
kinh nghiệm

Sau khi áp dụng sáng kiến
kinh nghiệm

Lớp 12B1
(48 HS)

Lớp 12B2
(45 HS)


Lớp 12B1
(48 HS)

Lớp 12B2
(45 HS)

Rất hứng
thú

0/48

0/45

10/48

8/45

Hứng thú

10/48

10/45

18/48

22/45

Bình
thường


26/48

20/45

20/48

15/45

Không
hứng thú

12/48

15/45

0

0

- Kết quả học tập văn nghị luận xã hội.
Mức đạt
được

Trước khi áp dụng sáng kiến
kinh nghiệm

Sau khi áp dụng sáng kiến
kinh nghiệm

Lớp 12B1

(48 HS)

Lớp 12B2
(45 HS)

Lớp 12B1
(48 HS)

Lớp 12B2
(45 HS)

Giỏi

0/48

0/45

5/48

3/45

Khá

10/48

8/48

16/48

14/45


TB

26/48

23/45

22/48

21/45

Yếu

12/48

15/45

5/48

7/45

Kém

0

0

0

0


- Sau khi áp dụng đề tài này, học sinh hứng thú hơn khi làm văn nghị luận
xã hội, nắm vững hơn các kĩ năng làm văn, được tiếp cận với nhiều dạng đề, rèn
luyện được nhiều thao tác nghị luận.
- Nghị luận xã hội là dạng đề mở, kích thích tư duy sáng tạo của học sinh,
các em quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề xã hội.
- Không khí học tập trong các giờ ôn tập nghiêm túc và có tinh thần tự
giác cao hơn. Hoàn thành bài tập ở nhà khi giáo viên yêu cầu.
Từ kết quả trên, để học sinh hứng thú học tập trong quá trình ôn tập giáo
viên cần: kiên trì, nhẫn nại hướng dẫn học sinh; khuyến khích những ý tưởng
sáng tạo của các em; giúp học sinh phát triển khả năng biện luận, phản biện
trước vấn đề đặt ra; tạo ra một môi trường học tập để các em mạnh dạn trình bày
quan điểm, suy nghĩ riêng của mình trước những vấn đề của cuộc sống. Từ đó
giúp các em đến sự phát triển toàn diện, hướng đến CHÂN – THIỆN – MĨ.
21


Sáng kiến kinh nghiệm

Bùi Thị Thuỷ
C. KẾT LUẬN

Chương trình giáo dục THPT ban hành kèm theo quyết định số
16/2006/QĐ – BGDĐT ngày 5/5/2006 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã nêu: “Phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc
trưng bộ môn, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi
dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kĩ năng
vận dụng kiến thức vào thực tiễn”. Theo đó, giáo viên cần phải đổi mới phương
pháp dạy học chú trọng việc giúp học sinh học tập để đáp ứng yêu cầu của cuộc
sống hiện tại và tương lai.

Hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn tập văn nghị luận xã hội là rất quan trọng
và hướng dẫn như thế nào để không gây áp lực về tâm lý, học sinh có kĩ năng
làm văn và đạt hiệu quả cao trong thi cử lại còn quan trọng hơn. Thông qua quá
trình ôn tập văn nghị xã hội, giúp các em hiểu thêm về những vấn đề mà xã hội
đang quan tâm, tránh sự thờ ơ, vô cảm. Học sinh có điều kiện để nhìn lại những
việc làm của mình từ trong hành động, trong suy nghĩ để các em hoàn thiện hơn
về nhân cách, về lối sống của mình, các em sẽ tích cực tham gia các hoạt động
mang ý nghĩa cộng đồng, hòa đồng, thân ái, đồng cảm chia sẻ với mọi người
xung quanh và hơn hết là sống tốt, sống có ý nghĩa và có một niềm tin thiết tha
hơn về cuộc sống.
Nhìn vào kết quả so sánh ta dễ dàng nhận thấy cách hướng dẫn học sinh
hứng thú với nghị luận xã hội thực sự có hiệu quả dù chỉ ở một mức độ nào đó.
Trên thực tế những vấn đề tôi đặt ra trong đề tài nhỏ này không nằm ngoài
những kĩ năng làm văn nghị luận xã hội mà các giáo viên dạy văn đã và đang
thực hiện. Tuy nhiên, đây thực sự là một thành công lớn của người áp dụng sáng
kiến kinh nghiệm vào thực tế giảng dạy môn Ngữ Văn trong tại lớp 12B1 và
12B2 học theo Ban KHTN ở Trường THPT Nông Cống 3, năm học 2015-2016
xin được chia sẻ cùng đồng nghiệp.
Do điều kiện thời gian và năng lực có hạn, người viết không tham vọng
nhiều vấn đề mà chỉ nêu một vấn đề nhỏ trong vô vàn vấn đề lớn của công việc
Dạy - Học văn trong Trường THPT hiện nay, đặc biệt là ở Trường THPT Nông
Cống 3. Hơn nữa, bài viết sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự
góp ý của đồng nghiệp.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 10 tháng 5 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác.


Bùi Thị Thủy
22


Sáng kiến kinh nghiệm

Bùi Thị Thuỷ

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên), Sách giáo khoa Ngữ văn 10 tập II,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006.
2. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên), Sách giáo khoa Ngữ văn 12 tập I,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 2008.
3. Nguyễn Duy Kha (Chủ biên), Hướng dẫn ôn tập kì thi THPT Quốc gia
năm học 2015-2016 môn Ngữ Văn, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016
4. Phan Danh Hiếu, Cẩm nang luyện thi đại học môn Ngữ văn, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2014.
5. Phan Quốc Trung, Những bài làm văn nghị luận xã hội chọn lọc, NXB
Đại học quốc gia Hà Nội.

23



×