Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Cách lựa chọn và xử lí ngữ liệu để giảng dạy bài văn bản văn học trong chương trình ngữ văn lớp 10 THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.13 KB, 19 trang )

A.ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn đề tài
Chương trình Ngữ văn bậc trung học phổ thông bao gồm ba phân môn cơ
bản: đọc văn; tiếng Việt và làm văn. Phần lí luận văn học thuộc phân môn
đọc văn, chiếm vị trí khá khiêm tốn trong chương trình ngữ văn phổ thông
(3% tổng số tiết dạy), nhưng môn học này lại có vai trò hết sức quan trọng
trong việc giúp người đọc có cách định hướng đúng để khám phá, chiếm lĩnh
các sản phẩm tinh thần của nhà văn, nhà thơ…
Văn bản văn học là một bài lí luận hay và khó, được các nhà nghiên cứu,
đội ngũ giáo viên trực tiếp giảng dạy quan tâm, trao đổi, nỗ lực tìm kiếm
cách đi mới, cách “giản hóa” những kiến thức trừu tượng của đặc trưng môn
học. Điều chúng tôi luôn trăn trở, làm cách nào để học sinh sau khi học biết
vận dụng kiến thức lí luận để đọc hiểu văn bản và làm các bài văn nghị luận.
Muốn vậy, đòi hỏi người giáo viên phải linh hoạt trong việc lựa chọn ngữ
liệu phù hợp với yêu cầu nội dung bài học. Qua thực tế giảng dạy, tích lũy,
chúng tôi đã đúc rút thành sáng kiến kinh nghiệm với đề tài: Cách lựa chọn
và xử lí ngữ liệu để giảng dạy bài Văn bản văn học trong chương trình
Ngữ văn lớp 10 THPT .
II.Mục đích nghiên cứu
Mỗi văn bản văn học là một sản phẩm tinh thần của nhà văn tồn tại độc
lập mang một nét riêng, không thể có sự trộn lẫn, nhưng khi xem xét trên
phương diện nghiên cứu lí luận văn học thì chúng đều có một cấu trúc tầng
nghĩa như nhau.
Qua quá trình hướng dẫn học sinh tìm hiểu lý thuyết về cấu trúc tác
phẩm văn học trong bài Văn bản văn học, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy
việc phân tích ngữ liệu để đánh giá rút ra khái niệm là rất cần thiết và đem lại
hiệu quả cao. Tuy nhiên, nếu đưa mỗi ngữ liệu độc lập để làm rõ một tầng
nghĩa, kết quả học sinh vẫn hiểu nhưng việc khái quát và vận dụng để phân
tích một văn bản cụ thể, trọn vẹn lại rất lúng túng. Qua nghiên cứu và giảng
dạy chúng tôi thấy rằng cần đưa ra một ngữ liệu chung, đồng nhất, giáo viên
hướng dẫn học sinh làm rõ ba tầng nghĩa. Từ đó, học sinh có thể hình dung


được kết cấu các tầng nghĩa của một văn bản văn học và nhận diện tầng
nghĩa ở các văn bản văn học khác một cách dễ dàng.
III. Đối tượng nghiên cứu:
Trong phạm vi đề tài, tôi chỉ trình bày một số kinh nghiệm ở một tiết dạy
cụ thể, đó là “tiết 91: bài Văn bản văn học”và áp dụng cho một đối tượng cụ thể
là học sinh trường THPT Thọ Xuân 5 - Thọ Xuân.
IV. Phương pháp nghiên cứu:

1


- Phương pháp tự nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết:Tôi đã tìm tòi tham
khảo các bài soạn liên quan tới tiết dạy “Văn bản văn học” của các tác giả có uy
tín, từ đó có những so sánh đối chiếu để lựa chọn phương pháp tối ưu nhất
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Tôi đã tổ
chức điều tra, khảo sát, thu thập thông tin về thực tế dạy học liên quan đến đề tài
của mình trong thời gian 2 năm học liên tiếp tại các lớp khối 10 trường THPT
Thọ Xuân 5
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu: : Qua thực tế giảng dạy và đánh giá
kết quả học tập của học sinh bằng những bài kiểm tra tôi đã tiến hành xử lí số
liệu, thống kê đối chiếu kết quả trước và sau khi áp dụng đề tài để rút kinh
nghiệm và khẳng định tính thực tiễn của đề tài.

B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận của SKKN
Lý luận văn học là bộ môn nghiên cứu văn học ở bình diện lý thuyết khái
quát, bao gồm trong đó sự nghiên cứu bản chất của sáng tác văn học, chức
năng xã hội -thẩm mỹ của nó, đồng thời xác định phương pháp luận và
phương pháp phân tích văn học.
Đối tượng nghiên cứu của lí luận văn học được tập hợp thành ba nhóm lý

thuyết chính như: Đặc trưng văn học, cấu trúc tác phẩm văn học và quá trình
văn học đều được đưa vào trong chương trình trung học phổ thông. Lý thuyết
về tính đặc trưng văn học là một hoạt động sáng tạo tinh thần của con người
bao gồm tính hình tượng, tính nghệ thuật, lý tưởng thẩm mỹ, các thuộc tính
xã hội của văn học, các nguyên tắc đánh giá sáng tác văn học nói chung. Lý
thuyết về cấu trúc tác phẩm văn học bao gồm các khái niệm về đề tài, chủ đề,
nhân vật, tính cách, cảm hứng, cốt truyện, kết cấu, các vấn đề phong cách
học, ngôn ngữ, thi pháp, luật thơ ... Lý thuyết về quá trình văn học bao gồm
các khái niệm chính về phong cách, các loại và các thể văn học, các trào lưu,
khuynh hướng văn học và các quá trình văn học nói chung.
Quá trình hình thành văn bản văn học, nhà văn phải đi từ lí thuyết khái
quát đến sáng tạo riêng mang tính cá thể. Quá trình tiếp nhận của người đọc
vì thế không thể bỏ qua nội dung lí thuyết này. Nhưng muốn làm rõ bản chất
vấn đề của phạm trù lí luận, con đường ngắn nhất là nghiên cứu văn bản cụ
thể để rút ra các khái niệm trừu tượng.
II. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN

2


Như đã nói ở trên, là một bài lí luận văn học chiếm vị trí quan trọng
trong chương trình ngữ văn trung học, Văn bản văn học được nhiều nhà
nghiên cứu lí luận, đội ngũ giáo viên định hướng thiết kế thành bài giảng.
Trong sách Thiết kế bài giảng ngữ văn 10, do tác giả Phan Trọng Luận
làm chủ biên, nhà xuất bản giáo dục 2009, ta dễ dàng nhận thấy một bài soạn
công phu và sáng tạo. Hệ thống ngữ liệu được đưa vào bài học khá phong
phú, sinh động, tạo mối liên kết liên văn bản với chương trình ngữ văn trung
học cơ sở.
Trong cuốn sách Thiết kế bài giảng ngữ văn 10, (tập 2) do tác giả Nguyễn
Văn Đường làm chủ biên, Nhà xuất bản Hà Nội, 2006, có hai bản thiết kế bài

giảng. Để tiện theo dõi chúng tôi gọi theo thứ tự được in trong sách là thiết
kế 1 và thiết kế 2. Đối sánh với sách Thiết kế bài giảng ngữ văn 10, do tác
giả Phan Trọng Luận làm chủ biên và thiết kế 1, kết quả cho thấy hai bản
thiết kế bài giảng này hoàn toàn giống nhau về nội dung, ngữ liệu và các
bước tiến hành. Thiết kế 2 được xem là tài liệu tham khảo trong cuốn sách
nhưng người đọc vẫn lĩnh hội được kiến thức và kĩ năng của một bài soạn
hoàn chỉnh.
Ở cả hai cuốn sách với ba thiết kế vừa kể trên đều có những thành công
đáng kể. Hệ thống bài soạn logic, câu hỏi đa dạng, cách tổ chức hoạt động
nhóm và phân bố thời gian hợp lí. Ngoài ra, mục 2 – “ Các tầng nghĩa của
văn bản văn học” được phân tích, khắc sâu bằng nhiều ngữ liệu cho mỗi tầng
nghĩa.
Trang Giáo án điện tử cũng có nhiều thiết kế về bài Văn bản văn học,
nhìn chung khi giải quyết mục 2 đều lựa chọn ngữ liệu riêng cho từng tầng
nghĩa.
Quá trình nghiên cứu, chúng tôi có sự đối sánh giữa nội dung của sách
giáo viên với phần hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa và nhận thấy sự
đồng bộ của hai cuốn sách này với các thiết kế kể trên.
Như vậy, các bài viết trên đã có những thành công nhất định, việc chọn
ngữ liệu độc lập cho từng tiểu mục giúp học sinh nắm bắt nội dung bài học
nhanh. Tuy nhiên, lý luận văn học vốn đã rất phức tạp việc sử dụng ngữ liệu
manh mún, rời rạc, chưa có sự hợp nhất sẽ làm hạn chế khả năng vận dụng
của học sinh khi tìm hiểu cấu trúc của các văn bản mới. Nếu chọn ngữ liệu
độc lập cho từng tầng cấu trúc của văn bản, học sinh sẽ máy móc hiểu tầng
nghĩa này có ở văn bản này mà không thấy ở văn bản kia và ngược lại…
Trước thực trạng này, chúng tôi mạnh dạn đề xuất một cách xử lí ngữ liệu
nhằm hạn chế những vướng mắc trong quá trình tiếp nhận, bao quát bài học
của học sinh. Giúp các em, lĩnh hội kiến thức một cách sâu sắc, kĩ càng và
bền chặt; khả năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác chính xác
và sáng tạo hơn.


3


III. Giải pháp thực hiện
1.Giải pháp chung
Văn bản văn học được chỉ định dạy – học với thời lượng 45 phút. Xét về
tổng thể có ba phần tương ứng với ba mục: Tiêu chí chủ yếu của văn bản văn
học; Cấu trúc của văn bản văn học và Từ văn bản đến tác phẩm văn học. Xét về
dung lượng kiến thức, mục 2: Cấu trúc của văn bản văn học lại là phần trọng
tâm của bài học. Chúng tôi cũng chú trọng hơn trong việc lựa chọn ngữ liệu và
khai thác ngữ liệu ở mục này. Phần luyện tập, chiếm một lượng thời gian không
nhỏ, qua quá trình luyện tập, học sinh được củng cố kiến thức về các tiêu chí và
cấu trúc của văn bản văn học. Bài tập trong sách giáo khoa sẽ được các em hoàn
thành ở nhà.
Trước khi lựa chọn ngữ liệu cho bài học, tôi đã tham khảo nguồn thông
tin phản hồi từ phía học sinh và đồng nghiệp, kết quả cho thấy, trong số những
văn bản được hỏi có ba văn bản gây sự chú ý cho người đọc: Bánh trôi nước(1),
Bài ca dao viết về hoa sen(2) và Thuật hoài (3). Văn bản 1,2 dễ tiếp nhận còn văn
bản 3 có phần khó hơn. Điều này mở ra cho chúng tôi hướng vận dụng phù hợp
với phương pháp dạy học tích cực. Học sinh tiếp nhận bài học thông qua ngữ
liệu từ cấp độ dễ đến khó. Từ hoạt động học có sự hướng dẫn của cô giáo (ngữ
liệu 1), đến tự học có hướng dẫn của sách giáo khoa (ngữ liệu 2), sau khi học
sinh đã nhuần nhuyễn chúng tôi cung cấp ngữ liệu 3 khó hơn. Và qua đó sẽ đánh
giá được khả năng vận dụng kiến thức của học sinh đang ở mức độ nào. Đây là
bước đệm để các em có thể tiếp cận các bài lí luận văn học ở lớp 11,12, mặt
khác còn là nền tảng giúp các em cảm thụ những văn bản văn học khác khi đã
trưởng thành.
2.Giải pháp cụ thể
2.1. Hướng dẫn tìm hiểu mục 1: Tiêu chí chủ yếu của văn bản văn học

Trong chương trình ngữ văn trung học cơ sở học sinh đã được học hai loại
văn bản gồm: văn bản nhật dụng và văn bản văn học. Vì vây, trước khi đi vào
tìm hiểu các
tiêu chí của văn bản văn học, cần cho học sinh ôn lại kiến thức bằng cách nhận
diện văn bản văn học.
Giáo viên có thể hỏi: Hãy kể tên các loại văn bản mà em đã được học
trong chương trình Ngữ văn cấp II và chương trình Ngữ văn lớp 10?
Với câu hỏi đó, giáo viên có thể gọi 2 đến 3 em, bổ sung cho nhau để hoàn thành
câu trả lời. Có rất nhiều văn bản sẽ được học sinh nêu ra, giáo viên có thể chọn
lọc, lược ghi lên bảng, hình thành bảng phụ để tiếp tục cho câu hỏi tiếp theo.
Chiếu dời đô(1), Hịch tướng sĩ(2), Bến quê(3), Sang thu(4), Tôi và chúng ta(5), Đại
Cáo bình Ngô(6), Bánh trôi nước(7) Thông tin về trái đất năm 2000(8), Báo cáo
chính trị của BCHTW Đảng Cộng Sản Việt Nam(9), Động phong nha(10), ...
4


Giáo viên tiếp tục hỏi :Trong những văn bản các em vừa kể trên, văn bản
nào thuộc văn bản văn học, văn bản nào thuộc văn bản phi văn học ? Vì sao ?
Yêu cầu : Học sinh lựa chọn, trả lời và giải thích... Các văn bản văn học:
1,2,3,4,5. 6,7. Các văn bản phi văn học: 8, 9, 10 (văn bản nhật dụng)
Giáo viên hỏi tiếp: Vậy thế nào là văn bản văn học ?
Sau khi học sinh trình bày, giáo viên nhấn mạnh: Văn bản văn học có thể
hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp:
Nghĩa rộng: Là tất cả những văn bản sử dụng ngôn từ làm phương tiện
giao tiếp, nhưng ngôn từ ấy được sử dụng như một chất liệu đặc biệt có tính
thẩm mĩ, được tổ chức, sắp xếp một cách nghệ thuật, có nhịp điệu, vần điệu, có
hình ảnh và thể hiện đậm nét dụng ý nghệ thuật của tác giả.
Nghĩa hẹp: Văn bản văn học là những văn bản sử dụng chất liệu ngôn từ
xây dựng hình tượng nghệ thuật.
Để học sinh nắm được ba tiêu chí chủ yếu của văn bản văn học, giáo viên

đưa ra ba câu hỏi tương ứng nhằm giúp học sinh tư duy, tổng hợp kiến thức theo
phương pháp liên văn bản:
Câu hỏi 1: Văn bản Đại cáo bình Ngô đã phản ánh những nội dung gì?
Yêu cầu: Học sinh chỉ ra được các ý cơ bản:
- Phản ánh được sự trăn trở, suy tư của Lê Lợi về đất nước.
- Tổng kết lại hai mươi năm kháng chiến gian khổ của quân và dân ta.
- Bố cáo sự nghiệp chống giặc Minh hoàn tất.
Từ việc tìm ra nội dung trên, ta có thể rút ra tiêu chí và mục đích của văn bản
văn học như thế nào?
Tiêu chí 1: Văn bản văn học đi sâu vào phản ánh hiện thực khách quan và
khám
phá thế giới tình cảm, tư tưởng, thỏa mãn nhu cầu hướng thiện và thẩm mĩ của
con người.
Câu hỏi 2: Đọc thầm văn bản Đại cáo bình Ngô và nhận xét cách sử dụng
ngôn
từ nghệ thuật ?
Yêu cầu: Văn bản Đại cáo bình Ngô, được viết với mục đích chính trị
nhưng ngôn từ được chọn lọc, câu văn biền ngẫu, sử dụng các biện pháp tu từ và
toát lên hình tượng một nhà vua áo vải nung nấu, trăn trở về vận mệnh của đất
nước.
Tiêu chí 2: Ngôn từ văn học là ngôn từ nghệ thuật, có tính hình tượng,
mang tính thẩm mĩ cao (trau chuốt, biểu cảm, gợi cảm, hàm súc, đa nghĩa…)
5


Câu hỏi 3: Theo em, văn bản Đại cáo bình Ngô thuộc thể loại gì? Dựa vào
đâu em có thể nhận biết được ?
Yêu cầu: Văn bản Đại cáo bình Ngô được làm bằng thể cáo, người đọc
nhận biết được ngay ở nhan đề.
Giáo viên tiếp tục hỏi: Quay lại với các văn bản văn học đã được xác

định: Chiếu dời đô(1), Hịch tướng sĩ(2), Bến quê(3), Sang thu(4), Tôi và chúng ta(5),
Bánh trôi nước(7). em hãy gọi tên thể loại cho từng văn bản và giải thích dấu hiệu
để nhận biết ?
Yêu cầu : Chúng ta có thể nhận ra các thể loại theo thứ tự của văn bản :
Chiếu , hịch (2), truyện(3), thơ (4), kịch bản văn học(5), dựa vào phương thức thể
hiện: Chiếu là bài văn của Vua viết (hoặc đại thần viết nhân danh nhà vua) để
ban bố một việc trọng đại của đất nước; Kịch có xung đột kịch, tình huống kịch;
Thơ thể hiện tâm trạng nhân vật trữ tình qua cấu tứ, hình ảnh, đường nét... Mỗi
văn bản thuộc về một thể loại nhất định, có những quy ước, cách thức riêng của
từng thể loại đó.
(1)

Tiêu chí 3: Văn bản văn học được xây dựng theo một phương thức riêng
theo từng đặc trưng từng thể loại.
Tuy nhiên văn bản văn học không chỉ là những biện pháp, những kĩ xảo ngôn từ
mà là một sáng tạo tinh thần của nhà văn.
2.2. Hướng dẫn tìm hiểu mục 2: Cấu trúc của văn bản văn học
Giáo viên chuyển tiếp: Dựa vào ba tiêu chí trên chúng ta có thể sáng tác
văn bản văn học, nhưng để văn bản văn học thực sự có giá trị nó còn phải đảm
bảo tính cấu trúc. Vậy, văn bản văn học có cấu trúc như thế nào, chúng ta tiếp
tục tìm hiểu.
(Đây là phần trọng tâm, thời lượng cũng như kiến thức vì thế mà nhiều hơn các
mục khác trong bài.)
Giáo viên phát phiếu học tập cho 4 nhóm, trưng bảng phụ hoặc máy
chiếu, chiếu văn bản Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương.
Học sinh hoạt động nhóm khoảng 5 phút, trình bày kết quả, các nhóm nhận
xét cho nhau, đánh giá kết quả. Cuối cùng giáo viên nhấn mạnh:
- Nội dung 1: Hình ảnh chiếc bánh trôi nước (từ: trắng, tròn, bảy nổi ba chìm,
lòng son: mô tả hình dáng, màu sắc, cách chế biến bánh trôi nước): ý nghĩa này
có được căn cứ vào ý nghĩa của các từ ngữ: -> Tầng ngôn từ.

- Nội dung 2: Hình tượng người phụ nữ (qua hình ảnh: thân em) -> Ý nghĩa hiện
lên từ hình ảnh mang tính biểu tượng (biện pháp tu từ) -> Tầng hình tượng.
- Nội dung 3: Qua mối liên hệ giữa hình ảnh bánh trôi nước và hình tượng
người phụ nữ ta có thể rút ra được ý nghĩa tiềm ẩn trong văn bản:
+ Thể hiện thân phận chìm nổi của người phụ nữ trong xã hội xưa.
6


+ Thể hiện vẻ đẹp không chỉ thể xác mà còn là vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ
(thủy chung son sắc).
+ Thể hiện khát vọng hạnh phúc của người phụ nữ.
-> Tầng hàm nghĩa
Giáo viên hỏi: Như vậy, văn bản văn học có cấu trúc mấy tầng? Em hiểu
như thế nào về tầng ngôn từ, tầng hình tượng và tầng hàm nghĩa?
Học sinh trả lời, giáo viên lược ghi thành hệ thống ý.
Văn bản văn học có cấu trúc 3 tầng nghĩa. Tầng ngôn từ - từ ngữ âm đến
ngữ nghĩa: hiểu ngôn từ là hiểu các nghĩa (tường minh, hàm ẩn) của từ ngữ, là
hiểu các âm thanh được gợi ra khi đọc, khi phát âm; Tầng hình tượng: Ngôn từ
văn học có tính hình tượng, do trí tưởng tượng của nhà văn sáng tạo ra; Tầng
hàm nghĩa: là tầng nghĩa hàm ẩn sâu kín của văn bản văn học, tầng nghĩa này
được suy ra từ hai tầng nghĩa thứ hai, thứ nhất và nhiều suy luận, liên tưởng
khác.
Để kết thúc mục 2 của bài học. giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ cấu
trúc của văn bản văn học dựa trên sự khái quát lý thuyết về các tầng nghĩa.
1.2.3. Hướng dẫn tìm hiểu mục 3: Từ văn bản đến tác phẩm văn học
Nhiều học sinh vẫn đang bỡ ngỡ, không phân biệt được sự khác nhau của
hai thuật ngữ văn bản văn học và tác phẩm văn học. Trước khi vào nội dung
chính, giáo viên đưa ra câu hỏi mang tính gợi mở, tạo tâm thế cho học sinh tiếp
nhận kiến thức.
Giáo viên hỏi: Khi làm một bài văn các em thường thấy thầy (cô) giáo ra

đề bài như: Cảm nhận của em về nhân vật bé Thu trong tác phẩm Chiếc lược
ngà của Nguyễn Quang Sáng, nhưng sách giáo khoa không gọi là tác phẩm mà
gọi tên chúng là văn bản, em hiểu như thế nào về hai thuật ngữ này?
Học sinh sẽ có nhiều cách kiến giải, dựa vào câu trả lời của học sinh, giáo
viên linh hoạt hướng vào vấn đề cần nghiên cứu:
- Khi tác phẩm chưa được tiếp nhận gọi là văn bản: là một hệ thống kí hiệu tồn
tại khách quan, là một tập giấy nằm im trên giá sách chưa có tác động đối với xã
hội.
- Khi văn bản xâm nhập vào cuộc sống:
+ Nó có thể là một sản phẩm vật chất: gối đầu, gói hàng, chất đốt, giá trị thực bị
lãng phí, bị bỏ quên.
+ Nó là một sản phẩm tinh thần: những giá trị tiềm ẩn của văn bản sẽ được
người đọc tiếp nhận -> văn bản lúc đó sẽ phát huy chức năng của tác phẩm văn
học.

7


Như vậy, chỉ khi được người đọc tiếp nhận văn bản văn học mới đích thực là
một tác phẩm văn học.
Giáo viên hỏi: Từ nội dung vừa tìm hiểu, em hãy vẽ sơ đồ quá trình từ văn
bản văn học đến tác phẩm văn học ?
Yêu cầu:
Văn bản văn học  người đọc = tác phẩm văn học
* Ghi nhớ: Để khắc sâu nội dung bài học giáo viên gọi một học sinh đọc phần
ghi nhớ.
1.2.4. Hướng dẫn luyện tập
Đây là phần tương đối quan trọng cho một bài học mang tính lý thuyết,
giáo viên phải dành từ 5 đến 10 phút trong quỹ thời gian 45 phút. Như đã nói ở
trên, tôi sẽ đưa ra hai bài tập với hai mức độ khó, dễ khác nhau để học sinh

luyện tập và giáo viên có cơ sở đánh giá khả năng tiếp nhận của học sinh.
Bài 1: Phân tích các tầng nghĩa trong văn bản sau:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
(Ca dao)
(Học sinh tham khảo hướng dẫn trong sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập 2, trang
119).
Giáo viên gợi ý:
Tầng nghĩa 1: Vẻ đẹp của hoa sen (từ ngữ: lá xanh, bông trắng, nhị vàng).
Tầng nghĩa 2: Hình tượng loài hoa sen mang ý nghĩa biểu tượng cho vẻ đẹp và
bản lĩnh của con người Việt Nam.
Tầng nghĩa 3: Được suy ra từ tầng nghĩa thứ hai và thứ nhất cùng sự liên tưởng,
suy luận khác.
- Ca ngợi vẻ đẹp trong sạch, tinh khiết cao quý của hoa sen trong đầm.
- Ngợi ca chí khí, bản lĩnh và phẩm chất của con người Việt Nam.
Bài 2: (Dành cho học sinh khá, giỏi)
Có ý kiến cho rằng: “Một số văn bản thời trung đại như: Chiếu, biểu, cáo,
hịch không đảm bảo các tầng nghĩa của một văn bản văn học vì thế không nên
gọi là văn bản văn học”. Trình bày suy nghĩ của em về ý kiến trên?
* Yêu cầu: Đây là câu hỏi khó, qua quá trình làm bài học sinh sẽ phát huy được:
8


- Khả năng sử dụng các thao tác nghị luận ( thao tác phân tích, thao tác bình
luận, thao tác bác bỏ), sang lớp 11 các em sẽ bổ sung kiến thức ở các bài học cụ
thể.
- Kĩ năng thích nghi với các vấn đề khoa học văn học, rèn luyện tư duy, ý thức
phản biện.

- Hiểu sâu, nắm vững kiến thức bài học, đặc biệt cấu trúc văn bản văn học.
* Học sinh có nhiều cách diễn đạt khác nhau nhưng phải đảm bảo các ý cơ bản
sau:
- Nêu vấn đề nghị luận
- Bác bỏ ý kiến cho rằng: “Một số văn bản thời trung đại như: Chiếu, biểu, cáo,
hịch không đảm bảo các tầng nghĩa của một văn bản văn học vì thế không nên
gọi là văn bản văn học”
- Lý giải: (Có thể học sinh không biết vận dụng kiến thức lí luận, văn học sử mà
chỉ chọn các văn bản khác nhau để luận bình, giáo viên có thể chọn một văn bản
ví dụ như Chiếu dời đô để gợi ý)
Các nhà nghiên cứu cho rằng, văn bản hiện đại được phân ra theo các
nhóm: văn bản nghệ thuật và văn bản hành chính. Văn bản thời trung đại có đặc
điểm tư duy nguyên hợp ( các mảng tư duy kết dính nhau), văn, sử, triết không
phân biệt (trừ thơ trữ tình). Mặc dầu khó nhận diện nhưng các văn bản thời trung
đại vẫn mang trong nó đầy đủ các đặc điểm, cấu trúc của một văn bản văn học.
Khi đi sâu khám phá vẻ đẹp của Chiếu dời đô chúng ta sẽ thấy cấu trúc
của văn bản văn học:
Tầng nghĩa 1: Chiếu dời đô nói về sự kiện kinh đô của đất nước chuyển vị
trí từ Hoa Lư ra thành Đại La “ hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình (…) cứ
đóng yên đô thành ở nơi đây (…) thành Đại La (…) Ở vào nơi trung tâm của trời
đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi (…) xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi này là
thắng địa. (…) Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở”. Ý
nghĩa này có được là nhờ người đọc căn cứ vào các từ ngữ trong văn bản.
Tầng nghĩa 2:
+ Hình tượng nhà vua anh minh đang trăn trở về sự trường tồn, phồn thịnh của
đất nước. ( thể hiện qua các cụm từ: “Trẫm rất đau xót về việc đó”; “Trẫm
muốn”… )
+ Kinh đô là hình tượng trung tâm chính trị của một đất nước. Việc dời đô
không phải là dời một vùng đất, mà là linh hồn của một quốc gia. Muốn đất
nước vững bền, giàu mạnh thì kinh đô phải ở một vị trí tốt.

Tầng nghĩa 3: Ý nghĩa được rút ra từ tầng ngôn từ và hình tượng:
+ Phản ánh khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập, thống nhất.

9


+ Phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh
- Từ việc phân tích ở trên ta có thể khẳng định rằng các thể loại cáo, hịch chiếu
biểu thời trung đại thuộc thể loại văn học đích thực.
3.Giáo án thể nghiệm
Tiết 91:
VĂN BẢN VĂN HỌC
A. Mục tiêu bài học
* Kiến thức:
- Nắm được những tiêu chí chủ yếu và cấu trúc của một văn bản văn học;
- Vận dụng những hiểu biết trên để tìm hiểu tác phẩm văn học
* Kĩ năng :
- Phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại.
- Cảm thụ tác phẩm có chiều sâu.
* Thái độ:
- Yêu mến, trân trọng, bảo tồn, phát huy những tác phẩm văn học đích thực.
- Nhìn mọi sự vật hiện tượng đời sống ở bề sâu, bề xa.
- Xây dựng ý thức sáng tạo nghệ thuật.
B. Phương tiện dạy học
- Giáo viên: Sách giáo khoa, thiết kế bài giảng, tài liệu tham khảo, bảng phụ…
- Học sinh: Sách giáo khoa, bài soạn, tài liệu tham khảo…
C. Phương pháp dạy học
Khai thác tác phẩm bằng hệ thống câu hỏi gợi mở, phát huy tinh thần sáng tạo
của học sinh, giáo viên giữ vai trò định hướng khai thác và tổng hợp ý kiến.
D. Tiến trình dạy học

1. Ổn định lớp:
2. Bài mới:
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh
(Cũng là yêu cầu cần đạt)
Hãy kể tên các loại văn bản mà em
đã được học trong chương trình
Ngữ văn cấp II và chương trình
Ngữ văn lớp 10?

I. Tiêu chí chủ yếu của văn bản văn học
Học sinh trả lời, giáo viên lược ghi trên bản
phụ:
Chiếu dời đô(1), Hịch tướng sĩ(2), Bến quê(3),
Sang thu(4), Tôi và chúng ta(5), Đại Cáo bình
Ngô(6), Bánh trôi nước(7) Thông tin về trái
đất năm 2000(8), Báo cáo chính trị của
Trong những văn bản các em vừa kể BCHTW Đảng Cộng Sản Việt Nam(9), Động
trên, văn bản nào thuộc văn bản văn phong nha(10), ...
học, văn bản nào thuộc văn bản phi
văn học ? Vì sao ?
Đáp: Học sinh lựa chon, trả lời và giải
Vậy thế nào là văn bản văn học ?
thích…
Các văn bản văn học: 1,2,3,4,5.
10


Học sinh trình bày, giáo viên nhấn Các văn bản phi văn học: 6,7,8 (văn bản
mạnh:

nhật dụng)
- Khái niệm:
Văn bản văn học có thể hiểu theo nghĩa rộng
và nghĩa hẹp:
Nghĩa rộng: Là tất cả những văn bản sử
dụng ngôn từ làm phương tiện giao tiếp,
Văn bản Đại cáo bình Ngô đã phản nhưng ngôn từ ấy được sử dụng như một
ánh những nội dung gì?
chất liệu đặc biệt có tính thẩm mĩ, được tổ
chức, sắp xếp một cách nghệ thuật, có nhịp
điệu, vần điệu, có hình ảnh và thể hiện đậm
nét dụng ý nghệ thuật của tác giả.
Từ việc tìm ra nội dung trên, ta có Nghĩa hẹp: Văn bản văn học là những văn
thể rút ra tiêu chí và mục đích của bản sử dụng chất liệu ngôn từ xây dựng hình
văn bản văn học như thế nào?
tượng nghệ thuật.
Học sinh có thể chỉ ra được các ý cơ bản:
Giáo viên yêu cầu học sinh: Đọc - Phản ánh được sự trăn trở, suy tư của Lê
thầm văn bản Đại cáo bình Ngô và Lợi về đất nước.
nhận xét cách sử dụng ngôn từ nghệ - Tổng kết lại hai mươi năm kháng chiến
thuật ?
gian khổ của quân và dân ta.
- Bố cáo sự nghiệp chống giặc Minh hoàn
tất.
1. Văn bản văn học đi sâu vào phản ánh hiện
Hỏi: Theo em, văn bản Đại cáo thực khách quan và khám phá thế giới tình
bình Ngô thuộc thể loại gì? Dựa vào cảm, tư tưởng, thỏa mãn nhu cầu hướng
đâu em có thể nhận biết được ?
thiện và thẩm mĩ của con người.
Hỏi: Quay lại với các văn bản văn Đáp: Văn bản Đại cáo bình Ngô, được viết

học đã được xác định: Chiếu dời với mục đích chính trị nhưng ngôn từ được
đô(1), Hịch tướng sĩ(2), Bến quê(3), chọn lọc, câu văn biền ngẫu, sử dụng các
Sang thu(4), Tôi và chúng ta(5), Bánh biện pháp tu từ và toát lên hình tượng một
trôi nước(7). em hãy gọi tên thể loại nhà Vua áo vải nung nấu, trăn trở về vận
cho từng văn bản và giải thích dấu mệnh của đất nước.
hiệu để nhận biết ?
2. Ngôn từ văn học là ngôn từ nghệ thuật, có
tính hình tượng, mang tính thẩm mĩ cao (trau
chuốt, biểu cảm, gợi cảm, hàm súc, đa
(Tuy nhiên, văn bản văn học không nghĩa…)
chỉ là những biện pháp, những kĩ Đáp: Văn bản Đại cáo bình Ngô được làm
xảo ngôn từ mà là một sáng tạo tinh bằng thể cáo, người đọc nhận biết được ngay
thần của nhà văn).
ở nhan đề.
Đáp: Chúng ta có thể nhận ra các thể loại
theo thứ tự của văn bản : Chiếu(1), hịch (2),
truyện(3), thơ (4), kịch bản văn học(5), dựa vào
phương thức thể hiện: Chiếu là bài văn của
11


Giáo viên phát phiếu học tập cho 4
nhóm. Trưng bảng phụ hoặc máy
chiếu, chiếu văn bản Bánh trôi
nước của Hồ Xuân Hương.
Hỏi: Em hiểu nội dung bài thơ này
như thế nào? Tại sao lại có cách
hiểu như vậy?
Học sinh hoạt động nhóm khoảng 5
phút, trình bày kết quả, nhận xét,

đánh giá.
Cuối cùng giáo viên nhấn mạnh:
Giáo viên hỏi: Như vậy, văn bản
văn học có cấu trúc mấy tầng? Em
hiểu như thế nào về tầng ngôn từ,
tầng hình tượng và tầng hàm nghĩa?
Học sinh trả lời, giáo viên lược ghi
thành hệ thống ý.
Giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ sơ
đồ cấu trúc của văn bản văn học dựa
trên sự khái quát lý thuyết về các
tầng nghĩa.

Vua viết (hoặc đại thần viết nhân danh nhà
vua) để ban bố một việc trọng đại của đất
nước; Kịch có xung đột kịch, tình huống
kịch; Thơ thể hiện tâm trạng nhân vật trữ
tình qua cấu tứ, hình ảnh, đường nét... Mỗi
văn bản thuộc về một thể loại nhất định, có
những quy ước, cách thức riêng của từng thể
loại đó.
3. Văn bản văn học được xây dựng theo một
phương thức riêng theo từng đặc trưng từng
thể loại.
II. Cấu trúc của văn bản văn học
1. Tìm hiểu ngữ liệu
Văn bản Bánh trôi nước của Hồ Xuân
Hương
- Tầng nghĩa 1: Hình ảnh chiếc bánh trôi
nước (từ: trắng, tròn, bảy nổi ba chìm, lòng

son: mô tả hình dáng, màu sắc, cách chế
biến bánh trôi nước): ý nghĩa này có được
căn cứ vào ý nghĩa của các từ ngữ: -> Tầng
ngôn từ.
- Tầng nghĩa 2: Hình tượng người phụ nữ
(qua hình ảnh: thân em) -> Ý nghĩa hiện lên
từ hình ảnh mang tính biểu tượng -> Tầng
hình tượng.
- Tầng nghĩa 3: Qua mối liên hệ giữa hình
ảnh bánh trôi nước và hình tượng người phụ
nữ ta có thể rút ra được ý nghĩa tiềm ẩn
trong văn bản:
+ Thể hiện thân phận chìm nổi của người
phụ nữ trong xã hội xưa.
+ Thể hiện vẻ đẹp không chỉ thể xác mà còn
là vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ (Thủy
chung son sắc).
+ Thể hiện khát vọng hạnh phúc của người
phụ nữ.
-> Tầng hàm nghĩa
2. Nhận xét
* Tầng ngôn từ - từ ngữ âm đến ngữ nghĩa:
hiểu ngôn từ là hiểu các nghĩa (tường minh,
hàm ẩn) của từ ngữ, là hiểu các âm thanh
được gợi ra khi đọc, khi phát âm.
* Tầng hình tượng: ngôn từ văn học có tính
12


Giáo viên chuyển ý: Khi làm một

bài văn các em thường thấy thầy
(cô) giáo ra đề bài như: Cảm nhận
của em về nhân vật bé Thu trong tác
phẩm Chiếc lược ngà của Nguyễn
Quang Sáng, nhưng sách giáo khoa
không gọi là tác phẩm mà gọi tên
chúng là văn bản, em hãy giải thích
lí do?

Giáo viên hỏi: Từ nội dung vừa tìm
hiểu, em hãy vẽ sơ đồ quá trình từ
văn bản văn học đến tác phẩm văn
học ?

Giáo viên định hướng cho học sinh
cách làm bài
Bài 1: Phân tích các tầng nghĩa
trong văn bản sau:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị
vàng
Nhị vàng bông trắng lá
xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi
bùn.
(Ca dao)

Bài 2: (Dành cho học sinh khá, giỏi)

hình tượng, do trí tưởng tượng của nhà văn

sáng tạo ra.
* Tầng hàm nghĩa: là tầng nghĩa hàm ẩn sâu
kín của văn bản văn học, tầng nghĩa này
được suy ra từ hai tầng nghĩa thứ hai, thứ
nhất và nhiều suy luận, liên tưởng khác.
III. Từ văn bản đến tác phẩm văn học
- Khi tác phẩm chưa được tiếp nhận gọi là
văn bản: là một hệ thống kí hiệu tồn tại
khách quan, là một tập giấy nằm im trên giá
sách chưa có tác động đối với xã hội.
Khi văn bản xâm nhập vào cuộc sống:
+ Nó có thể là một sản phẩm vật chất: gối
đầu, gói hàng, chất đốt, giá trị thực bị lãng
phí, bị bỏ quên.
+ Nó là một sản phẩm tinh thần: những giá
trị tiềm ẩn của văn bản sẽ được người đọc
tiếp nhận -> văn bản lúc đó sẽ phát huy chức
năng của tác phẩm văn học.
Như vậy, chỉ khi được người đọc tiếp nhận
văn bản văn học mới đích thực là một tác
phẩm văn học.
Văn bản văn họcngười đọc = tác phẩm
văn học
* Ghi nhớ: (sgk).
IV. Luyện tập
Bài 1
Tầng nghĩa 1: Vẻ đẹp của hoa sen (từ ngữ: lá
xanh, bông trắng, nhị vàng).
Tầng nghĩa 2: Hình tượng hoa sen là biểu
tượng cho phẩm chất, bản lĩnh của con

người Việt Nam.
Tầng nghĩa 3: Được suy ra từ tầng nghĩa thứ
hai và thứ nhất cùng sự liên tưởng, suy luận
khác.
- Ca ngợi vẻ đẹp trong sạch, tinh khiết cao
quý của hoa sen trong đầm.
- Ngợi ca chí khí, bản lĩnh và phẩm chất của
con người Việt Nam.
Bài 2:
* Học sinh có nhiều cách diễn đạt khác nhau
nhưng phải đảm bảo các ý cơ bản sau:
- Nêu vấn đề nghị luận
13


Có ý kiến cho rằng: “Một số văn
bản thời trung đại như: Chiếu, biểu,
cáo, hịch không đảm bảo các tầng
nghĩa của một văn bản văn học vì
thế không nên gọi là văn bản văn
học”. Trình bày suy nghĩ của em về
ý kiến trên?
* Yêu cầu: Đây là câu hỏi khó, qua
quá trình làm bài sẽ phát huy được:
- Khả năng sử dụng các thao tác
nghị luận ( thao tác phân tích, thao
tác bình luận, thao tác bác bỏ), sang
lớp 11 các em sẽ bổ sung kiến thức
ở các bài học cụ thể.
- Kĩ năng thích nghi với các vấn đề

khoa học văn học, rèn luyện tư duy,
ý thức phản biện.
- Hiểu sâu, nắm vững kiến thức bài
học, đặc biệt cấu trúc văn bản văn
học.

- Bác bỏ ý kiến cho rằng: “Một số văn bản
thời trung đại như: Chiếu, biểu, cáo, hịch
không đảm bảo các tầng nghĩa của một văn
bản văn học vì thế không nên gọi là văn bản
văn học”
- Lý giải: (Có thể học sinh không biết vận
dụng kiến thức lí luận, văn học sử mà chỉ
chọn các văn bản khác nhau để luận bình,
giáo viên lựa chọn một văn bản như Chiếu
dời đô để minh họa).
Các nhà nghiên cứu cho rằng, văn bản
hiện đại được phân chia theo các nhóm: văn
bản nghệ thuật và văn bản hành chính. Văn
bản thời trung đại có đặc điểm tư duy
nguyên hợp ( các mảng tư duy kết dính
nhau), văn, sử, triết không phân biệt (trừ thơ
trữ tình). Mặc dầu khó nhận diện nhưng các
văn bản thời trung đại vẫn mang trong nó
đầy đủ các đặc điểm, cấu trúc của một văn
bản văn học.
Khi đi sâu khám phá vẻ đẹp của
Chiếu dời đô chúng ta sẽ thấy cấu trúc của
văn bản văn học:
Tầng nghĩa 1: Chiếu dời đô nói về sự kiện

kinh
đô của đất nước chuyển vị trí từ Hoa Lư ra
thành Đại La “ hai nhà Đinh, Lê lại theo ý
riêng mình (…) cứ đóng yên đô thành ở nơi
đây (…) thành Đại La (…) Ở vào nơi trung
tâm của trời đất; được cái thế rồng cuộn hổ
ngồi (…) xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi này
là thắng địa. (…) Trẫm muốn dựa vào sự
thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở” . Ý nghĩa
này có được là nhờ người đọc căn cứ vào
các từ ngữ trong văn bản.
Tầng nghĩa 2:
+ Hình tượng nhà vua anh minh đang trăn
trở về sự trường tồn, phồn thịnh của đất
nước. ( thể hiện qua các cụm từ: “Trẫm rất
đau xót về việc đó”; “Trẫm muốn”… )
+ Kinh đô là hình tượng trung tâm chính trị
của một đất nước. Việc dời đô không phải là
dời một vùng đất, mà là linh hồn của một
14


quốc gia. Muốn đất nước vững bền, giàu
mạnh thì kinh đô phải ở một vị trí tốt.
Tầng nghĩa 3: Ý nghĩa được rút ra từ tầng
ngôn từ và hình tượng:
+ Phản ánh khát vọng của nhân dân về một
đất nước độc lập, thống nhất.
+ Phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại
Việt đang trên đà lớn mạnh.

- Từ việc phân tích ở trên ta có thể khẳng
định rằng các thể loại cáo, hịch chiếu biểu
thời trung đại thuộc thể loại văn học đích
thực.
4. Củng cố, dặn dò:
- Giáo viên hệ thống lại bài học
- Ra bài tập về nhà:
IV. Kết quả thực nghiệm
1. Thực nghiệm sư phạm: Với những định hướng nghiên cứu phương pháp
giảng dạy như trên, Chúng tôi đã tiến hành dạy thể nghiệm ở một số lớp học và
thu được kết quả sau khi tiến hành kiểm tra như sau:
1.1.Hoạt động kiểm tra:
A. Mục tiêu kiểm tra
- Kiểm tra khả năng tiếp thu kiến thức về lí luận văn học qua bài Văn bản văn
học.
B. Hình thức kiểm tra
- Hình thức: tự luận.
- Cách tổ chức kiểm tra: Làm bài ở lớp 15 phút.
C. Thiết lập ma trận
- Chọn các nội dung cần đánh giá và thực hiện các bước thiết lập ma trận đề
kiểm tra
- Xác định khung ma trận
Mức độ
Vận dụng
Cộng
Vận
Nhận biết
Thông hiểu
dụn Vận dụng cao
Chủ đề

g
thấp
Nhận
Nắm được các tiêu
diện được
chí của văn bản
1. Đọc văn các thể
văn học để nhận
loại văn
diện các văn bản
học
văn học cụ thể

15


Số câu : 1
Số điểm:1

Số câu : 1
Số điểm:2

Số câu : 1
3 điểm
=30%
Biết vận dụng
lí thuyết để
phân tích các
tầng nghĩa của
một văn bản

văn học cụ thể
Số câu : 1
Số điểm:7

Tổng số
câu, điểm
Tỉ lệ %

Số câu: 1
Số điểm: 3
Tỉ lệ: 30 %

Số câu: 1
Số điểm:7
Tỉ lệ:70%

Số câu: 1
7 điểm =
70%
Số câu:2
Tổng điểm:
10
Tỉ lệ:100 %

D. Đề kiểm tra
Câu 1: Trong các văn bản sau văn bản nào là văn bản văn học? Gọi tên thể
loại đối với các văn bản đã tìm được ?
Hoàng Lê nhất thống chí(1); Chiếu dời đô(2); Truyện Kiều(3); Đoàn thuyền đánh
cá(4); Đấu tranh cho một thế giới hòa bình(5); Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ
mới(6); Viếng lăng Bác(7).

Câu 2: Phân tích các tầng nghĩa trong văn bản Thuật hoài của Phạm Ngũ
Lão:
E. Đáp án và thang điểm:
Đáp án
Điểm
Câu 1
Trong các văn bản sau văn bản nào là văn bản văn
(3,0 đ)
học? Gọi tên thể loại đối với các văn bản đã tìm được ?
Hoàng Lê nhất thống chí(1); Chiếu dời đô(2); Truyện
Kiều(3); Đoàn thuyền đánh cá(4); Đấu tranh cho một thế
giới hòa bình(5); Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới (6);
Viếng lăng Bác(7).
- Văn bản: 1,2,3,4,7 là văn bản văn học
2,0
- Gọi tên thể loại:
+ Văn bản 1: Thể loại tiểu thuyết chương hồi .
+ Văn bản 2: Thể loại chiếu.
1,0
+ Văn bản 3: Thể loại truyện thơ.
+ Văn bản 4 và 7: Thể loại thơ.
Phân tích các tầng nghĩa trong văn bản Thuật hoài của
16


Câu 2
(7,0 đ)

Phạm Ngũ Lão?
a. Yêu cầu về kĩ năng

Có khả năng vận dụng kiến thức lí luận để phân tích, đánh
giá về một văn bản văn học. Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu
loát; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
b. Yêu cầu về kiến thức
Học sinh có thể trình bày thành bài văn hoặc gạch đầu
dòng nhưng phải đảm bảo các ý sau:
Tầng nghĩa 1: Dựa vào ngôn từ người đọc nhận thấy:
- Hình ảnh một trang nam nhi cầm ngang ngọn giáo, bảo
vệ non sông nhiều năm.
- Tâm sự: Công danh chưa đạt; Xấu hổ khi nghe chuyện
Vũ hầu.
Tầng nghĩa 2: Nổi bật hình tượng trang nam nhi thời Trần
với ý chí, nghị lực, tinh thần… Ý nghĩa này được cảm
nhận thông qua các hình ảnh thơ và nhịp thơ.
Tầng nghĩa 3:
- Vẻ đẹp của trang nam nhi thời Trần
- Hào khí Đông A.
Lưu ý: Học sinh có thể có những kiến giải khác nhưng
hợp lí thì vẫn cho điểm tối đa.

1,0
1,0
2,0
1,5
1,5

1.2. Kết quả kiểm tra:
- Nhận xét chung: Chúng tôi chọn đối tượng học sinh ban cơ bản để làm phép
đối sánh kết quả bài học. Quá trình tiến hành kiểm tra ở hai lớp đối chứng và hai
lớp thực nghiệm của các năm học, chúng tôi nhận thấy, khi tìm hiểu nội dung bài

học, học sinh ở lớp đối chứng tiếp cận máy móc, thụ động, chưa có cái nhìn bao
quát. Việc vận dụng lí thuyết vào bài thực hành còn nhiều hạn chế. Với học sinh
lớp thực nghiệm, các em tiếp cận bài học nhanh, có sự bao quát. Khả năng vận
dụng kiến thức bài học để khám phá các văn bản mới tương đối cao.
- Số liệu thống kê:
Năm học: 2014 – 2015:
Lớp đối chứng
Lớp/học sinh

Giỏi,
khá

Trung
bình

10 A4/42

7 em

22 em

(16,7 %)

Lớp thực nghiệm
Yếu,
kém

13em

(52,3%) (31%)


Lớp/học sinh

Giỏi,
khá

Trung
bình

10A3/43

18 em

25 em

(41,9%)

(58,1 %)

Yếu,
kém

0

17


Năm học: 2015– 2016:
Lớp đối chứng


Lớp thực nghiệm

Lớp/học sinh

Giỏi,
khá

Trung
bình

Yếu,
kém

Lớp/học sinh

Giỏi,
khá

Trung
bình

10B3/42

3 em

27 em

12 em

10B1/43


19 em

24 em

( 7,1%)

(64,3%)

(28,6%)

(44,2%)

(55,8%)

Yếu,
kém

0

Trên đây mới là những thể nghiệm bước đầu thực hiện hạn chế trên một số
đối tượng nên có thể kết quả chưa thực sự như mong muốn. Trong thời gian tới,
tôi sẽ tiến hành thể nghiệm mở rộng đối tượng để rút kinh nghiệm và có những
điều chỉnh phương pháp hợp lí hơn trong thiết kế giáo án, hi vọng hiệu quả
giảng dạy sẽ khả quan hơn.
2. Khả năng ứng dụng của sáng kiến kinh nghiệm
Lí luận văn học là một môn học nằm trong phân môn văn học. Thực tế cho
thấy, dựa vào lí luận về văn bản nhà văn mới sáng tạo ra văn bản. Nhưng để hiểu
rõ về lí luận, không còn cách nào khác ngoài việc mổ xẻ văn bản để tìm ra căn
nguyên, cốt lõi vấn đề. Việc lựa chọn ngữ liệu phù hợp với nội dung lí thuyết

của một bài lí luận văn học là vô cùng cần thiết, đặc biệt với khả năng tư duy
của đối tượng học sinh trung học. Thành quả nghiên cứu này có thể ứng dụng
vào việc thiết kế các bài giảng thuộc phân môn lí luận văn học bao gồm lớp
10,11 và 12, cả chương trình Ngữ văn cơ bản và Ngữ văn nâng cao.
3. Hướng phát triển của đề tài:
Dự kiến trong thời gian tới, nếu tính khả thi của đề tài được khẳng định một
cách thực sự, chắc chắn, chúng tôi sẽ phát triển đề tài thành: Phương pháp lựa
chọn và phân tích ngữ liệu đối với môn lí luận văn học trong chương trình phổ
thông. Lúc đó, đề tài không chỉ định hướng mà thực sự đề xuất một phương
pháp chung cho việc giảng dạy môn học này.
C.KẾT LUẬN
1. Qua quá trình nghiên cứu và ứng dụng đề tài “Cách sử xử lí ngữ liệu để
giảng dạy bài Văn bản văn học trong chương trình Ngữ văn lớp 10 THPT”
chúng tôi đã thu được kết quả sau: giáo viên chủ động giờ dạy, học sinh chủ
động tiếp nhận tri thức một cách khoa học, phát triển tư duy và rèn luyện tốt kĩ
năng thực hành.
Thành công của bài học tùy thuộc vào cách lựa chọn, xử lí ngữ liệu của
giáo viên khi thiết kế bài giảng. Để khắc phục hạn chế của cách dạy lâu nay,
chúng tôi chọn dẫn một văn bản, để phân tích, chỉ ra được các tiêu chí của văn
bản văn học và cấu trúc của văn bản văn học. Đồng thời sử dụng các phương
pháp dạy – học tích cực, định hướng cho học sinh tiếp nhận bài học thông qua
18


ngữ liệu từ cấp độ dễ đến khó. Từ hoạt động học có sự hướng dẫn của cô giáo,
đến tự học có hướng dẫn của sách giáo khoa và cuối cùng củng cố, nâng cao
kiến thức bằng ngữ liệu khó hơn. Qua đó, đánh giá được khả năng vận dụng kiến
thức của học sinh đang ở mức độ nào.
Việc ứng dụng đề tài này đã đem lại hiệu quả thiết thực, nhìn chung học
sinh lĩnh hội được kiến thức một cách sâu sắc, kĩ càng và bền chặt; khả năng vận

dụng kiến thức vào những tình huống khác chính xác và sáng tạo. Sau tiết học,
các em không còn lúng túng, máy móc tìm nhặt những dẫn chứng rời rạc, làm rõ
các tiêu chí hay các tầng nghĩa của văn bản văn học, mà đã nắm được nguyên lí
sáng tác, quá trình hình thành văn bản từ đó tiếp cận các văn bản (ngữ liệu) mới
một cách linh hoạt.
2. Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn đã trình bày ở trên tôi xin đề xuất
một số ý kiến sau:
Ban giám hiệu cần tăng cường biện pháp kiểm tra đánh giá theo định kỳ
của môn học. Cụ thể, kiểm tra việc soạn giáo án giảng dạy và việc giảng dạy của
giáo viên trên lớp để từ đó đưa ra yêu cầu cụ thể đối với giáo viên.
Tổ chuyên môn: tích cực xây dựng kế hoạch bài dạy.
Giáo viên cần phải kiên trì cách dạy theo phương pháp dạy học tích
cực.Vì cách dạy quyết định cách học, tuy nhiên thói quen học tập thụ động của
học sinh cũng ảnh hưởng đến cách dạy của thầy (cô). Nếu coi trọng việc xử lí
ngữ liệu cho bài lí luận văn học nói chung và Văn bản văn học nói riêng thì học
sinh chẳng những ghi nhớ được kiến thức thầy dạy, mà còn phát huy, mở rộng
được kiến thức đã học, tự bồi dưỡng thêm nhiều kiến thức mới.
Mặc dầu ý thức rõ vai trò, nhiệm vụ của mình trong việc triển khai đề tài
song do tác động của hoàn cảnh khách quan và chủ quan nên bài viết không
tránh khỏi những sơ suất, hạn chế. Chúng tôi rất mong nhận được từ quý thầy cô
- các đồng nghiệp những góp ý, trao đổi để bài viết tốt hơn, khả dụng hơn. Xin
chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết

Vũ Thị Hương


19



×