Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Một số giải pháp giúp học sinh lớp 10 THPT nâng cao hiệu quả làm văn nghị luận xã hội về một hiện tượng đời sống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.94 KB, 16 trang )

MỤC LỤC

1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 10- THPT nâng cao hiệu
quả làm văn nghị luận xã hội về một hiện tượng đời sống”
2.1. Cơ sở lí luận.
2. 2. Thực trạng vấn đề
2. 3. Một số giải pháp giúp học sinh lớp 10- THPT nâng cao hiệu quả làm
văn nghị luận xã hội về một hiện tượng đời sống.
2.3.1. Cung cấp hệ thống kiến thức lí thuyết cơ bản về văn nghị luận
một hiện tượng đời sống.
2.3.2. Hướng dẫn học sinh nhận diện đề.
2.3.3. Thực hành tìm ý và lập dàn ý.
2.3.4. Hướng dẫn thực hành bằng các dạng đề minh hoạ
2.3.5. Thực hành viết đoạn văn, bài văn nghị luận.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm trong thực nghiệm dạy học
hướng dẫn học sinh lớp 10- THPT làm bài văn nghị luận về một hiện tượng đời
sống.
2. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

1


1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài


1.1.1- Cũng như hầu hết các nước tiên tiến, ở nước ta hiện nay vấn đề chất
lượng giảng dạy khoa học nhân văn( đặc biệt môn Ngữ văn) trở thành mối quan
tâm của các nhà sư phạm, các nhà quản lí giáo dục và của toàn xã hội.
Ở nước ta cùng với những biến đổi và biến động xã hội, tâm lí về nhiều
mặt, kể cả những tác động từ bên ngoài, vấn đề giảng dạy trong nhà trường càng
trở thành mối quan tâm chung. Vì vậy không chỉ là công việc của bản thân nhà
trường, lại càng không phải chuyện văn chương chữ nghĩa đơn thuần mà là vấn
đề có ý nghĩa chính trị xã hội, trước mắt cũng như lâu dài.
Sau nhiều lần cải cách giáo dục, môn Văn trong nhà trường đã có những
bước tiến đáng kể. Chất văn chương, chất nhân văn của chương trình Ngữ văn
được nâng lên. Việc tiếp cận chương trình Ngữ Văn ở các cấp học, lớp học cũng
được mở rộng ở nhiều phương diện khác nhau.
Nếu như trước đây, kiểu bài làm văn nghị luận xã hội chưa được chú
trọng thì đến nay đã được đưa vào dạy học trong chương trình, và nhất thiết
trong các kì kiểm tra đánh giá, kể cả thi tốt nghiệp, thi đại học đều có một câu
hỏi yêu cầu vận dụng kiến thức xã hội, đời sống để viết bài nghị luận xã hội.
1.1.2. Trong văn nghị luận xã hội, cùng với nghị luận về một tư tưởngđạo lí, kiểu bài nghị luận về một hiện tượng đời sống được đặc biệt chú trọng.
Nghị luận về một hiện tượng đời sống đề cập tới nhiều phương diện của đời
sống (bao gồm đời sống tự nhiên và xã hội). Thông thường, những hiện tượng
mà đề bài đề cập tới thường là những hiện tượng nổi bật, tạo được sự chú ý và
có tác động tới đời sống xã hội.
Tính chất đa dạng, phong phú của hiện tượng đời sống cũng được thể hiện
trong nội dung đề bài. Không chỉ đề cập tới những hiện tượng tốt đẹp, tích cực
trong đời sống, kiểu bài nghị luận này còn lưu ý học sinh những hiện tượng
mang tính chất tiêu cực, đang bị xã hội lên án, phê phán.
2


1.1.3. Cũng giống như yêu cầu đối với dạng đề nghị luận về một tư tưởngđạo lí, học sinh cần làm rõ hiện tượng đời sống (qua việc miêu tả, phân tích
nguyên nhân, các khía cạnh của hiện tượng…), từ đó thể hiện thái độ, sự đánh

giá của bản thân cũng như đề xuất các ý kiến, giải pháp trước hiện tượng đời
sống. Để miêu tả hiện tượng, học sinh có thể giải thích sơ lược hiện tượng nếu
cần thiết, từ đó trình bày các biểu hiện của hiện tượng.
Trong thực tế giảng dạy, khi tiếp xúc với các em học sinh lớp 10, thậm
chí cả học sinh lớp 11, 12 tôi nhận thấy rằng nhiều em chưa chú ý đến dạng đề
bài này; các em còn lúng túng chưa biết cách nhận dạng yêu cầu của đề bài,
cũng như chưa biết cách làm bài văn về một hiện tượng đời sống. Sau một thời
gian nghiên cứu, tìm tòi và thể nghiệm, tôi đã rút ra một vài kinh nghiệm, đưa ra
một số giải pháp nhằm giúp học sinh nâng cao hiệu quả làm văn nghị luận xã
hội về một hiện tượng đời sống.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Giúp giáo viên nhận thấy việc đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả làm văn nghị luận xã hội về một hiện tượng đời sống cho học sinh nói
chung và học sinh lớp 10 nói riêng là hợp lý và cần thiết.
- Giúp học sinh trang bị thêm kiến thức và có những giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao hiệu quả làm văn nghị luận xã hội về một hiện tượng đời sống.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu về một số giải pháp giúp học sinh lớp 10THPT nâng cao hiệu quả làm văn nghị luận xã hội về một hiện tượng đời sống.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
- Phương pháp phân tích- chứng minh
- Thông qua kinh nghiệm thực hiện giảng dạy đối với chương trình đổi
mới, sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10.
2. Nội dung “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 10- THPT nâng cao hiệu
quả làm văn nghị luận xã hội về một hiện tượng đời sống”
3



2.1.

Cơ sở lí luận.

Thực hiện nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (1-1993), Nghị quyết Trung
ương 2 khóa VIII (12-1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (2005), được
cụ thể hóa trong các Chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo đặc biệt Chỉ thị số 14
(4-1999) về định hướng đổi mới phương pháp dạy và học.
Luật Giáo dục, điều 28.2 đã ghi ‘‘...phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với
đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện
kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm
vui, hứng thú học tập cho HS.’’
Thực hiện yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học nên GV cần
vận dụng các phương pháp soạn giảng cho phù hợp để tăng khả năng thực hành,
vận dụng lý thuyết khi làm bài cho HS, từ đó có thể phát huy tính tự giác tích
cực của học sinh.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trong thực tế, văn nghị luận xã hội nói chung và nghị luận về một hiện
tượng đời sống nói riêng được đưa vào chương trình phổ thông ở cả hai cấp học
(THCS và THPT). Với vị trí quan trọng đó, văn nghị luận được lựa chọn đưa
vào tìm hiểu và rèn luyện kỹ năng thành lập.
Ở chương trình THCS dạng bài nghị luận này chỉ mang tính giới thiệu và
thực hành ở mức độ đơn giản, chưa tập trung vào việc khắc sâu tri thức và rèn
luyện kỹ năng làm bài dạng nghị luận này. Đến cấp THPT, chương trình lớp 10,
11 có tập trung vào nghị luận về một hiện tượng đời sống nhưng chỉ mang tính
tích hợp cho đến lớp 12 mới chỉ tái hiện lại cách làm bài qua hai bài lý thuyết.
Vì thế, trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy thực tế đến lớp 12 học sinh vẫn
còn rất mơ hồ phương pháp làm một bài văn nghị luận xã hội về một hiện tượng
đời sống.

Mặt khác, đây là kiểu bài “ khô” “khó” trong chương trình, nó thiên về lí
lẽ, lập luận.Vì thế học sinh thường ngại học, ngại tư duy, ngại tìm hiểu, thu thập
những kiến thức đời sống, xã hội. Khi kiểm tra học sinh làm mang tính chiếu lệ,
4


hình thức, làm cho xong. Vì thế kết quả bài làm văn nghị luận xã hội của học
sinh thường không cao. Đa phần các em vẫn mắc phải những lối cơ bản khi làm
bài: lỗi về từ, lỗi về câu, đặc biệt lỗi về văn bản: thừa ý, thiếu ý, sắp xếp ý lộn
xộn, thiếu dẫn chứng, dẫn chứng không phù hợp…
Đầu năm học, tôi tiến hành kiểm tra khảo sát chất lượng làm văn nghị
luận xã hội về một hiện tượng đời sống ở các lớp trực tiếp giảng dạy, kết quả
thu được không khả quan, cụ thể như sau:
Lớp



số
10 A
42
10 C
45
10 E
38
Tổng-% 125

Điểm 9-10

Điểm 7- 8


Điểm 5-6

Điểm 3-4

Điểm 1-2

0
0
0
0

5- 11,9%
6- 13,3%
3- 7,8%
14- 12,2%

15- 35,7%
17- 37,7%
11- 28,9%
43-34,4%

22-53,4%
20-45,6%
22-39%
64-50,2%

0
2- 4,4%
2- 5,3%
4-3,2%


Từ thực tế trên đây đòi hỏi những giáo viên đứng lớp như tôi phải luôn đặt ra
cho mình câu hỏi: làm thế nào để giúp học sinh có kiến thức và kĩ năng cần thiết
khi làm văn nghị luận xã hội? làm thế nào để nâng cao chất lượng làm văn nghị
luận xã hội nói chung và nghị luận xã hội về hiện tượng đời sống nói riêng?
Từ thực trạng trên đây, việc hình thành kiến thức và kĩ năng là văn nghị
luận xã hội về hiện tượng đời sống là thực sự cần thiết. Nhất là với các em học
sinh mới vào học lớp 10. Việc này giúp các em củng cố, khắc sâu kiến thức đã
học ở chương trình THCS, đồng thời làm bước đệm vững chắc cho các em
trong những năm học tiếp theo.
Xuất phát từ cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn trên đây, tôi mạnh dạn áp
dụng ý tưởng của mình, đưa ra một số giải pháp nhằm giúp học sinh nâng cao
hiệu quả làm văn nghị luận xã hội về một hiện tượng đời sống.
2. 3. Một số giải pháp giúp học sinh lớp 10- THPT nâng cao hiệu quả làm
văn nghị luận xã hội về một hiện tượng đời sống.
2.3.1. Cung cấp hệ thống kiến thức lí thuyết cơ bản về văn nghị luận một
hiện tượng đời sống.
5


* Khái niệm.
Nghị luận về một hiện tượng đời sống là kiểu bài lấy một hiện tượng xảy
ra trong đời sống để bàn bạc. Từ hiện tượng này, người nghị luận phải phân tích
để tìm ra ý nghĩa xã hội về tư tưởng, đạo đức mà bàn bạc, đánh giá. Đề tài bàn
bạc gần gũi với đời sống, phù hợp với trình độ nhận thức của HS như : nhận
thức về vấn đề tai nạn giao thông, hiện tượng môi trường bị ô nhiễm, những tiêu
cực trong thi cử, nạn bạo hành trong gia đình, phong trào thanh niên tiếp sức
mùa thi, cuộc vận động giúp đỡ đồng bào hoạn nạn, những tấm gương người tốt
việc tốt,...
* Các thao tác lập luận cơ bản.

Các thao tác lập luận cơ bản thường được sử dụng trong kiểu bài này là
giải thích, phân tích, chứng minh, so sánh, bác bỏ, bình luận.
* Nội dung cơ bản.
- Nêu rõ hiện tượng bàn luận và vấn đề đặt ra trong hiện tượng đời sống
bàn luận .
- Phân tích mặt đúng, mặt sai, mặt tích cực, mặt tiêu cực, mặt lợi, mặt hại
…của hiện tượng đời sống .
- Chỉ ra nguyên nhân và bày tỏ thái độ, ý kiến của người viết về hiện
tượng xã hội đó.
2.3.2. Hướng dẫn học sinh nhận diện đề.
* Trước bất cứ đề nghị luận nào, giáo viên đều phải hướng dẫn học sinh
đọc kỹ, gạch chân dưới những từ ngữ then chốt và tự trả lời các câu hỏi:
- Vấn đề cơ bản đặt ra trong đề bài là gì?
- Cần sử dụng thao tác lập luận nào để nghị luận ?
* Đối với đề bài dạng nghị luận về một hiện tượng đời sống có ba dạng :
6


- Dạng 1 : Dạng đề bài bàn về một hiện tượng đời sống có tính chất tiêu
cực.
- Dạng 2 : Dạng đề bài bàn về một hiện tượng đời sống có tính chất tích
cực.
- Dạng 3 : Dạng đề bài bàn về một hiện tượng đời sống có cả tính chất tích
cực và tiêu cực.
Như vậy, việc giúp các em nhận diện được đề bài yêu cầu thuộc
dạng nào là rất quan trọng. Đây là định hướng cơ bản đầu tiên cho những
bước tiếp theo.
2.3.3. Thực hành tìm ý và lập dàn ý.
Thực hành tìm ý và lập dàn ý sẽ định hướng cho nội dung bài viết một
cách đầy đủ, logic, khoa học, giúp người viết làm chủ nội dung và thời gian.

Đối với mỗi dạng, mỗi đề bài có một cách tiến hành tìm ý và lập dàn ý
khác nhau. Tùy thuộc vào mỗi dạng đề bài để có dàn ý khái quát cho phù hợp.
a. Mở bài
- Giới thiệu hiện tượng đời sống cần nghị luận.
- Xác định vấn đề đặt ra cần nghị luận trong hiện tượng.
b. Thân bài
- Nêu thực trạng của hiện tượng .
- Xác định nguyên nhân của thực trạng hiện tượng.
- Đánh giá, phân tích mặt tốt - xấu, tích cực – tiêu cực, lợi – hại… của vấn
đề.
- Đề xuất giải pháp cho vấn đề: phát huy, khắc phục…
c. Kết bài
- Tóm tắt chốt lại vấn đề.
7


- Rút ra bài học.
- Nêu suy nghĩ và hướng hành động của bản thân đối với vấn đề.
Hoặc có thể lập dàn ý dựa vào hệ thống từ khóa đặt cho mỗi phần.
Đặt từ khóa cho 3 phần theo kết cấu của bài văn, như sau :
Mở bài: Gợi – Đưa – Báo



+ Gợi : là Gợi ý ra vấn đề cần nghị luận.
+ Đưa : sau khi gợi thì Đưa vấn đề cần nghị luận ra.
+ Báo : là Báo phải làm gì về vấn đề đưa ra nghị luận ( có tính chuyển
ý ).
Thân bài : Thực – Nguyên – Hậu – Biện




+ Thực : nêu lên Thực trạng hiện tượng đời sống đưa ra nghị luận.
+ Nguyên : là Nguyên nhân nào xảy ra hiện tượng đời sống đó
( nguyên nhân khách quan và chủ quan ).
+ Hậu : là Hậu quả của hiện tượng đời sống mang lại, gồm có hậu
quả tốt và hậu quả xấu.
+ Biện : là Biện pháp tác động vào hiện tượng đời sống để ngăn chặn
(nếu gây ra hậu quả xấu) hoặc phát triển (nếu hậu quả tốt).
Kết bài : Tóm – Rút – Phấn



+ Tóm : Tóm tắt, khái quát lại vấn đề đã nghị luận.
+ Rút : Rút ra ý nghĩa, bài học từ hiện tượng đời sống đã nghị luận.
+ Phấn : Phấn đấu, bày tỏ thái độ của bản thân về hiện tượng đời
sống đã nghị luận.
2.3.4. Hướng dẫn thực hành bằng các dạng đề minh hoạ
2.3.4.1. Gợi ý dạng đề bài bàn về một hiện tượng đời sống có tính chất
tiêu cực.
Đề bài : Ý kiến của anh / chị về nạn bạo hành trong xã hội.
* Gợi ý :
- Miêu tả hiện tượng :

8


+ Nạn bạo hành – sự hành hạ, xúc phạm người khác một cách thô bạo, làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, tinh thần của người khác.
+ Nạn bạo hành thể hiện ở nhiều góc độ, nhiều phương diện của đời sống xã

hội : Không chỉ là sự hành hạ thể xác người khác bằng bạo lực mà còn hành hạ
về tinh thần. Nạn bạo hành diễn ra trong gia đình, trường học, xã hội ; phụ nữ,
trẻ em thường là nạn nhân của nạn bạo hành.
- Nguyên nhân của hiện tượng :
+ Do bản tính hung hăng, thiếu kiềm chế của một số người.
+ Do ảnh hưởng của phim ảnh mang tính bạo lực ( nhất là tầng lớp thanh
thiếu niên).
+ Do áp lực cuộc sống.
+ Do sự thiếu kiên quyết trong việc xử lí nạn bạo hành.
- Tác hại to lớn của hiện tượng.
+ Làm tổn hại tới sức khỏe, tinh thần của con người.
+ Làm ảnh hưởng tới tâm lí, sự phát triển nhân cách, đặc biệt là tuổi trẻ.
- Ý kiến, thái độ của bản thân.
+ Cần lên án đối với nạn bạo hành.
+ Cần xử lí nghiêm khắc hơn với những người trực tiếp thực hiện hành vi
bạo hành.
+ Cần quan tâm, giúp đỡ kịp thời đối với nạn nhân của bạo hành.
2.3.4.2. Gợi ý dạng đề bài bàn về một hiện tượng đời sống có tính
chất tích cực.
Đề bài: Hãy trình bày ý kiến của anh / chị về một nếp sống đẹp trong xã
hội hiện nay.
* Gợi ý:
- Đây là dạng đề “mở”, HS có thể tùy theo cảm nhận của mình, chọn một
nếp sống đẹp đang được chú ý trong xã hội hiện nay.
- HS có thể chọn một nếp sống đẹp, từ đó tiến hành các bước giống như
trên ( miêu tả nếp sống đẹp; phân tích những tác động tích cực của nếp sống đẹp

9



đối với xã hội, nguyên nhân của hiện tượng; thái độ, ý kiến của người viết về
nếp sống đẹp).
- Sau đây là một số gợi ý về nếp sống đẹp trong xã hội hiện nay:
+ Sự đồng cảm và sẻ chia.
+ Sự hưởng ứng “ giờ trái đất”.
+ Thái độ kiên quyết chống lại những biểu hiện tiêu cực trong cuộc sống.
+ Sự tôn vinh những tấm gương dũng cảm, hiếu học, hiếu thảo.
+ Sự xuất hiện của các phong trào, các chương trình, các cuộc vận động
về an toàn giao thông, giữ gìn môi trường, cảnh quan đô thị…( chẳng hạn phong
trào tiếp sức mùa thi của sinh viên các trường Đại học, chương trình ngôi nhà
ước mơ, vượt lên chính mình do đài truyền hình TPHCM thực hiện…).
2.3.4.3. Gợi ý dạng đề bài bàn về một hiện tượng đời sống có cả hai
mặt tích cực và tiêu cực.
Đề bài:
Hiện nay Ngành Giáo dục đang phát động phong trào “ Nói không với
tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”. Em có suy nghĩ gì về
vấn đề này?
* Gợi ý
- Giới thiệu vấn đề cần nghị luận.
- Nêu bản chất, biểu hiện của vấn đề.
+ Tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục, trở thành căn
bệnh khá trầm trọng và phổ biến hiện nay. Nó thể hiện qua một số biểu hiện
chính sau:
• Xin điểm, chạy điểm.
• Mua bằng cấp.
• Xin chạy cho con vào trường chuyên, lớp chọn.
• Thi hộ, thi thuê.
• Chạy chức, chạy quyền…
+ Bệnh thành tích trong giáo dục:
• Báo cáo không đúng thực tế.

10


• Bao che khuyết điểm để lấy thành tích.
• Coi trọng số lượng chứ không coi trọng chất lượng.
• HS: Học để lấy bằng cấp, phát biểu chỉ để được cộng điểm…
• Số Giáo sư, Tiến sĩ, các nhà khoa học nhiều nhưng ít có những cải tiến
sáng tạo.
- Phân tích đúng, sai, lợi, hại.
+ Lợi: trước mắt cho cá nhân- không cần bỏ công sức nhiều nhưng vẫn đạt
kết quả cao.
+ Hại: để lại hậu quả nghiêm trọng và lâu dài.
• Các thế hệ học sinh được đào tạo ra không có đủ trình độ để tiếp cận
với công nghệ hiện đại, đất nước ít nhân tài.
• Tạo thói quen cho học sinh ngại học, ngại thi, ngại sáng tạo.
• Tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội.
- Nguyên nhân của hiện tượng.
+ Do gia đình: Không muốn con vất vả mà vẫn đạt kết quả cao.
+ Do nhà trường: Muốn học sinh có thành tích cao để báo cáo.
+ Do xã hội: Hệ thống luật chưa nghiêm, chưa cụ thể, chưa thực sự coi
trọng nhân tài, nhận thức của nhiều người còn hạn chế…
- Cách khắc phục.
+ Phải giáo dục nhận thức cho học sinh và toàn thể xã hội để họ nhận thức
được rằng chỉ có kiến thức thực sự họ mới có chỗ đứng trong xã hội hiện đại.
+ Xã hội phải thực sự coi trọng những người có kiến thức, có thực tài và
lấy đó làm tiêu chuẩn chính để sử dụng họ.
+ Phải có một hệ thống pháp luật, luật giáo dục chặt chẽ, nghiêm ngặt, xử
lí nghiêm những sai phạm. Cách ra đề thi, chấm thi phải đổi mới để sao cho học
sinh không thể hoặc không giám tiêu cực.
- Thâu tóm lại vấn đề, khẳng định, phủ định, rút ra bài học cho bản thân.

* Lưu ý: Nhằm nâng cao kỹ năng thực hành của học sinh về cách làm bài
văn về một hiện tượng đời sống, giáo viên yêu cầu học sinh nhận diện đề ở dạng
11


đề nào, ứng với mỗi dạng áp dụng cho một dàn bài cụ thể để các em làm bài đạt
kết quả cao nhất.
2.3.5. Thực hành viết đoạn văn, bài văn nghị luận.
- Sau khi nhận diện đề; tìm ý và lập dàn ý xong, dựa trên hệ thống luận
điểm, luận cứ đã xác định học sinh viết thành đoạn văn, bài văn hoàn chỉnh.
3.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm trong thực nghiệm dạy học hướng
dẫn học sinh lớp 10- THPT nhằm nâng cao hiệu quả làm văn nghị luận xã
hội về một hiện tượng đời sống.
Việc hướng dẫn học sinh thực hiện một số giải pháp về làm văn nghị luận
về một hiện tượng đời sống, trước hết giúp các em nhận diện được yêu cầu của
đề bài, từ đó biết cách làm bài văn nghị luận về một hiện tượng đời sống ứng với
mỗi dạng đề. Khi các em biết cách làm bài văn nghị luận về một hiện tượng đời
sống sẽ giúp các em dễ dàng định hướng cách làm bài, nâng cao năng lực tư duy
trong giờ thực hành làm văn nghị luận.
Có 96,7 % ý kiến của các em cho rằng việc giáo viên đưa ra các giải pháp
hướng dẫn các em cách làm bài là cần thiết.
( Bảng phân bố phần trăm ý kiến học sinh về việc Giáo viên đưa ra các
giải pháp hướng dẫn các em cách làm bài là cần thiết hay không cần thiết)
( %)
Ý kiến
Cần thiết
Không cần thiết
Tổng số

%

96,7
3,3
100,0

Việc hướng dẫn các em thực hiện một số giải pháp về làm văn nghị luận
về một hiện tượng đời sống giúp các em trong quá trình ôn tập, kiểm tra, nhận
diện được yêu cần của đề bài nhanh hơn, làm bài đạt kết quả cao hơn. Sau khi
hướng dẫn học sinh thực hiện một số giải pháp làm văn nghị luận về một hiện
tượng đời sống, mức độ nhận diện đề và khả năng làm bài của học sinh như sau:
( Bảng phân bố phần trăm kết quả khảo sát của giáo viên về khả năng nhận diện
đề và khả năng làm bài của học sinh)
12


( %)
Mức độ nhận diện
Nhận diện và làm bài nhanh
Nhận diện và làm bài chậm
Không nhận diện được đề và

%
71,9
23,1
5,0

không biết cách làm bài
Tổng số

100,0


Với ý tưởng như trên, bản thân tôi đã áp dụng thực hiện trong năm
học 2015- 2016 và thông qua kết quả học tập của học sinh, quan sát thái độ học
tập, thăm dò ý kiến của học sinh đã có kết quả thay đổi rất tích cực. Cụ thể như
sau:
Lớp



số
10 A
42
10 C
45
10 E
38
Tổng- % 125

Điểm 9-

Điểm 7- 8

Điểm 5-6

10
1- 2,4%
2- 4,4%
1 – 2,6%
4- 3,2%

12- 28,6%

14- 37,8%
10- 26,3%
36- 28,8%

26- 61,9%
21- 46,7%
24- 63,2%
71- 60,2%

Điểm 3-4 Điểm 1-2
3- 7,1%
5- 11,1%
3- 7,9%
11- 8,8%

0
0
0
0- 0%

Qua đối chiếu với các số liệu trên đây tôi nhận thấy: so với kết quả đầu
năm học ( khi chưa áp dụng giải pháp nêu trên) thì đến cuối năm( sau khi đã áp
dụng giải pháp) chất lượng làm văn nghị luận về một hiện tượng đời sống đã
nâng lên rõ rệt. Điều đó có thể khẳng định việc đưa ra một số giải pháp về làm
văn nghị luận về một hiện tượng đời sống đã có hiệu quả tích cực trong quá trình
dạy học. Những giải pháp đó không chỉ áp dụng đối với học sinh lớp 10 mà còn
có thể áp dụng cho đối tượng học sinh lớp 11 và lớp 12. Đây là kết quả đáng vui
mừng đối với tôi và các em học sinh lớp 10 do tôi phụ trách.

13



3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận.
Đối với học sinh nằm ở lứa tuổi 15 - 16 về tâm sinh lí chưa phát triển toàn
diện, khả năng suy luận chưa cao, vì vậy việc cung cấp kiến thức lí thuyết cho
các bài làm văn không phải dễ dàng. Do đó, đối với giáo viên đứng lớp phải
sáng tạo trong cách dạy, phải bằng mọi phương pháp hình thành trong nhận thức
của các em, giúp cho các em sau khi học xong phần văn nghị luận về một hiện
tượng đời sống có sự hình dung dạng văn nghị luận này khác với các dạng văn
khác mà các em đã học.
Vì vậy, việc đưa ra một số giải pháp trong quá trình làm bài văn nghị luận
về một hiện tượng đời sống cũng là một quá trình giáo dục về nhân cách cho học
sinh, giúp các em thấy yêu văn thơ hơn...
Trên đây là kết quả tìm tòi nghiên cứu và khảo nghiệm về một vấn đề
mang tính cấp thiết, tìm hướng đi hiệu quả cho việc hướng dẫn các em có thể
làm bài văn nghị luận về một hiện tượng đời sống có hiệu quả tốt nhất. Đây là
một phần hết sức quan trọng trong rèn luyện kỹ năng thành lập văn bản, và là
một phần không thể thiếu trong bài thi tốt nghiệp THPT sau này của học sinh.
Chính vì thế, việc đưa ra một số giải pháp cho các em học sinh lớp 10 khi
làm bài văn nghị luận về một hiện tượng đời sống thực sự cần thiết, nó sẽ làm
bước đệm vững chắc và khắc sâu kiến thức cho các em sau này.
3.2. Kiến nghị.
* Đối với các cấp lãnh đạo nhà trường
Nhà trường nên có thêm nhiều sách, tài liệu tham khảo, phòng đọc sách
để học sinh có điều kiện học tập, có kế hoạch phân phối thời gian học tập( học
phụ đạo, học bồi dưỡng) để chất lượng học tập của các em ngày một hiệu quả.
* Đối với giáo viên
Sự tích lũy kiến thức xã hội của học sinh là một quá trình lâu dài, không
thể tích lũy một sớm một chiều mà là cả một quá trình trải nghiệm, tiếp nhận

kiến thức. Vì thế nói hướng dẫn tích lũy kiến thức xã hội trong một thời gian
ngắn quả là điều không tưởng. Tuy vậy, giáo viên phải biết định hướng vùng
14


kiến thức để các em kịp thời xâu chuỗi, bổ sung thông qua sách vở, các phương
tiện thông tin đại chúng, bạn bè, người thân, thầy cô…
Trong thời điểm hội nhập quốc tế và kinh tế thị trường nảy sinh nhiều vấn
đề khiến xã hội đang rất quan tâm, thiết nghĩ giáo viên ngoài việc cung cấp thêm
kiến thức để học sinh nắm bắt được thì cũng cần hướng dẫn, khuyến khích các
em thường xuyên tìm hiểu thêm thông tin qua việc đọc sách, báo, truy cập
Internet ... để vốn kiến thức của các em phong phú hơn, giúp các em viết văn
trôi chảy và tự tin trong quá trình làm văn liên quan đến vấn đề nghị luận xã hội.
Giáo viên cần tăng cường tiết phụ đạo để có nhiều thời gian bồi dưỡng,
cung cấp thêm kiến thức cho các em nhưng điều quan trọng là giáo viên cần
hướng dẫn cho các em cần đọc những tài liệu nào và các em khi viết phải biết
chắt lọc những thông tin như thế nào. Để học đi đôi với hành, củng cố luyện tập
những kiến thức mà giáo viên cung cấp, giáo viên cần cho các em thực hành
nhiều, viết nhiều ( có thể là những đoạn văn ngắn) liên quan đến nhiều vấn đề xã
hội bức xúc hiện nay.
* Đối với học sinh
Yêu cầu đối với các em là phải đọc sách nhiều hơn, am hiểu xã hội nhiều
hơn, tập kĩ năng tranh luận, suy luận một vấn đề, biết nhận thức vấn đề đó đúng
hay sai; đúng sai như thế nào để hình thành cho các em một tư tưởng đúng đắn,
có lập trường vững vàng. Thường xuyên tham gia các hoạt động ngoại khóa để
tích lũy thêm kiến thức xã hội, liên hệ thực tế cho bài viết thêm sinh động.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Thanh Hoá, ngày 20 tháng 04 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của

mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết

Trương Thị Hồng

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu tập huấn “ Dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định
hướng phát triển năng lực học sinh”- Bộ GD& ĐT- 2014
2. Sách giáo khoa Ngữ văn 10, 11,12 – NXB Giáo dục – năm 2009.
3. Sách giáo viên Ngữ văn 10,11,12- NXB Giáo dục – năm 2009.
4. Dạy văn ở trường phổ thông – Nguyễn Thị Thanh Hương – NXB ĐHQG Hà
Nội – 2001.
5. Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THPT, môn Ngữ văn của Bộ giáo
dục- NXB Giáo dục.

16



×