Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Vận dụng kĩ thuật đặt câu hỏi, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề vào việc tìm hiểu đề, lập dàn ý bài văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.61 KB, 21 trang )

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước ta hiện nay, đổi mới giáo
dục là một trong những mục tiêu trọng tâm. Vấn đề quan trọng của đổi mới
chính là phương pháp dạy và học. Việc dạy học không chỉ dừng lại ở việc truyền
thụ kiến thức mà quan trọng hơn là dạy cho học sinh phương pháp tự học, tự
chiếm lĩnh kiến thức. Đối với môn Ngữ văn nói chung và dạng văn nghị luận xã
hội nói riêng, giáo viên đã vận dụng linh hoạt khá nhiều phương pháp và kĩ thuật
dạy học tích cực như: phương pháp tích hợp, phương pháp nêu và giải quyết vấn
đề, phương pháp thảo luận nhóm, kĩ thuật hợp tác, kĩ thuật đặt câu hỏi… để học
sinh hứng thú, say mê môn học.
Kiểu văn bản nghị luận xã hội chiếm vị trí quan trọng chương trình sách
giáo khoa THPT hiện hành và chiếm 3/10 điểm thi THPT quốc gia. Bên cạnh đó,
văn nghị luận xã hội có vai trò vô cùng quan trọng trong phát triển nhận thức,
hiểu biết, góp phần hình thành nhân cách cho học sinh. Do vậy việc rèn kĩ năng
làm bài văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 nói riêng và học sinh THPT nói
chung là một việc làm thiết thực. Tuy nhiên, thực tế dạy học cho thấy học sinh
thường rất lúng túng với kiểu bài nghị luận xã hội. Có nhiều nguyên nhân của
tình trạng trên, trong đó chủ yếu do các em không biết cách tìm hiểu đề, lập dàn
ý trước khi viết bài. Là một giáo viên Ngữ văn đang dạy ở THPT, tôi đã cố gắng
tìm tòi và thử nghiệm những phương pháp dạy học phù hợp với môn học và đối
tượng học sinh của mình. Trong quá trình đó tôi nhận thấy phương pháp nêu và
giải quyết vấn đề và kĩ thuật đặt câu hỏi rất phù hợp với việc dạy học làm văn
nghị luận xã hội. Phương pháp và kĩ thuật dạy học này đã đáp ứng được yêu cầu
của việc đổi mới phương pháp dạy học làm văn, phát huy được tính chủ động,
tích cực, kích thích tư duy, phát triển năng lực giải quyết vấn đề của học sinh.
Với mong muốn góp phần phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
chủ thể học sinh trong học văn nghị luận xã hội, nâng cao chất lượng viết các bài
văn nghị luận xã hội của học sinh lớp 12, tôi lựa chọn đề tài: “Vận dụng kĩ
thuật đặt câu hỏi, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề vào việc tìm hiểu đề,
lập dàn ý bài văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12”.


1.2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm đề xuất được các biện pháp hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề, lập
dàn ý bài văn nghị luận xã hội một cách hiệu quả hơn, góp phần nâng cao năng
lực tạo lập các dạng bài văn nghị luận xã hội của học sinh lớp 12.
1.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nói trên, tôi sẽ lấy việc tìm hiểu đề, lập dàn ý cho
2 kiểu bài nghị luận xã hội trong chương trình Ngữ văn lớp 12 làm đối tượng
nghiên cứu.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
1


Do thời gian và khuôn khổ của một sáng kiến kinh nghiệm, đề tài chỉ giới
hạn trong dạy học làm văn nghị luận xã hội ở lớp 12.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết đề tài này, chúng tôi đã vận dụng tổng hợp các phương pháp
sau:
Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: phân tích lí thuyết (phương pháp nêu và
giải quyết vấn đề, kĩ thuật đặt câu hỏi, dạy học văn nghị luận xã hội)
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: khảo sát, thống kê, so sánh.

PHẦN 2: NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2


2.1. Cơ sở lí luận của đề tài
2.1.1. Khái niệm dạy học nêu vấn đề
Thuật ngữ “dạy học nêu vấn đề” xuất phát từ thuật ngữ “Orixtic” hay còn
gọi là phương pháp phát kiến hay tìm tòi.

Theo V. Ôkôn: “Dạy học nêu vấn đề là tập hợp những hoạt động như tổ
chức các tình huống có vấn đề, phát biểu vấn đề, giúp đỡ cần thiết cho học sinh
trong việc giải quyết vấn đề, kiểm tra phép giải đó và cuối cùng điều khiển quá
trình hệ thống hóa, củng cố kiến thức tiếp thu được”.
V. Ôkôn cho rằng: “Nét bản chất nhất của dạy học nêu vấn đề không phải
là sự đặt ra những câu hỏi mà là tạo ra những tình huống có vấn đề”.
T.V. Kudriaxep cũng phát biểu ý tương tự: “Khái niệm về tình huống có
vấn đề và các biện pháp giải quyết nó tạo nên cơ sở của dạy học nêu vấn đề”.
Như vậy, hạt nhân của phương pháp dạy học nêu vấn đề là tạo ra các tình
huống có vấn đề.
Khái niệm tình huống có vấn đề
Hiện nay chưa có một định nghĩa hoàn toàn thống nhất, sau đay là một số
định nghĩa đáng chú ý:
Theo M.I Mackmutov: Tình huống có vấn đề là trở ngại về trí tuệ của
con người xuất hiện khi người đó chưa biết cách giải quyết hiện tượng, sự kiện,
quá trình của thực tế, khi chưa thể đạt tới mục đích bằng cách thức hành động
quen thuộc. Tình huống này kích thích con người tìm tòi cách giải thích hay
hành động mới. Tình huống có vấn đề là quy luật của hoạt động nhận thức sáng
tạo có hiệu quả. Nó qui định sự khởi đầu của tư duy, hành động tư duy tích cực
sẽ diễn ra trong quá trình nêu ra và giải quyết các vấn đề.
Một tác giả khác lại viết: Tình huống có vấn đề là trạng thái tâm lí độc
đáo của người gặp chướng ngại nhận thức, xuất hiện mâu thuẫn nội tâm, có nhu
cầu giải quyết mâu thuẫn đó, không phải bằng tái hiện hay bắt chước mà, bằng
tìm tòi, sáng tạo tích cực đầy hưng phấn, và khi tới đích thì lĩnh hội được kiến
thức, phương pháp giành kiến thức và cả niềm vui sướng của phát hiện.
Như vậy, có thể coi tình huống có vấn đề trong dạy học là trạng thái tâm lí
đặc biệt của học sinh khi gặp mâu thuẫn khách quan của bài toán nhận thức giữa
cái đã biết và cái phải tìm, tự họ chấp nhận và có nhu cầu, có khả năng giải
quyết mâu thuẫn đó bằng tìm tòi tích cực, sáng tạo, kết quả là học sinh nắm
được cả kiến thức và phương pháp giành kiến thức.

Một tình huống được coi là có vấn đề khi thỏa mãn ba điều kiện sau:
- Tồn tại một vấn đề.
- Gợi nhu cầu nhận thức.
- Gợi niềm tin vào khả năng của bản thân.
Đối với quá trình dạy học làm văn nghị luận xã hội, việc học sinh lập ý cho
đề văn là một quá trình suy nghĩ trong một tình huống có vấn đề nhằm tìm ra
được hệ thống ý phù hợp với đề bài.
2.1.2. Kĩ thuật đặt câu hỏi
3


a). Câu hỏi và câu hỏi có vấn đề
Câu hỏi là một dạng cấu trúc ngôn ngữ để diễn đạt một yêu cầu, một đòi
hỏi, một mệnh lệnh mà người học cần giải quyết.
Câu hỏi có vấn đề (tình huống học tập) là những câu hỏi chứa đựng tình
huống nảy sinh trong quá trình học tập, tình huống đó chứa đựng một mâu thuẫn
buộc học sinh phải suy nghĩ, tìm tòi phương hướng giải quyết. Do được hình
thành từ một khó khăn trong lí luận hay thực tiễn nên muốn giải quyết chúng
người học phải có một sự nỗ lực, một cuộc vân động trí tuệ thực sự.
Đặc trưng của câu hỏi có vấn đề
Câu hỏi luôn chứa đựng một cái gì chưa biết khiến người học phải băn
khoăn, trăn trở, tìm hướng khắc phục khoảng trống của sự thiếu hiểu biết. Đồng
thời chứa đựng một cái gì đã biết làm cơ sở khắc phục những nghịch lí, thắc
mắc, băn khoăn. Giữa cái chưa biết và cái đã biết có quan hệ chặt chẽ với nhau cái đã biết là tiền đề để tìm ra cái chưa biết, cái chưa biết là cái đích cần đạt đến
của điểm xuất phát là những dữ liệu đã cho.
Đối với những câu hỏi có vấn đề (tình huống học tập) còn phải bao hàm
trong bản thân nó một yếu tố tâm lí nào đó thể hiện ở tính rõ ràng, mới lạ của sự
kiện, ở tính bất thường của bài tập nhận thức (I.F Khaz la môp)
b). Kĩ thuật đặt câu hỏi trong dạy học
Kĩ thuật đặt câu hỏi là một trong số những kĩ thuật dạy học tích cực để kiến

tạo nên chủ thể học tập tích cực và sáng tạo. Nội dung của kĩ thuật này là: giáo
viên chuẩn bị hệ thống các câu hỏi để học sinh suy nghĩ phát hiện kiến thức,
phát triển nội dung bài học. Trong quá trình đàm thoại, giáo viên là người tổ
chức, học sinh chủ động tìm tòi, sáng tạo, phát hiện kiến thức mới. Kết quả học
sinh vừa lĩnh hội được kiến thức mới đồng thời biết được cách thức đi đến kiến
thức đó, trưởng thành thêm một bước về trình độ tư duy.
Việc vận dụng kỹ thuật đặt câu hỏi vào giờ dạy làm văn nghị luận xã hội
trong việc tìm hiểu đề sẽ phát huy được vai trò chủ thể tích cực của học sinh, tạo
ra bầu không khí cởi mở, dân chủ giữa giáo viên - học sinh, học sinh - học sinh.
giáo viên nên hạn chế sử dụng “câu hỏi đóng” (dạng câu hỏi chỉ có một câu trả
lời duy nhất đúng/sai hoặc có/không). Trái lại, cần đặt các “câu hỏi mở” (dạng
câu hỏi có nhiều cách trả lời).
2.1.3. Tầm quan trọng của việc tìm hiểu đề, lập dàn ý cho bài văn nghị
luận xã hội
Có thể nói, tìm hiểu đề là khâu đầu tiên cần thực hiện khi làm bài văn nghị
luận xã hội. Việc tìm hiểu đề đúng sẽ giúp học sinh xác định đúng yêu cầu của
đề bài về nội dung cần nghị luận và về phạm vi dẫn chứng, thao tác lập luận.
Ngược lại, nếu không xác định đúng yêu cầu của đề bài, người viết sẽ làm cho
bài viết lạc đề. Đối với các dạng đề bài của văn nghị luận xã hội, việc tìm hiểu
đề càng trở nên cần thiết. Bởi vì, theo xu hướng đổi mới cách ra đề hiện nay,
nhiều đề văn nghị luận xã hội dưới dạng một câu chuyện, một câu danh ngôn,
một bản tin... rất khó để học sinh hiểu được yêu cầu của đề. Tình trạng lạc đề đã
4


trở thành mối lo ngại ở các em trước những đề văn nghị luận xã hội theo hướng
mở.
Sau bước tìm hiểu đề, lập dàn ý giúp học sinh có thể xác định được trình
tự trình bày các luận điểm trong bài viết một cách mạch lạc, khoa học, tránh sót
ý. Việc không có thói quen lập dàn ý khiến nhiều học sinh mắc các lỗi như: thừa

ý, lặp ý, sót ý hoặc diễn đạt lan man, lủng củng...
2.2. Thực trạng vấn đề:
2.2.1. Thực trạng dạy học làm văn nghị luận xã hội của giáo viên Ngữ
văn ở trường THPT Quảng Xương 2
Trước yêu cầu đổi mới về phương pháp dạy học nói chung và dạy học Ngữ
văn nói riêng, giáo viên trường THPT Quảng Xương 2 đã đầu tư thời gian công
sức để tìm ra những cách thức, những phương pháp tổ chức dạy học văn nghị
luận xã hội mới phù hợp với đối tượng học sinh của mình và mang lại hiệu quả
tích cực cho hoạt động dạy học. Nhiều giáo viên đã nhận thức được vai trò của
văn nghị luận xã hội trong việc góp phần rèn luyện nhân cách cho học sinh, rèn
các kĩ năng sống và kĩ năng giải quyết các vấn đề xã hội xung quanh, mặt khác
thúc đẩy được khả năng tư duy, sáng tạo của người học. Một số giáo viên đã
nhận thức được chủ thể của quá trình học tập là học sinh, và đã có những biện
pháp linh hoạt để kích thích sự tích cực, sáng tạo của học sinh.
Tuy vậy, nếu nhìn nhận một cách công bằng và toàn diện, chúng ta thấy
thực trạng dạy học văn nghị luận xã hội ở lớp 12 vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại
cần khắc phục. Một số giáo viên chưa chú trọng vận dụng linh hoạt các phương
pháp để phát huy chủ thể tích cực của học sinh trong dạy học. Mặt khác, giáo
viên không xây dựng được môi trường học tập dân chủ và hợp tác thể hiện ở
việc chưa đưa ra được hệ thống câu hỏi khích lệ học sinh trả lời. Ở phần thực
hành, dường như giáo viên chưa chú trọng đến việc hướng dẫn học sinh phân
tích đề, lập dàn ý trước khi làm bài văn nghị luận xã hội một cách bài bản, có tổ
chức.
2.2.2. Thực trạng làm văn nghị luận xã hội của học sinh
Nhiều học sinh khi được khảo sát về mục đích học tập làm văn nghị luận
xã hội đều nói rằng học vì mục đích thi cử. Số học sinh học văn nghị luận xã hội
vì cần có kĩ năng sống, hiểu biết đời sống xã hội và kĩ năng giải quyết các vấn
đề trong đời sống xã hội chiếm số lượng rất ít. Từ mục tiêu học tập như vậy dẫn
đến các em ngại làm bài tập, lúng túng khi thực hành luyện tập, làm bài qua loa
nên hiệu quả học thấp. Đặc biệt đa số học sinh không có thói quen, ý thức thực

hiện việc phân tích đề, lập dàn ý trước khi làm bài văn nghị luận xã hội nên hiệu
quả bài viết không cao. Tôi nhận thấy rằng, sở dĩ ít học sinh có thói quen này
không chỉ vì các em không có ý thức mà còn vì việc tìm hiểu đề, lập dàn ý bài
văn nghị luận xã hội không dễ dàng đối với học sinh. Mặt khác, phần lớn học
sinh không biết cách bày tỏ chủ kiến cá nhân, không dám nêu những suy nghĩ
ngược chiều, không biết cách lập luận để bảo vệ ý kiến, quan điểm của mình khi
viết bài văn.
5


2.3. Vận dụng kỷ thuật đặt câu hỏi, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề
vào việc tìm hiểu đề, lập dàn ý bài văn nghị luận xã hội
2.3.1. Một số nguyên tắc chung
Khi đưa ra các biện pháp hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề, lập dàn ý bài
văn nghị luận xã hội, giáo viên phải tuân theo những nguyên tắc sau:
a) Nguyên tắc 1:
Giáo viên phải đảm bảo đặc trưng của phân môn làm văn: làm văn là môn
học có tính chất thực hành tổng hợp. Làm văn là làm các loại văn bản. Về
phương pháp dạy học phải nhấn mạnh nguyên tắc thực hành. Mục đích cuối
cùng của của việc dạy học làm văn không chỉ cung cấp cho học sinh tri thức mà
còn phải rèn luyện cho các em những kĩ năng kĩ xảo làm văn cơ bản.
b) Nguyên tắc 2:
Giáo viên phải hướng dẫn để giúp học sinh biết cách phân tích, nhận diện
và xác định được yêu cầu, phạm vi của đề đồng thời phải biết cách tổ chức các
luận điểm, luận cứ trong một dàn ý phù hợp.
c) Nguyên tắc 3:
Giáo viên phải phát huy vai trò chủ thể nhận thức của học sinh trong việc
phân tích đề, lập dàn ý.
2.3.2. Các biện pháp thực hiện
a). Tổ chức cho học sinh tìm hiểu đề văn nghị luận xã hội bằng kĩ thuật đặt

câu hỏi
Tìm hiểu đề là bước đầu tiên phải thực hiện khi tiến hành làm bài văn nói
chung và nghị luận xã hội nói riêng. Trước một đề bài, giáo viên cần giúp học
sinh khám phá được các yêu cầu của đề thông qua kĩ thuật đặt câu hỏi.
* Biện pháp 1: Giáo viên đặt câu hỏi xác định cụ thể các yêu cầu để học
sinh tìm hiểu đề
Khi tìm hiểu đề nghị luận xã hội, giáo viên phải đặt ra và giúp học sinh trả
lời được các câu hỏi như sau:
+ (Câu hỏi xác định yêu cầu về nội dung): Vấn đề cần nghị luận của đề bài
là gì? Hoặc: hãy chỉ rõ nội dung cần nghị luận ở đề bài?
+ (Câu hỏi xác định yêu cầu về hình thức): Đề bài thuộc dạng nghị luận xã
hội nào? Những thao tác lập luận và các phương thức biểu đạt nào được sử
dụng trong bài văn? Sử dụng chúng khi nào?
+ (Câu hỏi xác định yêu cầu về tư liệu): Đề bài cần sử dụng những dẫn
chứng nào? Hoặc: hãy xác định phạm vi dẫn chứng của đề bài?
Các câu hỏi này nhằm giúp học sinh nhận diện dạng đề và yêu cầu của đề.
Để trả lời được các câu hỏi trên giáo viên lưu ý học sinh cần đọc kĩ đề bài, dựa
vào các từ ngữ then chốt và tùy vào loại đề để xác định. Ở loại đề đóng: có định
hướng cụ thể về nội dung, về thao tác lập luận. Luận đề cũng thường là luận
điểm của bài, thao tác lập luận được nêu rõ trong đề bài (phân tích, chứng minh,
giải thích, bình luận,…). Ví dụ:“Người hạnh phúc nhất là người đem đến hạnh
phúc cho nhiều người nhất”( Đi-đơ-rô). Anh/chị hãy giải thích và bình luận ý
6


kiến trên? Với loại đề này, học sinh chỉ cần đọc kĩ đề bài là có thể trả lời được
các câu hỏi xác định đề.
Tuy nhiên những năm gần đây, đề bài nghị luận xã hội chủ yếu ra theo xu
hướng mở. Đề mở có đặc điểm chỉ nêu ra đề tài hoặc vấn đề cần bàn luận, không
nêu yêu cầu về thao tác lập luận, khuyến khích học sinh trình bày những suy

nghĩ và ý kiến riêng. Chủ động, sáng tạo trong làm bài, tùy vào nội dung của vấn
đề, đề tài mà người viết lựa chọn và quyết định các thao tác lập luận cho phù
hợp để thể hiện suy nghĩ, cảm xúc chân thành của cá nhân mình. Từ đặc điểm đó
cho nên việc tìm hiểu đề mở kích thích được nhu cầu khám phá của chủ thể học
sinh , khơi gợi sự sáng tạo cá nhân, rèn cho học sinh tính hoạt bát, tư duy năng
động, dám nêu vấn đề. Khi tìm hiểu đề mở, giáo viên phải biết đặt ra và khuyến
khích học sinh trả lời các câu hỏi để lật đi lật lại một vấn đề ở nhiều mặt, nhiều
góc độ. Để trả lời được các câu hỏi tìm hiểu đề học sinh cần vận dụng những
hiểu biết, trải nghiệm cuộc sống và kiến thức, kĩ năng làm văn nghị luận xã hội
của mình. Giáo viên lưu ý cần dựa vào những căn cứ như: căn cứ vào lời văn
trong đề bài để xác định yêu cầu của đề, căn cứ vào đề tài được nêu ra trong đề
bài để xác định dạng bài nghị luận xã hội. Cụ thể cần dựa vào các từ ngữ then
chốt, giải thích các từ ngữ then chốt để tìm ra luận đề.
Ví dụ 1: Trong thư gửi thầy hiệu trưởng trường con trai theo học, ngài
Abraham Lincol, vị tổng thống thứ 16 của nước Mỹ, đã viết: “Xin hãy giúp cháu
nhìn thấy thế giới kì diệu của sách… nhưng cũng cho cháu có đủ thời gian để
lặng lẽ suy tư về sự bí ẩn muôn thuở của cuộc sống: đàn chim tung cánh trên
bầu trời, đàn ong bay lượn trong ánh nắng và những bông hoa nở ngát bên đồi
xanh”.
Ý kiến của anh (chị) về đề nghị của tổng thống A.Lincoln.
Học sinh tìm hiểu đề bằng cách trả lời các câu hỏi: Hãy chỉ rõ nội dung cần
nghị luận của đề bài trên?
Đề bài trên thuộc dạng đề nghị luận xã hội nào?
Thao tác lập luận nào được sử dụng trong bài văn? Phương thức biểu đạt
chính và các phương thức biểu đạt kết hợp của bài?
Hãy xác định phạm vi dẫn chứng của đề bài?
Học sinh đọc kĩ đề, trả lời các câu hỏi trên, kiến tạo những kiến thức, kĩ
năng cần đạt như sau:
- Vấn đề cần nghị luận: bàn về ý kiến của tổng thống Lincoln về giáo dục.
Lincoln đề nghị nhà trường dạy cho học sinh:

+ Biết thu nhận kiến thức từ sách vở.
+ Đặc biệt còn phải tự mình khám phá ý nghĩa của cuộc sống.
- Đề bài thuộc kiểu bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí. Các thao tác lập
luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận. Trong đó thao tác chính là
bình luận (thể hiện ở yêu cầu của đề bài “ý kiến của anh/ chị…”). Phương thức
biểu đạt chính: nghị luận, phương thức biểu đạt kết hợp: tự sự, biểu cảm…
- Phạm vi dẫn chứng: từ thực tế cuộc sống.
Ví dụ 2: Bệnh vô cảm trong cuộc sống hiện nay.
7


HS tìm hiểu đề bằng cách đặt ra và trả lời các câu hỏi: Vấn đề cần nghị
luận của đề bài là gì?
Đề thuộc dạng bài đề nghị luận xã hội nào?
Thao tác lập luận nào được sử dụng trong bài văn? Phương thức biểu đạt
chính và các phương thức biểu đạt kết hợp của bài là gì?
Đề bài cần sử dụng những dẫn chứng nào?
Học sinh đọc kĩ đề, trả lời các câu hỏi để xác định đề. Đề bài chỉ đưa ra một
luận đề “bệnh vô cảm” không nêu rõ vấn đề cần nghị luận cũng như thao tác lập
luận. Giáo viên lưu ý học sinh cần dựa vào những từ ngữ then chốt như “bệnh
vô cảm”, giải thích từ ngữ then chốt, trả lời các câu hỏi: “Bệnh vô cảm là gì?
Biểu hiện của bệnh vô cảm? Nguyên nhân, tác hại của bệnh?”…Trả lời các câu
hỏi trên, học sinh kiến tạo những kiến thức, kĩ năng cần đạt như sau:
- Vấn đề cần nghị luận: bàn về bệnh vô cảm trong cuộc sống hiện nay. Có
thể bàn luận nhiều mặt của vấn đề như: biểu hiện của bệnh vô cảm, nguyên
nhân, tác hại …
- Đề bài thuộc kiểu bài nghị luận về một hiện tượng đời sống. Các thao tác
lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận… Trong đó thao tác chính
là bình luận. Phương thức biểu đạt chính: nghị luận, phương thức biểu đạt kết
hợp: tự sự, biểu cảm…

- Phạm vi dẫn chứng: từ thực tế cuộc sống.
Ví dụ 3:
LỖI LẦM VÀ SỰ BIẾT ƠN
Hai người bạn cùng đi qua sa mạc. Trong chuyến đi, giữa hai người có
xảy ra một cuộc tranh luận, và một người nổi nóng không kiềm chế được mình
đã nặng lời miệt thị người kia. Cảm thấy bị xúc phạm, anh không nói gì, chỉ viết
lên cát: “Hôm nay người bạn tốt nhất của tôi đã làm khác đi những gì tôi nghĩ”.
Họ đi tiếp, tìm thấy một ốc đảo, và quyết định đi bơi. Người bị miệt thị
lúc nãy bây giờ bị đuối sức và chìm dần xuống. Người bạn kia đã tìm cách cứu
anh. Khi đã lên bờ, anh lấy một miếng kim loại khắc lên đá: “Hôm nay người
bạn tốt nhất của tôi đã cứu sống tôi”.
Người kia hỏi: “Tại sao khi tôi xúc phạm anh, anh viết lên cát, còn bây
giờ anh lại khắc lên đá ?”
Anh ta trả lời: “Những điều viết lên cát sẽ mau chóng xóa nhòa theo thời
gian, nhưng không ai có thể xóa được những điều tốt đẹp đã được ghi tạc trên
đá, trong lòng người”.
Vậy mỗi chúng ta hãy học cách viết những nỗi đau buồn, thù hận lên cát
và khắc ghi những ân nghĩa lên đá.
(Hạt giống tâm hồn, tập 4, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2004)
Suy nghĩ của anh (chị) về ý nghĩa câu chuyện trên.
Học sinh tìm hiểu đề bằng cách và trả lời các câu hỏi: Vấn đề xã hội đặt ra
trong câu chuyện trên là gì? Ý nghĩa của vấn đề?
Đề thuộc dạng bài nghị luận xã hội nào?
8


Thao tác lập luận nào được sử dụng trong bài văn? Phương thức biểu đạt
chính và các phương thức biểu đạt kết hợp của bài là gì?
Hãy xác định phạm vi dẫn chứng của đề bài?
Trả lời các câu hỏi trên, học sinh kiến tạo những kiến thức, kĩ năng cần đạt

như sau:
- Vấn đề cần nghị luận: Biết tha thứ cho mọi lỗi lầm mà người khác gây ra
và biết khắc ghi những ân nghĩa mà người khác đã làm cho mình.
- Đề bài thuộc kiểu bài nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn
học. Các thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận… Trong
đó thao tác chính là bình luận (thể hiện ở yêu cầu của đề “suy nghĩ của anh (chị)
về…”. Phương thức biểu đạt chính: nghị luận, phương thức biểu đạt kết hợp: tự
sự, biểu cảm…
- Phạm vi dẫn chứng: từ thực tế cuộc sống và trong lịch sử, văn học.
* Biện pháp 2: Giáo viên đặt câu hỏi khái quát các yêu cầu để học sinh
tìm hiểu đề
Khi học sinh đã thuần thục kĩ năng tìm hiểu đề bằng cách trả lời các câu hỏi
cụ thể xác định các yêu cầu của đề như trên, giáo viên khuyến khích học sinh trả
lời các câu hỏi dạng khái quát. Thay vì đặt ra nhiều câu hỏi nhằm xác định các
yêu cầu chính của đề giáo viên có thể đặt một câu hỏi như: Hãy xác định những
yêu cầu cần thực hiện của đề bài ? cho học sinh trả lời. Để trả lời được câu hỏi
khái quát trên tự học sinh phải đặt ra và trả lời được các câu hỏi xác định các
yêu cầu cụ thể của đề (về nội dung, về hình thức, về phạm vi tư liệu). Như vậy
mục đích của câu hỏi dạng khái quát là nhằm phát huy vai trò của chủ thể học
sinh trong quá trình tìm hiểu đề. Từ chỗ giáo viên là người đặt câu hỏi, học sinh
trả lời chuyển thành học sinh tự đặt ra và trả lờ các câu hỏi để tìm hiểu đề. Chính
trong quá trình tự hỏi- trả lời ấy sẽ giáp các em thuần thục kĩ năng tìm hiểu đề
văn nghị luận xã hội.
Ví dụ: “Người thầy thuốc tốt nhất là bản thân thiên nhiên” (Hi-pô-crat). Từ
câu nói của danh y Hi Lạp cổ đại, anh (chị) nghĩ gì về thiên nhiên và môi trường
sống ở nước ta hiện nay?
Học sinh tìm hiểu đề bằng cách đọc kĩ đề, tự đặt ra và trả lời các câu hỏi:
Vấn đề cần nghị luận của đề bài là gì?
Đề thuộc dạng bài đề nghị luận xã hội nào?
Thao tác lập luận nào được sử dụng trong bài văn? Phương thức biểu đạt

chính và các phương thức biểu đạt kết hợp của bài là gì?
Đề bài cần sử dụng những dẫn chứng nào?
Học sinh trả lời câu hỏi để xác định đề, kiến tạo những kiến thức, kĩ năng
cần đạt như sau:
- Yêu cầu về vấn đề cần nghị luận: thiên nhiên và môi trường sống ở nước
ta hiện nay
+ Thiên nhiên là môi trường sống tốt nhất của con người
+ Thiên nhiên và môi trường ở nước ta hiện nay đang bị tàn phá và xuống
cấp nghiêm trọng (nêu rõ hiện tượng và chỉ ra những biểu hiện thực tế)
9


+ Thái độ của chúng ta trước thực trạng đó hoặc hành động của chúng ta
- Yêu cầu về thao tác lập luận và phương thức biểu đạt: Các thao tác lập
luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận. Trong đó thao tác chính là
bình luận (thể hiện ở yêu cầu của đề bài “nghĩ gì về…”). Phương thức biểu đạt
chính: nghị luận, phương thức biểu đạt kết hợp: miêu tả, thuyết minh, biểu cảm.
- Yêu cầu về phạm vi dẫn chứng: từ thực tế cuộc sống.
* Biện pháp 3: Giáo viên đặt câu hỏi để học sinh lựa chọn một kết quả
tìm hiểu đề đúng
Ở biện pháp này, với 1 đề văn nghị luận xã hội, giáo viên đưa ra 3 kết quả
tìm hiểu đề, trong đó có một kết quả đúng. Giáo viên đặt câu hỏi: Hãy chọn
phương án xác định đúng nhất yêu cầu của đề bài? yêu cầu học sinh lựa chọn
kết quả tìm hiểu đề đúng và hợp lí nhất.
Ví dụ: Có ý kiến cho rằng: Việc rèn luyện kĩ năng sống cũng cần thiết
như việc tích lũy kiến thức. Anh/Chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600
chữ) bày tỏ suy nghĩ của mình về vấn đề trên. (Đề thi Trung học phổ thông quốc
gia năm 2015).
Khi tìm hiểu đề bài trên, một học sinh tìm được 3 ý yêu cầu về nội dung
nghị luận như sau:

A. Lợi ích của việc rèn kĩ năng sống và tích lũy kiến thức.
B. Tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng sống.
C. Việc rèn luyện kĩ năng sống cũng cần thiết như việc tích lũy kiến thức.
Hãy giúp bạn học sinh đó chọn phương án xác định đúng nhất yêu cầu của đề?
Giáo viên yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi trên, sau đó đưa ra đáp án C, dựa vào
cụm từ cũng cần thiết như trong đề bài khẳng định vấn đề mà đề bài yêu cầu là
việc rèn luyện kĩ năng sống cũng cần thiết như việc tích lũy kiến thức.
b) Khuyến khích học sinh tích cực tìm ý, lập dàn ý cho bài văn nghị luận xã
hội bằng phương pháp nêu và giải quyết vấn đ:
Sau khi tìm hiểu đúng yêu cầu của đề bài, giáo viên tổ chức các hoạt động
dạy học nêu và giải quyết vấn đề để hướng dẫn học sinh tìm ý, xây dựng dàn
bài. Tìm ý là hoạt động tìm, xác lập được các luận điểm của bài văn và từ đó tìm
các luận cứ. Việc xác lập các ý này cần căn cứ vào nội dung cần nghị luận và
yêu cầu về cách thức nghị luận của đề bài. Khi có được luận điểm, luận cứ, học
sinh sẽ tiếp tục thảo luận nhóm để sắp xếp chúng theo một trật tự logic để hoàn
thành việc lập dàn ý.
b.1)Tìm ý
Để phát huy tính tích cực của chủ thể học sinh trong quá trình tìm ý giáo
viên cần tổ chức các hoạt động dạy học nêu và giải quyết vấn đề, chẳng hạn
như:
* Biện pháp 1: Học sinh thảo luận nhóm trả lời các câu hỏi để tìm ý
Giáo viên đặt học sinh vào tình huống có vấn đề (đề văn nghị luận xã hội
chính là tình huống có vấn đề), tổ chức cho các em thảo luận nhóm, gợi ý các
câu hỏi để học sinh phát hiện vấn đề. Để giúp học sinh không bị lạc đề, lạc ý hay
10


bỏ sót ý giáo viên gợi ý các em dựa vào tính chất, nội dung của dạng bài nghị
luận xã hội mà đề yêu cầu để tìm ý.
Dạng đề nghị luận về một tư tưởng, đạo lí thường có nội dung giải thích

tư tưởng đạo lí. Phân tích những mặt đúng, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có
liên quan đến vấn đề. Nêu ý nghĩa, rút ra bài học nhận thức và hành động. Vì
vậy học sinh cần thảo luận trả lời các câu hỏi gợi ý sau để tìm luận điểm: Nội
dung của đề đề cập đến những vấn đề gì, giải thích làm rõ vấn đề? Vấn đề đó
được đề cập như thế nào (Ở những khía cạnh nào) ? Đánh giá của em về vấn đề
đó? Hướng giải quyết vấn đề hay bài học đề xuất?
Dạng đề nghị luận về một hiện tượng đời sống thường có nội dung: nêu rõ
hiện tượng, phân tích những mặt đúng- sai, lợi - hại, chỉ ra nguyên nhân. Bày tỏ
thái độ, ý kiến của người viết về hiện tượng. Vì vậy học sinh cần thảo luận trả
lời các câu hỏi gợi ý sau để tìm luận điểm: Đề bài yêu cầu bàn về hiện tượng gì?
Hãy nêu các mặt đúng sai, phân tích nguyên nhân của vấn đề cần nghị luận?
Quan điểm, thái độ của em về hiện tượng?
Học sinh thảo luận nhóm trả lời các câu hỏi để tìm ý theo trình tự:
Bước 1: Học sinh cần đọc kĩ đề bài, thực hiện bước phân tích đề để xác
định đúng yêu cầu của đề. Sau đó giáo viên đặt học sinh vào tình huống có vấn
đề, các câu hỏi tìm luận điểm cho đề. Vấn đề đó được đề cập như thế nào (Ở
những khía cạnh nào) ? (mỗi khía cạnh là một luận điểm của bài văn).
Bước 2: Học sinh thảo luận nhóm trả lời các câu hỏi trên để tìm luận điểm.
Bước 3: Giáo viên tiếp tục đặt học sinh vào các tình huống có vấn đề, học
sinh thảo luận nhóm tìm các luận cứ cho các luận điểm trên. Tình huống thảo
luận để tìm luận cứ theo hướng sau:
Từ các phương diện khác nhau của vấn đề cần trình bày (luận điểm),
hãy tách mỗi phương diện đó thành một luận cứ.
Chẳng hạn: Từ luận điểm trình bày tác hại của hiện tượng lãng phí và lợi
ích của việc chống lãng phí của đề bài “Anh/chị hãy trình bày nhận thức và
trách nhiệm của tuổi trẻ trước hiện tượng lãng phí trong cuộc sống hiện nay” có
thể triển khai thành 2 luận cứ:
Luận cứ 1: Tác hại của lãng phí rất lớn: thiệt hại về tiền bạc, công sức, thời
gian, cơ hội.
Luận cứ 2: Lợi ích của việc chống lãng phí: đêm lại tiền bạc, của cải, cơ hội

cho phát triển.
Từ các mối quan hệ khác nhau của vấn đề cần trình bày (luận điểm),
hãy phân tích, lí giải mối quan hệ đó rồi xác lập các luận cứ.
Chẳng hạn: Từ luận điểm nêu biểu hiện của tình thương trong cuộc sống
của đề “Tình thương là hạnh phúc của con người” ta có thể triển khai thành các
luận cứ sau:
Luận cứ 1:Tình thương giữa những người có quan hệ ruột thịt, thân thích.
Luận cứ 2: Tình thương yêu dành cho đồng bào, đồng loại.
Ví dụ : Có ý kiến cho rằng: Việc rèn luyện kĩ năng sống cũng cần thiết như
việc tích lũy kiến thức. Anh/Chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bày
11


tỏ suy nghĩ của mình về vấn đề trên. (Đề thi Trung học phổ thông quốc gia năm
2015). Tìm ý cho đề bài trên.
Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm ý:
Bước 1: Học sinh cần đọc kĩ đề bài, thực hiện bước phân tích đề để xác
định đúng yêu cầu của đề. (Vấn đề mà đề bài nêu ra là việc rèn luyện kĩ năng
sống cũng cần thiết như việc tích lũy kiến thức). Sau đó giáo viên đặt học sinh
vào tình huống có vấn đề, các câu hỏi tìm luận điểm cho đề. Cụ thể:
- Kĩ năng sống là gì? Kiến thức là gì?
- Đánh giá của em về vấn đề đó như thế nào? Ý kiến nêu ra là đúng hay sai,
hợp lí hay không hợp lí?
- Bài học nhận thức và hành động rút ra từ ý kiến trên là gì?
Bước 2: Học sinh thảo luận nhóm trả lời các câu hỏi trên để tìm luận điểm.
Định hướng trả lời:
+ Luận điểm 1: Bày tỏ thái độ, suy nghĩ về ý kiến. Khẳng định ý kiến là
đúng: việc rèn luyện kĩ năng sống cũng cần thiết như việc tích lũy kiến thức
+ Luận điểm 2: Phê phán những biểu hiện chỉ coi trọng việc tích lũy kiến
thức mà coi nhẹ việc rèn luyện kĩ năng sống và ngược lại.

+ Luận điểm 3: Nêu bài học nhận thức và hành động: nhận thức được tầm
quan trọng và biết kết hợp hài hòa, linh hoạt giữa rèn luyện kĩ năng sống với tích
lũy kiến thức để hoàn thiện bản thân.
Bước 3: Giáo viên tiếp tục đặt học sinh vào các tình huống có vấn đề, HS
thảo luận nhóm tìm các luận cứ phù hợp với từng luận điểm trên.
Chẳng hạn tìm luận cứ cho luận điểm 1 của đề trên:
+ Luận điểm 1: Khẳng định ý kiến là đúng: việc rèn luyện kĩ năng sống
cũng cần thiết như việc tích lũy kiến thức.
Luận cứ 1: Việc rèn luyện kĩ năng sống giúp con người thích ứng và hòa
nhập với môi trường sống.
Luận cứ 2: Việc tích lũy kiến thức giúp con người tăng vốn hiểu biết để
khám phá thế giới, khẳng định bản thân.
Luận cứ 3: Việc rèn luyện kĩ năng sống và tích lũy kiến thức có mối quan
hệ mật thiết, tác động qua lại. Tích lũy kiến thức làm nền tảng cho việc hình
thành, rèn luyện kĩ năng sống; rèn luyện kĩ năng sống là điều kiện để vận dụng
hiệu quả kiến thức vào thực tế.
* Biện pháp 2: Học sinh thảo luận nhóm sửa chữa, bổ sung ý
Giáo viên đặt học sinh vào tình huống có vấn đề bằng cách đưa ra một kết
quả tìm ý trong đó có những ý không đúng với yêu cầu của đề bài, hoặc còn
thiếu ý. Yêu cầu học sinh thảo luận nhóm để phát hiện ra ý sai, bổ sung ý thiếu
cho phù hợp với yêu cầu của đề.
Ví dụ: Cho đề bài “Internet là con dao hai lưỡi”
Một nhóm học sinh đã tìm ý cho đề bài trên như sau:
- Luận điểm 1: “Internet là con dao hai lưỡi” có nghĩa là thế nào?
- Luận điểm 2: Tiện ích của internet
- Luận điểm 3: Hiện trạng giới trẻ lạm dụng facebook
12


- Luận điểm 4: Làm thế nào để internet phát huy tác dụng của nó tốt nhất

trong cuộc sống hiện nay?
Câu hỏi thảo luận nhóm: Các ý trên đã phù hợp với yêu cầu của đề bài hay
chưa? Nếu chưa, hãy sửa lại cho phù hợp.
Giáo viên hướng dẫn học sinh hoàn thành bài tập:
Học sinh cần đọc kĩ đề bài, thực hiện bước phân tích đề để xác định đúng
yêu cầu của đề. Thảo luận nhóm dựa vào gợi ý tìm ý cho dạng bài nghị luận về
một hiện tượng đời sống để tìm ra ý thừa, bổ sung ý thiếu. Sau khi học sinh hoàn
thành bài tập, giáo viên đưa ra định hướng như sau:
Trong các luận điểm được trình bày ở trên, luận điểm 3 không cần thiết vì
nó không phù hợp yêu cầu của đề bài. Kết quả tìm ý trên còn đang thiếu một số
luận điểm. Đáp án:
- Luận điểm 1: Internet có những tiện ích to lớn bên cạnh những tác hại
khôn lường.
- Luận điểm 2: Tiện ích của internet
- Luận điểm 3: Mặt trái của internet
- Luận điểm 4: Làm thế nào để internet phát huy tác dụng của nó tốt nhất
trong cuộc sống hiện nay?
- Luận điểm 5: Bài học nhận thức và hành động: cần nâng cao hơn nữa
trình độ, kiến thức, văn hóa về internet để phát huy tối đa tiện ích của internet.
* Biện pháp 3: Học sinh thảo luận nhóm sắp xếp ý theo trình tự hợp lí
Giáo viên đặt học sinh vào một tình huống có vấn đề: một học sinh đã tìm
được những ý cho một đề văn nghị luận xã hội nhưng sắp xếp các luận cứ chưa
phù hợp với luận điểm. Yêu cầu học sinh thảo luận nhóm sắp xếp các ý theo
trình tự hợp lí.
Ví dụ: Cho đề bài sau: Phải chăng “Bạn là người đến với ta khi mọi
người đã bỏ ta đi”? Một học sinh đã tìm được các ý như sau:
- Luận điểm 1: Ý nghĩa của đề bài
+ Luận cứ 1: Ý nghĩa của câu nói: ai đến với ta những khi ta gặp khó
khăn, thất bại, cô đơn đó mới là người bạn đích thực.
+ Luận cứ 2: Quan niệm về tình bạn

+ Luận cứ 3: Khi mọi người đã bỏ ta đi là cách nói ẩn dụ chỉ khi ta gặp
khó khăn, thất bại trên đường đời không có ai ở bên.
- Luận điểm 2: Bàn luận về ý kiến, khẳng định sự đúng đắn của câu nói
+ Luận cứ 1: Tình bạn có ý nghĩa to lớn, thiêng liêng, bạn là điểm tựa,
niềm tin cho ta đứng vững trong hoàn cảnh khó khăn, nghiệt ngã. Tình bạn
không chấp nhận sự hời hợt, nhất thời.
+ Luận cứ 2: Người bạn chân chính là người tri âm, tri kỉ. Tình bạn chân
thành là quan hệ bình đẳng, không vụ lợi, luôn đồng cảm, chia sẻ.
+ Luận cứ 3: Nêu các biểu hiện của tình bạn đẹp đẽ, thủy chung trong
hoàn cảnh khó khăn
- Luận điểm 3: Mở rộng, liên hệ, nêu ý nghĩa của vấn đề nghị luận
+ Luận cứ 1: Phê phán những kẻ lợi dụng bạn bè
13


+ Luận cứ 2: Bài học đúng đắn về cách chọn bạn và cách sống, cách đối
xử với bạn.
+ Luận cứ 3: Đối với mỗi người tình bạn có ý nghĩa vô cùng quan trọng
Yêu cầu: thảo luận nhóm sắp xếp lại các luận cứ để phù hợp với luận
điểm.
Giáo viên hướng dẫn học sinh hoàn thành bài tập:
Học sinh cần đọc kĩ đề bài, xác định đúng yêu cầu của đề, học sinh thảo
luận nhóm sắp xếp lại các luận cứ để phù hợp với luận điểm. Khi học sinh hoàn
thành bài tập, cử đại diện nhóm trình bày. Các nhóm khác nhận xét. Giáo viên
bổ sung, điều chỉnh nếu thấy cần. Định hướng như sau:
- Luận điểm 1: Ý nghĩa của đề bài
+ Luận cứ 1: Quan niệm về tình bạn
+ Luận cứ 2: Khi mọi người đã bỏ ta đi là cách nói ẩn dụ chỉ khi ta gặp
khó khăn, thất bại trên đường đời không có ai ở bên.
+ Luận cứ 3: Ý nghĩa của câu nói: ai đến với ta những khi ta gặp khó

khăn, thất bại, cô đơn đó mới là người bạn đích thực.
- Luận điểm 2: Bàn luận về ý kiến, khẳng định sự đúng đắn của câu nói
+ Luận cứ 1: Người bạn chân chính là người tri âm, tri kỉ. Tình bạn chân
thành là quan hệ bình đẳng, không vụ lợi, luôn đồng cảm, chia sẻ.
+ Luận cứ 2: Nêu các biểu hiện của tình bạn đẹp đẽ, thủy chung trong
hoàn cảnh khó khăn.
+ Luận cứ 3: Tình bạn có ý nghĩa to lớn, thiêng liêng, bạn là điểm tựa,
niềm tin cho ta đứng vững trong hoàn cảnh khó khăn, nghiệt ngã. Tình bạn
không chấp nhận sự hời hợt, nhất thời.
- Luận điểm 3: Mở rộng, liên hệ, nêu ý nghĩa của vấn đề nghị luận
+ Luận cứ 1: Đối với mỗi người tình bạn có ý nghĩa vô cùng quan trọng
+ Luận cứ 2: Phê phán những kẻ lợi dụng bạn bè
+ Luận cứ 3: Bài học đúng đắn về cách chọn bạn và cách sống, cách đối
xử với bạn.
Các hoạt động trên nhằm hướng dẫn cho học sinh biết tìm ý, làm phong
phú ý, góp phần phát huy tính năng động, tích cực, sáng tạo ở học sinh khi làm
bài văn nghị luận xã hội. Bởi lẽ đứng trước một tình huống có vấn đề học sinh
phải hoạt động tích cực huy động tri thức và khả năng tư duy của mình để tìm ý
cho đề bài. Giáo viên cần chú ý tôn trọng ý kiến của học sinh , khuyến khích các
em suy nghĩ nhiều chiều trước một vấn đề, không gò ép tư duy của học sinh khi
tìm ý.
b.2)Lập dàn ý
* Biện pháp 1: Học sinh thảo luận nhóm (có gợi ý của giáo viên) để lập
dàn ý
Sau khi đã có kết quả tìm ý, giáo viên cần tổ chức cho học sinh thảo luận
nhóm để sắp xếp ý theo một trình tự hợp lí thành dàn ý. Giáo viên đặt ra các tình
huống có vấn đề, dẫn dắt để học sinh thảo luận lựa chọn các luận điểm, luận cứ,
14



sắp xếp một cách khoa học. Định hướng thảo luận theo dạng bài nghị luận như
sau:
* Dạng bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí
Mở bài: nên giới thiệu vấn đề bằng cách nào? (diễn dịch, quy nạp hay
phản đề, trực tiếp hay gián tiếp) Sau khi giới thiệu, cần nêu vấn đề ra sao? (dẫn
nguyên văn nhận định hay tóm tắt nội dung chính?)
Thân bài:
- Hãy giải thích ý nghĩa của đề bài. Đề nêu lên vấn đề gì?
- Hãy phân tích, các mặt đúng, sai, tốt, xấu có liên quan đến vấn đề. Nêu
dẫn chứng cụ thể.
- Từ đề bài trên hãy rút ra bài học cho bản thân
Kết bài: xác định kiểu kết bài (mở hay đóng…?) Kết bài mở là kết bài
bằng cách nêu cảm nghĩ riêng, liên tưởng hoặc nêu vấn đề mới. Kết bài đóng là
kết bài bằng cách tóm tắt, nhấn mạnh lại vấn đề.
Ví dụ: Lập dàn ý cho đề bài sau: Trình bày suy nghĩ của anh/chị về khát
vọng và tham vọng của con người trong cuộc sống.
Hướng dẫn cách lập dàn ý: Sau khi có kết quả tìm ý, giáo viên chia
nhóm, học sinh thảo luận nhóm theo định hướng trên của giáo viên để sắp xếp ý
thành dàn bài. Học sinh cử đại diện nhóm lên trình bày dàn ý. Các nhóm khác
nhận xét. Giáo viên bổ sung, điều chỉnh nếu thấy cần. Học sinh cần tạo lập dàn
bài như sau:
MỞ BÀI: (trực tiếp)
Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề:
- Khát vọng và tham vọng là những từ để nói đến ước vọng của con
người.
- Khát vọng, tham vọng giống, khác nhau như thế nào, chúng mang lại
điều gì cho cuộc sống?
THÂN BÀI:
(1). Giải thích đề bài
- Khát vọng là gì? Tham vọng là gì?

- Khát vọng và tham vọng có những điểm khác nhau. Hiểu rõ về khát
vọng và tham vọng, con người mới làm chủ được bản thân và đạt được những
điều mình mong ước.
(2). Phân tích, bàn bạc
- Khát vọng và tham vọng có những điểm chung:
+ Đều là những hiện tượng tâm lí của con người, khi con người có mong
ước được làm những điều lớn lao hơn, tốt đẹp hơn cuộc sống hiện tại.
+ Đều là những động lực làm nên sức mạnh để con người hành động, giúp
cuộc sống của con người phát triển.
- Khát vọng và tham vọng có những điểm khác nhau:
+ Khát vọng là biểu hiện tâm lí mang tính tích cực, tốt đẹp, không chỉ có
ý nghĩa với bản thân mà còn có giá trị với sự phát triển của đất nước (dẫn
chứng).
15


+ Tham vọng là hiện tượng tâm lí ít nhiều mang sắc thái tiêu cực. Tham
vọng xuất phát từ sự tham lam, vị kỉ và hiếu thắng của con người. Người có
tham vọng chỉ làm lợi cho bản thân, không quan tâm đến lợi ích của người khác,
thậm chí còn làm hại người khác (dẫn chứng).
(3). Phê phán những hiện tượng tiêu cực liên quan đến khát vọng và
tham vọng. Rút ra bài học cho bản thân.
- Phê phán những người sống không có khát vọng, ngược lại có những kẻ
bị tham vọng làm cho mờ mắt.
- Bản thân cần xác định khát vọng như thế nào để cuộc đời có ý nghĩa.
KẾT BÀI: (đóng)
Sống có khát vọng thì cuộc sống con người mới có ý nghĩa. Ngược lại
mỗi người cần tỉnh táo để tiết chế tham vọng.
* Dạng bài nghị luận về một hiện tượng đời sống
Mở bài: Giới thiệu vấn đề cần nghị luận như thế nào? (trực tiếp hay gián

tiếp)
Thân bài:
- Hãy giải thích ý nghĩa của đề bài (nếu cần)
- Hãy nêu thực trạng của hiện tượng
- Hãy nêu nguyên nhân, tác động, ảnh hưởng của hiện tượng
- Hãy nêu hậu quả hoặc kết quả
- Hãy nêu cách khắc phục
Kết bài: nêu ý kiến của bản thân về hiện tượng, rút ra bài học.
Ví dụ: Lập dàn ý cho đề bài sau: Bệnh vô cảm trong cuộc sống hiện nay.
Hướng dẫn cách lập dàn ý: Sau khi có kết quả tìm ý, giáo viên chia
nhóm, học sinh thảo luận nhóm theo định hướng trên của giáo viên để sắp xếp ý
thành dàn bài. Học sinh cử đại diện nhóm lên trình bày dàn ý. Các nhóm khác
nhận xét. Giáo viên bổ sung, điều chỉnh nếu thấy cần. Học sinh cần tạo lập dàn
bài như sau:
MỞ BÀI: (trực tiếp)
Giới thiệu vấn đề nghị luận: bàn về bệnh vô cảm trong cuộc sống hiện
nay.
THÂN BÀI:
(1). Giải thích ý nghĩa của đề bài: Thế nào là bệnh vô cảm?
(2). Bệnh vô cảm đã thành một hiện tượng trong cuộc sống hiện nay ở
một bộ phận nhân dân.
- Biểu hiện của bệnh vô cảm: bác sĩ, cán bộ, người dân,…đối với đồng loại.
- Nguyên nhân của bệnh vô cảm: cuộc sống vật chất, tinh thần được cải
thiện, lòng tham của con người trỗi dậy, con người chỉ lo vun vén cho bản thân,
gia đình mình, lãnh đạm, thờ ơ với mọi việc xung quanh.
(3). Tác hại nhiều mặt của bệnh vô cảm
- Đối với bản thân người vô cảm: tắc trách trong công việc, không thể hòa
nhập với cộng đồng.
- Đối với việc xây dựng nền tảng đạo lí của xã hội, dân tộc.
16



(4). Thái độ của bản thân với hiện tượng
- Phê phán nghiêm khắc bệnh vô cảm trong cuộc sống, lên án những người
sống vô cảm.
KẾT BÀI:
Sống gắn bó với cộng đồng, yêu thương những người xung quanh để đẩy
lùi bệnh vô cảm, làm cho cuộc sống có ý nghĩa.
* Biện pháp 2: Học sinh thảo luận nhóm (không có gợi ý) để lập dàn ý
Giáo viên đặt học sinh vào tình huống có vấn đề - một đề văn nghị luận xã
hội, yêu cầu học sinh thảo luận nhóm để lập dàn ý cho đề bài mà không có một
gợi ý nào. Tình huống này đòi hỏi học sinh tự phát hiện vấn đề nghị luận, vận
dụng những kiến thức và kĩ năng đã có để lập dàn ý.
Ví dụ 1: Giữa một vùng sỏi đá khô cằn, cây hoa dại vẫn mọc lên và nở
những chùm hoa thật đẹp.
Phát biểu suy nghĩ của anh (chị) được gợi ra từ hiện tượng nêu trên.
Giaos viên yêu cầu học sinh thảo luận nhóm để lập dàn ý. Đại diện nhóm
lên trình bày kết quả, các nhóm khác nhận xét. Giáo viên chốt ý. Học sinh cần
tạo lập dàn bài như sau:
MỞ BÀI: (trực tiếp)
- Dẫn ý kiến ở đề bài
- Giới thiệu vấn đề nghị luận: Hiện tượng trên gợi suy nghĩ về sức mạnh
của ý chí, nghị lực và niềm tin của con người trong cuộc sống.
THÂN BÀI:
(1). Giải thích ý nghĩa của đề bài: Vùng sỏi đá là gì? Cây hoa dại là gì?
Hiện tượng ở đề bài gợi lên vấn đề: ý chí, nghị lực và niềm tin giúp con
người vượt qua mọi khó khăn thử thách để thành công trong cuộc sống.
(2). Phân tích, bàn luận vấn đề: Ý chí, nghị lực và niềm tin sẽ tạo nên sức
mạnh để con người vượt qua thử thách
- Cuộc sống của con người luôn tồn tại những thử thách, khó khăn. Khi đó

con người phải đối mặt để giải quyết, nỗ lực vươn lên
- Đôi khi chính trong hoàn cảnh khó khăn, nghị lực và sức sống tiềm tàng
của con người càng được bộc lộ rõ hơn bao giờ hết. (dẫn chứng: những tấm
gương vượt lên hoàn cảnh thực hiện lí tưởng, hoài bão của mình; những tấm
gương vượt lên bệnh tật để thay đổi cuộc đời)
- Ý chí, nghị lực còn giúp con người vượt qua những rào cản trong chính
bản thân: thiếu tự tin, nhút nhát...
(3). Phê phán những hiện tượng tiêu cực, rút ra bài học.
- Phê phán những người sống thiếu ý chí, nghị lực, niềm tin, dễ dàng buông
xuôi khi gặp khó khăn.
- Bài học: Cuộc sống đầy những khó khăn, thử thách, con người cần rèn
luyện cho mình bản lĩnh, ý chí, nghị lực, niềm tin vào cuộc sống.
KẾT BÀI: (đóng)
Khẳng định lại vấn đề, liên hệ bản thân.
17


Ví dụ 2: Anh/chị hãy trình bày nhận thức và trách nhiệm của tuổi trẻ trước
hiện tượng lãng phí trong cuộc sống hiện nay.
Giáo viên yêu cầu học sinh thảo luận nhóm để lập dàn ý. Đại diện nhóm lên
trình bày kết quả, các nhóm khác nhận xét. Giáo viên bổ sung, điều chỉnh nếu
thấy cần. Học sinh cần tạo lập dàn bài như sau:
MỞ BÀI: (trực tiếp) Lãng phí là hiện tượng đáng lo ngại trong cuộc sống
hiện nay
THÂN BÀI:
(1). Giải thích lãng phí là gì?
Lãng phí là hiện tượng con người thực hiện, tiến hành, tổ chức một công
việc nào đó mà làm tốn kém, hao tổn một cách vô ích.
(2). Nêu những biểu hiện của lãng phí trong cuộc sống hiện nay nói
chung và trong đời sống của giới trẻ nói riêng.

- Biểu hiện của lãng phí trong cuộc sống hiện nay đa dạng, phong phú ở các
cấp độ (cá nhân, gia đình, các cấp, các ngành và toàn thể xã hội) ở các công
việc: tổ chức cưới hỏi, tang lễ trong gia đình, các hội thảo, các lễ kỉ niệm, một số
dự án đầu tư của nhà nước…
- Lãng phí cũng là hiện tượng nổi bật trong đời sống của giới trẻ hiện nay:
tiền bạc, của cải, sức lực, thời gian…
(3). Tác hại của hiện tượng lãng phí và lợi ích của việc chống lãng phí.
- Tác hại của lãng phí rất lớn: thiệt hại về tiền bạc, công sức, thời gian, cơ
hội.
- Lợi ích của việc chống lãng phí: đem lại tiền bạc, của cải, cơ hội cho phát
triển.
(4). Những hành động của tuổi trẻ để khắc phục, hạn chế hiện tượng
lãng phí.
KẾT BÀI: Liên hệ bản thân (đã lãng phí những gì? Cần làm gì để khắc
phục?)
2.4. Hiệu quả của sáng kiến:
Tiến hành nghiên cứu đề tài “Vận dụng kĩ thuật đặt câu hỏi, phương
pháp nêu và giải quyết vấn đề vào việc tìm hiểu đề, lập dàn ý bài văn nghị
luận xã hội cho học sinh lớp 12” trên các lớp 12 của nhà trường trong năm học
2014-2015, 2015- 2016 tôi đã thu được một số kết quả như sau: hầu hết các em
học sinh đều rất hứng thú học tập, không khí giờ học sôi nổi hẳn lên. Đa số các
em đã biết cách tìm hiểu đề, tích cực tìm ý, biết cách lập dàn ý đề văn nghị luận
xã hội. Cụ thể: Ở năm học 2014-2015 vận dụng phương pháp nêu và giải quyết
vấn đề và kỹ thuật đặt câu hỏi vào dạy tìm hiểu đề, lập dàn ý bài văn nghị luận
xã hội, khi tiến hành cho học sinh các lớp làm bài kiểm tra (đề bài giống nhau)
tôi thu được kết quả như sau:

18



Kết quả kiểm tra định kì bài viết số 1 của ba lớp 12C1, 12C5, 12C6 trường
THPT Quảng Xương 2, năm học 2014- 2015 trước khi sử dụng đề tài.
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
Số bài
Lớp
TL
TL
TL
TL
TL
KT
SL
SL
SL
SL
SL
%
%
%
%
%
12C1
45
4
8,9 25 55,5 13 28,8 3
6,8

0
0
12C5
44
0
0
18 40,9 15 34,1 8 18,2 3
6,8
12C6
45
0
0
10 22,2 20 44,4 10 22,2 5 11,2
Kết quả Kết quả kiểm tra định kì bài viết số 1 của ba lớp 12C1, 12C5, 12C6
trường THPT Quảng Xương 2, năm học 2014- 2015 sau khi sử dụng đề tài.
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
Số bài
Lớp
TL
TL
TL
TL
TL
KT
SL
SL

SL
SL
SL
%
%
%
%
%
12C1
45
10 22,2 30 66,7
5 11,1 0
0
0
0
12C5
45
3
6,7 24 53,3 16 35,5 2
4,5
0
0
12C6
45
0
0
18
40
20 44,4 5 11,1 2
4,5

Đối chứng kết quả kiểm tra của hai lần làm bài kiểm tra, cho thấy khi áp
dụng đề tài kết quả thu được tốt hơn thể hiện ở tỉ lệ học sinh đạt điểm khá, giỏi
tăng mạnh, tỉ lệ yếu kém giảm. Như vậy, có thể khẳng định các biện pháp dạy
học làm văn nghị luận xã hội mà đề tài tôi đưa ra có khả năng phát huy được
tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng tạo
lập các kiểu bài văn nghị luận cho học sinh.

PHẦN 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
19


3.1. Kết luận
Tìm hiểu đề, lập dàn ý bài văn nghị luận xã hội là những kĩ năng quan trọng
quyết định chất lượng bài viết của học sinh. Vì vậy những kĩ năng này phải được
chú trọng rèn luyện trong mỗi tiết học làm văn. Tôi nhận thấy để đáp ứng yêu
cầu của việc đổi mới dạy học làm văn nói chung, văn nghị luận xã hội nói riêng
theo định hướng phát triển năng lực người học của nghị quyết 29 hội nghị trung
ương 8 khóa XI thì việc vận dụng phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, kĩ
thuật đặt câu hỏi vào dạy học làm văn nghị luận xã hội là xu hướng tiến bộ và
phù hợp, góp phần phát triển năng lực làm văn và tạo được được hứng thú cho
học sinh. Trong giờ học, các hoạt động học tập được tổ chức phong phú như:
làm việc theo nhóm, làm việc cá nhân làm cho học sinh hào hứng tham gia vào
những tình huống học tập, thảo luận nhóm vận dụng kiến thức kĩ năng để tìm
hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý. Khi thực hành luyện tập, dưới sự dẫn dắt của thầy cô
các em đã thành thạo những kĩ năng này.
Những biện pháp mà đề tài của tôi đề xuất có thể hỗ trợ giáo viên trong
quá trình dạy học sinh tìm hiểu đề, lập dàn ý bài văn nghị luận xã hội. Song
trong thực tế dạy học, giáo viên cần vận dụng linh hoạt nhuần nhuyễn nhiều
phương pháp và kĩ thuật dạy học khác như để có hiệu quả cao.
3.2. Đề xuất, kiến nghị

Cần tăng cường bổ sung thêm một số tiết thực hành làm văn nghị luận xã
hội vào nội dung chương trình Ngữ văn 12 ở học kì 2 để học sinh củng cố rèn
luyện kĩ năng phân tích đề, lập dàn ý cũng như kĩ năng viết bài hoàn chỉnh bài
văn nghị luận xã hội.
Giáo viên cần căn cứ vào năng lực học sinh mình giới thiệu nhiều đề văn
nghị luận xã hội theo hướng mở, nhiều bài tập rèn kĩ năng phân tích đề, lập dàn
ý bài văn nghị luận xã hội cho học sinh thực hành.
Những biện pháp mà đề tài của tôi đề xuất cũng chỉ mới dựa trên những
kinh nghiệm cá nhân, sẽ còn rất nhiều thiếu sót. Tôi rất mong sự đóng góp quý
báu của các đồng nghiệp để đề tài của tôi hoàn thiện tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VI

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 05 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép nội dung
của người khác
Người viết

Vũ Thị Hoa
TÀI LIỆU THAM KHẢO
20


1. Lê A - Nguyễn Thị Ngân Hoa (đồng chủ biên) (2011), Các dạng đề và hướng
dẫn làm bài NLXH môn Ngữ văn lớp 10, 11, 12, NXB Giáo dục Việt Nam.
2. Lê A (chủ biên) (2009), Thực hành làm văn 12, NXB Giáo dục Việt Nam.
3. Dự án Việt- Bỉ, Dạy và học tích cực – Một số phương pháp và kĩ thuật dạy
học.

4. Phan Trọng Luận (Chủ biên) (1998), Phương pháp dạy học văn ( tập 1), NXB
ĐHSP
5. Phan Trọng Luận (Chủ biên) (2007), Sách giáo khoa Ngữ Văn 12 tập 1, NXB
giáo dục.
6. Phan Trọng Luận (Chủ biên) (2007), Sách giáo viên Ngữ văn 12 tập 1, NXB
Giáo dục, Hà Nội, 2007
7. Phan Trọng Luận, Trần Đình Sử và các tác giả khác (2008), Hướng dẫn thực
hiện chương trình sách giáo khoa lớp 12 môn Ngữ văn, NXB Giáo dục.
8. Phan Trọng Luận (2008), Thiết kế bài giảng Ngữ văn 12 tập 1, NXB Giáo dục.
9. Phan Trọng Luận (chủ biên) (2010), Dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng
môn Ngữ văn lớp 12, NXB Đại học sư phạm.
10. Phan Trọng Ngọ (2005), Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà
trường, NXB Đại học sư phạm.
11. Phương Thảo- Tìm hiểu phương pháp dạy học nêu vấn đề, Trường đại học
văn hóa nghệ thuật quân đội.
11. Lê Trung Thành – Viện KHGD, Tình huống có vấn đề trong việc dạy học tác
phẩm văn chương, Nghiên cứu giáo dục, 11/1998.
12. Lê Thị Phượng (2009), Tìm hiểu đề và tìm ý cho bài làm văn theo SGK Ngữ
văn Trung học phổ thông và Trung học cơ sở hiện hành, Tạp chí giáo dục số
224.
13. Bảo Quyến (2007), Rèn kĩ năng làm văn nghị luận, NXB Giáo dục.

21



×