Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Áp dụng phương pháp xêmina trong giờ đọc hiểu văn bản văn học ở trường THPT theo hướng tích hợp liên môn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.42 KB, 22 trang )

SỞGIÁO
GIÁODỤC
DỤCVÀ
VÀĐÀO
ĐÀOTẠO
TẠOTHANH
THANHHÓA
HÓA
SỞ
TRƯỜNGTHPT
THPT
LƯƠNGĐẮC
ĐẮCBẰNG
BẰNG
TRƯỜNG
LƯƠNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP XÊMINA
SÁNG KIẾN KINH NGHI
TRONG GIỜ ĐỌC HIỂU MÔN NGỮ VĂN THPT
THEO HƯỚNG TÍCH HỢP LIÊN MÔN

Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Anh
Chức vụ:PHÁP
giáo viên
ÁP DỤNG PHƯƠNG
XÊMINA
SKKN thuộc lĩnh vực môn : Ngữ văn
TRONG GIỜ ĐỌC HIỂU


MÔN NGỮ VĂN THPT

THEO HƯỚNG TÍCH HỢP LIÊN MÔN THANH HÓA NĂM
2016

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
1.1. Cơ sở lí luận:

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
1

THANH HÓA, NĂM 2016


I. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Cơ sở lí luận:
Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là một quá trình đổi mới từ mục
tiêu,phương pháp, phương tiện, đánh giá chất lượng dạy học, cách xây dựng
chương trình, cách quản lí, cho đến vai trò của người dạy, người học.
Hoà cùng với mục tiêu đổi mới chung của chương trình THPT, nhiều
phương pháp dạy học thúc đẩy vai trò tích cực của người học đã được phát huy,
trong đó có phương pháp Xêmina. Thuật ngữ Xêmina được dùng để chỉ một
phương pháp nghiên cứu, khám phá vấn đề với mục đích phát huy tính tích cực,
vai trò chủ động của người học. Trong hoạt động dạy học, đặc biệt là đối với bộ
môn Ngữ Văn, Xêmina là một trong những phương pháp đắc lực giúp cho người
học nắm được nội dung bài học một cách sâu sắc, hiệu quả. Thực chất đây
không phải là một phương pháp mới lạ, ít ra nó đã có từ thời Xôcrat (theo

Phương pháp dạy học văn- Phan Trọng Luận- NXBQG 1996- T 171) và ngày
càng được ứng dụng rộng rãi ở nhiều nơi trên thế giới.
Xêmina là một phương pháp được tiến hành theo hình thức thảo luận, trao
đổi giữa người học với nhau hoặc giữa học sinh với giáo viên về một vấn đề,
một tư tưởng, một đối tượng nào đó. Hình thức thảo luận này được tổ chức trong
phạm vi lớp học, nhóm học với vai trò nhằm phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của người học. Người học được phép bày tỏ thẳng thắn quan điểm, suy
nghĩ của mình về vấn đề mà cuộc thảo luận đưa ra. Người học được sử dụng lí
lẽ, lập luận để bảo vệ quan điểm của mình đồng thời có thể phản bác những
quan điểm trái ngược. Với học sinh THPT, có thể những suy nghĩ các em đưa ra
còn hạn chế, thậm chí thơ ngây phiến diện nhưng nhiệm vụ của giáo viên là điều
chỉnh những suy nghĩ, cảm nhận đó theo hướng tích cực. Rõ ràng đây là một
phương pháp đáp ứng được yêu cầu của việc đổi mới dạy- học. Cùng với các
phương pháp dạy học mới như phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đọc
hiểu… phương pháp xêmina mang tính chất thảo luận sôi nổi, hào hứng chắc
chắn sẽ giúp học sinh cảm nhận được cái hay cái đẹp của tác phẩm văn chương,
nuôi dưỡng niềm say mê văn chương trong tâm hồn các em. “Giờ học văn không
phải là cơ hội để giáo viên truyền đạt những hiểu biết của bản thân cho dù đó là
những hiểu biết rất sáng tạo, rất mới mẻ. Giờ học không phải để truyền sáng tạo
mà để khơi dậy sáng tạo cho học sinh. Học sinh không phải là cái bình đựng mà
là ngọn đèn cần được thắp sáng”. Xêmina rõ ràng đã thắp sáng niềm yêu thích
say mê đối với môn Ngữ văn cho học sinh. Đổi mới chương trình giáo dục phổ
thông là một quá trình đổi mới từ mục tiêu,phương pháp, phương tiện, đánh giá
chất lượng dạy học, cách xây dựng chương trình, cách quản lí, cho đến vai trò
của người dạy, người học.
Hoà cùng với mục tiêu đổi mới chung của chương trình THPT, nhiều
phương pháp dạy học thúc đẩy vai trò tích cực của người học đã được phát huy,
2



trong đó có phương pháp Xêmina. Thuật ngữ Xêmina được dùng để chỉ một
phương pháp nghiên cứu, khám phá vấn đề với mục đích phát huy tính tích cực,
vai trò chủ động của người học. Trong hoạt động dạy học, đặc biệt là đối với bộ
môn Ngữ Văn, Xêmina là một trong những phương pháp đắc lực giúp cho người
học nắm được nội dung bài học một cách sâu sắc, hiệu quả. Thực chất đây
không phải là một phương pháp mới lạ, ít ra nó đã có từ thời Xôcrat (theo
Phương pháp dạy học văn- Phan Trọng Luận- NXBQG 1996- T 171) và ngày
càng được ứng dụng rộng rãi ở nhiều nơi trên thế giới.
Xêmina là một phương pháp được tiến hành theo hình thức thảo luận, trao
đổi giữa người học với nhau hoặc giữa học sinh với giáo viên về một vấn đề,
một tư tưởng, một đối tượng nào đó. Hình thức thảo luận này được tổ chức trong
phạm vi lớp học, nhóm học với vai trò nhằm phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của người học. Người học được phép bày tỏ thẳng thắn quan điểm, suy
nghĩ của mình về vấn đề mà cuộc thảo luận đưa ra. Người học được sử dụng lí
lẽ, lập luận để bảo vệ quan điểm của mình đồng thời có thể phản bác những
quan điểm trái ngược. Với học sinh THPT, có thể những suy nghĩ các em đưa ra
còn hạn chế, thậm chí thơ ngây phiến diện nhưng nhiệm vụ của giáo viên là điều
chỉnh những suy nghĩ, cảm nhận đó theo hướng tích cực. Rõ ràng đây là một
phương pháp đáp ứng được yêu cầu của việc đổi mới dạy- học. Cùng với các
phương pháp dạy học mới như phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đọc
hiểu… phương pháp xêmina mang tính chất thảo luận sôi nổi, hào hứng chắc
chắn sẽ giúp học sinh cảm nhận được cái hay cái đẹp của tác phẩm văn chương,
nuôi dưỡng niềm say mê văn chương trong tâm hồn các em. “Giờ học văn không
phải là cơ hội để giáo viên truyền đạt những hiểu biết của bản thân cho dù đó là
những hiểu biết rất sáng tạo, rất mới mẻ. Giờ học không phải để truyền sáng tạo
mà để khơi dậy sáng tạo cho học sinh. Học sinh không phải là cái bình đựng mà
là ngọn đèn cần được thắp sáng”. Xêmina rõ ràng đã thắp sáng niềm yêu thích
say mê đối với môn Ngữ văn cho học sinh.
Trong xu thế đổi mới giáo dục, đổi mới chương trình, sách giáo khoa hiện
nay, bộ môn ngữ văn cũng đã có bước chuyển mình tích cực. Đó là sự kết hợp

thành tựu giữa một bộ môn nghệ thuật với thành tựu nghiên cứu của ngành khoa
học tiếng Việt, làm văn những năm đầu thế kỉ XXI trên cơ sở ứng dụng thành
tựu của các ngành tâm lí học, lí luận dạy học hiện đại và quan điểm dạy học lấy
trung tâm chủ thể là người học.Từ cơ sở lí luận trên, Bộ đã xây dựng một
chương trình ngữ văn tích hợp các phân môn văn học, làm văn, tiếng Việt, lí
luận văn học với các mục tiêu hình thành nhận thức, giáo dục thẩm mĩ,rèn luỵên
kĩ năng và đang dần dần từng bước hướng tới tích hợp liên môn. Môn Ngữ Văn
trước hết là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, điều đó nói lên tầm quan
trọng của nó trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh.
Môn Ngữ Văn còn là một môn học thuộc nhóm công cụ. Điều đó nói lên mối
quan hệ giữa Ngữ Văn và các môn khác. Học môn Ngữ Văn sẽ có tác động tích
cực đến kết quả học tập các môn khác và các môn khác cũng góp phần giúp học
3


tốt môn Ngữ Văn. Cho nên tự nó cũng toát nên yêu cầu tăng cường tính thực
hành giảm lý thuyết gắn với đời sống. .
Việc giảng dạy theo quan điểm tích hợp không phủ định việc dạy các tri
thức, kỹ năng riêng của từng phân môn, đồng thời đó còn là sự tích hợp liên
môn giữa Ngữ văn và các môn học khác như Lịch sử, Địa lý… Vấn đề là làm
thế nào phối hợp các tri thức, kĩ năng thuộc các môn học đó vào trong bài dạy
thật nhuần nhuyễn nhằm đạt tới mục tiêu chung của môn Ngữ Văn. Nhờ những
hoạt động thiết thực, bổ ích của ngành Giáo dục nên vấn đề dạy học tích hợp
liên môn không còn là một vấn đề xa lạ với đội ngũ các thầy cô giáo. Tuy nhiên,
từ hiểu đến vận dụng và vận dụng có hiệu quả vào thực tế giảng dạy là cả một
vấn đề, nhất là đối với những giáo viên dạy môn Ngữ văn. Khái niệm Tích hợp
được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ, có hệ thống, ở những mức độ khác
nhau các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học khác nhau hoặc các hợp phần
của bộ môn thành một nội dung thống nhất, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí
luận và thực tiễn được đề cập đến trong các môn học hoặc các hợp phần của bộ

môn đó. Tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại đang được quan
tâm nghiên cứu và áp dụng trong chương trình giáo dục của nhiều nước trên thế
giới và ở Việt Nam trong những năm gần đây. Qua việc hoạt động tích hợp trong
một tiết lên lớp, học sinh được rèn luyện thói quen tư duy, nhận thức vấn đề một
cách có hệ thống và lôgic, đồng thời thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các
kiến thức được học trong chương trình. Nhờ đó sẽ xóa bỏ lối dạy học theo kiểu
khép kín, tách biệt giữa nhà trường và cuộc sống; cô lập giữa những kiến thức
và kĩ năng vốn có mối liên hệ, bổ sung cho nhau hay tách rời kiến thức với các
tình huống có ý nghĩa, những tình huống cụ thể mà HS sẽ gặp sau này. Dạy học
tích hợp sẽ phát huy được tính tích cực chủ động và sáng tạo của HS; buộc HS
chủ động tự đọc, tự làm việc độc lập theo SGK, theo hướng dẫn của giáo viên.
Do đặc thù riêng của môn học, việc tích hợp trong giờ học Ngữ văn là hoạt động
phức hợp đòi hỏi sự tích hợp các kĩ năng, năng lực liên môn để giải quyết nội
dung gắn với thực tiễn. Đó có thể là sự tích hợp tri thức, kĩ năng tiếng Việt và
Làm văn để giúp HS thực sự cảm được cái hay, cái đẹp, sự tinh tế, độc đáo của
tiếng mẹ đẻ, bồi dưỡng cho HS năng lực sử dụng tiếng Việt đúng và hay; chú
trọng rèn luyện cho HS cách diễn đạt giản dị, trong sáng, chính xác, lập luận
chặt chẽ, có suy nghĩ độc lập. Đó cũng có thể là sự tích hợp những hiểu biết về
lịch sử, văn hóa, xã hội, đạo đức, lối sống để đánh giá, lý giải một hiện tượng
văn học, một chi tiết nghệ thuật hay để đề xuất một thái độ, một quan điểm
sống...Có thể tích hợp liên môn như: tích hợp Ngữ Văn – Lịch sử , tích hợp Ngữ
Văn – Địa lý, tích hợp Ngữ Văn – Âm nhạc, tích hợp Ngữ Văn – Mỹ thuật …
Do đó, để đạt đến thành công trong giờ đọc hiểu tác phẩm văn chương
theo hướng tích hợp, không thể không kể đến vai trò tổ chức, điều khiển của
người giáo viên. Với phương pháp Xêmina, giáo viên đã biến học sinh trở thành
trung tâm của giờ học, được bày tỏ ý kiến, cảm nhận của mình, được sử dụng lí
lẽ, lập luận để bảo vệ chính kiến của mình, được khám phá hình tượng văn học
4



và được sử dụng các tri thức đó để cảm nhận vẻ đẹp đích thực của tác phẩm văn
chương theo cách riêng của mình.
1. 2. Cơ sở thực tiễn:
Thực trạng của việc dạy và học Ngữ văn trong trường THPT hiện còn
những tồn tại là nội dung của giờ học chưa thực sự tạo được hứng thú học đối
với học sinh. Học sinh hiểu một cách rời tạc, hời hợt về kiến thức Ngữ văn,
không nắm được mối liên hệ hữu cơ giữa các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã
hội, về kiến thức liên môn… Dạy học theo chủ đề tích hợp là một trong những
nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và dạy học Ngữ văn nói riêng,
đây được coi là một quan niệm dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực
của học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục. Dạy học tích hợp làm cho
người học nhận thức được sự phát triển xã hội một cách liên tục, thống nhất,
thấy được mối liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội, khắc phục
được tính tản mạn rời rạc trong kiến thức. Dạy học tích hợp liên môn trong Ngữ
văn là hình thức liên kết những kiến thức giao thoa với môn Ngữ văn như Lịch
sử, Địa lí, Giáo dục công dân. Rèn luyện kĩ năng sống, giáo dục bảo vệ di sản
văn hóa địa phương… để học sinh tiếp thu kiến thức, biết vận dụng vào cuộc
sống và ngược lại từ cuộc sống để giải quyết các vấn đề liên quan đến môn
học…… Khi bàn về hiện trạng phương pháp dạy học, ta thấy rằng, trong một
thời gian dài, người thầy được trang bị phương pháp để truyền thụ tri thức cho
học sinh theo quan hệ một chiều: Thầy truyền đạt, trò tiếp nhận. Ở một phương
diện nào đó, khi sử dụng phương pháp này thì các em học sinh - một chủ thể của
giờ dạy - đã “bị bỏ rơi” giáo viên là người sốt sắng và nỗ lực đi tìm chiếc chìa
khoá mở cửa cái kho đựng kiến thức là cái đầu của học sinh, và người thầy đem
bất kỳ một điều tốt đẹp nào của khoa học để chất đầy cái kho này theo phạm vi
và khả năng của mình. Còn người học sinh là kẻ thụ động, ngoan ngoãn, cố gắng
và thiếu tính độc lập. Để chiếm được vị trí số một trong lớp, người học sinh phải
có được không phải một tính ham hiểu biết khôn cùng của một trí tuệ sắc sảo mà
phải có một trí nhớ tốt, phải thật cố gắng để đạt được điểm số cao trong tất cả
các môn học. Ngoài ra, phải chăm lo sao cho quan điểm của chính mình phù hợp

với quan điểm của thầy cô giáo nữa. Trong phương pháp dạy học truyền thống,
chú ý đến người giáo viên và ít quan tâm tới học sinh. Học sinh như “cái lọ” mà
người thầy phải nhét đầy “lọ” này như thế nào? Tính thụ động của học sinh được
bộc lộ rất rõ ràng. Học sinh chỉ phải nhớ những gì người ta đã cung cấp cho nó ở
trạng thái hoàn thành. Nếu quan niệm nghệ thuật dạy học là nghệ thuật thức tỉnh
trong tâm hồn học sinh tính ham hiểu biết, dạy các em biết suy nghĩ và hành
động tích cực, mà tính ham hiểu biết đúng đắn và sinh động chỉ có được trong
đầu óc sảng khoái. Nếu nhồi nhét kiến thức một cách cưỡng bức thì hiệu quả
giáo dục khó có thể như mong muốn. Để học sinh chủ động, tích cực, sáng tạo
trong học tập thì tất yếu phải đổi mới phương pháp giảng dạy mà dạy học theo
hướng tích hợp liên môn qua phương pháp Xêmina là một cách làm hữu hiệu.
Trong nhà trường TH PT hiện nay , môn ngữ văn hiện vẫn được coi là
một môn học chính nhưng một nghịch lí vẫn xảy ra là đa số học sinh đều ngại
5


học, thậm chí chán gét. Nguyên nhân một phần do xu thế xã hội, do người dạy,
một phần do quan niệm văn chương xa rời cuộc sống, không mang lại hiệu quả
thiết thực cho việc đảm bảo tương lai sau này của học sinh.Vậy nên nếu tích hợp
được dạy văn theo hướng liên môn thì sẽ khẳng định được văn chương không xa
rời cuộc sống mà rất gắn bó với cuộc sống, với sự sống còn của con người.
2. Mục đích nghiên cứu:
Với mong muốn làm thay đổi không khí của một giờ đọc hiểu văn bản
văn học, tạo niềm say mê hứng thú trong học sinh đối với môn Ngữ văn, tiến tới
đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông, người viết hi vọng cung cấp
được cho bạn đọc những thông tin về phương pháp Xêmina và kinh nghiệm vận
dụng phương pháp này trong giờ đọc hiểu văn bản văn học theo hướng tích hợp
liên môn, góp phần làm phong phú hơn phương pháp giảng dạy bộ môn. Đây sẽ
là một tư liệu có tính chất gợi mở, giúp người dạy- học văn có thêm một con
đường tiếp cận tác phẩm văn chương đầy bổ ích, lí thú và hứng khởi và thiết

thực.
3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Phương pháp Xêmina được áp dụng trong rất nhiều các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội loài người từ khoa học đến kinh tế, chính trị…Tuy
nhiên, trong giới hạn của công trình nghiên cứu này, người viết chỉ muốn bày tỏ
một vài suy nghĩ về việc áp dụng phương pháp Xêmina trong giờ đọc hiểu văn
bản văn học ở nhà trường THPT theo hướng tích hợp liên môn. Cũng trong giới
hạn nhỏ hẹp của công trình nghiên cứu, người viết không thể khảo sát được toàn
bộ nội dung các tác phẩm văn học ở chương trình THPT mà chỉ tập trung vào
một số văn bản:
- Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
- Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- Một người Hà Nội của Nguyễn Khải.
Qua đó, người viết hi vọng sẽ cung cấp cho người dạy một phương hướng
tiếp cận tác phẩm theo phương pháp mới, từ đó có thể áp dụng linh hoạt trong
các giờ dạy khác của chương trình.
Hiện nay, đối tượng áp dụng phương pháp Xêmina trong giờ học văn
thường là sinh viên của các trường đại học. Điều này hoàn toàn hợp lí vì với lứa
tuổi này nguời học đã có sự hoàn thiện hơn học sinh phổ thông về khả năng tự
học, thái độ nghiên cứu, lối tư duy hệ thống,logic cũng như khả năng lập luận.
Hơn nữa sự phân khoa chuyên môn cũng giúp người học có một quĩ thời gian
thích hợp để chuyên sâu nghiên cứu. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là học
sinh phổ thông chưa có để giáo viên áp dụng phương pháp Xêmina trong giờ
đọc hiểu tác phẩm văn chương. Thực tế dạy học đã chứng minh không ít giáo
viên- đặc biệt là giáo viên có năng lực,có tâm huyết đã áp dụng phương pháp
Xêmina trong giờ dạy học Văn một cách có hiệu quả. Ngay bản thân người viết
công trình này đã từng thử nghiệm nhiều giờ đọc hiểu ở các lớp 12A9, 11A3,
6



12A10(trường THPT Lương Đắc Bằng). Từ kinh nghiệm cá nhân, kết hợp với
kinh nghiệm của các đồng nghiệp khác- người viết thấy rằng đây là một phương
pháp dạy học được học sinh hưởng ứng, thích thú nhưng lại chưa được quan tâm
đúng mức và áp dụng khá dè dặt ở nhà trường THPT. Thiết nghĩ, việc vận dụng
phương pháp Xêmina trong giờ đọc hiểu văn bản văn học là vô cùng cần thiết và
hoàn toàn có thể áp dụng được.
3.2. Phương pháp nghiên cứu:
Viết công trình này, người viết đã vận dụng nhiều phương pháp khác
nhau:
- Phương pháp tổng kết thực nghiệm
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp khảo sát lí thuyết.

II. PHẦN NỘI DUNG
Áp dụng phương pháp Xêmina trong giờ đọc hiểu văn bản văn học theo
hướng tích hợp liên môn, người học hoàn toàn có thể tích cực, chủ động khám
phá tri thức, biết vận dụng vào cuộc sống và ngược lại từ cuộc sống để giải
quyết các vấn đề liên quan đến môn học. Điều này không có nghĩa là hạ thấp vai
trò của người dạy. Bất kì phương pháp dạy học theo yêu cầu đổi mới nào cũng
đều phải có sự tham gia và hoạt động tích cực từ cả hai phía giáo viên và học
sinh. Phương pháp Xêmina trong dạy học Ngữ văn theo hướng tích hợp liên
môn vừa đề cao vị trí của người học- người phát ngôn, người bày tỏ quan điểm,
song đồng thời cũng nhấn mạnh vai trò không thể thiếu của người dạy- người
hướng dẫn, người nêu vấn đề. Nếu một trong hai yếu tố đó hoạt động kém hiệu
quả thì sẽ ảnh hưởng lớn đến kết quả giờ học. Vậy khi áp dụng phương pháp
Xêmina trong giờ đọc hiểu văn bản văn học theo hướng tích hợp liên môn, giáo
viên và học sinh vừa phải có những hoạt động chuẩn bị và tiến hành phù hợp với

phương pháp Xêmina vừa phải tuân theo những qui tắc của dạy học theo hướng
thích hợp liên môn.Trên cơ sở đó, phần nội dung người viết tập trung nghiên
cứu các vấn đề sau:
• Một số nguyên tắc khi áp dụng phương pháp Xêmina trong giờ đọc
hiểu văn bản văn học theo hướng tích hợp liên môn
• Hoạt động của giáo viên
• Hoạt động của học sinh
1. Một số nguyên tắc khi áp dụng phương pháp Xêmina trong giờ đọc hiểu
văn bản văn học theo hướng tích hợp liên môn
1. 1 .Đảm bảo đặc trưng của môn học:
Văn học trước hết là một bộ môn nghệ thuật nên khi dạy phải chú ý đến đặc
thù của bộ môn.Thông qua hình tượng nghệ thuật, các phương thức biểu hiện
người đọc phải tổ chức cho học sinh nắm được các giá trị nội dung và nghệ

7


thuật của tác phẩm, tích hợp những hiểu biết về lịch sử, địa lí, văn hóa, xã hội,
đạo đức, lối sống để đánh giá, lý giải một hiện tượng văn học, một chi tiết nghệ
thuật hay để đề xuất một thái độ, một quan điểm sống... . Từ đó tạo rung cảm
thẩm mĩ cho học sinh, hướng tới việc tiếp nhận cái đẹp, cái tốt, lên án, phê
phán, đấu tranh loại trừ cái ác, cái xấu, hướng tới sự hoàn thiện nhân cách, hình
thành những kĩ năng sống cũng như kĩ năng đọc hiểu văn bản văn học.
1. 2. Đảm bảo nguyên tắc dạy học hiện đại:
Phải lấy học sinh làm trung tâm, chủ thể tiếp nhận kiến thức, giáo viên chỉ
đóng vai trò là người định hướng gợi mở cho học sinh tiếp nhận kiến thức.
Phương pháp Xêmina đương nhiên đã đảm bảo tối đa nguyên tắc này. Tuy
nhiên, để tránh việc thảo luận rơi vào tình trạng tản mạn hoặc rời rạc, thiếu tập
trung, hoặc lặp đi lặp lại một cách không cần thiết những gì đã trình bày, giáo
viên cần sử dụng bảng như một phương tiện đắc lực phục vụ cho giờ học.

Những ý kiến, luận chứng mà học sinh nêu ra được phân loại và ghi cả lên bảng
để cả lớp tiện theo dõi. Với dung lượng của 1- 2 tiết thảo luận, giáo viên cần có
phương pháp để ghi bảng đầy đủ, rõ ràng mà không sơ lược các ý kiến của học
sinh. Qua đó tiết kiệm được thời gian, tập trung được vào nội dung cơ bản của
giờ thảo luận và nhất là cung cấp cho các em một dàn ý hệ thống, giúp các em
tràn đầy hứng khởi thích thú nhưng vẫn nắm chắc nội dung bài học. Bên cạnh đó
giáo viên phải bằng nghệ thuật sư phạm của mình đưa học sinh đi đến một kết
luận thống nhất cuối cùng một cách tự nguyện chứ không phải là khiên cưỡng,
áp đặt. Ngoài ra, khi tiến hành thảo luận, tất cả mọi vấn đề phải được đem ra bàn
bạc trong sự công bằng, dân chủ và tôn trọng lẫn nhau. Do vậy, sự phản bác
không bao giờ được xem là đồng nghĩa với bài bác, thiếu thiện chí.
1. 3. Đảm bảo đặc trưng thể loại: Phải xuất phát từ đặc trưng thể loại mà khai
thác các giá trị của tác phẩm. Đối với các tác phẩm tự sự phải xuất phát từ việc
khai thác những điển chính về về tác giả, phong cách nhà văn, hoàn cảnh ra đời
của tác phẩm, cốt truyện, người kể chuyện, ngôn ngữ kể chuyện, nhân vật cho
đến nghệ thuật xây dựng nhân vật, từ đó mà khái quát nên nội dung tư tưởng, giá
trị nghệ thuật của tác phẩm. Đối với tác phẩm trữ tình phải xuất phát từ cảm xúc,
tâm trạng thi nhân, từ ngôn ngữ, nhạc điệu tác phẩm mà đến với giá trị đích thực
của nó. Thể tùy bút, bút kí lại có đặc điểm riêng. Tác giả kí khéo sử dụng tài liệu
đời sống kết hợp với tưởng tượng, cảm thụ, nhận xét, đánh giá. Tất nhiên đan
xen vào mạch tự sự còn có những đoạn thể hiện suy tưởng nhận xét chân thực,
tinh tường của nhà văn trước sự việc. Cái thú vị của kí là ở những ý riêng, suy
nghĩ riêng của tác giả được đan cài với việc tái hiện đối tượng. Vì vậy, sức hấp
dẫn của kí chính là ở khả năng tái hiện sự thật một cách sinh động của tác giả.
Kí ít chấp nhận sự hư cấu, do đó phải dựa vào những liên tưởng, tưởng tượng
bất ngờ, tài hoa của tác giả khi phản ánh sự vật, cuộc sống. Điều ấy làm nên cái
hay cái đẹp của một tác phẩm kí. Nổi bật lên trong tác phẩm kí chính là tính chủ
quan, chất trữ tình sâu đậm của cái tôi tác giả. Đọc hiểu kí phải dựa trên đặc
trưng thể loại, tổ chức cho học sinh phát hiện ra nét tương đồng và khác biệt của


8


đối tượng được tác giả phản ánh trong tác phẩm kí so với những đối tượng
tương tự có thật ở ngoài đời.
1.4. Đảm bảo yêu cầu tích hợp phù hợp: Không tích hợp gượng ép, tràn lan.
Cần tích hợp một cách tự nhiên, hợp lí, không khiên cưỡng. Mặt khác, nội dung
tích hợp cần phải được lựa chọn kĩ càng, tránh làm chương trình thêm nặng nề,
quá tải, tránh sa vào cách dạy theo hướng xã hội hoá dung tục làm cho giờ học
khô khan, nhàm chán, kém hiệu quả.
2. Hoạt động của giáo viên:
2.1. Lựa chọn bài dạy:
Chương trình môn Ngữ văn ở trường THPT do bộ giáo dục biên soạn có một nội
dung bao quát vô cùng rộng lớn. Chỉ riêng các bài đọc hiểu văn bản văn học
cũng đã bao quát toàn bộ nền văn học Việt Nam từ cổ chí kim. Không chỉ giới
hạn trong lãnh địa quốc gia, chương trình còn mở rộng ra phạm vi thế giới. Với
một biên độ rộng lớn như vậy, không phải và chắc chắn là không nên áp dụng
phương pháp Xêmina với tất cả mọi tác phẩm văn chương được đưa vào giảng
dạy trong chương trình, dù cho do đặc thù bộ môn hầu như bài học ngữ văn nào
cũng có thể dạy học theo hướng tích hợp liên môn. Thực tế cho thấy không phải
tác phẩm nào cũng có thể áp dụng phương pháp Xêmina và sử dụng nó như một
thứ chìa khóa tối ưu trong việc mở đường cho học sinh tiếp cận cái hay, cái đẹp
của tác phẩm văn chương. Bởi vậy, để có một giờ học mang tính thảo luậnXêmina, giáo viên cần lựa chọn tác phẩm giảng dạy thích hợp nhằm phát huy
cao độ những lợi thế của phương pháp này. Việc lựa chọn nội dung dạy là hết
sức quan trọng vì nó sẽ quyết định rất lớn đến lòng sau mê, hứng thú của học
sinh, đến không khí sôi nổi của giờ thảo luận. Đây là bước đi đầu tiên làm cơ sở,
nền tảng cho những bước sau này.
Vấn đề đặt ra ở đây là: Kiểu loại tác phẩm nào thì được coi là thích hợp để
áp dụng phương pháp Xêmina?
Trước hết, đó phải là tác phẩm mang tính vần đề. Ở đây tính vấn đề có

nghĩa là trong bản thân tác phẩm đó phải hàm chứa những vấn đề cần trao đổi,
cần bàn bạc. Với loại tác phẩm này, thường sẽ có nhiều hướng cảm nhận, nhiều
cách lí giải khác nhau- thậm chí đối lập nhau. Điều này là hoàn toàn hợp lí, bởi
lẽ nếu chọn một tác phẩm được coi là kinh điển, chuẩn mực, đơn tầng thì sẽ
chẳng có nhiều băn khoăn, khúc mắc để mà bàn bạc,trao đổi, giải trình. Bởi vậy
sẽ là thích hợp hơn cả nếu giáo viên chọn những tác phẩm còn tồn tại nhiều cách
hiểu, chứa đựng nhiều vấn đề tranh cãi. Thực tế trong chương trình ngữ văn
THPT có không ít những tác phẩm có sức mê hoặc đã làm hao tốn giấy mực của
giới phê bình. Nhiều cuộc tranh luận quyết liệt đã diễn ra trên báo chí. Nhiều
công trình nghiên cứu đã đưa ra những lập luận chặt chẽ để bảo vệ chính kiến
của mình. Tiếp nhận văn chương là một hoạt động mang đậm tính cá nhâ , do
vậy không thể áp đặt, cưỡng ép. Tuy nhiên, dù hiểu theo cách nào thì mục đích

9


cuối cùng của hoạt động tiếp nhận vẫn là cảm được cái hay, cái hấp dẫn của tác
phẩm đó. Đơn cử như bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử là bức tranh thôn
Vĩ, bức tranh xứ Huế mộng mơ hay là tâm cảnh con người đau thương, bi kịch?
Dáng hình con người trong bài thơ là hư hay thực, là bóng hình lữ thứ hay con
người Vĩ Dạ? Trường hợp truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa cũng để lại nhiều
câu hỏi: sự cam chịu của người đàn bà hàng chài là đáng thương hay đáng trách?
Nhân vật Phùng trong câu chuyện là người nghệ sĩ say mê cái đẹp hay người
lính với những trăn trở, suy tư đầy trách nhiệm trước cuộc đời?....
Những tác phẩm còn nhiều tranh cãi đó bao giờ cũng chứa đựng những vấn đề
để ngỏ cho học sinh tiếp tục khám phá, tìm tòi. Khi nghiên cứu những tác phẩm
này, học sinh không có cảm giác lặp lại điều đã cũ. Cái mới, cái còn bí ẩn bao
giờ cũng là cái lôi cuốn con người nhiều nhất. Vấn đề là ở chỗ, giáo viên phải
biết nhìn ra tính vấn đề của tác phẩm để lựa chọn, phát huy phương pháp thảo
luận.

Tuy nhiên, không phải chỉ những tác phẩm chứa đựng tình vấn đề mới cần
được đem ra bàn bạc. Đối với những tác phẩm lớn, có khả năng bao quát hiện
thực rộng, chứa đựng những thành công nghệ thuật đặc sắc cũng có thể đưa ra
làm đối tượng tổ chức xêmina cho học sinh. Ở đây, vấn đề thảo luận không dừng
lại ở chỗ hiểu đúng- hiểu sai, mà mở rộng giới hạn đến chỗ thảo luận, phân tích
làm sáng tỏ giá trị của tác phẩm đó. Truyện Kiều (Nguyễn Du) với nhiều thành
công đặc sắc về nghệ thuật cũng như chiều sâu tư tưởng sẽ là mảnh đất khai phá
không bao giờ cạn của người học văn. Chí Phèo (Nam Cao), Vợ nhặt(Kim Lân),
Ai đã đặt tên cho dòng sông (Hoàng Phủ Ngọc Tường), Một người Hà Nội
(Nguyễn Khải), Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng)…là những tác phẩm
lớn thể hiện được những thành công sau mọi nỗ lực tìm tòi, khám phá, sáng tạo
của nhà văn. Tất cả những tác phẩm đó đều có thể được tiếp cận bằng phương
pháp xêmina. Đối với kiểu loại tác phẩm này giáo viên hướng dẫn học sinh trên
cơ sở kiến thức liên môn để khám phá cái hay, cái độc đáo, chỗ thành công,
điểm sáng tạo mới mẻ của nhà văn trên cả hai phương diện nội dung và hình
thức. Mỗi học sinh đều có thể tự khám phá một phương diện nhất định nào đó
của tác phẩm. Trong vai trò là người dẫn dắt, giáo viên sẽ tổng hợp mọi tham
luận, cung cấp cho người học một cái nhìn có tính chất toàn diện về tác phẩm,
cảm thấu được cái hay, cái đẹp của tác phẩm một cách sâu sắc nhất.
2.2. Định hướng chuẩn bị cho học sinh
2.2.1.Xác định nội dung, đề tài thảo luận:
Sau khi chọn được bài dạy để áp dụng phương pháp Xêmina, giáo viên phải
tiến hành một bước tiếp theo là định hướng chuẩn bị cho học sinh. Đây là bước
quan trọng quyết đinh đến sự thành công hay thất bại của giờ thảo luận. Bởi vậy
sự chuẩn bị của giáo viên phải hết sức công phu từ nhiều ngày trước khi tiến
hành giờ học. Bất kì một giờ học áp dụng phương pháp xêmina nào cũng phải có
sự định hướng chuẩn bị trước, nếu không giờ học dễ rơi vào trạng thái nhàm
chán, thiếu thuyết phục. Vậy việc định hướng của giáo viên đối với hoạt động
của học sinh diễn ra như thế nào?
10



Đầu tiên, giáo viên phải đưa ra được nội dung thảo luận, đề tài thảo luận.
Ở đây, nội dung và đề tài thảo luận hoàn toàn không thể đồng nhất với đối
tượng, kiểu loại tác phẩm. Giáo viên phải chỉ rõ cho học sinh thấy vấn đề cần
làm sáng tỏ, cần thảo luận ở một đối tượng cụ thể là vấn đề gì. Việc đưa ra đề tài
thảo luận rất quan trọng, giúp học sinh có định hướng cơ bản trong việc nghiên
cứu, lập luận để bày tỏ ý kiến của mình. Đề tài thảo luận mà giáo viên đưa ra
phải là những vấn đề có khả năng bao quát toàn bộ tác phẩm, chi phối toàn bộ
những chi tiết, hình ảnh trong cấu trúc nội tại của tác phẩm. Đặc biệt, đề tài thảo
luận đó phải hướng tới gợi mở những kiến thức liên môn, từ đó thôi thúc học
sinh huy động năng lực liên môn để cảm, hiểu tác phẩm cũng như giải quyết
những vấn đề thực tiễn đời sống. Đề tài thảo luận dứt khoát không thể là những
vấn đề tản mạn, vun vặt có tính chất rời rạc. Có như vậy giá trị nội dung và nghệ
thuật của tác phẩm mới được hiện lên rõ rệt qua cuộc thảo luận.
Ví dụ: Khi chọn Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử) để áp dụng phương pháp
Xêmina theo hướng tích hợp liên môn, giáo viên nên đưa ra các cách hiểu khác
nhau về bài thơ để làm đề tài thảo luận cho học sinh. Giáo viên nêu lên ba cách
hiểu khác nhau đòi hỏi học sinh bộc lộ quan điểm của mình, trình bày cách hiểu
của mình về nội dung bài thơ.
- Cách hiểu thứ nhất: Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ về vẻ đẹp thơ mộng, hữu tình
của làng Vĩ Dạ, của xứ Huế.
- Cách hiểu thứ hai: Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ về tình yêu thầm kín của nhà thơ
với một cô gái Huế.
- Cách hiểu thứ ba: Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ về tâm trạng đau thương, bi kịch
và tình đời tha thiết của một thân phận bất hạnh.
Như vậy học sinh đã được đưa vào tình huống có vấn đề buộc phải suy ngẫm để
bộc lộ chính kiến của mình. Khi bộc lộ chính kiến bản thân, học sinh đồng thời
xuất hiện ý thức lí giải, khẳng định lập trường của mình và phản bác ý kiến đối
cực.

Tuy nhiên, đưa ra vấn đề có tính chất tổng quát để học sinh tự tìm tòi thôi là
chưa đủ. Với đối tượng là học sinh phổ thông bình thường, giáo viên cần có một
hệ thống câu hỏi mang tính chất gợi mở, định hướng cho học sinh làm sáng tỏ
vấn đề tổng quát. Hệ thống câu hỏi này phải bám sát vấn đề tổng quát nhằm
phục vụ đắc lực cho vấn đề tổng quát. Bởi vậy, nó đi sâu xem xét những từ ngữ,
hình ảnh, những tình tiết trong một hệ thống logic có liên quan ràng buộc lẫn
nhau nhằm giải thích một cách thuyết phục cho vấn đề tổng quát, làm sáng tỏ
vấn đề thảo luận. Hệ thống câu hỏi gợi mở này là công cụ hữu hiệu nhất để giáo
viên dạy tích hợp liên môn, tích hợp bộ phận ,tức là chia nhỏ, rải đều vào trong
từng phần, từng khâu một cách hợp lí. Không tích hợp hoàn toàn , ôm đồm kiến
thức gây cảm giác nặng nề ,quá tải, thiên về phân tích văn học theo hướng xã
hội hoá dung tục. Chẳng hạn khi phân tích ý nghĩa của chi tiết gia đình ông
Bằng trong tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng ta thấy được
không khí tất niên linh thiêng trong sự đoàn tụ sum vầy của gia đình và truyền
thống tổ tiên là sợi dây gắn kết con người, ngay cả khi quan hệ đó đang trên đà
11


rạn vỡ. Từ đó học sinh cảm nhận một cách thấm thía và đầy đủ nhất vẻ đẹp và
giá trị của một nét văn hóa truyền thống dân tộc trong quá khứ, hiện tại và cả
tương lai. Theo đó, tự bản thân các em sẽ có ý thức giữ gìn truyền thống tốt đẹp
đó.Với đề tài thảo luận về nội dung bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử) mà ta
đã đề cập ở trên, giáo viên có thể hướng học sinh lưu tâm đến mấy vấn đề chi
tiết sau:
* Bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ, xứ Huế được miêu tả như thế nào qua từng khổ
của bài thơ?(Chú ý sự thay đổi của thiên nhiên trong từng khổ thơ)
* Cảm nhận về vẻ đẹp xứ Huế và tâm tình nhà thơ trong từng khổ thơ?Tâm tình
đó là nhất quán hay biến đổi? Tại sao?
* Từ bài thơ, bằng những hiểu biết của em, hãy cảm nhận về thôn Vĩ, về Huế
xưa và nay( Cần liên hệ so sánh với văn chương viết về Huế, đối chiếu với thực

tế địa lí, lịch sử Vĩ Dạ, xứ Huế)
Tuy nhiên không phải chi tiết nào trong tác phẩm cũng cần phân tích, bình
giá, cũng có thể tích hợp liên môn. Chỉ những chi tiết, những yếu tố phục vụ cho
việc làm sáng tỏ vấn đề, làm nổi bật đề tài mà cuộc hội thảo đưa ra thì mới nên
xoáy sâu tìm hiểu. Đây là điều quan trọng để tạo nên một giờ thảo luận tập
trung, tránh tình trạng lan man, rời rạc.
Đối với những tác phẩm không chứa đựng nhiều tranh cãi thì việc thảo
luận không nhằm mục đích xác định lối hiểu đúng- sai. Lúc này mục đích thảo
luận là nhằm làm nổi bật cái hay, sự thành công của tác phẩm đó, nhà văn đó.
Giáo viên phải đưa ra được nhiều đề tài để thông qua thảo luận, tác phẩm được
hiện lên với đầy đủ các giá trị và vẻ đẹp của nó.Ví dụ: thảo luận về vẻ đẹp của
dòng sông Hương trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông(Hoàng Phủ Ngọc
Tường), giáo viên có thể gợi ý để học sinh chuẩn bị tham luận ở nhà từ một số
nội dung sau:
* Về vẻ đẹp của dòng sông Hương trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông.
* Về cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng
sông
2.2.2. Giới thiệu tư liệu tham khảo:
Sau khi xác định được nội dung thảo luận, định hướng được cho học sinh vấn
đề cần quan tâm, giáo viên phải giới thiệu tư liệu tham khảo để học sinh tìm đọc
chuẩn bị cho tham luận. Đây là bước quan trọng, sẽ góp phần làm phong phú và
chặt chẽ cho ý kiến mà các em đưa ra. Điều đáng lưu ý là khi đưa ra giới thiệu tư
liệu tham khảo, giáo viên phải quan tâm đến điều kiện, môi trường học tập của
học sinh.Học sinh ở vùng cao, vùng sâu, nông thôn điều kiện học, đọc thêm
không thể bằng những nơi có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển. Bởi vây, tư
liệu tham khảo nên là những tư liệu phổ biến, dễ tìm. Các tư liệu tham khảo có
trong thư viện của trường nên được phát huy tối đa như tác phẩm văn 10,11,12;
Để học tốt môn Ngữ văn..Ngoài ra, nếu có thể, giáo viên nên giới thiệu một số
tư liệu của các nhà phê bình có uy tín để các em tìm đọc. Tuy nhiên cần chú ý
tới lứa tuổi và trình độ lứa tuổi của các em để giới thiệu những tư liệu dễ đọc, dễ

hiểu và phục vụ đắc lực cho nội dung của giờ thảo luận.
12


Với bài Đây thôn Vĩ Dạ học sinh có thể tham khảo các tư liệu sau:
- Tuyển tập thơ Hàn Mặc Tử.
- Thi nhân Việt Nam(Hoài Thanh)
- Bài tập Ngữ văn 11 (Biên soạn mới)
- Một số bài viết về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.
Với bài Ai đã đặt tên cho dòng sông học sinh có thể tham khảo các tư liệu sau:
- Tuyển tập bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Bài tập Ngữ văn 12 (Biên soạn mới)
- Một số bài viết về bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông.
Cuối cùng, giáo viên hướng dẫn cho học sinh lựa chọn cách trình bày tham luận.
Đây là công việc học sinh phải chuẩn bị chu đáo từ nhà. Nói chung việc trình
bày tham luận phải cố gắng đáp ứng yêu cầu: ngắn gon, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu.
Bởi vậy nên hướng học sinh chuẩn bị theo các luận cứ, luận chứng thật rõ ràng,
cụ thể. Giáo viên nên định hướng cho học sinh không trình bày thành một bài
văn dài vì người nghe khó nắm bắt nội dung mà không khí buổi xêmina lại trở
nên tẻ nhạt. Đặc biệt, lúc trình bày trước lớp nên khuyến khích khả năng thuyết
trình của học sinh, hạn chế việc đọc văn bản. Học sinh nên trình bày suy nghĩ
bằng lời nói của chính mình. Có như vậy, tính chất trao đổi, bàn bạc của một giờ
xêmina mới được thể hiện rõ nét, khuấy động không khí sôi nổi cho tiết học.
3. Hoạt động của học sinh:
Xêmina là phương pháp phát huy trí lực học sinh, đáp ứng được yêu cầu đổi mới
phương pháp dạy học. Bởi vậy hoạt động của học sinh trong giờ học theo
phương pháp Xêmina là rất qua trọng, quyết đinh đến sự thành công hay thất bại
của tiết học đó.
3.1. Công việc chuẩn bị:
3.1.1. Đọc tài liệu: Khi được giáo viên đưa ra đề tài thảo luận và tư liệu tham

khảo, học sinh cần có sự nỗ lực rất lớn. Trước tiên, học sinh phải tiến hành đọc
tài liệu. Ở đây, tài liệu quan trọng nhất vẫn là văn bản trong sách giáo khoa. Nếu
chưa nắm được nội dung tác phẩm, chưa đọc tác phẩm sẽ khó lòng giải quyết
được các vấn đề nêu ra trong cuộc thảo luận. Bên cạnh việc nắm vững văn bản,
học sinh cần tìm tòi, nghiên cứu các tài liệu liên quan đến tác phẩm, mà cụ thể là
liên quan đến các vấn đề cần thảo luận trong tác phẩm. Việc đọc các tài liệu này
sẽ cung cấp cho học sinh một cái nhìn có tính toàn diện về đối tượng. đồng thời
phần nào định hướng cho các em cách thức tiếp cận tác phẩm để thuyết trình
cho ý kiến của mình.
Học sinh phải phân loại, tìm ra nguyên nhân tại sao có sự khác biệt trong cảm
nhận của người đọc về cùng một tác phẩm? Nguyên nhân đó, lí lẽ đó thuyết
phục hay không?
Ví dụ 1: khi chuẩn bị cho cuộc thảo luận về nội dung bài thơ Đây thôn Vĩ
Dạ, học sinh khi đọc tài liệu sẽ tìm hiểu được những lí do, những cơ sở dẫn đến
hiểu theo ba cách khác nhau về cùng một bài thơ.
- Cách hiểu thứ nhất: Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ về vẻ đẹp thơ mộng, hữu tình
của làng Vĩ Dạ, của xứ Huế.
13


Cơ sở: + Khổ 1: cảnh vườn thôn Vĩ trong ánh nắng ban mai tinh khiết, tràn đày
sức sống . ( Chữ “mướt” ở đây được dùng rất khéo, nói lên cái tốt tươi của sự
sống trong khu vườn. Màu “xanh như ngọc” là màu xanh như được lọc qua ánh
sáng rất đẹp và gợi cảm). Vườn cây vừa chiếm lĩnh chiều cao của không gian
với những hàng cau cao vút và bề rộng với cây xanh tươi tốt.
+ Khổ 2: khung cảnh thiên nhiên bên dòng sông Hương . . Dòng nước
trôi nhẹ, ngọn gió hiu hiu thổi, những cánh hoa bắp lay lay. Đó là vẻ đẹp êm
đềm, trầm mặc của mảnh đất cố đô tự ngàn đời. Ấn tượng đặc biệt nhất là không
gian ngời ngợi ánh trăng của dòng Hương, con thuyền cũng đầy trăng và ghé
nhiều bến trăng- vẻ đẹp thơ mộng và huyền hoặc

+ Khổ 3: hình bóng giai nhân- một khách đường xa trong không gian
khói sương bảng lảng, nhạt nhòa của Huế.
Tích hợp liên môn với kiến thức địa lí, lịch sử, văn hóa, xã hội : Vĩ Dạ là một
thôn nhỏ bên bờ sông Hương- xứ Huế mộng mơ với những khu vườn xanh tươi,
những hàng cau mang đậm hồn quê. Dòng sông Hương lững lờ chảy qua thành
phố. Trong khói sương bảng lảng, tà áo trắng tinh khiết của nữ sinh Đồng
Khánh lúc tan trường gợi bao nhung nhớ bâng khuâng. Rõ ràng, nhà thơ đã tả
được cái hồn của Vĩ Dạ, của Huế trong những vần thơ đẹp.
Nhịp sống hiện đại, quá trình đô thị hóa nhanh đến chóng mặt đã khiến vẻ đẹp
của Vĩ Dạ thôn chỉ còn là quá vãng. Thôn Vĩ giờ đã vắng những hàng cau,
những vườn cây xanh tốt, để lại nhiều tiếc nuối bâng khuâng. Vì thế, Đây thôn
Vĩ Dạ thành nơi lưu giữ vĩnh hằng một vẻ đẹp của Huế đã không còn trong thực
tại, nhắc nhở ta những tình cảm quê hương đất nước thiêng liêng.
- Cách hiểu thứ hai: Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ về tình yêu thầm kín của nhà
thơ với một cô gái Huế.
Cơ sở: + Hoàn cảnh ra đời của bài thơ gắn với bức bưu ảnh mà cô gái Huế có
tên Hoàng Cúc- mối tình đầu đơn phương thầm kín của Hàn Mặc Tử- gửi cho
nhà thơ khi ông đang quằn quại trong nỗi đau bệnh tật.
+ Hình bóng cô gái Huế ấy cứ thấp thoáng trong suốt bài thơ: một khuôn
mặt phúc hậu thấp thoáng sau lá trúc, hình bóng giai nhân với tà áo trắng tinh
khiết, đại từ ai đầy ẩn ý trong nỗi băn khoăn Ai biết tình ai có đậm đà.
- Cách hiểu thứ ba: Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ về tâm trạng đau thương, bi kịch
và tình đời tha thiết của một thân phận bất hạnh.
Cơ sở: + Hoàn cảnh ra đời của bài thơ khi nhà thơ phải sống cách biệt với thế
giới bên ngoài trong quằn quại đau đớn của bệnh tật.
+Câu hỏi tu từ: Sao anh không về tức muốn lắm mà chẳng thể về được
nữa.
+ Sự chia lìa vô lí của gió mây cũng chính là niềm đau oan trái của thi
nhân khi phải lìa xa cuộc đời giữa tuổi thanh xuân.Chữ kịp mang niềm hoài nghi
lo âu, dự cảm về sự lỡ làng của nhà thơ khi đón đợi thiên nhiên, đón đợi cuộc

đời
+ Ai biết tình ai có đậm đà, câu hỏi tu từ đa nghĩa hàm ẩn tâm trạng hoài
nghi,cô đơn và tuyệt vọng của thi nhân.
14


Tích hợp liên môn: Tâm trạng bất định trong từng khổ thơ nhưng tất cả đều
nhất quán ở tình yêu cuộc sống đến đau đớn của nhà thơ. Niềm thiết tha với
cuộc đời trong hoàn cảnh sắp phải vĩnh biệt cuộc đời sáng lên trong từng vần thơ
trong sáng và giản dị vào bậc nhất của Thơ điên khiến mỗi chúng ta phải suy
nghĩ nhiều hơn về trách nhiệm của mình trước cuộc đời.
Như vậy, từ những cơ sở mà các nhà phê bình dựa vào để đưa ra ba cách hiểu
khác nhau về bài thơ, học sinh có thể tiếp tục bổ sung nhằm thuyết phục , chứng
minh tính đúng đắn trong chính kiến của mình. Điều này đã đem đến cho học
sinh một cái nhìn có tính tổng hợp để có thể giải quyết được câu hỏi mà giáo
viên đưa ra nhằm chuẩn bị cho hội thảo. Việc nghiên cứu tài liệu ở nhà cho phép
học sinh giải quyết các vấn đề giáo viên đặt ra một cách thuận lợi, khoa học.
Ví dụ 2: khi chuẩn bị cho cuộc thảo luận về nội thảo luận về vẻ đẹp của dòng
sông Hương trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông(Hoàng Phủ Ngọc Tường),
học sinh chuẩn bị tham luận ở nhà từ một số nội dung sau:
* Về vẻ đẹp của dòng sông Hương trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông.
- Bài văn miêu tả sông Hương, qua đó thể hiện vẻ đẹp xứ Huế. Tìm và gọi tên
những vẻ đẹp khác nhau của dòng sông Hương? Tác giả đã huy động những
nguồn tri thức nào để xây dựng hình tượng sông Hương?
- Tích hợp kiến thức liên môn: Ở mỗi vẻ đẹp của sông Hương, hãy đối sánh hình
tượng nghệ thuật sông Hương trong bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường với đối
tượng có thật ngoài đời, từ đó cảm nhận về ngòi bút tài hoa và mê đắm của nhà
văn trong bút kí này
* Về cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng
sông

- Từ đặc trưng của thể bút kí, nêu đặc điểm cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường
trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?
- Tích hợp liên môn:Từ cách cảm nhận và miêu tả vẻ đẹp sông Hương của nhà
văn, hãy nêu suy ngẫm của mình về mối quan hệ của con người với thiên nhiên,
cuộc sống xung quanh.
3.1.2. Xây dựng tham luận:
Từ việc nghiên cứu, tham khảo tài liệu, học sinh có thể giải quyết được vấn
đềmà giáo viên đưa ra theo mức độ nông sâu khác nhau tùy vào năng lực cảm
nhận của mỗi người. Nhìn chung, hướng kiến giải của các em sẽ đi theo chiều
hướng sau (tôi đi sâu vào lấy ví dụ về bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông):
- Vẻ đẹp đa dạng của sông Hương từ các góc nhìn: thiên nhiên, văn hóa, lịch sử.
ở mỗi góc nhìn, tác giả đều thể hiện được trí tưởng tượng phong phú và sức sáng
tạo độc đáo. Từ vẻ đẹp sông Hương, ta có thêm những cảm nhận, hiểu biết về
lịch sử, văn hóa, địa lí xứ Huế. Từ kiến thức địa lí, văn hóa, lịch sử, đối chiếu
với thực tế ta càng hiểu hơn tài năng và tầm lòng của nhà văn với quê hương xứ
sở.
+ Ở góc nhìn thiên nhiên: toàn bộ thủy trình sông Hương được nhân hóa thành
một cô gái cá tính, chung tình. Ở thượng nguồn, sông Hương mang trong mình
15


vẻ dữ dội, hoang sơ khiến tác giả hình dung như cô gái Di-gan phóng khoáng,
man dại. Lúc đến đồng bằng, sông Hương dịu dàng, yên ả giống như người gái
đẹp ngủ mơ màng giờ được đánh thức dậy với những phẩm chất nữ tính để bắt
đầu bước vào hành trình đi tìm tình yêu.
Khi sông Hương liên tục đổi dòng, giống như người con gái đang băn khoăn
kiếm tìm đường về với người yêu: thành phố Huế. Khi phát hiện ra thành Huế
của mình, cô gái ấy chợt dâng đầy cảm xúc: tươi vui, yên tâm… Khi bắt gặp
thành phố Huế, cô gái sông Hương như bắt gặp người tình của mình rồi đầy thẹn
thùng, e lệ. Và điệu chảy lững lờ - điệu slow của sông Hương giống như sự đắm

say của đôi lứa trong tình yêu nồng nàn. Khi sông Hương trôi đi, cái dáng uốn
cong ôm lấy thành phố Huế được tác giả hình dung như sự lưu luyến nghẹn
ngào vì phải chia li của lứa đôi.
+ Ở góc nhìn văn hóa: trong suy tưởng của nhà văn, sông Hương như người mẹ
sản sinh và nuôi dưỡng các giá trị văn hóa cổ truyền của xứ Huế. Tác giả đã
chứng minh sông Hương xứng đáng là dòng sông thi ca nhạc họa
+ Ở góc nhìn lịch sử: Tác giả đặt sông Hương trong suốt chiều dài lịch sử để
nhìn nhận, và dường như mỗi lần đi qua những biến cố của thời đại, sông Hương
lại trầm lắng hơn, sâu sắc hơn. Từ góc nhìn lịch sử, con sông của xứ Huế cũng
hiện lên trong cảm hứng say mê ngợi ca của nhà văn. Sông Hương là “dòng
sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Trong
chiến tranh, nó “biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công”. Nhưng khi trở
về đời thường, nó lại lặng lẽ, khiêm nhường làm một “người con gái dịu dàng
của đất nước”. Thì ra, với Hoàng Phủ Ngọc Tường, từ lâu sông Hương đã không
còn đơn thuần là một dòng chảy địa lý mà nó giống như sinh thể có tâm trạng,
nó là một người dân Việt Nam yêu nước trong những năm tháng gian khổ mà
hào hùng của dân tộc. Cũng như những dòng sông khác trên đất nước Việt Nam,
như con người Việt Nam, nó mang trong mình vẻ đẹp truyền thống đã làm thành
bản sắc văn hóa Việt :
Đạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa
(Nguyễn Đình Thi)
Sống vững trãi bốn nghìn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa
Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa
(Huy Cận)
- Đặc điểm của cái tôi tác giả trong bài ký: cái tôi phong phú, uyên bác, tài hoa,
độc đáo và đầy mê đắm trong tình yêu tha thiết với Huế, với quê hương đất
nước.

16


+ Cái tôi nhà văn trong bài kí này là một cái tôi mê đắm và tài hoa. Cái tôi ấy đã
phát huy (dường như là tối đa) trí tưởng tượng bay bổng, khả năng liên tưởng
tuyệt vời cùng kho từ vựng giàu có để tạo dựng nên một dòng sông nghệ thuật
quyến rũ trên mỗi trang văn.
+ Một cái tôi uyên bác, giàu tri thức về lịch sử, địa lý, văn hóa Huế:
Ai đã đặt tên cho dòng sông ? là một bài bút kí. Bản chất của kí là ghi chép và
người viết kí chính là thư kí trung thành nhất của thời đại. Hoàng Phủ Ngọc
Tường là một “thư kí” như thế, thậm chí còn là một “thư kí” xuất sắc vì ông có
vốn hiểu biết sâu rộng về địa lý, lịch sử, văn hóa của sông Hương. Ông tỏ ra am
hiểu tường tận những gì mình viết. Với sông Hương, nhà văn không chỉ thông
thuộc từng bước đi, từng khúc cong, từng ngã rẽ; không chỉ nắm bắt từng chỗ
cuộn xoáy, từng chỗ êm ả, phẳng lặng như mặt hồ yên tĩnh… của con sông trong
từng không gian địa lý mà còn tường tận cả chiều dài lịch sử của sông Hương từ
thuở nó còn là một dòng sông biên thùy xa xôi ở thời đại các vua Hùng… Trong
cái nhìn về địa lý, lịch sử của sông Hương, bên cạnh những tri thức đã xuất hiện
đây đó trong các tài liệu, có những tri thức mà không mấy người biết đến và
nghĩ đến, ngay cả người Huế. Ấy là vai trò to lớn của dòng sông - “người mẹ
phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Lâu nay, ta mới chỉ nhìn sông Hương ở vẻ
đẹp bên ngoài của nó mà hầu như không biết rằng con sông còn là một khởi
nguồn, một sự bắt đầu của một không gian địa lý và văn hóa HuếNhưng thú vị
nhất vẫn là những khám phá, phát hiện và miêu tả của nhà văn về đặc điểm văn
hóa của sông Hương. Dấu tích văn hóa in đậm ở cả trên và hai bên bờ sông. Đó
là cái vẻ trầm mặc như triết lí, như cổ thi của con sông khi chảy bên những lăng
tẩm đền đài của các đời vua chúa triều Nguyễn ; là nền âm nhạc cổ điển đã được
sinh thành trên mặt nước của dòng sông này. Đó còn là dòng sông thi ca – nơi đã
khơi nguồn cảm hứng cho biết bao văn nghệ sĩ, nhất là các nhà thơ. Và nhắc đến
sắc màu văn hóa của sông Hương thiết nghĩ không thể không nhắc đến một giai

thoại đẹp : “…vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ
đã nấu nước của trăm loại hoa đổ xuống dòng sông để làn nước thơm tho mãi
mãi". Có thể nói, bằng những hiểu biết phong phú, nhà văn đã cung cấp cho
người đọc một lượng thông tin lớn về địa lý, lịch sử, văn hóa Huế nói chung và
sông Hương nói riêng. Vốn kiến văn sâu rộng đó hẳn phải là kết quả của nhiều
chuyến du lãm và du khảo của nhà văn suốt dặm dài của mảnh đất cố đô. Nhưng
cái chính vẫn là những trang ghi chép về Hương giang đã được tưới tắm trong
vô vàn cung bậc cảm xúc phong phú của tác giả, đã thăng hoa trong cảm hứng
mê đắm và sự tài hoa của nhà văn.
+ Một cái tôi yêu quê hương đất nước, gắn bó mật thiết với xứ Huế
Phải yêu Huế, gắn bó với sông Hương đến mức nào, Hoàng Phủ Ngọc Tường
mới có được những trang viết đầy ắp tri thức và rất đỗi tài hoa về Hương giang
như vậy. Tài năng nghệ thuật là một phần, cái yếu tố tiên quyết trong nghệ thuật
vẫn là tình cảm, cảm xúc chân thành, sâu đậm... Với Hoàng Phủ Ngọc Tường,
17


sông Hương đã chiếm trọn tâm hồn ông. Chính con sông đã khiến trái tim ông
phải ngân rung những giai điệu yêu thương với những cung bậc khác nhau : khi
thì băn khoăn, trăn trở, e ngại con người – vì “mải mê nhìn ngắm khuôn mặt
kinh thành” của sông Hương – mà có thể “không hiểu một cách đầy đủ bản
chất” của nó, “không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông
hình như không muốn bộc lộ”; khi lại nhớ đến nao lòng một nét sông Hương với
“điệu chảy lững lờ” mà ông gọi là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”; có
khi “thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày” bởi “toàn bộ nền âm nhạc cổ
điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”… Những cảm
xúc ấy chỉ là một số ít trong rất nhiều những biểu hiện của tình cảm gắn bó yêu
thương đối với sông Hương mà nhà văn đã trực tiếp nói ra và kín đáo thể hiện.
Như I.Ê-ren-bua đã từng viết : “Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào đại trường
giang Von-ga, con sông Von-ga đi ra biển. Lòng yêu nhà, yêu gia đình, yêu miền

quê trở thành tình yêu tổ quốc”, tình cảm đối với sông Hương của Hoàng Phủ
Ngọc Tường, xét đến cùng, là tình cảm đối với đất nước, là tấm lòng yêu mến
quê hương xứ sở nồng cháy của nhà văn. Nhà thơ Ra-xun Gam-da-tôp đã từng
nói : “Nếu nhà thơ không tham gia vào việc hoàn thành thế giới thì thế giới đã
không được đẹp đẽ như thế này”. Dù Hoàng Phủ Ngọc Tường không phải là nhà
thơ tiêu biểu (tuy ông đã xuất bản hai tập thơ) mà là một nhà viết kí, nhưng bằng
bài kí đặc sắc này, ông đã góp một tay vào việc tạo nên một thế giới Việt Nam
Đẹp và Thơ.
+ Tích hợp liên môn: Tác giả đã soi bóng tâm hồn mình và tình yêu quê hương
xứ sở vào sông Hương khiến đối tượng trở nên lung linh đa dạng như đời sống
tâm hồn con người.Có biết bao dòng sông quê hương đã soi bóng tâm hồn con
người Việt Nam, nuôi lớn tình cảm bao thế hệ. Nhưng có một thực trạng là
những dòng sông ấy đang bị ô nhiễm rất nặng nề do ý thức của con người. Giữ
gìn vẻ đẹp của những dòng sông chính là cách ứng xử văn minh, thanh lịch với
thiên nhiên, là trân trọng gìn giữ những giá trị văn hóa của đất nước.
3.2. Thao tác thực hành:
Đây là thao tác được thực hiện trên lớp học dưới sự chỉ đạo của giáo viên
và bằng hoạt động trung tâm của học sinh.
Để giờ Xêmina diễn ra khoa học, nên để đại diện từng tổ bày tỏ quan điểm của
mình về cách hiểu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, thuyết trình về cơ sở dẫn đến cách
hiểu ấy. Sau 3- 4 tham luận trình bày, giờ thảo luận đã đưa ra được các cách hiểu
khác nhau về bài thơ. Từ đó, các học sinh khác sẽ góp ý, bổ sung hoặc phản bác
các ý kiến đã đưa ra. Các em có thể tham gia thảo luận bằng cách thuyết trình
trước tập thể lớp. Như vậy, không khí tranh luận sẽ diễn ra rất sôi nổi xung
quanh vấn đề cách hiểu bài Đây thôn Vĩ Dạ. Còn với bút kí Ai đã đặt tên cho
dòng sông, tuy rằng không có những tranh luận trái chiều nhau về nội dung văn
bản nhưng đây là một tác phẩm lớn và thú vị, kết tinh tri thức nhiều lĩnh vực,
gần gũi với đời sống , dạt dào và mê đắm những xúc cảm về thiên nhiên, về quê
hương đất nước nên khi tích hợp kiến thức liên môn sẽ có vô số vấn đề cần bàn
luận, khám phá.Tuy nhiên để không khí sôi nổi, cần phải khuyến khích và lựa

18


chọn các các tham luận mang tính sắc sảo, đưa ra được hệ thống luận cứ, luận
chứng chặt chẽ, rõ ràng, rành mạch để trình bày trước lớp học.

III. KẾT QUẢ
1.Nhận xét chung:
-Với việc xác định nhiệm vụ hướng giải quyết như trên ,cùng với sự giúp đỡ
của lãnh đạo nhà trường, tổ ,nhóm chuyên môn ,tôi đã thu được một số thành
quả đáng kể :Kiến thức cơ bản của bộ môn được khắc sâu hơn, hoạt động
tích hợp liên môn thu được những thành quả ngoài cả sự mong đợi, không
khí giờ học sôi nổi, học sinh hào hứng với tiết học,bài kiểm tra thực nghiệm
của các em đạt kết quả tiến bộ rõ rệt,bản thân tôi cũng thấy hứng thú và thoải
mái sau mỗi giờ lên lớp.
2. Kết quả thực nghiệm cụ thể :
Trước khi áp dụng phương pháp trên:
Lớp

Sĩ số

11A4 49
11A10 46
12A7 45

Giỏi
Số
HS
1
0

0

%
2
0
0

Khá
Số
HS
10
16
8

%
20
35
18

TB
Số
HS
30
20
29

%
60
43
64


Yếu
Số
HS
8
10
7

%
18
22
16

Kém
Số
HS
0
0
1

%
0
0
2

Sau khi áp dụng phương pháp trên
Lớp

Sĩ số


11A4 49
11A10 46
12A7 45

Giỏi
Số
HS
7
5
4

%
14
11
9

Khá
Số
HS
32
26
21

%
66
56
51

TB
Số

HS
10
12
18

%
20
26
36

Yếu
Số
HS
0
3
2

%
0
7
4

Kém
Số
HS
0
0
0

%

0
0
0

IV.KẾT LUẬN:
1. Vài suy nghĩ chung:
- Phương pháp Xêmina cũng như nhiều phương pháp dạy học khác bao giờ cũng
có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Ưu điểm lớn nhất của Xêmina là phát
huy được tính tích cực, làm chủ của học sinh, kích thích năng lực tìm tòi, khám
phá, sáng tạo để các em say mê, hứng thú trong học văn. Bên cạnh đó, việc tích
hợp liên môn còn đưa môn học này về gần với học tập và đời sống, thiết thực
hơn. Nhược điểm lớn nhất của phương pháp Xêmina là đòi hỏi thời gian thảo
luận lớn hơn bình thường nhưng điều này hoàn toàn có thể khắc phục được khi
mà bắt đầu từ năm học 2016- 2017 Bộ GD đã cho phép các tổ nhóm chuyên

19


môn tự điều chỉnh linh hoạt dung lượng các tiết dạy trong khuôn khổ chương
trình qui định để phù hợp hơn với thực tế giảng dạy.
-Đến thời điểm này chúng ta vẫn đang trong lộ trình đổi mới chương trình, SGK
phổ thông theo hướng tích hợp. Vấn đề tích hợp liên môn trong giảng dạy môn
Ngữ văn vẫn còn nhiều bỡ ngỡ nên để thiết kế và giảng dạy thành công một tiết
học theo hướng tích hợp như trên là một việc làm không dễ. Vì vậy viết sáng
kiến kinh nghiệm để trao đổi những phương pháp dạy học mới mẻ, thông minh,
hiệu quả giữa giáo viên với giáo viên là rất cần thiết.
Với đề tài này, tôi nghĩ vẫn còn rất nhiều những vấn đề cần trao đổi, bổ sung,
mở rộng. Tôi hi vọng sẽ được các bạn đồng nghiệp đọc, góp ý, bổ sung, chia sẻ
kinh nghiệm để đề tài được hoàn thiện hơn.
2. Đề xuất:

-Về dung lượng tiết học, tổ nhóm chuyên môn và các ban ngành có liên quan
cần tăng cường thời gian cho những bài học có tính vấn đề hoặc có giá trị bao
quát lớn lao. Khi ấy, ta hoàn toàn có thể áp dụng Xêmina vào việc dạy học Ngữ
văn theo hướng tích hợp liên môn một cách hiệu quả nhất
-Hằng năm ngành đều tổ chức cho giáo viên viết sáng kiến kinh nghiệm, vậy Sở
GD và ĐT nên tập hợp những sáng kiến hay, hiệu quả và xuất bản để chúng tôi
có thể vận dụng rộng rãi những kinh nghiệm quý giá ấy vào quá trình giảng dạy,
để việc viết sáng kiến kinh nghiệm có ý nghĩa thực tiễn hơn.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ:

Xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hóa, ngày 27 tháng 5 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết
Không sao chép nội dung của người khác.

Nguyễn Ngọc Anh

20


PHẦN MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
1.1. Cơ sở lí luận:
1. 2. Cơ sở thực tiễn:
2. Mục đích nghiên cứu:
3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
3.2. Phương pháp nghiên cứu:

II. PHẦN NỘI DUNG
1. Một số nguyên tắc khi áp dụng phương pháp Xêmina trong giờ đọc hiểu
văn bản văn học theo hướng tích hợp liên môn
1. 1 .Đảm bảo đặc trưng của môn học:
1. 2. Đảm bảo nguyên tắc dạy học hiện đại:
1. 3. Đảm bảo đặc trưng thể loại:
1.4. Đảm bảo yêu cầu tích hợp phù hợp:
2. Hoạt động của giáo viên:
2.1. Lựa chọn bài dạy:
2.2. Định hướng chuẩn bị cho học sinh
2.2.1.Xác định nội dung, đề tài thảo luận:
2.2.2. Giới thiệu tư liệu tham khảo:
3. Hoạt động của học sinh:
3.1. Công việc chuẩn bị:
3.1.1.Đọc tài liệu:
3.1.2. Xây dựng tham luận:
III. KẾT QUẢ
1.Nhận xét chung:
2. Kết quả thực nghiệm cụ thể :
IV.KẾT LUẬN:
1. Vài suy nghĩ chung:
2. Đề xuất:

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp dạy học văn, Phan Trọng Luận, NXBquốc gia, 1996.
2. Tuyển tập thơ Hàn Mặc Tử, Trần Thị Huyền Trang biên soạn, NXB Văn hóa
thông tin, 1999

3. Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh- Hoài Chân, NXB văn học, 2005
4. Bài tập Ngữ văn 11 (Biên soạn mới), nhiều tác giả, NXB giáo dục, 2012.
5. Tuyển tập bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường, NXB Trẻ, 2002.
6. Bài tập Ngữ văn 12 (Biên soạn mới), nhiều tác giả, NXB giáo dục, 2012
7. Sách giáo khoa lớp 11, chương trình cơ bản, nhiều tác giả, NXB giáo dục,
2009.
8. Sách giáo khoa lớp 12, chương trình cơ bản, nhiều tác giả, NXB giáo dục,
2009.
7. Sách giáo viên lớp 11, chương trình cơ bản, NXB giáo dục, 2009, nhiều tác
giả.
8. Sách giáo viên lớp 12, chương trình cơ bản, nhiều tác giả, NXB giáo dục,
2009.
9. Đây thôn Vĩ Dạ- Một giấc mơ về cuộc đời Hàn Mặc Tử, Hàn Minh Tâm, Tạp
chí văn học, tháng 10- 2012.
10. Xứ Huế trong bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Minh, NXB Văn học,
1985.
11. Thể kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua một số tác phẩm tiêu biểu, Trần
Mạnh Thường, Tạp chí văn học tuổi trẻ, Tháng 12 năm 2010.
12. Từ điển văn học, NXB văn học, 2005.

22



×