Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Sử dụng sơ đồ bảng biểu vào dạy học truyện ngắn chiếc thuyền ngoài xa của nguyễn minh châu ở THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.55 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
TT
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2
2.3
2.3.1
2.3.2
2.3.3
2.4
3

Nội dung
Mở đầu
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung
Cơ sở lý luận
Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Các giải pháp
Sơ đồ bảng biểu tóm tắt cốt truyện, tác phẩm
Sơ đồ, bảng biểu phát hiện phân tích tình huống truyện
Sơ đồ, bảng biểu khám phá nhân vật
Hiệu quả của SKKN


Kết luận và kiến nghị
Danh mục tài liệu tham khảo

Trang
2
3
3
3
3
4
4
4-5
6
6- 7
7-12
13-19
19-20
20-21
22

1. MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
1


Sự phát triển kinh tế – xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá đặt ra những yêu
cầu mới đối với người lao động, do đó cũng đặt ra những yêu cầu mới cho sự
nghiệp giáo dục thế hệ trẻ và đào tạo nguồn nhân lực. Một trong những định
hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền giáo dục mang tính hàn
lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc hình thành

năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Định hướng
quan trọng trong đổi mới PPDH là phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát
triển năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc của người học. Đó cũng là
những xu hướng quốc tế trong cải cách PPDH ở nhà trường phổ thông.
Nghị quyết 29 BCHTW Đảng lần thứ 8 (Khóa XI)đã nêu rõ yêu cầu đổi mới
căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam như sau: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ
phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ
áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc...”
Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển từ chương trình
giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ
quan tâm đến việc HS học được cái gì đến chỗ quan tâm HS vận dụng được cái gì
qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, phải thực hiện chuyển từ phương pháp
dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến
thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Tăng cường việc học
tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên – học sinh theo hướng cộng tác có ý
nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội.
Những năm qua, trong dạy học Ngữ văn, sơ đồ, bảng, biểu đang được áp
dụng rộng rãi và tạo ra những chuyển biến tích cực đối với quá trình học tập của
học sinh. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy; hiệu quả của dạy học được tăng cường
khi đi từ dạy học chỉ bằng lời nói đến sử dụng phương tiện dạy học và hoạt động
của chính học sinh.
Trong quá trình dạy học Ngữ văn, Phương pháp trực quan (cụ thể là sơ đồ,
bảng, biểu) đóng vai trò không thể thiếu nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Đối
với dạy học thể loại truyện ngắn, việc xây dựng và sử dụng sơ đồ, bảng biểu ngày
càng chứng tỏ được vai trò quan trọng đối với hoạt động giảng dạy của giáo viên
và học tập của học sinh trong quá trình chiếm lĩnh tri thức, từng bước đáp ứng yêu
cầu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học
sinh, phát triển năng lực tư duy sáng tạo, tư duy tổng hợp của người học.
Trong dạy học Ngữ văn, sơ đồ, bảng, biểu có vai trò mã hóa thông tin về các vấn

đề văn học dưới dạng trực quan sinh động, giúp phát huy trí tưởng tượng, óc liên
tưởng và phát triển năng lực sáng tạo của học sinh trong hoạt động tiếp nhận. Bởi
vì sơ đồ, bảng, biểu sẽ minh họa kiến thức một cách cô đọng, ngắn gọn, sinh
động, dễ hiểu, dễ nhớ nhất nên khi nhìn vào sơ đồ, HS có thể nắm được thông tin,
tri thức một cách nhanh chóng, bền vững, đồng thời có cơ sở để khám phá sâu bài
2


học. Qua đó, hoàn thiện tri thức, rèn luyện kỹ năng như so sánh, phân tích, phán
đoán,liên hệ mở rộng, tạo “điểm tựa” cho hoạt động trí tuệ,phù hợp với con
đường nhận thức của HS phổ thông.
Sử dụng sơ đồ, bảng, biểu trong dạy học Ngữ văn có vai trò tích cực trong
việc giúp học sinh phát triển ý tưởng, tìm tòi lĩnh hội và xây dựng kiến thức
mới. Nếu sử dụng sơ đồ, bảng, biểu, trong một thời gian rất ngắn có thể khái quát
được một khối lượng kiến thức lớn, vừa làm rõ bài giảng, vừa xâu chuỗi kiến thức
và các mối liên hệ giữa chúng.
Sơ đồ, bảng, biểu sẽ tác động vào "kênh hình" và tạo ra sự hứng thú ở người
học. Nhờ đó, tiết học trở nên sôi động hơn. Sơ đồ, bảng, biểu giúp phát triển óc
quan sát, kích thích tư duy, sự hào hứng tìm tòi, đón nhận tri thức mới của HS.
Xuất phát từ thực tế giảng dạy ở Trường THPT Triệu Sơn 5 và qua nghiên cứu,
đúc rút, nghiền ngẫm, trăn trở tôi mạnh dạn chọn đề tài: “ Sử dụng sơ đồ, bảng
biểu vào dạy học truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
ở THPT”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn, đề tài nghiên cứu cách thức xây dựng và
sử dụng sơ đồ, bảng biểu vào dạy học các truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở
trường trung học phổ thông. Qua đó giúp giáo viên và học sinh có thể thực hiện
tốt nhiệm vụ giảng dạy và học tập. Mặt khác góp phần nâng cao chất lượng dạy
học văn ở trường trung học phổ thông nói chung, phần truyện ngắn Việt Nam sau
1975 nói riêng.

1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu việc xây dựng và sử dụng sơ đồ, bảng biểu vào quá
trình dạy học các truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở trường trung học phổ thông.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản
sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Phương pháp thống kê, phân tích
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm:
Tổ chức thực nghiệm dạy học và đối chứng trên một số đối tượng và địa bàn
khác nhau. Sau đó thống kê kết quả thực nghiệm, đối chứng kết quả thực nghiệm
giữa các lớp cùng trường, giữa các trường với nhau. Từ đó, đánh giá những thành
công và những điều cần tiếp tục hoàn thiện của các đề xuất.

2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận:
3


Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê (Nhà xuất bản Đà Nẵng - 2009), đưa ra khái
niệm về "sơ đồ" và "bảng biểu" như sau:
- Sơ đồ là những hình vẽ quy ước có tính chất sơ lược nhằm mô tả đặc trưng
nào đó của đối tượng hay quá trình nào đó
- Bảng biểu bao gồm bảng và biểu. Trong đó, bảng thường có cột và hàng
dùng để kê một nội dung nào đó theo thứ tự, cách thức nhất định; còn biểu là
bảng kê danh mục, số liệu để làm căn cứ đối chiếu.
Như vậy, theo cách hiểu trên thì sơ đồ, bảng, biểu sẽ bao gồm nhiều loại như
sơ đồ tư duy, bản đồ khái niệm, graph... Mỗi loại sẽ có những khái niệm, đặc
trưng riêng, tuy nhiên ở đây, chúng tôi sẽ tìm hiểu sơ đồ, bảng biểu nói chung
trong dạy học Ngữ văn chứ không phân biệt hay đi sâu vào một loại cụ thể nào.

2.2. Thực trạng dạy học văn ở nhà trường phổ thông và vấn đề đổi mới
phương pháp dạy học Ngữ văn.
Hiện nay, vấn đề dạy học Ngữ văn trong nhà trường phổ thông đang đứng
trước một thực trạng rất đáng lo ngại. Hoạt động dạy học đang trong sự khủng
hoảng cả nội dung, chất lượng và phương pháp. Nhiều giáo viên không còn hứng
thú với công tác giảng dạy. Ở các cấp học, tình trạng học sinh chán học môn Ngữ
văn đã trở nên phổ biến, đặc biệt là cấp trung học phổ thông.
Để khắc phục thực trạng trên, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn
đã được phổ biến, áp dụng ở hầu hết các trường học trong cả nước và đã có
những chuyển biến bước đầu khá tích cực. Qua học Ngữ văn học sinh được bồi
đắp năng lực giao tiếp đời sống, giao tiếp thẩm mĩ với khả năng biết rung động,
cảm xúc, biết yêu, ghét, biết hướng đến những tình cảm nhân văn, trong sáng của
con người. Kiểm tra đánh giá kết quả học tập Ngữ văn của học sinh cũng đã bước
đầu chuyển mình theo hướng này. Tuy vậy, truyền thống giảng văn với nhiều
thành tựu và cả quán tính của nó đã khiến cho quá trình đổi mới dạy học Ngữ văn
ở nhà trường phổ thông còn nhiều bất cập. Thêm nữa, đặc thù môn học vừa mang
tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật – nghệ thuật ngôn từ cũng tạo ra những
hấp dẫn và khó khăn riêng so với các bộ môn khác trong nhà trường phổ thông.
Điều này đặt ra vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, đề xuất các phương pháp, biện
pháp, phương tiện,… dạy học nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức và cảm thụ
văn chương của học sinh.
2.3. Thực trạng xây dựng và sử dụng sơ đồ, bảng biểu trong dạy học Ngữ văn
Chúng tôi tiến hành khảo sát thực trạng xây dựng và sử dụng sơ đồ, bảng biểu
trong dạy học truyện ngắn Việt nam bằng các biện pháp sau:
+ Thống kê số lượng sơ đồ, bảng, biểu trong một số cuốn sách như: sách giáo
viên, sách thiết kế bài giảng... phần văn học Việt Nam ở THPT.
Bảng 1.1. Thống kê số lượng sơ đồ, bảng, biểu trong sách giáo viên, sách
thiết kế bài giảng Ngữ văn lớp 12, tập 2, phần văn học Việt Nam sau 1975.
Tên sách
Số lượng sơ Tên sơ đồ, Tổng

4


đồ, bảng biểu bảng, biểu số tiết
0

Sách giáo viên (Phan Trọng Luận tổng
chủ biên)
Thiết kế bài giảng Ngữ văn 12, tập 2(Ban
0
cơ bản của Phan Trọng Luận).
0
Thiết kế bài giảng Ngữ văn 12, tập 2(Ban
0
cơ bản của Nguyễn Văn Đường)
Thiết kế bài giảng Ngữ văn 12, tập 2 (Ban
0
nâng cao của Trần Đình Chung )
+ Thống kê số lượng sơ đồ, bảng, biểu trong một số giáo án của giáo viên
trường THPT 5, thuộc huyện Triệu Sơn - Thanh Hóa khi dạy học truyện ngắn Việt
Nam sau 1975.
Bảng 1.2: Thống kê số lượng sơ đồ, bảng, biểu trong một số giáo án của
giáo viên khi dạy học truyện ngắn Việt Nam sau 1975.
Tên bài

Số lượng sơ đồ, bảng biểu
Vũ Thị Hoa Phạm Thị Hải Vũ Bích Nguyệt

Chiếc thuyền ngoài xa
2

0
1
(Nguyễn Minh Châu)
Một người Hà Nội
1
0
0
(Nguyễn Khải)
Nhận xét: Từ bảng thống kê, ta thấy trong số 3 GV được lựa chọn khảo sát giáo
án thì có 2 GV sử dụng sơ đồ, bảng biểu trong dạy học truyện ngắn sau 1975. Tuy
nhiên, số lượng sơ đồ được sử dụng rất ít. Thậm chí, truyện ngắn Một người Hà
Nôi (Nguyễn Khải) thì chỉ có 1 GV sử dụng với số lượng 1 sơ đồ. Kết quả này cho
thấy, sơ đồ, bảng, biểu vốn là những công cụ dạy học hữu ích trong dạy học Ngữ
văn lại ít được GV quan tâm và vận dụng. Đặc biệt, trong tình hình vấn đề đổi mới
phương pháp dạy học đang là vấn đề mang tính cấp thiết như hiện nay, việc GV
chưa thực sự chú ý đến vận dụng những phương tiện dạy học có khả năng mang
lại hiệu quả

2.3. Các giải pháp thực hiện.
2.3.1. Sơ đồ, bảng, biểu tóm tắt cốt truyện, tóm tắt tác phẩm.
5


Tác phẩm là sự sâu chuỗi các sự kiện, chi tiết, hành động liên tiếp tạo nên sự
vận động của hiện thực được nhà văn phản ánh. Để nắm nội dung và phân tích
được giá trị của tác phẩm thì trước tiên, độc giả cần phải tóm tắt cốt truyện, tóm
tắt tác phẩm. Đây được xem là hoạt động hết sức quan trọng trong dạy học truyện
ngắn, khi đã tóm tắt được cốt truyện, tác phẩm thì việc phân tích, cắt nghĩa tác
phẩm sẽ trở nên dễ dàng hơn.
Việc tóm tắt tác phẩm giúp HS nhớ được những nội dung cơ bản của bài học

theo một trình tự logic, khoa học. Đồng thời, hoạt động này cũng giúp HS tái tạo
lại thế giới trong tác phẩm một cách dễ dàng hơn. Việc tái tạo kiến thức này là cơ
sở để chuẩn bị cho HS tiếp nhận những tri thức mới. Để tóm tắt tác phẩm, chúng
ta có một số dạng sơ đồ tóm tắt như sau:
- Đọc và tóm tắt tác phẩm
- Đọc- GV hướng dẫn HS đọc một số đoạn, nêu các yêu cầu chung khi đọc truyện,
giải thích các từ khó cho HS
- Tóm tắt tác phẩm
- GV yêu cầu: Trên cơ sở hoàn thành phiếu học tập số 1, em tóm tắt tác phẩm
- GV lựa chọn một sơ đồ tiêu biểu mà học sinh đã hoàn thiện để cả lớp quan
sát. Sau đó gọi một HS dựa vào sơ đồ để tóm tắt tác phẩm.
- Dự kiến sơ đồ HS đã hoàn thành:
Yêu cầu của trưởng phòng: Chụp bức ảnh nghệ thuật cảnh biển có sương vào tháng 7.

Nghệ sĩ Phùng phát hiện ra một "cảnh đắt trời cho"

Quá trình nhận thức của nhân vật

Chuyến đi chụp ảnh cho bộ lịch năm sau

Nghệ sĩ Phùng chứng kiến bi kịch gia đình người đàn bà hàng chài: chồng đánh vợ, con đánh bố, bố đánh con

Tòa án triệu tập người đàn bà hàng chài về việc gia đình

Con thuyền bé nhỏ giữa sóng nước mênh mông đang chống chọi với giông bão

Tấm ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy
6



- HS tóm tắt: Theo yêu cầu của người trưởng phòng mong muốn có một cuốn
lịch năm mới 12 tháng về chuyên đề “thuyền – biển”mà phải là tĩnh vật hoàn toàn,
nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đã đến một vùng biển miền Trung cách Hà Nội 600 km
và phục ở vùng phá nước thơ mộng để chụp cảnh biển trong sương. Chuyến đi
này anh cũng nhân tiện về thăm lại chiến trường xưa và một người đồng hương,
đồng đội cũ đang công tác ở đó.
Người nghệ sĩ sau bao ngày kiên trì, lặn lội, kiếm tìm; cuối cùng anh cũng
chụp được một cảnh biển đẹp toàn bích. Cũng chính từ con thuyền tạo nên bức
tranh toàn bích đó, anh cũng được chứng kiến cảnh một gia đình hàng chài: người
chồng vũ phu đánh đập vợ tàn nhẫn, người vợ nhẫn nhục chịu đựng. Đứa con vì
muốn bảo vệ mẹ đã đánh lại cha mình. Những ngày sau cảnh tượng đó lại tiếp
diễn và lần này người nghệ sĩ đã ra tay can thiệp. Theo lời mời của chánh án Đẩu
(một người đồng đội cũ của Phùng) người đàn bà hàng chài đã đến toà án huyện.
Tại đây, người phụ nữ bị hành hạ vô lí “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận
nặng”ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và Phùng. Chị đã kể lại câu chuyện về
cuộc đời của mình và đó cũng là lý do giải thích cho hành động trên. Sự lý giải
sâu sắc của chị khiến người nghệ sĩ và người chánh án phải thay đổi lại suy nghĩ
và nhận thức của họ. Kết thúc câu chuyện là cảnh con thuyền bé nhỏ giữa phá
nước mênh mông đang chống chọi với giông bão. Rời vùng biển với khá nhiều
ảnh, người nghệ sĩ đã có được một tấm ảnh toàn bích được chọn vào bộ lịch “tĩnh
vật hoàn toàn” về “thuyền và biển” năm ấy. Bức ảnh biển mờ sương của người
nghệ sĩ được treo ở nhiều nơi, song lần nào nhìn anh cũng thấy người đàn bà vùng
biển nghèo khổ, lam lũ với tấm áo vá từ trong ảnh bước ra và hoà lẫn vào dòng
người đông đúc.
- GV yêu cầu HS nhận xét sơ đồ đã hoàn thành và phần tóm tắt của bạn.
- GV nhận xét và hệ thống lại những sự việc chính trong truyện.
2.3.2. Sơ đồ, bảng, biểu phát hiện, phân tích tình huống truyện.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu cho rằng: “Với truyện ngắn và với một tác giả có
kinh nghiệm viết, tôi nghĩ rằng đôi khi người ta nghĩ ra được một cái tình thế xảy
ra chuyện, thế là coi như xong một nửa... Những nhà văn có tài đều là những

người có tài tạo ra những tình thế xảy ra chuyện vừa rất cá biệt vừa mang tính
phổ biến hoặc tượng trưng...” và “ Những người cầm bút có cái biệt tài có thể
chọn ra trong cái dòng đời xuôi chảy một khoảnh khắc thời gian mà ở đó cuộc
sống đậm đặc nhất, chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất, một khoảnh khắc cuộc sống
nhưng bắt buộc con người ở vào một tình thế phải bộc lộ ra cái phần tâm can
nhất, cái phần ẩn náu sâu kín nhất, thậm chí có khi là khoảnh khắc chứa đựng cả
một đời người, một đời nhân loại”][Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn,
NXB KHXH, 1994, tr. 258]
Như vậy việc phát hiện và phân tích tình huống truyện giúp HS khám phá ý đồ
nghệ thuật của nhà văn cũng như toàn bộ chủ đề và giá trị nội dung của tác phẩm.
7


Cảm nhận của em:
nghịch lý. Cuộc sống luôn tồn tại những mặt đối lập, những mâu thuẫn: đẹp - xấu; thiện - ác...

Trong khi dạy tôi thường hướng dẫn HS sử dụng sơ đồ bảng, biểu để tìm hiểu và
phân tích tình huống truyện như sau:
2.3.2.1 Quá trình nhận thức của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng về cuộc đời
và con người qua hai phát hiện:
- GV chia lớp thành 2 nhóm:
- GV yêu cầu: Trên cơ sở hoàn thành phiếu học tập số 2, em hãy cho biết quá
trình nhận thức của người nghệ sĩ Phùng diễn ra cụ thể như thế nào?
(3) Phùng cảm thấy:
GV chia lớp thành hai nhóm lớn:
huyền ngoài xa : + Nhóm 1: tìm hiểu phát hiện thứ nhất của ngệ sĩ Phùng và cảm xúc của anh
(2) Chiếc thuyền khi vào bờ phá:
sau phát hiện thứ nhất.
đắt trời cho:
một người

đàn
+ Nhóm 2: tìm hiểu phát hiện thứ -2Hình
củaảnh
nhân
vật Phùng
và tâm trạng của anh
anh mực tàu
bà xấu xí, thô kệch, lam lũ.
nh họa thời cổ... sau phát hiện thứ 2.
- - Người đàn ông với tấm lưng
- HS trao đổi, thảo luận và hoàn
thành sơ đồ dựa vào những gợi ý có sẵn:
rộng... con mắt vẻ độc dữ...
- GV chọn ra 2 sơ đồ đại diện- Cảnh
cho bạo
2 nhóm.
yền in một nét mơ hồ lòe
hành gia đình: Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ...dùng chiếc thắ
ầu sương mù trắng như+ Dự kiến sơ đồ HS hoàn thành:
- Thằng Phác: "... vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngự trần vạm vỡ..." củ

đôi chút màu hồng do ánh
- Lão đàn ông "dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát" khiến Phác" lảo đảo ngã d
- Người đàn bà ôm chầm
lấy thằng
(4) Phùng
vỡ Phác
lẽ ra:"vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy"
iếu vào".
sauhòa

cáivà
vẻđẹp,
đẹp một
kỳ diệu
củathực
tạo hóa
lạivà
cótoàn
cái xấu,
cái ác không thể tin được
khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng- Đằng
đều hài
vẻ đẹp
đơnkia
giản
bích".
- Cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí

?

8


- GV: Khi chiếc thuyền ở ngoài xa, nghệ sĩ Phùng cảm thấy đó là "một cảnh đắt
trời cho". Vậy theo em "một cảnh đắt trời cho" được hiểu như thế nào? Tại sao
người nghệ sĩ ấy lại gọi ảnh tượng ấy như vậy?
- HS nhận xét và lí giải:
+ Phát hiện thứ nhất: Phùng đã phát hiện ra "một cảnh đắt trời cho". Có thể
hiểu, đó là một cảnh tượng tuyệt đẹp, một bức họa kỳ diệu mà thiên nhiên và cuộc
sống đã ban tặng cho con người. Sở dĩ, người nghệ sĩ gọi cảnh tượng ấy như vậy

là vì nó là một "sản phẩm" quý hiếm mà không phải lúc nào cũng "chộp" được.
- GV: Phùng cảm thấy như thế nào khi được chiêm ngưỡng "bức ảnh nghệ
thuật của tạo hóa"?
- HS: Đứng trước sản phẩm nghệ thuật đó, người nghệ sĩ đã trở nên "bối rối"
và "trong trái tim như có cái gì bóp chặt vào". Nghĩa là bức ảnh đã khiến tâm hồn
người nghệ sĩ rung động thật sự và một cảm xúc thẩm mĩ đang dấy lên trong anh.
Trong giây lát, người nghệ sĩ đã khám phá thấy cái "khoảnh khắc trong ngần của
tâm hồn". Nói cách khác, lúc này nghệ sĩ Phùng đã cảm nhận được cái Chân, cái
Thiện của cuộc đời, anh cảm thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên trong
trẻo, tinh khôi. Điều này có nghĩa là cái đẹp có tác dụng thanh lọc tâm hồn con
người. Chính vì thế mà trong lúc cảm nhận của bức tranh, anh đã nghĩ đến lời đúc
kết: "bản thân cái đẹp là đạo đức".
- GV: Tuy nhiên, ngay khi tâm hồn đang bay bổng trong những cảm xúc thẩm
mĩ tận hưởng cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn thì người nghệ sĩ nhiếp ảnh
đã kinh ngạc phát hiện ra điều gì ngay sau bức tranh?
HS: Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ là một người đàn bà có
ngoại hình thô kệch, xấu xí lam lũ; khuôn mặt mệt mỏi tái ngắt; một người đàn
ông dữ dằn bước xuống bãi xe tăng hỏng. Một cảnh tượng tàn nhẫn: người chồng
đánh đập người vợ một cách dã man; người vợ nhẫn nhục cam chịu. Đứa con vì
thương mẹ, muốn bảo vệ mẹ nên đã đánh lại bố để rồi nhận lấy hai cái bạt tai của
bố. Người mẹ ôm con khóc và vái con, rồi lại buông con đuổi theo người chồng
trở về chiếc thuyền, để lại sau lưng bãi cát mênh mông và hoang sơ.
Chứng kiến những cảnh tượng đó nghệ sĩ Phùng kinh ngạc đến sững sờ
“trong mấy phút đầu tôi đứng há mồm ra mà nhìn”. Người nghệ sỹ như chết lặng
không tin vào những gì đang diễn ra trước mắt. Anh vỡ lẽ, đằng sau cảnh đẹp mê
hồn của tạo hoá kia vừa làm anh ngây ngất lại chứa đựng cái ác, cái xấu đến
không thể tin được.
GV: Theo em, qua hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng, tác giả muốn nói lên
điều gì?
- HS: Qua hai phát hiện của người nghệ sĩ Phùng, nhà văn muốn gửi đến

người đọc một thông điệp: Cuộc sống tồn tại những nghịch lý, những mâu thuẫn
không thể biết trước, do đó khi đánh giá sự vật hiện tượng, không nên nhầm lẫn
hiện tượng với bản chất, giữa hình thức bên ngoài với nội dung bên trong bởi
9


chúng không phải lúc nào cũng thống nhất; đừng vội đánh giá con người, sự vật ở
dáng vẻ bề ngoài, phải phát hiện ra bản chất đằng sau vẻ đẹp của hiện tượng.
2.3.2.2 Quá trình nhận thức của Phùng khi gặp người đàn bà ở tòa án huyện.
- GV: Em hãy cho biết, tại sao người đàn bà lại xuất hiện ở tòa án huyện?
- HS lý giải: Người đàn bà xuất hiện ở tòa án huyện theo lời mời của chánh án
Đẩu - người có ý định khuyên bảo, thậm chí đề nghị người đàn bà nghèo khổ ấy từ
bỏ lão chồng vũ phu.
- GV dẫn dắt: Phùng đã gặp lại người đàn bà khi chị được chánh án Đẩu mời
đến tòa án huyện để giải quyết việc gia đình.Tại đây, câu chuyện về cuộc đời
người đàn bà đã giúp nghệ sĩ Phùng nhận thức ra nhiều điều. Dựa vào sơ đồ đã
hoàn thành trong phiếu học tập số 3, em hãy cho cô biết, chánh án Đẩu có thái độ
như thế nào trước sự việc của gia đình người đàn bà?
- Dự kiến sơ đồ HS hoàn thành:

10


(1): Lời khuyên, thái độ của Đẩu trước sự việc của gia đình
người đàn bà:
- Giận dữ, cương quyết khuyên người đàn bà bỏ chồng: "Tôi chưa
hỏi tội của hắn nhưng tôi muốn bảo ngay với chị: Chị không sống
nổi với cái lão đàn ông ấy đâu".

(3): Phản ứng, cảm giác của Phùng và

Đẩu:
- Đẩu: "Trong đầu vị Bao Công vùng
biển có cái gì mới vừa vỡ ra”,“lúc này
trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy
nghĩ".
- Phùng: cảm thấy "căn phòng trở nên
ngột ngạt quá"

(2): Sự phản ứng của người đàn bà trước lời khuyên:
- "Người đàn bà hướng về phía Đẩu, tự nhiên chắp tay
lại vái lia lịa: Con lạy quý tòa...Quý tòa bắt tội con cũng
được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó"

(3): Câu chuyện về cuộc đời người đàn bà:
- Từ nhỏ tuổi, tôi đã là đứa con gái xấu...không bao giờ đánh đập tôi.
- Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh... đưa tôi lên bờ
mà đánh.
...

(4): Phùng nhận ra điều gì?
Về người đàn bà:
- Là một người
phụ nữ nghèo
khổ, nhẫn nhục,
sống kín đáo, sâu
sắc, thấu hiểu lẽ
đời, có tâm hồn
đẹp đẽ, giàu đức
hi sinh và lòng vị
tha.


Về lão đàn
ông:
- Đáng trách
vì hành động
vũ phu, đọc
ác, ích kỷ
nhưng anh ta
cũng có chỗ
để cảm thông,
chia sẻ.

Về thằng Phác:
- Phác nhìn đời
bằng con mắt của
một đứa trẻ thơ
ngây nên chỉ thấy
được sự độc ác,
ích kỷ của bố mà
chưa hiểu rõ bản
chất của vấn đề.

Về Đẩu:
- Anh có
lòng tốt, sẵn
sàng bảo vệ
công

nhưng anh
chưa thực

sự đi sâu
vào
đời
sống
của
nhân dân

Về
căn
nguyên của
cái
xấu,
cái ác?
- Do hoàn
cảnh sống
khắc
nghiệt

Về
giải
pháp?
- Khi đánh
giá
con
người,
phải có cái
nhìn
đa
diện, nhiều
chiều.


Về cuộc đời và trách nhiệm của nghệ
sĩ:
- Về cuộc đời: Cuộc đời không đơn
giản, xuôi chiều như nhừng gì nhìn
thấy ở vẻ bề ngoài.
- Về trách nhiệm của người nghệ
sĩ:Đừng vì nghệ thuật mà quên đi
cuộc đời; người nghệ sĩ cần phải
nhìn nhận cuộc sống và con người
trong mối quan hệ đa dạng, nhiều
chiều

Về
chính
mình:
- Sẵn sàng
làm tất cả vì
sự
công
bằng nhưng
lại đơn giản
trong cách
nhìn nhận,
suy nghĩ.

11


- HS: Trước khi nghe câu chuyện của người đàn bà vùng biển, thái độ của

chánh án Đẩu rất cương quyết, đó là khuyên nhủ người đàn bà ly hôn chồng với
giọng điệu giận dữ: "Tôi chưa hỏi tội của hắn nhưng tôi muốn bảo ngay với chị:
Chị không sống nổi với cái lão đàn ông ấy đâu".
GV: Người đàn bà phản ứng như thế nào sau khi nghe lời khuyên của chánh án
Đẩu? Chị có làm theo đề nghị ấy không? Vì sao?
HS: Sau khi nghe lời khuyên của chánh án Đẩu: "Người đàn bà hướng về phía
Đẩu, tự nhiên chắp tay lại vái lia lịa: Con lạy quý tòa...Quý tòa bắt tội con cũng
được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó"
Người đàn bà đã từ chối sự giúp đỡ của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng. Chị
đau đớn đánh đổi bằng mọi giá để không phải bỏ lão chồng vũ phu. Và người đàn
bà đau khổ ấy đã kể câu chuyện về cuộc đời mình, qua đó gián tiếp đưa ra lý do vì
sao chị nhất định không bỏ chồng. Là bởi vì lão chồng vũ phu ấy là chỗ dựa duy
nhất trong suốt cả cuộc đời những người đàn bà như chị, nhất là khi biển động,
phong ba. Thứ hai, chị cần hắn vì chị còn phải nuôi những đứa con, chị không thể
sống cho riêng mình. Thứ ba, chị nghĩ đến những khoảnh khắc cả gia đình vui vẻ,
hạnh phúc bên nhau trên con thuyền mưu sinh của gia đình chị.
- GV: Vậy sau khi nghe câu nói của người đàn bà, Phùng và Đẩu có phản ứng,
cảm giác như thế nào?
- HS: Đối với Đẩu thì “trong đầu vị Bao Công vùng biển có cái gì mới vừa vỡ
ra”,“lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ.
Đối với Phùng, sau khi nghe những gì người phụ nữ vùng biển giãi bày, Phùng
cảm thấy "căn phòng trở nên ngột ngạt quá". Đặc biệt, sau khi nghe người đàn bà
kể về cuộc đời mình, anh im lặng, có lẽ anh đang trầm ngâm suy nghĩ những điều
vừa mới diễn ra. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài giúp anh hiểu hơn về các
nhân vật, về căn nguyên của cái xấu cái ác, về cuộc đời và trách nhiệm của người
nghệ sĩ và về chính bản thân mình.
- GV: Trên cơ sở hoàn thành phiếu học tập số 4 cùng những phân tích trên đây,
em hãy phát biểu ngắn gọn về toàn bộ quá trình nhận thức của nhân vật Phùng
trong truyện?
Dự kiến sơ đồ hoàn thành:


12


(1):Yêu cầu của trưởng phòng: Chụp bức ảnh nghệ thuật cảnh biển có
sương vào tháng 7(thông thường đã là mùa biển động, không thể có
sương)."Không có người". "Hoàn toàn tĩnh vật"

Ch
uyế
n đi
chụ
p
ảnh
cho
bộ
lịch

m
sau

(2): Thực tế cuộc sống mà Phùng cảm nhận qua chuyến công tác: Cuộc
sống rất phức tạp, gai góc và luôn chưa đựng những nghịch lý, những mâu
thuẫn: tốt - xấu, thiện - ác... chứ không đơn giản như những gì nhìn thấy ở vẻ
bề ngoài

- Mỗi lần ngắm kỹ bức ảnh đen
trắng "chiếc thuyền ngoài xa",
người nghệ sĩ đều thấy "hiện
lên màu hồng của ánh sương

mai". Và nếu nhìn lâu hơn, bao
giờ anh cũng thấy "người đàn
bà ấy đang bước ra khỏi tấm
ảnh..."cái màu hồng hồng của
ánh sương mai"là chất thơ của
cuộc sống, là vẻ đẹp lãng mạn
của cuộc đời, là biểu tượng của
nghệ thuật.

(3.1)
Hành
động và
cảm
nhận
của
Phùng
về bức
ảnh
CTNX
trong
tấm lịch

(3.2)
Suy
luận,
cảm
nhận
của em
về nhận
thức

của
Phùng

- Phùng đã nhận thức về cuộc đời
và con người từ trong bản chất
sâu xa của vấn đề.

- HS: Trên hành trình thực hiện yêu cầu của trưởng phòng: Chụp bức ảnh nghệ

thuật cảnh biển có sương vào tháng 7 "Không có người". "Hoàn toàn tĩnh vật",
người nghệ sĩ Phùng đã nhận thức được nhiều điều về cuộc đời và con người qua
thực tế cuộc sống mà anh được chứng kiến: Từ niềm hạnh phúc ngỡ ngàng khi
được chứng kiến cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh đến sự ngạc nhiên, bảng hoàng,
kinh ngạc và bất bình khi chứng kiến cảnh người đàn ông hàng chài hành hạ vợ
một cách tàn nhẫn, cuối cùng là sự thấu hiểu, cảm thông và chia sẻ cho những số
phận trong gia đình người đàn bà, Phùng nhận ra đằng sau cái vẻ đẹp toàn thiện,
toàn mĩ của thiên nhiên là sự khốn khổ của những người dân chài quanh năm lênh
đênh trên biển, là một hiện thực gai góc, xù xì với những nghịch lý, mâu thuẫn.
13

Qu
á
trìn
h
nhậ
n
thứ
c
của
nhâ

n
vật


- GV: Hiện thực cuộc sống vốn rất phức tạp, do đó, khi đánh giá về cuộc đời,
về con người phải gắn vào hoàn cảnh cụ thể và đi sâu vào cái bề sâu, bề xa của nó.
Người nghệ sĩ đừng vì nghệ thuật mà quên đi cuộc đời, bởi “nghệ thuật chân chính
luôn là cuộc đời và vì cuộc đời”. Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái
đẹp, hãy là một con người biết yêu ghét, vui buồn trước mọi lẽ đời thường tình,
biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con người. Người nghệ sĩ
không thể nhìn đời một cách đơn giản, cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người
trong mối quan hệ đa dạng, nhiều chiều thì mới phản ánh đúng về con người và
cuộc sống.
2.3.3. Sơ đồ, bảng, biểu khám phá nhân vật.
Nhân vật văn học là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo gắn liền với ý đồ tư tưởng
của nhà văn trong việc nêu lên những vấn đề của hiện thực cuộc sống. Như vậy,
nhân vật chính là phương tiện thể hiện nội dung, tư tưởng, chủ đề của tác phẩm,
đồng thời là nơi thể hiện quan niệm về con người, nhân sinh quan của nhà văn.
Để phân tích nhân vật, có nhiều dạng sơ đồ GV có thể hướng dẫn HS sử dụng như
sơ đồ thể hiện tính cách, sơ đồ thể hiện diễn biến tâm lý nhân vật, sơ đồ thể hiện
cuộc đời nhân vật...Ví dụ, để khái quát nhân vật, ta có dạng sơ đồ tổng quát như
sau: Với dạng sơ đồ tổng quát trên đây, giáo viên có thể sử dụng chung cho quá
trình phân tích nhân vật trong truyện ngắn. Từ sơ đồ, học sinh sẽ nắm được những
tri thức cơ bản về nhân vật. Tuy nhiên, tùy thuộc vào mỗi nhân vật khác nhau trong
từng tác phẩm mà các phương diện có sự nhấn lướt khác nhau. Không phải nhân
vật nào cũng được miêu tả đầy đủ ở các khía cạnh như sơ đồ trên. Trong dạy học
tác phẩm văn chương, giáo viên chỉ cần hướng dẫn HS khai thác những phương
diện quan trọng nhất, cơ bản nhất và thành công nhất của nhân vật. Những phương
diện được lựa chọn thể hiện trên sơ đồ không chỉ biểu hiện vẻ đẹp của chính nhân
vật. Điều quan trọng hơn là qua đó, HS thấy được chủ đề, tư tưởng của tác phẩm

cũng như ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Vì vậy GV phải hướng dẫn HS lựa chọn và
xây dựng sơ đồ phù hợp với từng nhân vật khác nhau trong từng tác phẩm hoặc
trong những tác phẩm khác nhau và phát hiện điều nhà văn muốn gửi gắm thông
qua nhân vật. Sơ đồ thể hiện nhân vật người đàn bà hàng chài khác với sơ đồ thể
hiện nhân vật Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh
Châu...Trong quá trình dạy học, để phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài, GV
hướng dẫn HS làm nổi bật những phương diện cơ bản được nêu trong tác phẩm,
bao gồm: giới thiệu về lai lịch và tình huống xuất hiện của nhân vật, ngoại hình, số
phận, tính cách nhân vật.Trong quá trình học sinh lựa chọn chi tiết để phân tích,
GV có thể gợi ý cho các em một số chi tiết gắn với mỗi nhân vật để các em lựa
chọn, Ví dụ như chú bé Phác với hình ảnh một tay "sờ lên mặt người mẹ" và một
tay cầm dao lam, hìnhảnh "cái cân"... lão đàn ông với hình ảnh "chiếc thắt lưng"
hoặc vẻ dáng bề ngoài khi mới bước xuống từ con thuyền...
2.3.3.1. Tìm hiểu nhân vật người đàn bà hàng chài.
14


- GV: Người đàn bà hàng chài là phương tiện quan trọng để nhà văn gửi gắm
quan niệm của mình về nghệ thuật và cuộc đời và hình tượng này được nhà văn thể
hiện cụ thể, sinh động qua nhiều chi tiết gắn với những hoàn cảnh khác nhau.
- GV: Hình ảnh người đàn bà hàng chài hiện lên qua những chi tiết nào? Em
hãy hoàn thành phiếu học tập số 5 và trình bày cảm nhận của em về nhân vật này.
- Dự kiến sơ đồ đã hoàn thành.

Ở bãi xe tăng hỏng
Ở tòa án huyện
1."Trạc ngoài bốn mươi…cao lớn với 4. "Ông trời sinh ra người đàn bà là để
những đường nét thô kệch…rỗ mặt. Khuôn đẻ con sống cho con chứ không chỉ sống cho
mặtmệt mỏi. tái ngắt”.“Tấm lưng áo bạc mình "
5. "Vui nhất là nhất là lúc ngồi nhìn đàn con

phếchrách rưới
tôi chúng”.
2. Bị chồng
đánh
Cảm
nhận của em về nhân vật người đàn bà hàng chài:6. "Quý tòa bắt tội

a.con
Nghèo đói, nhọc nhằn, vất vả, lam lũ. => 1,
nhưng không hề chống
cũng được, đừng bắt con
b. Cam chịu, nhẫn nhục => 2
trả, không được ăn no
.
chạy trốn nóbỏnó"
d.3.Một
mẹ thằng
có trách nhiệm, thương con, giàu đức hi sinh. => 3, 4, 5 7. "Là bởi vì các chú
Mếungười
máo gọi
e. Một
người
vợxệp
baoxuống
dung, vị tha, luôn biết chắt chiu và nâng niu hạnh phúc
đời thường.=>5,
6, 7
Phác...
Ngồi
khôngphải

là đàn bà...
f. Ôm
Mộtchầm
ngườilấy
thấu
lẽ đời => 7,8
nóhiểu
rồi lại
trên một chiếc thuyền
buông ra vái lấy vái để
không có đàn ông”
rồi lại ôm chầm lấy.
8. Lòng các chú tốt
nhưng các chú
đâu có phải
Trong bức ảnh CTNX :
người
làm
9. " Người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng
áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng
vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt
đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông"

- HS trình bày cảm nhận:
+ Người đàn bà hàng chài là hình ảnh tiêu biểu về những người đàn bà miền
biển luôn phải vật lộn với sóng gió cuộc đời để mưu sinh.
+ Chị tự nguyện lấy một anh hàng chài nghèo khó và cảnh sống vất vả lam
lũ là chị đã chấp nhận tất cả, dám vượt lên số phận để được sống với niềm mơ ước
giản dị đời thường. Tuy nhiên hạnh phúc của gia đình chị vẫn rất mong manh, bởi
cuộc sống mở ra nhiều éo le khắc nghiệt và con người không thể dửng dưng khi

15


cuộc sống của cả gia đình luôn bị cái đói đe doạ. Điều đó đã khiến chồng chị- một
anh hàng chài “cục tính, nhưng hiền lành lắm” đã trở nên thay đổi. Người chồng vì
cuộc sống lam lũ mà vẫn nghèo túng nên bất lực và uất ức mà không thể giãi bày
cùng ai. Anh chỉ biết dồn lên đầu vợ những trận đòn tàn nhẫn và người vợ chỉ biết
nhẫn nhục chịu đựng
+ Là người mẹ yêu thương con vô bờ bến, chị ý thức được thiên chức của
mình và của những người đàn bà sinh ra trên cõi đời này là để cho, để che chở.
Bổn phận trách nhiệm của người làm mẹ là đẻ con phải nuôi con khôn lớn, phải
sống vì con. Chị tự nguyện chấp nhận nỗi đau thể xác và tinh thần để giải toả nỗi
uất hận của chồng, để đàn con có miếng cơm ăn, để có một gia đình hoà thuận vui
vẻ. Khi các con lớn để tránh cho con bị tổn thương về tâm hồn khi chứng kiến cảnh
bạo lực trong gia đình, chị đã xin chồng lên bờ đánh. Người mẹ muốn tránh cho
con những ấn tượng xấu, muốn gìn giữ cho con một hình ảnh tốt đẹp về cha mẹ, về
tổ ấm gia đình.
+ Chị là một người đàn bà nghèo khổ thất học, nhưng hiểu thấu lẽ đời. Chị là
biểu tượng của tấm lòng hy sinh vừa cao cả độ lượng, vừa nhân ái vị tha; họ sống
không phải cho mình mà cho những người họ yêu thương che chở. Chị sẵn sàng
quên đi bản thân để thực hiện trọn vẹn thiên chức làm mẹ làm vợ. Tuy vậy ước mơ,
quan niệm hạnh phúc giản dị đơn sơ của chị thật khó thực hiện. Điều đó cho ta
thấy hành trình kiếm tìm hạnh phúc thật nhọc nhằn; để có nó nhiều khi con người
phải chịu những hy sinh mất mát.
- GV: Ẩn sau dáng vẻ xấu xí, thô kệch của người đàn bà là một tâm hồn đẹp
đẽ, thấp thoáng óng dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung,
giàu đức hi sinh và lòng vị tha. Xây dựng hình tượng nhân vật người đàn bà hàng
chài, Nguyễn Minh Châu muốn gửi tới người đọc:
+ Quan niệm về hạnh phúc đời thường.
+ Mong muốn mọi người và xã hội quan tâm đến số phận của từng cá nhân;

nhất là những số phận hẩm hiu, bất hạnh vì cuộc sống mưu sinh phải sống tách biệt
đời sống cộng đồng.
2.3.3.2. Tìm hiểu các nhân vật Phùng, Đẩu, lão đàn ông, Phác:
- GV: Hình tượng nhân vật Phùng, Đẩu, lão đàn ông và Phác được tác giả
xây dựng qua những chi tiết rất chân thực.
- GV chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm tìm hiểu một nhân vật.
- GV hỏi: Nếu được chọn một chi tiết tiêu biểu nhất để "vẽ" các nhân vật
trên thì em sẽ chọn chi tiết nào? Vì sao?
- HS nhận nhiệm vụ và tham gia trao đổi theo nhóm nhỏ, mỗi nhóm 2 HS.
Sau khi bàn bạc, trao đổi và thống nhất, các em hoàn thành sơ đồ và trình bày suy
nghĩ của mình trước lớp về các nhân vật.
- Dự kiến sơ đồ HS đã hoàn thành:
16


Nhân vật Phùng: Khi Phùng hỏi người
đàn bà"Cả đời chị có một lúc nào vui
không?"
- Câu hỏi của Phùng lúc này không còn
là một sự cảm thông mà mang đầy tình
cảm yêu thương, xót xa cho một kiếp
người, chẳng biết có bao giờ hạnh phúc.
Nghĩa là lúc này, anh đã hiểu được
người đàn bà đó không
hề ngu xuẩn, nông nổi
như anh từng nghĩ.
Chọn một chi
tiết ấn tượng
nhất về nhân
vật? Vì sao em

chọn chi tiết
đó? Ghi vắn tắt
câu trả lời vào
sơ đồ.

Nhân vật Đẩu: "Đẩu đi đi lại lại trong
phòng...Một cái gì vừa mới vỡ ra trong đầu
vị Bao công của cái phố huyện vùng biển, lúc
này trông Đẩu rất nhiêm nghị và đầy suy
nghĩ ".
- Chi tiết này đã cho ta thấy Đẩu đã hiểu ra
bản chất sâu xa của vấn đề, rằng tại sao người
đàn bà kia vẫn chấp nhận sống với lão chồng
vũ phu. Đẩu suy nghĩ thấu đáo hơn,
sâu xa hơn chứ không
phải sự hời hợt của vẻ
bề ngoài của một người
đại diện cho luật pháp.
Có lẽ, anh đã nhận ra
biện Pháp của mình là
không ổn
Nhân vật Phác:
"Lặng lẽ đưa mấy ngón
tay sờ lên mặt người mẹ ".
- Chi tiết này thể hiện tình yêu thương, tình
mẫu tử của một đứa trẻ, đồng thời là sự đau
xót của một tâm hồn trẻ thơ khi nhìn những
giọt nước mắt đang lăn dài trên khuôn mặt
người mẹ. Đồng thời, chúng ta cũng cảm
nhận được ước mong được che chở, được bảo

vệ cho mẹ trong chính ngôi nhà luôn xảy ra
những trận đòn roi của bố trút lên cơ thể cũng
như tâm hồn mẹ.

Nhân vật lão đàn ông
Lão đàn ông rút ra một
chiếc thắt lưng của lính
ngụy ngày xưa và quật
tới tấp vào lưng người đàn bà, hai hàm
răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất
xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng
rền rỉ, đau đớn: "mày chết đi cho ông
nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông
nhờ".
- Hành động của lão đàn ông thể hiện sự
bí bách đang cần được giải thoát. Lão ý
thức được việc lão đánh vợ, nhưng cái
nghèo đói, túng quẫn khiến lão khổ
quá...Lão đánh vợ là lão sai nhưng lão
cũng cần được thông cảm.
- GV nhận xét phần trình bày của HS và bổ sung (nếu cần).
- GV hướng dẫn HS phân tích cụ thể hơn về lão đàn ông để làm nổi bật lên ý đồ
nghệ thuật của nhà văn bằng cách yêu cầu HS hoàn thành phiếu học tập số 7.
- GV hỏi: Phùng, Đẩu, Phác và người đàn bà đã nhìn nhận như thế nào về nhân
vật lão đàn ông? Họ đã đứng trên lập trường nào đề đánh giá về nhân vật? Theo cái
nhìn đó, lão đàn ông hiện lên ra sao?
- HS lý giải bằng cách dựa vào sơ đồ đã hoàn thành ở phiếu học tập số 7

17



Trong cái nhìn của nhân vật Phùng
- Phùng nhìn người đàn ông trên quan điểm "lý lịch thành
phần".
- Câu hỏi của Phùng đã lộ ra cái cách nghĩ cũa: Chỉ có hai
loại người là địch và ta. Và chỉ có địch mới xấu.

Trong cái nhìn của thằng bé Phác: nh
mắt trẻ thơ thơ ngây.
- Đối với Phác, Lão đàn ông là một ngườ
ác và Phác căm ghét lão.

LÃO ĐÀN ÔNG
- "Lão ta hồi trước bảy nhăm có đi lính ngụy không?"
- "Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không một
người chồng nào như hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: Chị không
sống nổi với lão đàn ông vũ phu ấy đâu."

- Đẩu nhìn lão đàn ông
trên quan điểm của
luật pháp

- "Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm,
không bao giờ đánh đập tôi. (...). Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách
tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu... Giá mà lão uống
rượu thì tôi còn đỡ khổ..."

- Nhìn bằng
mắt



thương xót
thấu hiểu
- Trong cái n

- " Thằng bé tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền rằng nó còn có
mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh".

người đàn bà
- Trong cái nhìn của Đẩu

18


- HS: Đó là những cách nhìn khác nhau về cùng một hiện tượng. Đẩu, Phùng và
thằng bé Phác mới chỉ thấy được một khía cạnh ở người đàn ông hàng chài này, đó
là sự độc ác, tàn nhẫn, ích kỷ. Thái độ của học đối với anh ta là kịch liệt phản đối,
phải lên án, đấu tranh. Trong khi đó, người đàn bà hàng chài nhìn nhận người
chồng của mình toàn diện hơn, sâu sắc hơn. Chị đau đớn, nhưng không oán hận vì
chị hiểu nguyên nhân sâu xa của những hành động vũ phu ấy.
- GV: Em có cảm nhận như thế nào về lão đàn ông hàng chài?
- HS: Người đàn ông này vừa đáng bị lên án bở sự độc ác, thói vũ phu, tính ích
kỷ, tự cho phép mình cái qyền được hành hạ người khác để thỏa mãn những bực
dọc trong lòng. Nhưng ở anh ta cũng có chỗ để được cảm thông, chia sẻ bởi xét
đến cùng, anh ta cũng là một nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt. Rõ ràng,
không thể nhìn đời và nhìn người từ một phía. Phải tìm hiểu những nguyên nhân
sâu xa dẫn đến hành vi của con người trước khi kết luận hay phán xét họ. Tóm lại
là phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều.
2.4. Đánh giá hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Chúng tôi đánh giá dựa trên những căn cứ về kết quả của giờ dạy thực

nghiệm sử dụng sơ đồ, bảng biểu: Giáo viên hoàn thành bài giảng đúng giờ, đúng
giáo án, học sinh hiểu bài, hăng hái tham gia xây dựng bài. Đặc biệt, chúng tôi chú
ý đến hiệu quả của giáo án thực nghiệm thông qua các câu hỏi kiểm tra thực
nghiệm. Sau khi kiểm tra, chúng tôi tiến hành thống kê, đối chiếu kết quả thực
nghiệm của các lớp với nhau.
Thống kê kết quả thực nghiệm.
Kết quả
Giỏi
Khá
T.bình
Yếu

BẢNG THỐNG KÊ KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
Thực nghiệm
Đối chứng
12B1 (40)
12B3 (40)
12B2 (41)
12B4 (40)
5 (12,5%)
6 (15%)
3 (7,3%)
2 (5%)
21 (52,5%)
19 (47,5%)
14(34,2%)
15 (37,5%)
12 (30%)
14 (35%)
20 (48,7%)

18 (45%)
2 (5%)
1 (2,5%)
4 (9,8%)
5(12,5%)

BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
Kết quả
Thực nghiệm (80)
Đối chứng (81)
Giỏi
11 (13,7%)
5 (6,2%)
Khá
40 (50%)
29 (35,7%)
T.bình
26 (32,5%)
38 (47%)
Yếu
3 (3,8%)
9 (11,1%)
Kết quả thực nghiệm
19


Do thời gian thực nghiệm còn hạn chế nên chúng tôi mới chỉ tiến hành thực
nghiệm đề tài tại 2 lớp ở trường THPT Triệu Sơn 5. Mặc dù kết quả thực nghiệm
này chưa phải là cơ sở để khẳng định sự thành công của đề tài nhưng bước đầu đã
cho thấy việc sử dụng sơ đồ, bảng biểu mang lại nhiều lợi thế trong việc đổi mới

phương pháp dạy học và nâng vao chất lượng dạy học Ngữ văn ở trường phổ
thông.
Từ kết quả thống kê, chúng tôi rút ra kết luận sau:
- Kết quả lớp thực nghiệm cao hơn lớp đối chứng. Điều này dựa vào kết quả
kiểm tra phiếu thực nghiệm: Sau khi kiểm tra, số học sinh có điểm khá giỏi tăng
lên, số học sinh có điểm trung bình, yếu có xu hướng giảm so với lớp đối chứng.
Trong giờ học, các em tích cực tham gia xây dựng bài, các em hứng thú hơn khi
được giao nhiệm vụ hoàn thiện sơ đồ, bảng biểu và tự mình hình thành những sơ
đồ, bảng biêu tương ứng với nội dung kiến thức trong bài học. Tính sáng tạo của
các em được phát huy tối đa. Kiến thức được học sinh nắm bắt nhanh, hiểu kỹ và
ghi nhớ lâu dài.
Từ kết quả thực nghiệm trên đây, chúng tôi khẳng định việc sử dụng sơ đồ,
bảng biểu trong dạy học truyện ngắn nói chung, dạy học truyện ngắn “Chiếc
thuyền ngoài xa” ở trường phổ thông là vô cùng cần thiết. Đây là một phương pháp
dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và hướng tới phát triển năng lực
người học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn ở trường THPT.

3. KẾT LUẬN
3.1. Việc đưa những tác phẩm thuộc giai đoạn văn học Việt Nam sau 1975 vào
giảng dạy trong chương trình Ngữ văn THPT thể hiện sự đổi mới của chương trình
và SGK hiện nay. Sự thay đổi về nội dung chương trình đòi hỏi phương pháp dạy
học cũng cần có sự thay đổi. Do đó, việc tìm ra những phương pháp, biện pháp dạy
học phù hợp để giúp học sinh lĩnh hội, tiếp nhận tác phẩm một cách hiệu quả nhất
luôn được các thầy cô quan tâm.
3.2. Việc nghiên cứu đề tài đã cho chúng tôi thấy, sử dụng sơ đồ, bảng biểu trong
dạy học truyện ngắn Việt Nam ở nhà trường phổ thông là một phương pháp dạy
học hiện đại hướng vào tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, tập trung phát
triển năng lực người học. Hiệu quả dạy học từ việc sử dụng sơ đồ, bảng biểu đã có
nhiều chuyển biến tích cực so với phương pháp dạy học truyền thống. Dưới sự
định hướng của giáo viên, học sinh tham gia vào quá trình học tập một cách chủ

động, tích cực, phát huy năng lực tư duy sáng tạo người học.
Mặc dù có nhiều ưu thế trong quá trình dạy học nhưng chúng tôi muốn nhấn mạnh
rằng, sử dụng sơ đồ bẳng biểu trong dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông nói
chung, trong dạy học truyện ngắn nói riêng không phải là một phương pháp vạn
năng và được sử dụng như một phương pháp độc quyền trong dạy học. Những
20


phương tiện trực quan này cần phải được kết hợp linh hoạt với nhiều phương pháp
khác nhau, có như vậy, người giáo viên mới khai thác được ưu thế của nó một cách
tối đa. Ngoài ra, sơ đồ, bảng biểu cần được sử dụng phù hợp với nội dung dạy học,
không nên quá lạm dụng những công cụ này để không làm mất đi tính nghệ thuật,
thẩm mĩ của tác phẩm văn chương.
3.3. Sau khi nghiên cứu đề tài, chúng tôi cũng đưa ra một số đề xuất sau:
- Cần định hướng sử dụng sơ đồ, bảng biểu vào dạy học truyện ngắn Việt
Nam cũng như trong dạy học tác phẩm văn chương một cách thường xuyên hơn ở
tất cả các khâu của quá trình dạy học.
- Để sơ đồ, bảng biểu mang lại hiệu quả tối đa trong quá trình dạy học, giáo
viên cần phải có sự chuẩn bị kĩ lưỡng, chu đáo và hiểu rõ nội dung kiến thức có thể
áp dụng dạy học bằng sơ đồ, bảng biểu, không áp dụng một cách máy móc làm hạn
chế khả năng sáng tạo của người học. Giáo viên cần tạo mọi điều kiện để học sinh
phát huy tối đa tính tích cực, chủ động cũng như năng lực sáng tạo cá nhân.
- Giáo viên cần kết hợp linh hoạt giữa việc sử dụng sơ đồ, bảng biểu với các
phương tiện, biện pháp, phương pháp dạy học khác. Không nên quá đề cao bất kỳ
một phương pháp, biện pháp nào, tuy nhiên trong giờ học, giáo viên cần phải xác
định được đâu là phương pháp, biện pháp chính.
Trên đây là những kết luận và những đề xuất của chúng tôi sau khi tiến hành
nghiên cứu đề tài. Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng đề tài này có thể mở ra một
hướng đi mới nhằm hiện thực hóa mục tiêu đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn
ở nhà trường phổ thông hiện nay.

XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Thanh Hóa ngày 16 tháng 5 năm 2016
Tôi xin cam đoan, đây là SKKN của mìh
viết, không sao chép nội dung của người
khác.

Ngô Quang Trung

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bạch Thị Lan Anh (2013), Giới thiệu phương pháp dạy học theo sơ đồ,
.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Ngữ văn 12, tập 2, Nhà xuất bản Giáo dục
Việt Nam.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Ngữ văn 12 (Sách giáo viên), Nhà xuất bản
Giáo dục Việt Nam.
4. Nguyễn Minh Châu (1994), Trang giấy trước đèn, NXB Khoa học xã hội.
5. SKKN của các Giáo viên được xếp loại cấp Tỉnh của thầy cô trong tổ Ngữ
Văn – Trường THPT Triệu Sơn 5.

22


MỤC LỤC
TT
1
1.1

1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2
2.3
2.3.1
2.3.2
2.3.3
2.4
3

Nội dung
Mở đầu
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung
Cơ sở lý luận
Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Các giải pháp
Sơ đồ bảng biểu tóm tắt cốt truyện, tác phẩm
Sơ đồ, bảng biểu phát hiện phân tích tình huống truyện
Sơ đồ, bảng biểu khám phá nhân vật
Hiệu quả của SKKN
Kết luận và kiến nghị
Danh mục tài liệu tham khảo


Trang
1
2
2
2
2
3
3
3-4
5
5-12
12-15
15-18
18-19
20
21

23



×