Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Cái tôi chữ tình trong thơ văn nguyễn công trứ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.98 KB, 19 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Hoạt động đọc – hiểu là một hoạt động rất quan trọng bởi nó cũng là một
hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ (giao tiếp gián tiếp giữa tác giả và độc giả).
Nó hướng người đọc tới các mục đích nhận thức, tình cảm và hành động một
cách chủ động. Khi con người nhận thức được vấn đề đúng hay sai thì sẽ tự
nhiên đưa đến tình cảm yêu hay ghét, rồi từ đó dẫn con người tới hành động
đồng tình hay là không, ngợi ca hay phê phán. Có thể khẳng định, dạy văn
không chỉ dạy chữ nghĩa mà quan trọng hơn là dạy cách làm người. Người dạy
phải làm sao hướng các em từ yêu thích, hứng thú với môn học đến biết trân
trọng, ngợi ca nhân vật tốt, tích cực (trong đó có bản thân tác giả) và có ý thức
vươn lên để hoàn thiện nhân cách. Tuy nhiên, việc dạy văn hiện nay dường như
kéo lệch vai trò “dạy người” sang “dạy chữ”, dạy kĩ thuật đi sâu vào tìm hiểu nội
dung, nghệ thuật của tác phẩm nhiều hơn là chỉ ra cho học sinh thấy được cái
đúng, cái sai, cái hay, cái dở, cái đẹp, cái xấu, biết yêu, biết ghét,…
Một thực tế nữa trong giáo dục hiện nay là học sinh thường ngại học văn,
nhất là văn học trung đại. Có lẽ do tư tưởng, quan niệm, ý thức hệ của con người
ngày nay có sự khác biệt lớn so với thời phong kiến trung đại? Hay do nhu cầu
của xã hội hiện đại khiến các em băn khoăn trong việc phải học gì để sau này có
việc làm và cơ hội việc làm cao hơn nên ưu thế của môn văn ngày càng giảm
sút? Hay đó là hệ lụy từ việc “dạy lệch” (nêu ở phía trên) dẫn đến tâm lí nhàm
chán, khô khan, thiếu hứng thú và ngại học từ phía học sinh… Nếu các em được
trang bị kĩ năng tiếp cận tác phẩm một cách có bài bản thì có thể tránh được tâm
lí nhàm chán và các em sẽ chủ động hơn trong việc tìm hiểu?
Trong khi đó, mục tiêu của nền giáo dục nước ta đến năm 2020 sẽ được
đổi mới căn bản và toàn diện theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa,
dân chủ hóa và hội nhập quốc tế; đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục
truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng
thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội… Nếu chương
trình không hợp lí và giáo viên dạy không đúng mục đích, học sinh ngại học
văn… thì sẽ dẫn tới rất nhiều những khó khăn, trở ngại cho việc thực hiện mục


tiêu giáo dục đã đề ra.
Trong tiến trình văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Công Trứ - một con
người được đánh giá là tài năng, bản lĩnh trước những thăng trầm, sóng gió của
cuộc đời; một sự nghiệp thơ ca phong phú, đa dạng, đáng nể; một hiện tượng
văn học có tính độc đáo và phức tạp của giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu
thế kỉ XIX. Tuy nhiên, bên cạnh những ghi nhận, đánh giá tích cực, vẫn còn có
những nhận định, đánh giá trái chiều về con người và thơ văn Nguyễn Công Trứ.
Điều này gây ra khó khăn cho người dạy và học các tác phẩm của ông. Mặc dù
vậy, vẫn chưa có công trình hay tài liệu nào tập trung nghiên cứu rộng và đánh
giá sâu về con người và sự nghiệp thơ ca của ông cho thỏa đáng.

1


Đó thực sự là những khó khăn, trở ngại và gây ảnh hưởng không tốt đến
chất lượng giáo dục học sinh nói chung.
Là giáo viên dạy môn văn, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Cái tôi trữ tình trong
thơ văn Nguyễn Công Trứ”, trên cơ sở đó, đề xuất một hướng tiếp cận và dạy
học tác phẩm của Nguyễn Công Trứ trong nhà trường đạt hiệu quả hơn.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Qua phạm vi bài viết, nguyện vọng của tôi là muốn đóng góp một
phần nhỏ bé với đồng nghiệp, góp một ý kiến nhỏ trong việc đổi mới
phương pháp dạy học đọc – hiểu môn văn; đồng thời bồi dưỡng phương pháp
học tập cho học sinh, hướng dẫn các em cách cảm thụ thơ văn nói chung, thơ
văn Nguyễn Công Trứ nói riêng một cách sâu sắc hơn.
Những mong qua hình tượng “cái tôi” Nguyễn Công Trứ - con người
tài năng, bản lĩnh, tâm huyết trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, phần nào
tác động, khơi dậy lòng đam mê, tinh thần trách nhiệm và rèn luyện bản
lĩnh cho các em – những thế hệ chủ nhân của đất nước, để các em có thêm
hành trang vững tin vào đời.

Bài viết cũng là cách tìm tòi, sáng tạo, thể nghiệm từ những kinh
nghiệm rút ra trong quá trình đọc hiểu tác phẩm của Nguyễn Công Trứ để
giảng dạy tác phẩm của ông trong nhà trường phổ thông được hiệu quả
hơn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung tiếp cận thơ văn Nguyễn Công Trứ qua việc đọc – hiểu
cái tôi trữ tình.
Sau đó, người viết thể nghiệm đề tài của mình qua việc định hướng thiết
kế giáo án bài Bài ca ngất ngưởng trong chương trình Ngữ văn 11 (học kỳ I).
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành bài nghiên cứu này, tôi đã sử dụng một số phương pháp:
Phân tích, tổng hợp khái quát, so sánh đối chiếu, thu thập thông tin, thống kê, xử
lí số liệu,...

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2


2.1. Cơ sở lí luận
Thơ trữ tình là tiếng nói tâm hồn, là tiếng lòng của người nghệ sĩ trước
cuộc đời. Nói đến thơ trữ tình là nói đến cái Tôi cá nhân. Đó là một nhận định đã
được nhiều người thừa nhận. Trong Tùy viên thi thoại, Viên Mai khẳng định:
“Làm người không nên có cái tôi nhưng làm thơ không thể không có cái tôi”.
Thế nhưng, khi nói thơ trữ tình Việt Nam trung đại thể hiện cái Tôi lại không
được nhiều người chấp nhận. Bởi lẽ, từ trước đến nay, cái Tôi dường như là một
phạm trù chỉ dành riêng để nói về Thơ Mới. Tuy nhiên, thơ trữ tình không thể
hiện cái Tôi cá nhân không phát huy được sự độc đáo của cá tính. Văn học Việt
Nam thời trung đại mang tính quy phạm nhưng ngay từ trong bản chất của văn
chương nghệ thuật đã thừa nhận sự sáng tạo, sự “phá vỡ tính quy phạm”. Đó
chính là cơ sở, là sự xuất hiện và khẳng định cái Tôi của văn học nói chung và

của thơ ca trữ tình nói riêng, đặc biệt là của thơ trữ tình thời trung đại.
Vậy, “cái Tôi trữ tình” là gì? Đó “là sự thể hiện một cách nhận thức và
cảm xúc đối với thế giới và con người thông qua lăng kính cá nhân của chủ thể
và thông qua việc tổ chức các phương tiện của thơ trữ tình, tạo ra một thế giới
tinh thần riêng biệt, độc đáo, mang tính thẩm mĩ, nhằm truyền đạt năng lượng
tinh thần ấy đến người đọc” (Nhà phê bình Vũ Tuấn Anh). Và “coi thế giới cái
Tôi trữ tình là một thế giới nghệ thuật, điều đó giúp chúng ta hình dung được
tính độc đáo về tư duy nghệ thuật trên cơ sở thế giới quan, truyền thống văn hóa
và cá tính sáng tạo của chính cái tôi trữ tình” (Nhà phê bình Lê Lưu Oanh). Từ
đó có thể thấy, cái Tôi trữ tình là thế giới nghệ thuật với những đặc trưng mang
nét độc đáo để tạo ra dấu ấn riêng của nhà thơ.
Dạy học thơ trữ tình nói chung và thơ trữ tình trung đại nói riêng, điều
quan trọng là định hướng để học sinh có thể khám phá và chiếm lĩnh những nét
riêng, những điểm độc đáo trong thơ hay chính xác hơn là khám phá và lĩnh hội
cái Tôi trữ tình trong thơ. Các bước để đọc - hiểu một văn bản luôn đi từ ngoài
vào trong, từ dễ đến khó là đọc – hiểu ngôn từ; đọc – hiểu hình tượng nghệ
thuật; đọc – hiểu tư tưởng, tình cảm của tác giả trong văn bản; đọc – hiểu và
thưởng thức văn học. Từ đây, ta có thể thấy, để tiếp cận cái tôi trữ tình trong thơ
người đọc cần chú ý đến cơ sở đọc – hiểu (tức các yếu tố ngoài văn bản liên
quan đến tác giả - chủ thể sáng tạo và hoàn cảnh sáng tác); Thế giới nghệ thuật
trong văn bản; Cảm nhận và phát hiện cái Tôi trữ tình của nhà thơ.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Một giáo viên dạy văn đã từng trải qua những buồn vui, những thành bại
trong quá trình dạy học, tôi thừa nhận và càng thấm thía nỗi buồn khi học sinh
ngày càng chán học văn, khả năng cảm thụ tác phẩm văn chương của các em
ngày một kém dần. Nguyên do thì có nhiều, nhưng chủ yếu là các em rất lười
đọc bài, đọc văn bản. Đây là điều vô cùng nguy hiểm bởi không đọc thì không
hiểu được, hoặc nghe giảng mà không đọc thì “đâu lại vào đấy”, “chữ thầy lại
trả cho thầy”! Đọc – hiểu phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Nếu
không đọc, người học sẽ tiếp nhận kiến thức ở trạng thái bị động, sáo mòn, sơ

3


cứng và hẳn nhiên không có hứng thú học tập tích cực. Tôi e sợ và thiết nghĩ
rằng, những rung cảm trước cái đẹp, trước nỗi đau nhân loại không còn thì tâm
hồn con người ta sẽ trở nên trơ lì và chai sạn.
- Dạy đọc hiểu văn bản văn học bao giờ cũng phải xác định những yếu tố
chi phối đến văn bản. Việc khai thác các yếu tố ngoài văn bản (tính cách, thái độ
của nhà thơ trước cuộc đời; mục đích sáng tác, hoàn cảnh rộng - hẹp để văn bản
ra đời) làm cơ sở đọc hiểu là yếu tố tiên quyết, đặc biệt là đối với văn bản thơ
trữ tình trung đại. Bản chất của cái Tôi là những nét riêng, độc đáo vì thế, chỉ có
thể khám phá đúng cái Tôi của thơ trữ tình trung đại khi đặt nó với những yếu tố
riêng, những cảnh ngộ riêng.
Trong thực tế, các yếu tố ngoài văn bản vẫn luôn bị xem nhẹ, dẫn đến
trong quá trình tiếp cận văn bản nhiều khi phiến diện thậm chí suy diễn một cách
tùy tiện. Bên cạnh đó, một số giáo viên trong quá trình dạy học khai thác các
yếu tố ngoài văn bản chưa xác định rõ mục đích. Khi tìm hiểu về tác giả chỉ tập
trung vào năm sinh, năm mất hoặc quê quán của tác giả. Tìm hiểu hoàn cảnh
sáng tác lại tập trung vào việc được rút ra từ tập thơ nào,... Chính vì thế, học
sinh thường không tạo được một cơ sở đọc hiểu cần thiết nên tiếp cận và chiếm
lĩnh văn bản rất khó khăn và thiếu chính xác.
- Đọc hiểu thế giới nghệ thuật trong văn bản là bước quan trọng nhất để
tiếp cận đến cái tôi trữ tình. Mục tiêu của việc dạy học đọc hiểu văn bản là dạy
học theo đặc trưng thể loại. Trên cơ sở của đặc trưng thể loại, khám phá thế giới
ngôn từ là quá trình đầu tiên trong việc tìm hiểu văn bản. Sau đó là khám phá
đến thế giới hình tượng. Đây là điều hiển nhiên và có quy luật tuyến tính trong
quá trình đọc – hiểu. Bởi phải đọc thông ngôn từ, ngữ nghĩa rồi mới đi đến liên
tưởng, tưởng tượng để hình tượng hiện ra trong tâm trí và tình cảm của người
đọc.
Việc hiểu rõ đặc trưng thể loại văn bản văn học cổ cũng là một trở ngại

lớn đối với cả giáo viên và học sinh. Thể loại trữ tình trung đại có thể kể đến
như thơ Đường luật, hát nói, phú, ngâm khúc… Đây thực sự là những thể loại
khó, ngay cả giáo viên nếu không có hiểu biết chính xác và đầy đủ thì việc giảng
dạy đã là một trở ngại, huống gì học sinh thấy khó nên chán nản.
Đã là đọc hiểu văn bản văn học thì phải đọc hiểu ngôn từ và hình tượng
nghệ thuật, thế nhưng thơ trung đại lại có những khó khăn nhất định. Ngôn từ thì
mang tính tượng trưng ước lệ, hàm súc, cô đọng cao, một phần bởi sử dụng
nhiều điển cố, điển tích; hình tượng cũng mang tính biểu tượng cao, thường
dùng hình ảnh này để quy chiếu cho hình ảnh khác. Nếu không có kiến thức sâu
vững, không có khả năng cảm thụ thì việc sinh ra tâm lí chán nản, ngại học văn
học trung đại cũng là điều không mấy khó hiểu.
- Đọc hiểu thơ trữ tình nói chung và thơ trữ tình trung đại nói riêng thực
chất là việc khám phá cái tôi trữ tình. Cái Tôi trữ tình chính là hình ảnh chủ thể
nhà thơ thể hiện trên mỗi con chữ và sau những hình tượng nghệ thuật. Để học
sinh có thể khám phá được cái Tôi trữ tình trong thơ trung đại, người dạy phải
định hướng để học sinh kết hợp giữa cơ sở đọc hiểu và thế giới nghệ thuật. Nếu
4


đặt thế giới nghệ thuật của bài thơ ngoài cơ sở đọc hiểu của nó chắc chắn cái Tôi
trữ tình sẽ khác xa rất nhiều.
Thực tế, đọc - hiểu thơ trung đại, phần lớn chỉ khám phá tình cảm, thái độ
của tác giả qua những câu kết trong bài thơ. Thực chất, cái Tôi trong thơ trữ tình
dù không bộc lộ một cách trực tiếp nhưng luôn xuất hiện xuyên suốt bài thơ.
Trước một hiện thực cuộc sống, trước một thời khắc của thời gian, mỗi nhà thơ
đều mang một tâm trạng, tình cảm riêng của mình. Cái Tôi còn được thể hiện
qua việc lựa chọn một hình thức nghệ thuật tương ứng để chuyển tải những tâm
tư, tình cảm, tâm trạng của mình. Như vậy, cái tôi trong thơ trữ tình vừa được
thể hiện qua hình ảnh cái Tôi của nhà thơ vừa thể hiện những độc đáo về hình
thức nghệ thuật.

2.3. Các biện pháp giải quyết vấn đề.
2.3.1. Cái tôi trữ tình trong thơ văn Nguyễn Công Trứ
2.3.1.1. Cái tôi trữ tình mang dấu ấn thời đại
Nguyễn Công Trứ (1778 - 1859), hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu Hi Văn, là
con nhà nho "nòi" sinh ra và lớn lên ở quê hương Hà Tĩnh. Từ nhỏ nổi tiếng học
giỏi, hay thơ văn, tính tình phóng khoáng. Ông sống và trưởng thành trong một
thời đại đầy dông bão và quá ư phức tạp. Tuy vậy, Nguyễn Công Trứ đỗ đạt và
làm quan vào thời kì mà nhà Nguyễn mới thống nhất đất nước, chấm dứt nội
chiến, củng cố quân quyền và phục hưng nho học. Hoàn cảnh ấy là động lực cho
cả một tầng lớp Nho sĩ đang hăm hở bước vào một triều đại mới với một lẽ sống
mới, cố gắng vươn lên để khẳng định mình.
Nguyễn Công Trứ từng tự nhủ:
Đã sinh ra ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.
(Đi thi tự vịnh)
Ông tâm niệm thế và đã làm được nhiều hơn thế. Ông được thăng thưởng
quan tước nhiều lần vì những thành tích, chiến công trong quân sự và kinh tế, tới
chức thượng thư, tổng đốc.. Vậy mà cuộc đời ông là những thăng trầm, nhiều lần
bị giáng phạt, có khi giáng liền ba bốn cấp… Nguyễn Công Trứ là người có tài,
đã đem hết tài năng, trí tuệ giúp đời, cứu nước, cứu dân. Nhưng xã hội phong
kiến mà ông phụng sự lại quá bé nhỏ, thảm hại, ông Hi Văn luôn luôn cảm thấy
bị ràng buộc, mất tự do, chẳng khác nào một con chim trong lồng, chỉ muốn
thoát
ra:
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
(Bài ca ngất ngưởng)
Một hình ảnh thật mới mẻ, thật táo bạo. Thời ấy ai dám nói như Nguyễn
Công Trứ bởi việc ra làm quan tuy có nhiều ràng buộc song nó vẫn là đối tượng
của sự tôn kính, ngưỡng vọng của người đời:
Trót sinh ra thời phải có chi chi,

Chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu.
(Chí nam nhi)

5


Nói đến Nguyễn Công Trứ người ta thường nghĩ đến con người “ngoài
vòng cương toả”. Thực ra, trước khi đề cao con người ngoài vòng cương toả,
bao giờ Nguyễn Công Trứ cũng xác định rõ phải là con người phận sự đã:
- Vũ trụ chi gian giai phận sự…
- Trong vũ trụ đã đành phận sự...
- Vũ trụ nội mạc phi phận sự…
Phận sự ấy là gánh càn khôn, công danh, sự nghiệp, chí tang bồng, đường
trung hiếu, chữ quân thân, trên vì nước dưới vì nhà... mà đấng nam nhi không
thể trốn tránh, chối từ. Điều đó, bao nhiêu năm tồn tại nhà nước phong kiến thì
có bấy nhiêu thế hệ nam nhi gánh vác và đã trở thành tiêu chí của con người thời
đại. Nhưng không dừng lại ở đấy. Với Công Trứ, có tận hiến không thể không
có tận hưởng. Xét cho kỹ mọi nhẽ thì việc hành lạc đối với con người cũng là
việc rất phải, nên làm, không để cho hư danh ràng buộc bản thân mình:
Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi đấy
Nếu không chơi thiệt ấy ai bù?
(Chơi xuân kẻo hết xuân đi).
Thú gì hơn nữa thú ăn chơi
Chi giàu khó sang hèn là phận cả
Đủ lếu láo với người thiên hạ
Tính đã quen đài các bấy lâu
Đàn một cung, cờ một cuộc, thơ một túi, rượu một bầu
Khi đắc chí ngao du ờ cũng phải...
(Thích chí ngao du)
Nguyễn Công Trứ là con người của tự do, một tâm hồn phóng khoáng và

ưa hoạt động. Chính vì thế khi bị giam chân vào trong cái “lồng” của xã hội thì
cũng là dịp để ông thể hiện cái tôi “ngất ngưởng” của mình rõ nét hơn. Trái hẳn
với cái ta chung chung, mang tính chất tập đoàn, Nguyễn Công Trứ đã tự xưng
danh, biến cái ta thành cái tôi, thành lẽ sống cho bản thân mình. Và Nguyễn
Công Trứ đã “xé rào”, “phá vỡ quy phạm” thi pháp văn học trung đại lúc nào
không hay. Tư tưởng của nhà thơ là tư tưởng cách tân mang đậm dấu ấn thời đại
bởi nó không chỉ là sự cách tân bằng văn hóa mà bằng cả cuộc đời ông đang
sống. Trong một xã hội mà cá nhân bị thủ tiêu, bưng bít thì Nguyễn Công Trứ lại
hiển lộ ra một cái tôi với cá tính ngông nghênh, ngạo nghễ. Có ai có thể tìm thấy
trong suốt lịch sử phong kiến có cái tôi nào “ngất ngưởng” như ông “Uy Viễn
Nguyễn”? Rõ ràng, Nguyễn Công Trứ đã luôn tròn trách nhiệm của
kẻ “làm trai đứng trong trời đất” song lại ghi dấu tên tuổi, cá
tính của mình bằng cái tôi mang đậm dấu ấn thời đại để không
bị chìm khuất như bao kẻ làm trai khác chỉ biết có “phận sự”!
Với tinh thần nhân văn “ngất ngưởng” ấy, nhà thơ Nguyễn Công Trứ đã ghi
danh mình như một người đi tiên phong, thậm chí, đi trước thời đại hàng thế kỉ!
2.3.1.2. Cái tôi trữ tình – thế sự
Có thể thấy, văn học trung đại Việt Nam giai đoạn thế kỉ XVIII - XIX chủ
yếu thể hiện nội dung nhân đạo sâu sắc, bởi đây là giai đoạn khủng hoảng nhất
6


do xã hội hỗn loạn nhất, quyền sống và số phận con người được văn học quan
tâm hàng đầu. Thơ văn Nguyễn Công Trứ một mặt vẫn tiếp tục tinh thần nhân
đạo truyền thống, nhưng mặt khác, thể hiện dày đặc và rõ nét là thơ ông hướng
nhiều vào thế giới tình cảm riêng tư và ý thức cá nhân của con người, bày tỏ
khát vọng, ước mơ, phẫn nộ trước hiện thực cuộc sống, trước thế thái nhân tình.
Đây chính là cơ sở để ta khẳng định cái tôi Nguyễn Công Trứ: một cái tôi trữ
tình – thế sự.
Là một con người của hành động, tài năng đóng góp hơn người, lại trải

qua nhiều thăng giáng thất thường, Nguyễn Công Trứ hiểu sâu sắc nhân tình thế
thái đương thời. Ông khinh bỉ và ngán ngẩm nó.
Thế thái nhân tình gớm chết thay
Lạt nồng trông chiếc túi vơi đầy
Hễ không điều lợi, khôn thành dại
Đã có đồng tiền, dở cũng hay
Khôn khéo chẳng qua ba tấc lưỡi
Hẳn hoi không hết một bàn tay
Suy ra cho kĩ chi hơn nữa
Bạc quá vôi mà mỏng quá mây
(Thế thái nhân tình)
Hay:
Tiền tài hai chữ son khuyên ngược
Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi.
Hoặc:
Ra trường danh lợi vinh liền nhục
Vào cuộc trần ai khóc trước cười.
(Con đường làm quan)
Trong xử thế ông cười nhạo sự thăng giáng, coi làm quan thì cũng như
thằng leo dây và không che giấu sự ngạo mạn:
Nào nào! Thằng nào sợ thằng nào
Đã sa xuống thấp lại lên cao.
Nguyễn Công Trứ là người ngay thẳng, rõ ràng, công bằng, không chấp
nhận những cách ứng xử nước đôi thiếu minh bạch. Ở ông là sự biểu hiện của
một tính cách “thuần Nghệ”. Không chỉ trong đời sống mà trong những vần thơ,
hay những câu hát nói cũng rõ ràng một tính cách ấy, con người ấy. Người ta nói
rằng dân xứ Nghệ “thô mà thật”. Có lẽ do đặc điểm địa lí của mảnh đất miền
Trung gió lào cát trắng, quanh năm khô cằn, hạn hán hoặc bão lũ, lụt lội, cuộc
sống vô vàn khó khăn đói nghèo triền miên nên ta hiểu vì sao mảnh đất “chó ăn
đá, gà ăn sỏi” ấy đã phần nào tạo nên tính cách chung của con người nơi đây (ăn

thẳng nói thật, bộc trực, bỗ bã, ít rào đón đưa đẩy, có sao nói vậy...). Và Nguyễn
Công Trứ cũng không phải là ngoại lệ. Như một người con trung thành và quang
vinh của xứ sở, ông đã bộc lộ những cảm xúc rất “thế sự” về tất cả những gì mà
bản thân ông “tai nghe mắt thấy” và va chạm bằng chính cuộc đời mình. Ông
nêu lên cuộc sống nghèo khó, thiếu thốn của bản thân trong Hàn Nho phong vị
phú bằng một giọng điệu hài hước, hóm hỉnh và có cả ý vị mỉa mai:
7


Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no;
Đêm năm canh an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ.
Ngay đến chuyện “tương tư” trong tình cảm đôi lứa mà ông cũng có thể
đùa một cách tài tình, “tỉnh rụi”, nghịch ngợm, độc đáo bằng ngôn ngữ và cách
xưng hô “rất Nghệ” thì quả thật không ai qua được Nguyễn Công Trứ. Bài thơ
Bỡn nhân tình là một ví dụ:
Tao ở nhà tao, tao nhớ mi,
Nhớ mi nên phải bước chân đi.
Không đi mi nói: răng không đến?
Đến thì mi nói: đến làm chi?
Làm chi tao đã làm chi được,
Làm được tao làm đã lắm khi.
Là người học rộng, Nguyễn Công Trứ có một cái nhìn quán thông kim cổ
để nhận xét thời thế, hiểu rõ quốc sự, cảm thấu dân tình. Đọc thơ ông, có thể
thấy lối nói hoa hòe, hoa sói, uốn éo “lịch lãm” hay tỏ ra làm duyên làm dáng
không hề phù hợp với tạng con người này. Cách nói của ông là cách nói trần
trụi, khi cần có thể văng tục, mà văng tục rất hồn nhiên:
Đéo mẹ nhân tình đã biết rồi
Lạt như nước ốc bạc như vôi...
(Thế tình bạc bẽo)
Cũng chưa thấy ai dùng giọng văng tục để khẳng định một nội dung

nghiêm túc như Nguyễn Công Trứ:
Thuộc ba mươi sáu đường kinh, chẳng Thần, Thánh, Phật, Tiên, song khác tục
Hay tám vạn tư mặc kệ, không Quân, Thần, Phụ, Tử, đếch ra người
(Giai thoại - Câu đối đùa sư)
Đời ông đầy giai thoại, giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, bản
lĩnh trí tuệ và mang tính bình dân sâu sắc. Thơ ông sinh động, giàu triết lý nhân
văn nhưng hóm hỉnh, đó là chất thơ có được từ đời sống, lấy đời sống làm cốt
lõi. “Nguyễn Công Trứ là một người đa tài, một đời dấn thân, bị kìm nén, lên
xuống mà vẫn làm được những việc lớn lao đến thế, buộc hậu thế chúng ta đây
phải nhìn lại cuộc đời thực, mà ta tưởng như tầm thường đó lại phản ảnh của
một thế sự” (nhận xét của giáo sư Phong Lê).
Tất cả suy nghĩ, tình cảm của ông xuất phát từ sự trải nghiệm sâu sắc đời
sống lam lũ, nghèo khổ của người dân; của chính ông trong những tháng ngày
sống nghèo khó, thiếu thốn chứ không đơn thuần là một phút cao hứng trong thư
phòng lộng lẫy của vương công quý tộc như một số người lầm tưởng. Nguyễn
Công Trứ không đối lập, tách rời giữa lý tưởng “trí quân” và “trạch dân”. Với
bản tính ngay thẳng, Nguyễn Công Trứ đã hướng ngòi bút vào hiện thực cuộc
sống và xã hội đương thời để ghi lại “những điều trông thấy”, những dấu hiệu
khủng hoảng, suy tàn cho một thể chế chính trị đã bộc lộ những lỗi thời, lạc hậu
nghiêm trọng. Ông sống giữa cuộc đời, đi giữa dòng người và phản ánh cuộc
sống bằng cảm hứng thế sự đầy hiện thực mà cũng rất nhân văn.

8


2.3.1.3. Sự thống nhất giữa cái tôi cá nhân và cái tôi trách nhiệm
“Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân. Chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc
gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia
đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả” (Thi nhân Việt Nam – Hoài
Thanh). Theo đó, ta hiểu rằng con người thời trung đại là con người của trách

nhiệm, phận vị. Những quan niệm như “tam cương, ngũ thường”, “tam tòng, tứ
đức”,... trói buộc con người vào trách nhiệm. Con người không có quyền sống
cho cá nhân mình. Và theo thời gian, nó thành ra một thứ hành vi tự nguyện, tự
giác, một sự tự ý thức của mỗi người. Nguyễn Công Trứ cũng là một nhà Nho,
cũng vận hành bản thân theo quy luật sẵn có: học hành - thi đỗ - làm quan. Và
đương nhiên phải thực hành trách nhiệm. Tuy nhiên, Nguyễn Công Trứ lại là
người tính tình phóng khoáng, không dễ dàng chấp nhận lối sống “rập khuôn”,
có phần máy móc, giáo điều của xã hội và triều đại đã quá nhiều những bất cập,
nhiễu nhương, loạn lạc, “mất chuẩn”. Bởi vậy nên ông sinh ra thái độ “ngông”,
“ngất ngưởng” trong cả đời sống lẫn thơ văn. Con người trong quan niệm của
Nguyễn Công Trứ hiện ra dưới nhiều dạng thức khác nhau nhưng có hai dạng
chính mà ông luôn luôn quan tâm đến: con người xã hội – trách nhiệm và con
người cá nhân – tài tử. Nó đã đi vào thơ văn Nguyễn Công Trứ thật tự nhiên để
làm nên những cái tôi độc đáo.
Có thể nói, ở Nguyễn Công Trứ, nhìn ở mặt nào, lĩnh vực nào, dù thơ hay
đời, ta cũng tìm thấy những điều tưởng chừng như mâu thuẫn này. Vậy đâu là sự
thống nhất các cực trái dấu ấy?
Bài viết về Nguyễn Công Trứ của Lưu Trọng Lư tuy ngắn nhưng có thể
nói đã khái quát được cái thần của Nguyễn Công Trứ: “Thật là sự điều hoà kỳ
diệu của những cái tương phản nhau: sự điều hoà của mộng với thực, cái ngông
cuồng của một kẻ lãng tử với cái nề nếp của một nho sinh, và cuối cùng là sự
điều hoà của thơ văn với Khổng giáo. Nguyễn Du muốn là người bạn hoàn toàn
của thơ văn, đã phải lảng Nho mà theo Phật... Nguyễn Công Trứ vẫn ở trong cái
phong khí khắc khổ của Nho mà vẫn khoáng dật thích thảng như một đồ đệ của
Lão - Trang. Tiên sinh vừa hành binh trị nước, vừa ngâm hoa vịnh nguyệt, mà
cái này không hại đến cái kia”…
Sáng tác của Nguyễn Công Trứ tập trung xoay quanh đề tài Chí nam
nhi với bao nhiêu món nợ. Đã là nợ thì phải trả. Hành trình cuộc đời cũng như
hành trình sáng tác của Nguyễn Công Trứ có thể xem là hành trình trả những
món nợ độc đáo ấy. Người trả nợ không ai khác là đấng nam nhi “hữu chí” anh

hùng và tài tử. Với tư tưởng sáng tạo chủ đạo và tâm đắc ấy, Nguyễn Công Trứ
nhìn con người và thế giới qua lăng kính chí ở mọi phương diện. Đã là con
người thì phải là con người hữu chí - cái chí của đấng nam nhi uy dũng, ngang
tàng:
Hữu chí công danh tài bất lụy
Sơ lai bồng thỉ hựu hà phương
(Danh lợi)

9


Chí làm trai nam bắc tây đông
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể
(Chí khí anh hùng)
Đề tài này không phải chờ đến Nguyễn Công Trứ mới xuất hiện, nhưng
trong thơ văn ông nó thực sự như một tuyên ngôn, một quan niệm nhất quán,
bền vững, một tư tưởng sáng tạo hấp dẫn với nhiều nội dung mới mẻ, độc đáo,
ấn tượng mà không khuôn sáo. Đây là đề tài nổi bật để Nguyễn Công Trứ có thể
bộc lộ cái tôi trách nhiệm và cái tôi cá nhân trong sáng tác của mình một cách
độc đáo, hấp dẫn.
Ở Nguyễn Công Trứ có sự thống nhất hai mẫu hình nhà nho: hành
đạo và tài tử, hai loại thơ: ngôn chí và hành lạc. Hiện tượng này thực ra cũng
không phải là cá biệt. Ta cũng thấy điều này ở Cao Bá Quát, Tản Đà... Điều
đáng chú ý là hiện tượng này ở Nguyễn Công Trứ quá trội, thậm chí là điển
hình. Hơn ai hết, Nguyễn Công Trứ thực hành trách nhiệm thì thực hành đến nơi
đến chốn, mà bộc lộ tài tử cá nhân thì cũng bộc lộ ở mức tối đa; nói ngôn chí thì
nói đến tận cùng, mà cổ vũ hành lạc thì cổ vũ đến tột đỉnh. Con người này
không chấp nhận dạng lưng chừng, nửa vời, mà dám chấp nhận tất cả mọi đối
cực ở phía đỉnh điểm của nó.
Nguyễn Công Trứ đã chọn lối “hành” chứ không theo lối “tàng”, không

cần phải ẩn mình như các nhà Nho thời trước. Đối với ông, hành đạo hay hành
lạc, tất cả đều chỉ là một cuộc chơi, là nơi gửi gắm cái chí của người anh hùng,
tạo nên một sự giải toả cần thiết cho người tài tử trong ông ở thời đại bấy giờ.
Tang bồng là nợ
Làm tài trai chi sợ áng công danh...
Chơi cho phỉ chí tang bồng
(Quân tử cố cùng)
Nợ tang bồng hẹn khách thiếu niên
Cuộc hành lạc vẫy vùng cho phỉ chí
(Cầm kỳ thi tửu)
Chính vì thế mà thơ ngôn chí hay thơ hành lạc đều cùng một khẩu khí
ngang tàng, bất cần, phóng túng, thể hiện sở trường đa năng của mình trên tất cả
mọi hướng:
Đem quách cả sở tồn làm sở dụng
Trong lăng miếu ra tài lương đống
Ngoài biên thuỳ rạch mũi can tương
Sĩ làm cho bách thế lưu phương
Trước là sĩ sau là khanh tướng.
Kinh luân khởi tâm thượng,
Binh giáp tàng hung trung.
Vũ trụ chi gian giai phận sự,
Nam nhi đáo thử thị hào hùng.
Nhà nước yên mà sĩ cũng thung dung,
Bấy giờ sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch.
10


Năm ba chú tiểu đồng lếch thếch,
Tiêu dao nơi hàn cốc thâm sơn.
Nào thơ, nào rượu, nào địch, nào đờn,

Đồ thích chí chất đầy trong một túi.
Mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi,
Gẫm việc đời mà ngắm kẻ trọc, thanh,
Này này sĩ mới hoàn danh.
(Luận kẻ sĩ)
Tuy có hơi ồn ào nhưng nhìn chung ông là người xác định rất đúng về
bản thân mình, từ tài năng, bản lĩnh sống cho đến phong cách của một “tay chơi
thứ thiệt”… Tất cả đều bộc lộ rõ nét nhất, ông không hề và không cần che giấu
một điều gì. Nếu ở thể loại thơ, Luận kẻ sĩ được xem như là như tuyên ngôn cho
cuộc sống và nghệ thuật đầy chân thành, xúc động của Nguyễn Công Trứ thì ở
thể loại hát nói, một sở trường yêu thích của ông, Bài ca ngất ngưởng cũng được
hiểu tương tự như vậy.
Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
….
Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
(Bài ca ngất ngưởng)
Sự hội tụ và thống nhất cái tôi cá nhân và cái tôi trách nhiệm ở Nguyễn
Công Trứ quả là một hiện tượng độc đáo nhưng hợp quy luật. Ông là con người
“làm là làm đến nơi, chơi là chơi đến chốn” nên mới có được cái khẩu khí vừa
như khẳng định vừa như thách thức đó. Quả thực, phải là một con người tài
năng, bản lĩnh lắm mới có được cái thế cân bằng, vững chãi giữa hai lực kéo trái

chiều như vậy! Phải là con người hành động, dám vượt ra ngoài vòng cương toả,
dám dấn thân và phải có thực tài thì mới có thể làm được như vậy. Con đường
dẫn đến phong cách Nguyễn Công Trứ cái chính cũng là bắt nguồn từ đây.

11


2.3.2. Giáo án dạy học thể nghiệm
Tiết 13: Đọc văn

BÀI CA NGẤT NGƯỞNG
- Nguyễn Công Trứ A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT
1. Kiến thức:
- Con người Nguyễn Công Trứ thể hiện trong hình ảnh “ông ngất
ngưởng”, tiêu biểu cho mẫu người tài tử ở hậu kì văn học trung đại Việt Nam.
- Hiểu được phong cách sống của Nguyễn Công Trứ với tính cách một
nhà nho và hiểu được vì sao có thể coi đó là sự thể hiện bản lĩnh cá nhân mang ý
nghĩa tích cực. Hiểu đúng khái niệm “ngất ngưởng” để không nhầm lẫn với lối
sống lập dị của một số người hiện đại.
- Nắm được những tri thức về thể hát nói là thể thơ dân tộc bắt đầu phổ
biến rộng rãi từ TK XIX.
2. Kỹ năng:
Có kỹ năng đọc hiểu một văn bản văn học theo đặc trưng thể loại.
3. Thái độ: Trân trọng, học tập tài năng, nhân cách, bản lĩnh của Nguyễn Công
Trứ
B. CHUẨN BỊ
- Học sinh: SGK, vở ghi, vở soạn
- Giáo viên: SGK, SGV, Thiết kế bài dạy theo chuẩn KTKN, tài liệu tham
khảo về Nguyễn Công Trứ,...
C. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY VÀ HỌC

1. Ổn định tổ chức
2. Kiểm tra bài cũ: Đọc thuộc lòng bài “Vịnh khoa thi hương” và nêu
cảm nhận của em về cảnh trường thi qua ngòi bút châm biếm của Tú Xương?
3. Bài mới
Trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam, chúng ta đã có dịp tìm hiểu khá
nhiều tác giả với những tác phẩm độc đáo. Hôm nay, cô và trò chúng ta cùng tìm
hiểu một tác giả mới với những đóng góp về phong cách và thể loại. Đó là
Nguyễn Công Trứ với bài hát nói Bài ca ngất ngưởng.
HOẠT ĐỘNG
YÊU CẦU CẦN ĐẠT
CỦA GV VÀ HS
HĐ1: Hướng dẫn đọc I. Tiểu dẫn
phần Tiểu dẫn
1. Tác giả
- HS đọc SGK
- Tiểu sử:
? Phần tiểu dẫn cho + NCT (1778 – 1858), Tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai,
em hiểu biết những biệt hiệu Hi Văn.
nội dung gì?
+ Gia đình có truyền thống Nho học
- HS tóm tắt thành hai + Quê ở làng Uy Viễn, h. Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
phần: tác giả và tác - Cuộc đời bản thân:
phẩm.
+ Từ nhỏ cho đến năm 1819: sống nghèo khổ. Nhưng
thời gian này ông tham gia sinh hoạt, hát ca trù vốn có
12


- HS đọc SGK
- GV giải nghĩa từ

khó.
? Em hãy tìm bố cục
và đại ý của mỗi
đoạn?
HĐ2: Hướng dẫn học
sinh Đọc - hiểu
- HS đọc SGK
? Em hãy cho biết sáu
câu đầu bài thơ thể
hiện nội dung gì?

- Em có suy nghĩ gì về
những lời tự thuật này
của tác giả?

nguồn gốc ở làng Cổ Đạm gần quê ông.
+ Năm 1819, đỗ Giải nguyên, được bổ làm quan.
+ Là người có tài năng, tâm huyết trên nhiều lĩnh vực
như văn hoá, kinh tế và quân sự,...
+ Con đường làm quan cũng thăng giáng thất thường.
- Về sự nghiệp văn chương: Sáng tác chủ yếu bằng chữ
Nôm và thể loại ưa thích là hát nói, một điệu của ca trù.
Ông là người có công đem đến cho hát nói một nội dung
phù hợp với chức năng và cấu trúc của nó.
2. Tác phẩm
- Thể loại: hát nói
- Bố cục chia làm 3 đoạn:
+ 6 câu đầu: giới thiệu tài năng, danh vị xã hội
+ 12 câu tiếp: Phong cách sống khác đời, ngao du giải
trí khác người, phẩm chất và bản lĩnh trước những thăng

trầm và thế thái nhân tình.
+ 1 câu cuối: khẳng định phong cách sống của mình.
II. Đọc – hiểu văn bản
1. Sáu câu đầu
Tác giả tự giới thiệu tài năng, danh vị xã hội của mình.
+ Mọi việc trong trời đất chẳng có việc nào không phải
là phận sự của ta (“vũ trụ nội mạc phi phận sự”) -> câu
thơ như một tuyên ngôn của tư tưởng hành đạo.
+ Nguyễn Công Trứ tự nhận mình có “tài bộ” tức là tài
hoa. Tuy nhiên với ông thành đạt, hiển vinh cũng là một
cách “vào lồng”, có nghĩa là đi vào con đường có sẵn,
không ai trói buộc mà cứ như một thứ xiềng xích vô
hình.
+ Đoạn thơ “thị tài” (4 câu) đầy hào hứng với các sự
kiện gắn với các mốc thời gian:1819, 1833, 1841, 1835,
1840 – 1841, 1848? -> hệ thống từ Hán Việt uy nghiêm
trang trọng kết hợp với âm điệu nhịp nhàng, tạo điệp từ,
ngắt nhịp câu thơ:
“Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông...Lúc
bình Tây... Có khi về...”.
- Lời tự thuật khẳng định tài năng và lí tưởng trung
quân, ý thức trách nhiệm của kẻ sĩ. Tất cả đã thể hiện
một tài năng xuất chúng. Mở đầu là học vị Thủ khoa vẻ
vang. Tiếp đó là chức Tham tán, Tổng đốc Đông, Phủ
doãn Thừa Thiên và chiến tích “Bình Tây cờ Đại
tướng”. Cái say sưa không chỉ ở sự thành danh mà ở
chỗ: ông làm gì cũng được, làm gì cũng như trở bàn tay,
thừa hành công vụ vua trao mà như một cuộc rong chơi.
13



- Cách nói ấy thể hiện
thái độ sống như thế
nào ? Em hiểu thế nào
về hai chữ “ngất
ngưởng” sử dụng
trong bài thơ ?
- HS đọc SGK
? Tác giả đã thể hiện
nội dung gì trong 12
câu tiếp theo của bài
thơ?

? Em có suy nghĩ gì về
cách nói trong 12 câu
tiếp ấy?

Và trong cuộc rong chơi thoả chí ấy, ông đã thể hiện
được cái chí riêng của mình – “đã nên tay ngất ngưởng”
-> Không phải ai cũng ý thức được tài năng ấy. Phải là
người ý thức được mình, có tài năng thực sự và tận tâm
với sự nghiệp mới có cách nói ấy.
- Cách tự nói về tài năng, danh vị của mình là xuất phát
từ thái độ sống “ngất ngưởng”. Hai tiếng “ngất ngưởng”
diễn tả một thái độ, một tinh thần của con người biết
vượt mình lên trên thiên hạ. Đó là biểu hiện của một
phong cách sống nhất quán, bản lĩnh và tiến bộ (khác
với “lập dị”).
2. Mười hai câu tiếp
- Nhà thơ bộc lộ một thái độ sống theo ý chí và sở thích

cá nhân, một phẩm chất vượt lên trên thói tục.
+ Ông đã giải thoát khỏi những ràng buộc thông thường,
những thế lực tinh thần vẫn ngự trị xưa nay. Về hưu,
người ta cưỡi ngựa, ông cưỡi bò vàng. Về hưu, ông
thường lên chùa mang theo những cô hầu gái. (Liên hệ
hai câu thơ của Phan Bội Châu) -> một phong cách sống
khá tự do, phóng túng.
+ Được hay mất, phú quý hay bần hàn, được khẳng định
hay bị phủ định trong cuộc sống và trong quan hệ xã
hội, ông vẫn tỏ ra bình thản, chẳng đoái hoài gì “Được
mất...đông phong”.
+ Ông tự coi mình như “người thái thượng”. Ông có
cách sống của riêng ông “không Phật, không Tiên,
không vướng tục”. Bởi ông luôn tự tin có tài năng và
phẩm chất thực sự nên tự sánh mình với những bậc danh
tiếng trong sử sách Trung Hoa.
- Không phải đến lúc này ông mới nói lên cái phong
cách sống “ngất ngưởng” vì đã “hết thời”, mà với ông
sau lúc hưu quan, cuộc chơi vẫn tiếp tục. Nghĩa là
không hề gián đoạn, có khi còn hào hứng hơn. Và ông
đã “chơi ngông” bằng những hành động rất khác đời
(cưỡi bò đi rong chơi, dắt hầu gái lên chùa,..). Nhưng dù
có phá cách đến đâu, Nguyễn Công Trứ vẫn là một nhà
Nho, mà đã là nhà Nho thì phải “nghĩa vua tôi cho vẹn
đạo sơ chung”. Hai lực kéo trái chiều mà nhà thơ vẫn có
được cái thế thăng bằng. Đó là nghệ thuật sống!
- 12 câu đọc lên ta thấy bài thơ xây dựng một hình
tượng có ý vị trào phúng. Nhưng đằng sau nụ cười là
một thái độ, một quan niệm nhân sinh mang màu sắc
hiện đại, vì nó khẳng định, đề cao một cá tính. Ý thức

14


của cái “tôi” đã trỗi dậy trong khi nền văn học đang thủ
tiêu nó bằng quan niệm hàng nghìn năm.
- HS đọc SGK
3. Câu thơ kết
? Theo em, tác giả - Sau khi đã khẳng định tư tưởng, vượt lên thói tục, sánh
khẳng định điều gì ở mình với những bậc danh sĩ tài giỏi trong sử sách Trung
câu thơ kết?
Hoa và là người ăn ở có trước, có sau “Nghĩa vua tôi
cho vẹn đạo sơ chung”, câu thơ kết một lần nữa khẳng
định thái độ sống của một nhân cách đầy tài năng, phẩm
giá đồng thời lại vừa như một lời thách thức thể hiện
bản lĩnh cứng cỏi, ngang tàng.
? Học xong bài thơ Dù sao Nguyễn Công Trứ cũng là một môn đồ của đạo
này, em hãy giải thích Khổng. Tư tưởng “trí quân trạch dân” đã thôi thúc ông
vì sao Nguyễn Công đi học, đi thi, đỗ đạt ra làm quan lo đời, giúp nước. Lí
Trứ biết rằng việc làm tưởng “Tề gia trị quốc bình thiên hạ” luôn luôn vẫy gọi
quan là gò bó, mất tự những người như Nguyễn Công Trứ. Ông từng nêu chí
do (vào lồng) nhưng khí của kẻ làm trai :
ông vẫn ra làm quan?
Đã làm trai đứng trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Danh vọng với Nguyễn Công Trứ phải gắn liền với tài
năng thực sự, danh vọng phải gắn liền với phẩm chất.
Nhìn chung vì tài năng, lí tưởng của trang nam nhi, ông
vẫn ra làm quan.
HĐ3: Hướng dẫn học III. Tổng kết
sinh Tổng kết

1. Nội dung
? Em hãy khái quát Bài thơ là bức chân dung tự họa về con người NCT.
những điểm nổi bật về Ngất ngưởng là cách NCT thể hiện bản lĩnh cá nhân
nội dung và nghệ trong cuộc sống.
thuật của tác phẩm?
2. Nghệ thuật
- N1: Khái quát ND
Hát nói là thể loại tổng hợp giữa ca nhạc và thơ, có tính
- N2: Khái quát NT
chất tự do, phóng khoáng, thích hợp với việc thể hiện
con người cá nhân.
4. Củng cố, hướng dẫn tự học:
- Học thuộc lòng bài thơ; Nắm được nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
- Luyện tập: Phân tích cái tôi Nguyễn Công Trứ trong bài Bài ca ngất ngưởng
- Hai tiết sau học “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” (Cao Bá Quát)
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Năm học 2015 – 2016, tôi được phân công giảng dạy hai lớp khối 11 là
11B4 và 11B6. Sau khi vận dụng kinh nghiệm, bản thân tôi đã nhận ra hiệu quả
khá rõ rệt qua bài viết của các em. Cụ thể với câu hỏi đề bài: “Cảm nhận của em
về nhân vật trữ tình trong bài Bài ca ngất ngưởng? Em học tập được gì qua nhân
vật này?
Điểm số của các em nói lên sự tiến bộ trong học tập và hiệu quả của sáng
kiến. Điều làm tôi vui hơn là qua bài viết của các em, nhận thấy cách viết, cách
15


diễn đạt khá hơn hẳn, và đặc biệt là nhận thấy các em có sự trưởng thành hơn,
chín chắn hơn trong suy nghĩ, có ý thức vươn lên trong học tập, trong rèn luyện
đạo đức, nhân cách của bản thân.
Dưới đây là bảng thống kê, mô tả kết quả học tập của các em ở cả hai lớp

qua bài kiểm tra với đề bài đã nêu (so với kết quả bài kiểm tra trước):
TRƯỚC KHI ÁP DỤNG KINH NGHIỆM:
Lớp Tổng
Kết quả điểm số bộ môn
số
Giỏi
Khá
TB
Yếu
HS
SL(%)
SL(%)
SL(%)
SL(%)
11B4 37
0
15(41%)
20(54%)
2(5%)
11B6 41
1(2,5%)
20(49%)
19(46%)
1(2,5%)

Kém
SL(%)
0
0


SAU KHI ÁP DỤNG KINH NGHIỆM:
Lớp Tổng
Kết quả điểm số bộ môn
số
Giỏi
Khá
TB
Yếu
HS
SL(%)
SL(%)
SL(%)
SL(%)
11B4 37
3(8%)
17(46%)
16(43%)
1(3%)
11B6 41
5(12%)
16(39%)
20(49%)
0

Kém
SL(%)
0
0

16



3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.1.1. Qua những gì đã phân tích ở trên, tôi đi đến kết luận: trong thơ văn
Nguyễn Công Trứ luôn luôn tồn tại cái tôi trữ tình của nhà thơ mà ba biểu hiện
nổi bật là cái tôi trữ tình mang dấu ấn thời đại, cái tôi trữ tình – thế sự, sự thống
nhất hai đối cực: cái tôi cá nhân – cái tôi trách nhiệm. Vì thế, tôi mạnh dạn đề
xuất một hướng tiếp cận và dạy học thơ văn Nguyễn Công Trứ từ bình diện cái
tôi trong thơ qua thiết kế giáo án Bài ca ngất ngưởng. Những mong tạo được
hứng thú học tập cho học sinh, nâng cao năng lực cảm thụ thơ văn trung đại
trong nhà trường được tốt hơn.
3.1.2. Cái tôi trong thơ trữ tình nói chung và vấn đề cái tôi trong thơ trung
đại nói riêng không dừng lại đối với chỉ thơ Nguyễn Công Trứ. Việc thay đổi về
quan niệm, về cách nhìn, về cách nghĩ để tìm ra một hướng dạy học tích cực là
điều cần thiết. Trong thực tiễn dạy học, làm rõ cái tôi là mục đích quan trọng
nhất của việc dạy học đọc hiểu thơ trữ tình. Đây cũng là một hướng tiếp cận và
dạy học thơ trữ tình mà chúng ta có thể vận dụng vào cả chương trình Ngữ văn
10, 11 và 12.
3.1.3. Trong quá trình dạy học thơ trữ tình trung đại cần thiết phải biết kết
hợp hài hòa, linh hoạt giữa dạy đọc hiểu theo đặc trưng thể loại và khám phá cái
tôi trữ tình. Mặt khác, cái Tôi trong thơ trữ tình ở mỗi thời kỳ văn học, mỗi giai
đoạn văn học, thậm chí mỗi tác giả văn học đều có những biểu hiện khác nhau.
Vì thế, không thể xem xét cái Tôi trữ tình trong thơ trung đại theo quan niệm
của cái Tôi trữ tình trong thơ Mới hay ngược lại. Mỗi thời đại, giai đoạn lịch sử
lại có những đặc trưng riêng. “Văn học là tấm gương phản chiếu cuộc sống”,
“Văn là người, thơ là đời”, mỗi tác giả là chủ thể phản ánh cuộc sống. Cuộc
sống thì không ngừng vận động, biến đổi và nghệ thuật thì luôn là sản phẩm của
sự sáng tạo.
3.2. Kiến nghị

3.2.1. Trong nhà trường, đồng nghiệp cần chia sẻ, học hỏi lẫn nhau, nâng
cao năng lực giảng dạy thơ trữ tình trung đại bằng việc tiếp cận cái tôi để truyền
đạt kiến thức cho học sinh hay hơn, hấp dẫn hơn, gây hứng thú cho các em học
tập tốt hơn.
3.2.2. Nhà trường và Sở giáo dục cần nhân rộng các sáng kiến kinh
nghiệm có chất lượng (sáng kiến có giải cấp tỉnh trở lên) cho giáo viên đồng
môn đọc thêm, học hỏi kinh nghiệm để nâng cao trình độ chuyên môn, phục vụ
giảng dạy tốt hơn.
3.2.3. Sở giáo dục cần tổ chức các buổi hội thảo bồi dưỡng kiến thức thơ
văn cho giáo viên, và ở phạm vi nhà trường cũng nên tổ chức các buổi ngoại
khoá, nói chuyện về thơ văn, nhất là cho đội ngũ học sinh giỏi nhằm nâng cao
chất lượng bộ môn nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi được đúc rút qua quá trình giảng
dạy bộ môn và bản thân tự học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
17


Chắc chắn sáng kiến này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Bản thân tôi rất
mong nhận được sự đánh giá, bổ sung, góp ý của các đồng nghiệp và ban giám
khảo để bài viết được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

Thanh Hóa, ngày 07 tháng 5 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Phạm Thị Thành


18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lưu Trọng Lư, Nguyễn Công Trứ nhà thi sĩ của Nghệ Tĩnh sau một trăm
năm, Tao đàn, số 1/1939.
2. Nguyễn Lộc, Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX,
Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1978.
3. Nhiều tác giả, Nguyễn Công Trứ con người cuộc đời và thơ, Nxb Hội nhà văn,
Hà Nội, 1996.
4. Trần Nho Thìn (giới thiệu và tuyển chọn), Nguyễn Công Trứ về tác gia và tác
phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2003.
5. Trần Đình Hượu, Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội, 1995.
6. Huyền Li (biên soạn), 36 giai thoại về Nguyễn Công Trứ.
7. Biện Minh Điền, Vấn đề tác giả và loại hình tác giả văn học Việt Nam trung
đại, Tạp chí Nghiên cứu văn học, Số 4 – 2005.
8. Trần Đình Sử (Tổng chủ biên), Ngữ Văn 10 (nâng cao), Tập 1, Nxb Giáo dục
Việt Nam, 2015
9. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên), Ngữ Văn 11 (cơ bản), Tập 1, Nxb Giáo
dục, 2015

19



×