1. MỎ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Toán học là môn khoa học cơ bản có tính lôgíc và tính chính xác cao, nó là
chìa khóa mở ra sự phát triển của các bộ môn khoa học khác.
Muốn học sinh nói chung và học sinh THPT nói riêng học tốt được môn Toán
thì mỗi người giáo viên không nên truyền đạt nội dung kiến thức theo tài liệu đã có
sẵn trong sách giáo khoa, trong các sách hướng dẫn và sách thiết kế bài giảng một
cách dập khuôn, máy móc làm cho học sinh học tập một cách thụ động. Vì nếu dạy
học như vậy thì việc học tập của học sinh sẽ diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết
quả học tập sẽ không cao. Đây chính là một trong những nguyên nhân gây ra cản
trở việc đào tạo các em thành những con người năng động, tự tin, sáng tạo, sẵn sàng
thích ứng với hội nhập thế giới.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, với vai trò là người tổ chức, hướng dẫn và
điều khiển quá trình học tập của học sinh, hơn ai hết giáo viên phải tìm, xây dựng
hướng tiếp cận mới, phải sử dụng phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực để phát
huy tính tích cực sáng tạo của người học, tạo hứng thú, hưng phấn, khơi dậy đam
mê học tập ở học sinh.
Việc tạo hứng thú cho học sinh trong việc học tập môn Toán ở trường THPT
rất quan trọng và cần thiết. Chỉ khi có hứng thú thật sự đối với việc học tập môn
Toán, học sinh mới thấy được sự hấp dẫn của nội dung tri thức toán học, cũng như
những phương pháp khám phá ra nội dung đó. Đồng thời các em cũng cảm nhận
được vai trò của Toán học đối với đời sống và các ngành khoa học khác.
Trong những năm gần đây, hứng thú học môn Toán của học sinh ở nhiều
trường THPT nhìn chung vẫn còn bị hạn chế, không ít em sợ Toán, coi việc học
Toán là một công việc nặng nhọc, căng thẳng, nhiều em cho rằng phải học Toán vì
đó là môn thi xét tốt nghiệp mà các em chưa nhìn thấy được “cái hay, cái đẹp”
trong Toán học. Đặc biệt, với xu hướng học lệch, học theo ban, chọn ngành nghề
theo khối hiện nay tạo ra rất nhiều bất cập trong việc lựa chọn môn học. Các môn
học trái khối, trái ban bị coi nhẹ. Môn Toán cũng không nằm ngoài xu hướng ấy.
Nguyên nhân dẫn đến hiện trạng trên có thể do các em chưa thật sự nhận biết tầm
quan trọng và ý nghĩa của việc học Toán, chưa được kích thích hành động tích cực,
sáng tạo trong quá trình giải toán...; cũng có thể do nội dung môn Toán khô khan,
phương pháp dạy của GV chưa thật sự hấp dẫn,... Học sinh lớp 12 B1 Trường
THPT Triệu Sơn 3 là lớp theo học Ban có bản C nên đa số học sinh cũng rơi vào
tình trạng không hứng thú với môn Toán.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, kết hợp với hướng thi mới và kinh nghiệm
giảng dạy thực tiễn của bản thân, với mong muốn, trong từng bài dạy, trong từng
giờ học môn Toán, học sinh luôn hứng thú, chủ động, yêu thích môn học, từ đó góp
phần nâng cao hiệu quả dạy và học tôi chọn đề tài: “ Một số biện pháp tạo hứng
thú học tập môn Toán cho học sinh lớp 12B1- Ban Cơ bản C Trường THPT
Triệu Sơn 3 nhằm đạt kết quả cao trong kỳ thi THPT Quốc Gia”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Mục đích của tôi khi nghiên cứu vấn đề này là tìm được những phương pháp
dạy học tích cực nhằm tạo được hứng thú học tập môn Toán của học sinh. Đồng
1
thời, qua thực trạng, tìm hiểu được nguyên nhân, các yếu tố ảnh hưởng tới việc học
Toán của học sinh, từ đó đề xuất một số biện pháp tạo hứng thú học tập môn Toán,
góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng học tập môn Toán cho học sinh THPT.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Tìm hiểu phương pháp, hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú trong việc
dạy và học môn Toán ở THPT.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra (Phỏng vấn, phiếu điều tra).
- Phương pháp đối chứng.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp kiểm tra.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
2
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Căn cứ vào Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 04 /11/ 2013 về đổi mới căn bản toàn
diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Căn cứ vào thông tư 04/2017/TT – BGDĐT: Quy chế thi THPTQG ban hành
ngày 25 tháng 01 năm 2017.
Để tăng cường hiệu quả giáo dục nói chung và hiệu quả học tập môn Toán
trong trường THPT nói riêng, điều 28 - Luật Giáo dục đã ghi rõ: “Phương pháp
giáo dục phổ thông phải phát huy tích tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học
sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học,
khả năng làm việc theo nhóm, rèn kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”[3].
Ở mọi cấp học môn Toán là một trong những môn chính rất quan trọng trong
các kì thi và nó ảnh hưởng rất lớn trong cuộc sống hàng ngày của mỗi con người.
Việc khơi dậy được sự hứng thú, say mê cho học sinh khi học môn Toán là điều mà
bản thân người giáo viên dạy Toán cần chú trọng quan tâm, để mang đến cho trò
phương pháp dạy học phù hợp, hiệu quả nhất, đặc biệt là trong xu hướng hiện nay –
môn Toán thi THPT QG theo hình thức trắc nghiệm khách quan. Bởi lẽ, “Hứng thú,
ham mê học tập là một trong những nguồn gốc chủ yếu nhất của việc học tập có kết
quả cao, là con đường dẫn đến sáng tạo và tài năng” [4]
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2.2.1. Thực trạng chung:
Hình thức dạy học chưa đa dạng, phong phú, cách thức truyền đạt chưa sinh
động, chưa gây hứng thú cho học sinh.
Học sinh tiếp nhận kiến thức chủ yếu còn bị động nên học trước quên sau.
Những kĩ năng cần thiết của việc tự học chưa được chú ý đúng mức. Các em chưa
thật sự hoạt động một cách tích cực, chưa chủ động và sáng tạo, chưa được thảo
luận để đưa ra các khám phá của mình, kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn
còn yếu.
Trong tiết dạy vai trò của thầy vẫn là chủ yếu, chứ chưa phải là người ‘‘khơi
nguồn sáng tạo’’, ‘‘kích thích học sinh tìm đoán’’.
2.2.2. Thực trạng học môn Toán của học sinh lớp 12B1- Ban Cơ bản C của
trường THPT Triệu Sơn 3
Mặc dù các em đã có ý thức về tầm quan trọng của môn Toán, tuy nhiên
chất lượng học tập môn Toán chưa thật sự cao, chưa đồng đều, đa số học sinh chưa
tích cực và ít hứng thú khi tham gia các hoạt động học tập; tiết học trở nên đơn
điệu, chưa cuốn hút được các em. Điều này được chứng minh qua kết quả phiếu
điều tra và kết quả khảo sát kiến thức đầu năm học do nhà trường tổ chức.
Cuối tháng 8 năm 2016, tôi điều tra hứng thú học tập của học sinh lớp 12B1 đối
với môn Toán và điều tra nguyên nhân chính dẫn đến việc các em chưa yêu thích
môn học này. Qua đó để có cơ sở nắm bắt tình hình chung về quan điểm, thái độ
học tập của học sinh đối với môn học và để đưa ra được các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả giờ dạy.
3
Nội dung phiếu điều tra được trình bày ở phụ lục 1 (Lưu ý: Phiếu điều tra không
yêu cầu ghi tên người được điều tra để đảm bảo tính khách quan).
Kết quả điều tra như sau:
1. Về hứng thú học tập của học sinh lớp 12B1 đối với môn Toán:
Mức độ hứng thú
Rất thích
Bình thường
Không thích
Lớp Sĩ số
SL
%
SL
%
SL
%
12B1
42
0
0
17
40,5
25
59,5
Như vậy, tổng số học sinh được điều tra ở lớp 12B1 là 42 em, kết quả điều tra
cho thấy: Mặc dù môn Toán là môn bắt buộc học và thi trong kỳ thi THPT Quốc gia
nhưng có tới 59,5% tổng số học sinh được điều tra đã thành thực bày tỏ thái độ
không thích học môn Toán, và đáng tiếc là không có học sinh nào cảm thấy rất thích
khi học môn học này. Chính vì nhiều học sinh không thích học môn Toán – là môn
học giúp học sinh tự tin, kiên nhẫn, bền bỉ, biết làm việc có phương pháp và còn có
vị trí quan trọng đối với tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội, nên hiệu quả giờ
dạy chưa cao, kết quả kiểm tra đánh giá không như mong đợi.
Kết quả khảo sát kiến thức môn Toán lớp 12B1 đầu năm học 2016 – 2017:
(Phụ lục 2)
Điểm
Từ 0 đến
Từ 3 đến
Từ 5 đến
Từ 7 đến
Từ 9
Sĩ số
dưới 3
dưới 5
dưới 7
dưới 9
đến 10
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
42
8
19
25
59,5
9
21,5
0
0
0
0
2. Về nguyên nhân chủ yếu khiến cho học sinh lớp 12B1 chưa hứng thú
với môn Toán:
Nguyên nhân
Do tiết học Do dung lượng Do khả năng tiếp
đơn
điệu, kiến thức
thu còn hạn chế và
không
lôi nhiều, là môn
chưa linh động
Lớp Sĩ số
Lí do khác
cuốn.
học “khó”, môn trong việc xử lý các
học “khô khan” tình huống toán học
đơn giản
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
12B1
42
21
50
12
28,6
8
19%
01 2,4
Kết quả điều tra trên cho thấy: Học sinh chưa có hứng thú khi học môn Toán là
do nhiều nguyên nhân. Song nguyên nhân chủ yếu nhất và cũng là yếu tố chính chi
phối các nguyên nhân còn lại (chiếm tới 50% tổng số học sinh được điều tra) là bởi
đa số giáo viên vẫn có thói quen sử dụng phương pháp dạy học truyền thống với lối
truyền thụ áp đặt một chiều. Nếu có đổi mới phương pháp thì giáo viên cũng
thường dạy học theo quy trình: Nêu câu hỏi kiểm tra bài cũ, gọi học sinh lên bảng
trả lời, giáo viên cho điểm tùy mức độ đúng – sai của học sinh, dạy bài mới và cho
học sinh thảo luận một vài nội dung; Với phương pháp này, chỉ có một nhóm học
4
sinh khá, giỏi là nỗ lực tham gia các hoạt động học tập; còn đa số các em khác vẫn
có tâm lí “ngại”, tiết học trở nên căng thẳng, khô khan, tẻ nhạt, chưa tạo được hứng
thú học tập cho tất cả các đối tượng học sinh và chưa phát huy được tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của các em.
Việc tiếp nhận kiến thức Toán phụ thuộc rất nhiều vào tâm lí của học sinh. Vì
vậy, là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Toán của lớp tôi rất trăn trở: Làm thế
nào để tâm lý các em không cảm thấy lo lắng hay áp lực khi học Toán mà thay vào
đó là sự hứng thú học tập môn Toán; làm thế nào để các em đạt được kết quả tốt
trong học tập cũng như trong kỳ thi THPT Quốc gia.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Tạo hứng thú học tập thông qua hoạt động kiểm tra bài cũ:
Một thói quen kiểm tra bài cũ lâu nay là nêu câu hỏi và gọi học sinh trả lời
cũng làm cho học sinh không hứng thú đôi khi còn cảm thấy “áp lực”, đặc biệt là
học sinh đang theo Ban Khoa học xã hội.
Do vậy, tôi đã sử dụng trò chơi kết hợp với các phương pháp, kỹ thuật dạy học
tích cực để kiểm tra bài cũ. Hình thức này sẽ giúp các em ghi nhớ, khắc sâu kiến
thức một cách nhẹ nhàng, lôi cuốn các em cùng thi đua học tập một cách hăng say,
hòa hợp; từ đó các em sẽ có hứng thú, tích cực, tự tin hơn và đặc biệt không bị
căng thẳng trong việc học bài cũ của môn học.
Ví dụ 1: Để kiểm tra bài cũ của tiết 1. Bài 1- Giải tích 12 “Tính đơn điệu của
hàm số”, tôi đã ứng dụng trò chơi “ Ai nhanh hơn” để tiến hành kiểm tra bài cũ
đồng thời dẫn dắt học sinh vào nội dung bài học, nhằm tạo tâm lý hứng thú muốn
khám phá bài học mới cho học sinh.
- Học sinh chuẩn bị bút, giấy nháp.
- GV công bố luật chơi: Sau khi giáo viên nêu nội dung câu hỏi, ai có câu trả
lời đúng và nhanh nhất sẽ ghi được điểm.
- Trong trò chơi này tôi gọi 10 học sinh có lực học ngang nhau tham gia trò
chơi để kiểm tra bài cũ, các em còn lại quan sát, nhận xét để tránh hiện tượng một
số em có khả năng chậm hơn không có cơ hội ghi điểm.
Câu hỏi:
Câu 1: Điền từ hoặc cụm từ còn thiếu vào dấu (…)
Giả sử hàm số f ( x) có đạo hàm trên khoảng (a; b) . Thế thì:
a) f '( x) > 0, ∀x ∈ (a; b) ⇒ f ( x) … trên khoảng (a; b)
b) f '( x) < 0, ∀x ∈ (a; b) ⇒ f ( x) … trên khoảng (a; b)
c) f ( x) đồng biến trên khoảng (a; b) ⇒ f '( x) … , ∀x ∈ (a; b)
d) f ( x) nghịch biến trên khoảng (a; b) ⇒ f '( x ) … , ∀x ∈ (a; b)
e) khoảng (a; b) được gọi chung là khoảng … của hàm số [1].
1 3 1 2
Câu 2: Cho hàm số y = x − x − 2 x + 2 có bảng biến thiên như sau
3
2
x
y’
0
0
y
−∞ + −1
19
−∞ 6
−
2 + +∞
−4
+∞
3
5
Hãy chỉ ra các khoảng đồng biến, nghịch biến của hàm số?[2]
Câu 3: Cho hàm số y = f ( x ) có đồ thị như hình vẽ. Hãy cho biết các khoảng đồng
biến, nghịch biến của hàm số?
GV kết luận, nhận xét bổ sung và ghi điểm cho học sinh có kết quả đúng và
sớm nhất ở mỗi câu hỏi.
Từ đồ thị của câu 3, tôi nêu vấn đề để dẫn học sinh vào nội dung bài mới
“Cực trị”: Các điểm x = -1; x = 1 được gọi là điểm cực tiểu của hàm số, điểm x = 0
được gọi là điểm cực đại của hàm số. Vậy như thế nào là điểm cực đại, cực tiểu của
hàm số? Dấu hiệu nào để ta phân biệt được điểm cực đại, cực tiểu của hàm số? Để
trả lời được câu hỏi đó thì chúng ta sẽ nghiên cứu nội dung bài mới “Cực trị của
hàm số”. Với cách dẫn dắt này kích thích được trí tò mò, sự hứng thú của học sinh
trong nội dung bài học.
Ví dụ 2: Để kiểm tra bài cũ của tiết 35: Giải tích 12- Ban cơ bản – Luyện tập “Bất
phương trình mũ và bất phương trình lôgarit”, tôi đã ứng dụng trò chơi “ Ai
nhanh hơn” để để tổng hợp kiến thức với các câu hỏi:
Câu 1: Điền vào chỗ chấm
a) Với a > 1 thì nghiệm của bất phương trình: a x > b ( b > 0) là…..
b) Với 0 < a < 1 thì nghiệm của bất phương trình a x > b ( b > 0) : là…..
c) Với a > 1 thì nghiệm của bất phương trình: log a x > b là…..
d) Với 0 < a < 1 thì nghiệm của bất phương trình: log a x > b là….. [1].
Câu 2: Trong các khẳng định sau khẳng định nào sai:
a. ln x > 0 ⇔ x > 1
b. log 2 x < 0 ⇔ 0 < x < 1
log 1 a > log 1 b ⇔ a > b > 0
c.
3
3
d. log a > log b ⇔ a > b > 0 [2].
Nhận xét: Khi tiến hành thực hiện yêu cầu trả lời các bài tập với hình thức
giải bài tập trắc nghiệm dạng điền khuyết, hoặc bài tập lựa chọn khẳng định đúng
– sai sẽ giúp học sinh vừa nhớ ngay được kiến thức cũ lại vừa có kiến thức vận
dụng vào giải bài tập một cách nhẹ nhàng. Cảm nhận việc học kiến thức môn Toán
không khó.
Với hình thức kiểm tra bài cũ nói trên tôi thấy:
Học sinh rất hứng thú và tích cực tham gia, không khí học tập sôi nổi hơn hẳn.
Các em không cảm thấy lo lắng hay áp lực khi học giờ Toán.
6
Tạo được sức hấp dẫn, lôi cuốn các em tiếp tục cuộc hành trình chinh phục
những kiến thức mới. Các em thấy được giữa các phần kiến thức của bài học
thường có mối quan hệ gắn kết chặt chẽ với nhau.
2.3.2. Tạo hứng thú học tập thông qua hoạt động tìm hiểu bài mới:
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chính thức quyết định từ năm 2017 môn Toán thi
THPT Quốc gia với hình thức trắc nghiệm khách quan, đòi hỏi trong một thời gian
ngắn, học sinh phải trả lời số lượng câu hỏi lớn (50 câu/90 phút) ; mức độ kiến thức
rộng, phủ kín tất cả nội dung chương trình đã học. Vì vậy, ngay từ những bài học
đầu tiên của chương trình tôi đã tiến hành cho các em làm quen với hình thức thi
trắc nghiệm (Ban khoa học xã hội lần đầu tiếp cận với hướng thi mới), qua các câu
hỏi trắc nghiệm hình thành kiến thức mới. Dựa vào kiến thức sách giáo khoa tôi
biên soạn một số câu hỏi trắc nghiệm dạng ghép đôi, học sinh nghiên cứu sách giáo
khoa và trả lời, học sinh nào trả lời đúng nhiều và nhanh nhất sẽ được điểm cao.
Mỗi câu hỏi được đưa ra và trả lời trong thời gian định trước. Bên cạnh đó, để tạo
niềm tin và sự hứng thú cho các em có lực học còn yếu tôi sử dụng phương pháp
nêu vấn đề và kết hợp với hoạt động nhóm để các em tìm hiểu nội dung kiến thức
bài mới, các em cùng nhau tìm hiểu sách giáo khoa, thảo luận hoàn thành nội dung
kiến thức mới.
Ví dụ 1: Trong quá trình giảng dạy, tôi đã sử dụng các kỹ thuật dạy học tích
cực, đặc biệt là kỹ thuật đặt câu hỏi, cùng các kiến thức có nội dung phù hợp với
nội dung, chủ đề của bài học để dẫn học sinh vào tìm hiểu nội dung bài mới thay
thế cho các phương pháp dạy học truyền thống nhằm tạo tâm lý hứng thú muốn
khám phá bài học mới cho học sinh.
Để học sinh nắm được nội dung bài học “Sự đồng biến, nghịch biến của hàm
số’’, tôi sử dụng phương pháp nêu vấn đề và kỹ thuật đặt câu hỏi cùng với các câu
hỏi trắc nghiệm để dẫn học sinh vào nội dung mới như sau :
Câu 1 : Nội dung nhắc lại định nghĩa [1].
Nối nội dung cột (A) với cột (B) để được khẳng định đúng :
(A)
(B)
y
=
f
(
x
)
a) Hàm số
đồng biến trên 1) đi lên từ trái sang phải
khoảng (a; b) nếu
b) Hàm số y = f ( x ) nghịch biến trên 2) ∀x1, x2 ∈ ( a; b) mà
x1 < x2 ⇒ f ( x1 ) < f ( x2 )
khoảng (a; b) nếu
c) Đồ thị hàm số đồng biến trên khoảng 3) đi xuống từ trái sang phải
(a; b) thì
d) Đồ thị hàm số nghịch biến trên 4) ∀x1, x2 ∈ ( a; b) mà
khoảng (a; b) thì
x1 < x2 ⇒ f ( x1 ) > f ( x2 )
Sau khi học sinh hoàn thành nội dung câu hỏi 1, tôi nhắc lại tính đơn điệu của
hàm số bậc hai và hàm số bậc nhất mà các em đã được làm quen nhiều ở Chương
Hàm số - Đại số 10. Cụ thể :
7
Hàm số y = f1 ( x) = 2 x + 3 đồng biến trên R.Hàm số y = f 2 ( x) = − x 2 + 3x + 4
3
3
đồng biến trên khoảng −∞; ÷, nghịch biến trên khoảng ; +∞ ÷
2
2
x
y’
−∞
?
+∞
+∞
x
y’
−∞
3
2
? 0 ?
25
4
+∞
−∞
−∞
−∞
Tôi yêu cầu các em điền dấu của y ' vào các bảng biến thiên, từ đó hoàn
thành nội dung câu hỏi 2.
Câu 2 : Nội dung tính đơn điệu và dấu của đạo hàm [1].
Nối nội dung cột (A) với cột (B) để được khẳng định đúng :
(A)
(B)
f
'(
x
)
>
0,
∀
x
∈
(
a
;
b
)
1) nghịch biến trên ¡
a) Nếu
thì
b) Nếu f '( x) < 0, ∀x ∈ (a; b) thì
2) hàm số y = f ( x ) đồng biến trên
khoảng (a; b)
3) đồng biến trên ¡
c) Hàm số y = x3
d) Hàm số y = −2 x + 1
4) hàm số y = f ( x ) nghịch biến trên
khoảng (a; b)
Nhận xét : Dựa vào những câu hỏi học sinh trả lời, tôi đánh giá kết quả và
chính xác hóa để được nội dung cần ghi nhớ của bài học. Qua đó, học sinh cảm
thấy việc nghiên cứu kiến thức mới đối với môn Toán là không khó, dễ tiếp cận và
là động lực để các em nghiên cứu bài học.
Ví dụ 2 : Khi dạy bài “ Logarit”, để học sinh hình thành khái niệm Logarit,
tôi cho học sinh hoàn thành nội dung sau : [1].
Nối nội dung cột (A) với cột (B) để được khẳng định đúng :
(A)
(B)
x
1) x = 4
a) 2 = 32 ⇔
2) x = 3
1
x
b) 2 = ⇔
16
x
c) 5 = 125 ⇔
3) x = log 3 16
4) x = 5
d) 3x = 81 ⇔
5) x = −4
e) 3x = 16 ⇔
Khi học sinh hoàn thành nội dung bảng 1, Giáo viên nhận xét, bổ sung, kết
luận : Với a, b dương và a ≠ 1 , ta có : α = log a b ⇔ a α = b
Từ định nghĩa lôgarit cơ số a của b với a, b dương và a ≠ 1 , tôi cho học sinh
hoàn thành một số câu hỏi dạng điền khuyết sau :
log a x = 0 ⇔ x = .....
8
log a x = 1 ⇔ x = .....
Từ a x = b ⇔ x = log a b cho biết a loga b = ......
Từ log a b = x ⇔ b = a x cho biết log a a x = ....
Sau khi học sinh hoàn thành các câu hỏi trên, tôi nhận xét và chính xác hóa nội
dung tính chất của logarit.
Nhận xét : Không có một phương pháp dạy học toàn năng phù hợp với mọi
mục tiêu và nội dung. Mỗi phương pháp và hình thức dạy học có những ưu, nhược
điểm và giới hạn sử dụng riêng. Vì vậy việc phối hợp đa dạng phương pháp và hình
thức trong toàn bộ quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính
tích cực và nâng cao chất lượng dạy học. [4]
Ví dụ 3 : Khi dạy nội dung bất phương trình mũ, để làm sáng tỏ tập nghiệm
của bất phương trình, tôi sử dụng phương pháp trực quan, cho học sinh quan sát
hình vẽ và nhận xét theo các câu hỏi định hướng. Từ đó giúp học sinh hiểu và dễ
nhớ nội dung kiến thức.
Các câu hỏi :
Từ đồ thị hàm số y = a x (a > 1) ,
y
và đường thẳng y = b . Hãy cho biết :
1. Khi b ≤ 0 thì đồ thị hàm số
y = a x (a > 1) nằm ở vị trí nào so với
đường thẳng y = b ?
1
2. Khi b > 0 thì đồ thị hàm số
x
y = a x (a > 1) nằm ở vị trí như thế nào
O
so với đường thẳng y = b ?[1]
Giáo viên nhận xét, bổ sung, kết
luận:
- Khi b ≤ 0 thì đồ thị hàm số y = a x (a > 1) nằm toàn bộ phía trên đường
thẳng y = b , tức là không có giá trị nào của x để a x < b hay khi b ≤ 0 thì
a x > b ∀x ∈ R .
- Khi b > 0 thì có một phần đồ thị nằm trên đường thẳng y = b , một phần đồ
thị nằm dưới đường thẳng y = b . Phần đồ thị nằm trên đường thẳng y = b ứng với
x > log a b , phần đồ thị nằm dưới đường thẳng y = b ứng với x < log a b ; tức là khi
b > 0 thì a x > b ⇔ x > log ab và a x < b ⇔ x < log ab .
Tương tự, giáo viên yêu cầu học sinh đưa nghiệm của bất phương trình a x > b
và a x < b với a < 1
2.3.3. Tạo hứng thú học tập thông qua hoạt động rèn luyện tư duy cho học
sinh :
Trong quá trình dạy học, giáo viên cần khuyến khích học sinh tích cực tham
gia các hoạt động nhóm. Khi hoạt động nhóm sẽ tạo được mối quan hệ chia sẻ kiến
thức trong nhóm, quan hệ giữa học sinh sẽ thân thiện hơn, gắn bó hơn.
9
Do đó, trong giảng dạy, tôi đã sử dụng phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực
theo định hướng phát triển năng lực của học sinh kết hợp với việc tổ chức hoạt
động nhóm. Hình thức này giáo dục rất cao tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau
trong học tập, đặc biệt là tinh thần giúp đỡ các bạn học sinh yếu kém nắm được
kiến thức một cách khá thuận lợi. Mặt khác tạo cơ hội và sự mạnh dạn lên bảng, cơ
hội đem về điểm số cho đối tượng học sinh yếu kém.
Trong các tiết luyện tập và ôn tập chương, tôi thường sử dụng phương pháp
đặt và giải quyết vấn đề. Phương pháp này gồm các bước sau :
- Xây dựng bài toán nhận thức (tạo tình huống có vấn đề, phát hiện vấn đề nảy
sinh, phát hiện vấn đề cần giải quyết).
- Giải quyết vấn đề đặt ra.
- Kết luận.
Ở bước thứ 1, giáo viên đưa ra những gợi mở có vấn đề, học sinh thảo luận,
tìm ra mấu chốt của vấn đề.
Ở bước thứ 2, học sinh giải quyết vấn đề, đề xuất cách giải quyết. Từ đó các
em lĩnh hội và khắc sâu kiến thức.
Ở bước thứ 3, giáo viên cho học sinh nhận xét đánh giá kết quả của bạn và
chốt nội dung kiến thức.
Tiến hành một tiết dạy, tôi chia lớp thành 6 nhóm học tập (chia theo vị trí địa
lý – 2 bàn một nhóm),
Giáo viên chiếu 5 câu hỏi, bài tập liên quan đến bài học, trong đó có 2 bài tập
ở mức độ nhận biết, 2 bài tập ở mức độ thông hiểu và 1 bài tập ở mức độ vận dụng
thấp.
Bài tập 1: Mức độ nhận biết hoặc tạo tình huống có vấn đề ở mức độ nhận
biết.
Bài tập 2: Củng cố và khắc sâu kiến thức ở mức độ nhận biết.
Bài tập 3: Mức độ thông hiểu hoặc tạo tình huống có vấn đề ở mức độ thông
hiểu.
Bài tập 4: Củng cố và khắc sâu kiến thức ở mức độ thông hiểu.
Bài tập 5: Mức độ vận dụng thấp
Các nhóm hội ý, thảo luận trong thời gian 15’; những em học sinh khá, giỏi
trong nhóm có trách nhiệm diễn giải, chỉ bày cho cả nhóm hiểu nội dung mà giáo
viên yêu cầu. sau đó cử những bạn học sinh có lực học yếu lên bảng trình bày các
bài tập ở mức độ nhận biết và thông hiểu. Với những học sinh có lực học từ trung
bình khá trở lên thì trình bày bài tập ở mức độ vận dụng. Bên cạnh đó, để tạo ra một
môi trường học tập thân thiện, vui vẻ, thoải mái và đầy thú vị, cuốn hút được mọi
đối tượng học sinh tham gia; các em chú ý hơn, chủ động hơn trong quá trình chuẩn
bị bài và mạnh dạn hơn trong các hoạt động học tập thì tôi còn gắn liền với trò chơi
“Bí mật trong quả bóng ”. Nếu học sinh giải đúng bài tập thì học sinh có quyền
chọn một quả bóng trong đó có chứa một bí mật, quả bóng được mở ra học sinh sẽ
nhận được bí mật trong quả bóng. Nếu đang còn sai sót trong quá trình diễn giải bài
toán thì học sinh sẽ không được chọn bóng và sẽ không biết được bí mật trong quả
bóng mình muốn chọn.
10
Giáo viên kiểm tra, sửa sai và tùy theo mức độ mà cho điểm những em học
sinh này một cách hợp lí.
Bí mật mà tôi để trong quả bóng thường là những câu có tính chất động viên
khích lệ học sinh trong quá trình học tập, ví dụ như:
- Em làm bài tốt, thầy cho em 9 điểm.
- Em sẽ được điểm 9, 10 nếu em làm thêm 1 bài tương tự thầy giáo yêu cầu.
- Em làm bài tốt. Cần phát huy hơn nữa.
- Em sẽ nhận được điểm 9, 10 trong lần sau nếu em tiếp tục làm bài tốt.
- Chúc mừng em đã vượt qua được một chướng ngại vật. Cần cố gắng để vượt
qua các chướng ngại vật đang còn ở phía trước.
- Toán học luôn có “ vẻ đẹp tiềm ẩn”. Chúng ta hãy cùng nhau khám phá tiếp.
Ví dụ 1 : Trong tiết Luyện tập nội dung cực trị của hàm số, tôi chuẩn bị 5 câu
hỏi, bài tập sau :
1 3 1 2
1) Khi giải bài toán: Tìm các điểm cực trị của hàm số y = x − x − 2 x + 2
3
2
Một học sinh đã tiến hành làm các bước như sau:
Bước 1: Hàm số xác định ∀x ∈ ¡
x = −1
2
Bước 2: Ta có y ' = x − x − 2, y ' = 0 ⇔
x=2
Bước 3: Bảng biến thiên của hàm số
x
y’
y
−∞ + −01
19
−∞ 6
−
2 + +∞
−4
+∞
3
Bước 4: Kết luận, hàm số đạt cực đại tại điểm (−1;
0
19
) , hàm số đạt cực tiểu tại
6
4
điểm (2; − ) .
3
Lời giải của bạn học sinh đúng hay sai ? Nếu sai, hãy chỉ rõ lỗi sai.[2]
2) Tìm các điểm cực trị của hàm số y = x3 − 3x 2 − 24 x + 7 [1].
11
3) Khi giải bài toán: Tìm m để hàm số y = x 3 − mx 2 + mx + 5 có cực trị. Học
sinh A đã làm như sau :
Bước 1: Hàm số xác định ∀x ∈ ¡
Bước 2: Ta có y ' = 3x 2 − 2mx + m
Bước 3: Để hàm số có cực trị thì phương trình y ' = 0 có hai nghiệm x1 , x2 tức là
m ≥ 3
∆ ' = m 2 − 3m ≥ 0 ⇔
m ≤ 0
m ≥ 3
Bước 4: Kết luận với
thì hàm số có cực trị.
m ≤ 0
Lời giải của bạn học sinh A đúng hay sai ? Nếu sai, hãy chỉ rõ lỗi sai.[2]
4) Tìm m để hàm số y = x3 − mx 2 − 2 x + 1 có cực đại, cực tiểu ? [1].
5 2 3
2
5) Tìm a, b để các giá trị cực trị (cực trị) của hàm số y = a x + 2ax − 9 x + b
3
5
đều là những số dương và x0 = − là điểm cực đại ? [1].
9
Nhận xét : Thông qua bài tập 1, học sinh được củng cố, khắc sâu các khái
niệm về cực trị và các bước tìm cực trị của hàm số. Thông qua bài tập 3, học sinh
khắc sâu được điều kiện để hàm số đa thức bậc 3 có cực trị. Từ đó, các em sẽ tự tin
hơn trong việc trình bày các bài toán tiếp theo.
Ví dụ 2 : Trong tiết Luyện tập : ’’Phương trình mũ và phương trình logarit’’,
tôi chuẩn bị 5 câu hỏi, bài tập sau :
1) Giải phương trình : 2 x = 8 [1].
log 1 x = 3
2) Giải phương trình :
[1].
2
x 2 −3 x + 2
3) Giải phương trình : 2
= 4 [1].
4) Giải phương trình : log 2 ( x − 5) + log 2 ( x + 2) = 3 [2].
5) Giải phương trình : 4.9 x + 12 x − 3.16 x = 0 [2].
Ví dụ 3 : Trong tiết Luyện tập : ’’Tích phân’’, tôi chuẩn bị 5 câu hỏi, bài tập
sau :
1) Trong các công thức sau, công thức nào đúng, công thức nào sai. Hãy sửa
công thức sai thành đúng.
b
a
b
a
b
b
a
c
c
a
b
∫ f ( x)dx = −∫ f ( x)dx ; ∫ f ( x)dx = ∫ f ( x)dx + ∫ f ( x)dx với a < c < b [1].
2) Cho biết
b
a
c
c
∫ f ( x)dx = −10 và ∫ f ( x)dx = −5 . Tính ∫ f ( x)dx
a
e
3
2
3) Tính tích phân ∫ ( x − )dx [2].
x
1
12
1
5
4) Tính tích phân ∫ ( x − 2) dx [1].
0
π
5) Tính tích phân
∫
1 + cos 2 x .dx [2].
0
“Không thầy đố mày làm nên” là câu thành ngữ mà ai cũng biết, nhưng qua
phương pháp tổ chức hoạt động nhóm như thế này để học sinh thấy rõ hơn ý nghĩa
của câu“học thầy không tày học bạn”. Từ đó khơi dậy và phát triển năng lực tự
học, nhằm hình thành cho học sinh tư duy tích cực, độc lập sáng tạo, nâng cao năng
lực phát hiện và giải quyết vấn đề, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm say mê, hứng thú học tập cho các em.
2.3.4. Tạo hứng thú của học sinh thông qua hoạt động củng cố cuối bài
bằng hình thức trò chơi “Game show” .
Học và chơi là 2 quá trình cần được kết hợp hài hòa. Nếu giáo viên biết kết
hợp logic và hợp lý giữa học và chơi sẽ tạo cho học sinh rất nhiều hứng thú, đồng
thời giúp các em giảm áp lực và mệt mỏi sau mỗi tiết học. Các em không cảm thấy
việc học là bắt buộc nữa mà tự giác, tích cực, chủ động hơn trong mỗi tiết học.
Chính vì vậy, cuối mỗi tiết học môn Toán tôi luôn thiết kế các trò chơi để
củng cố kiến thức cho các em. Qua các trò chơi các em được ôn lại kiến thức có
liên quan đến những vấn đề mình đã được học, các em biết ứng dụng những kiến
thức để giải quyết vấn đề. Đồng thời thông qua các trò chơi để rèn luyện kỹ năng
tính toán, khả năng phản ứng nhanh, chính xác, kích thích niềm đam mê học tập
cho học sinh, khơi dậy một cách mạnh mẽ khả năng tích cực, tư duy của học sinh.
Từ đó giúp các em thoải mái, tự tin trong học tập và lĩnh hội kiến thức.
Ví dụ: Sau khi dạy xong nội dung bài học, tôi thường dành thời gian từ 5 đến
7 phút để tổ chức cho cả lớp tham gia vào giải các bài tập trắc nghiệm với hình
thức trò chơi “Vươn lên tầm cao mới” hoặc trò chơi “ Tiếp sức” nhằm tạo điều
kiện cho mọi học sinh trong lớp tích cực tham gia góp phần đánh giá năng lực học
sinh sau bài học. Sau mỗi trò chơi như vậy tôi nhận thấy các em rất hứng thú và
việc học môn Toán không còn là nỗi căng thẳng và sợ hãi của các em nữa.
- Hình thức trò chơi này được tiến hành đơn giản, nhẹ nhàng nhưng có đầy đủ
sự kết hợp giữa kỹ năng và kiến thức sau mỗi bài học mới đạt được đến đích cuối
cùng.
- Với trò chơi “Vươn lên tầm cao mới”, tôi gọi 4 học sinh có lực học ngang
nhau tham gia trò chơi. Các em được đánh dấu bước xuất phát như nhau, sau mỗi
câu hỏi em nào trả lời được sẽ tiến lên một bước; em nào trả lời được nhiều nhất sẽ
tiến gần đích nhất và sẽ nhận điểm cao 9 -10 (Một hình thức tượng trưng như
những bó hoa chúc mừng người chiến thắng).
- Với trò chơi “ Tiếp sức”, tôi chọn 4 học sinh có lực học ngang nhau, mỗi
học sinh được chọn cho mình một bạn để tiếp sức cho mình trong quá trình giải
quyết các câu hỏi.
- Các em tiến hành nghiên cứu từng câu hỏi và ra tín hiệu trả lời. Các học sinh
còn lại vừa theo dõi vừa làm trọng tài cho các em dự thi.
13
Ví dụ 1: Sau khi học xong tiết 2 – Giải tích 12 – Ban cơ bản: Sự đồng biến,
nghịch biến của hàm số, tôi đã cho các em giải các bài tập trắc nghiệm sau thông
qua trò chơi “Vươn lên tầm cao mới”
Câu 1: Cho hàm số y = f ( x ) xác định và có đạo hàm trên khoảng ( a; b ) . Trong
các mệnh đề sau, mênh đề nào sai?
A. Nếu f '( x) < 0, ∀x ∈ (a; b) thì hàm số y = f ( x ) nghịch biến trên khoảng ( a; b ) .
B. Hàm số y = f ( x ) nghịch biến trên khoảng ( a; b ) thì f '( x) ≤ 0, ∀x ∈ (a; b)
C. Nếu f '( x) ≥ 0, ∀x ∈ (a; b) thì hàm số y = f ( x ) đồng biến trên khoảng ( a; b ) .
D. Hàm số y = f ( x ) đồng biến trên khoảng ( a; b ) thì f '( x) ≥ 0, ∀x ∈ (a; b) [2].
Câu 2: Hàm số y = x3 − 3x 2 − 9 x nghịch biến trên các khoảng nào sau đây?
A. (−∞; −1) ∪ (3; +∞)
B. (−1;3)
C. (−∞; −1)
D. (3; +∞)
[2]
Câu 3: Hàm số nào sau đây nghịch biến trên khoảng (0; +∞)
1
x−6
A. y = x
B. y = 2
C. y =
D. y = x 6 [2].
x
x
Câu 4: Tập hợp tất cả các giá trị của tham số m để hàm số y = x3 + 3x 2 − m đồng
biến trên ¡ là:
A. R
B. R \ { 0}
C. Không tồn tại m
D. (−∞; −2] ∪ [0; +∞) [2].
1 3
2
Câu 5: Tập hợp tất cả các giá trị của tham số m để hàm số y = x + mx − mx − m
3
đồng biến trên ¡ là:
A. (−∞; −1) ∪ (0; +∞)
B. (−1;0)
C. [-1;0]
D. (−∞; −1] ∪ [0; +∞) [2].
Nhận xét: Hệ thống bài tập trên chứa đầy đủ nội dung bài học từ dễ đến khó.
Qua trò chơi các em được củng cố và khắc sâu kiến thức có liên quan đến những
vấn đề mình đã được học, các em biết ứng dụng những kiến thức để giải quyết vấn
đề khó hơn, phức tạp hơn.
Ví dụ 2: Sau khi học xong tiết 5 – Giải tích 12 – Ban cơ bản: Cực trị của
hàm số, tôi đã cho các em làm các bài tập trắc nghiệm sau thông qua trò chơi
“Giúp bạn”
Câu 1: Mệnh đề nào sau đây là sai?
A. Nếu f '( x) đổi dấu từ dương sang âm khi qua x0 thì hàm số y = f ( x ) đạt cực
đại tại x0
B. Nếu f '( x) đổi dấu từ âm sang dương khi qua x0 thì hàm số y = f ( x ) đạt cực
tiểu tại x0
C. Nếu f '( x) không đổi dấu khi qua x0 thì hàm số y = f ( x ) không đạt cực trị tại
x0
D. Nếu f '( x) có nghiệm là x0 thì hàm số y = f ( x ) đạt cực đại hoặc cực tiểu tại x0
[1].
Câu 2: Điểm Cực đại của hàm số y = x(3 − x) 2 là điểm nào sau đây?
14
A. x = 3
B. x = 0
C. x = 4
D. x = 1
3
2
Câu 3: Cho hàm số y = x − 3x − 9 x + 4 . Khi tích số yCD . yCT bằng:
A. 25
B. -207 C. -82
D. Hàm số không có cực đại và cực tiểu
Câu 4: Hàm số nào sau đây có một cực trị
1 3
2
A. y = x3 − 3x + 2017
B. y = x + x + x + 2
3
4
2
C. y = 2 x + 5 x + 10
D. y = x 4 − 7 x 2 + 1
[2].
[2].
[2].
Câu 5: Tập hợp tất cả các giá trị của tham số m để hàm số y = − x 4 + 3mx 2 + 5 có 3
điểm cực trị là:
A. (0; +∞)
B. (−3; +∞)
C. [0; +∞)
D. (−∞; −3)
[2].
Ví dụ 3: Sau khi học xong tiết 7 – Giải tích 12 – Ban cơ bản: GTLN,
GTNN của hàm số, tôi đã cho các em làm các bài tập trắc nghiệm sau thông qua
trò chơi “Vươn lên tầm cao mới”
3x − 1
Câu 1: Tìm GTLN, GTNN của hàm số y =
trên đoạn [0;2] ?
x−3
1
1
A. -5
B. 5
C. −
D.
[2].
3
3
2
2
Câu 2: GTNN của hàm số y = x + với x > 0 là:
x
A. 1
B. 2
C. 3
D. 4
[2].
π π
Câu 3: Hàm số y = 3sin x − 4sin 3 x có giá trị lớn nhất trên khoảng (− ; ) là:
2 2
A. -1
B. 1
C. 3
D. 7
[2].
Câu 4: Giá trị lớn nhất của hàm số y = 3 1 − x 2 + 2 bằng:
A. 5
B. 2
C. 1
D. -1
[2].
mx + 5
Câu 5: Tập hợp tấ cả các giá trị của m để hàm số y =
có giá trị nhỏ nhất
x−m
trên đoạn [0;1] bằng -7 là:
5
A. { 1}
B. { 2}
C. { 0}
D.
[2].
7
Nhận xét: Việc tiến hành củng cố bài bằng các bài tập trắc nghiệm đã hệ
thống được đầy đủ nhất những yêu cầu cơ bản của bài học; và với việc làm quen
liên tục như vậy tạo cho học sinh tinh thần học tập một cách tích cực nhất, rèn kỹ
năng tính toán và tìm kết quả một cách nhanh nhất. Dựa vào đó tôi dần nâng cao
dần các yêu cầu của bài tập.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
2.4.1. Kết quả thực nghiệm
Sau khi áp dụng đề tài nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi lớp 12B1 Trường
THPT Triệu Sơn 3, kết quả thu được như sau:
15
2.4.1.1. Kết quả từ các phiếu thăm dò:
Trước tác động:
Mức độ hứng thú
Rất thích
Bình thường
Lớp Sĩ số
SL
%
SL
%
12B1
42
0
0
17
40,5
Sau tác động:
Mức độ hứng thú
Rất thích
Bình thường
Lớp Sĩ số
SL
%
SL
%
12B1
42
30
71,4
11
26,2
Không thích
SL
%
25
59,5
Không thích
SL
%
1
2,4
Theo như kết quả thống kê từ phiếu thăm dò, ta thấy học sinh có hứng thú với
môn Toán (chiếm hơn 70% tổng số học sinh trong lớp), đây là một kết quả phản ánh
thái độ tích cực của học sinh đối với môn học. Nhìn chung các học sinh đã có ý
thức tìm tòi, tham khảo sách khi gặp bài khó hoặc hỏi người khác gợi ý… Điều đó
chứng tỏ các học sinh đã có thái độ tích cực đối với việc học môn Toán. Như vậy là
sự hứng thú học tập môn Toán của các học sinh đã tốt hơn, từ đó góp phần nâng cao
chất lượng học tập bộ môn trong nhà trường.
2.4.1.2. Kết quả từ quan sát thực tế
Với việc trực tiếp giảng dạy ở lớp 12B1, trong giờ học Toán, các học sinh cảm
thấy tự tin hơn, không còn thấy “áp lực” khi thầy giáo kiểm tra bài cũ, một số học
sinh nhút nhát cũng mạnh dạn hơn trong việc xung phong trả lời bài cũ hay tham
gia xây dựng bài mới; đa số các học sinh đều có khả năng trả lời các câu hỏi ở
những mức độ khác nhau. Một số học sinh còn có khả năng trả lời những câu hỏi
nâng cao kiến thức để bài học được khắc sâu.
Ý thức của học sinh trong việc học tập môn Toán hiện nay của lớp khá nghiêm
túc, ý thức đó thể hiện qua việc tích cực trong xây dựng bài, chú ý nghe giảng và
luyện tập tích cực, được phản ánh qua chất lượng bài kiểm tra của học sinh .
2.4.2. Kết quả kiểm tra
Trong học kì I năm học 2016 – 2017, tôi vận dụng sáng kiến kinh nghiệm này
vào thực tế giảng dạy. Qua điều tra thăm dò lớp 12B1 mà tôi phụ trách giảng dạy,
kết quả như sau:
Năm học
Số học sinh
Hứng thú
Hứng thú
khảo sát
với giải pháp
với bộ môn
2016-2017
42
30
Kết quả điểm kiểm tra học kỳ I năm học 2016 – 2017:
Điểm
Từ 0 đến
Từ 3 đến
Từ 5 đến
Sĩ số
dưới 3
dưới 5
dưới 7
SL
%
SL
%
SL
%
42
3
7,1
9
21,5
25
59,8
(Phụ lục 4)
35
Từ 7 đến
dưới 9
SL
%
4
9,5
Từ 9
đến 10
SL
%
1
2,4
16
Với kết quả khảo sát như trên, qua việc đối chiếu, so sánh kết quả, tôi nhận
thấy rằng việc áp dụng các biện pháp gây hứng thú học tập vào giảng dạy môn
Toán: tỉ lệ học sinh không ngại học Toán tăng lên hơn 70%. Điểm kiểm tra học kỳ I
có sự chuyển biến rõ rệt, số con điểm từ trung bình trở lên có 33 học sinh, trong đó
đã có em đạt điểm 9 (em Lê Xuân Minh). Từ đó cho thấy việc áp dụng các biện
pháp gây hứng thú học tập hướng vào việc tạo tinh thần hưng phấn, thoải mái, xây
dựng không khí lớp học sôi nổi, học sinh có thiện cảm môn Toán bước đầu đạt hiệu
quả. Nó đã góp phần nâng cao hơn chất lượng của các giờ học môn Toán.
17
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
3.1. Kết luận
Sau khi thực hiện đề tài, tuy gặp nhiều khó khăn về thời gian, kinh nghiệm tổ
chức thực hiện nghiên cứu… nhưng so với mục đích và nhiệm vụ của đề tài đặt ra,
về cơ bản đề tài cũng đã giải quyết được một số nhiệm vụ sau:
- Bước đầu xác định được phương pháp dạy học cho học sinh mức độ thấp.
- Góp phần xây dựng hệ thống lí luận về hứng thú học tập.
- Xây dựng tìm hiểu và vận dụng được một số biện pháp gây hứng thú học tập môn
Toán cho học sinh Ban xã hội.
Đó là những kinh nghiệm của cá nhân, những vấn đề của đề tài đặt ra cũng
mới chỉ là bước khởi đầu có tính định hướng, gợi ý; việc thực hiện nó như thế nào,
hiệu quả ra sao còn tùy thuộc rất nhiều vào nghệ thuật vận dụng của thầy cô giáo và
môi trường, cũng như hoàn cảnh, đối tượng học sinh….
Tôi mong rằng, những kinh nghiệm này góp phần giúp những họ sinh yếu có
được sự hứng thú trong việc học tập môn Toán. Qua đó góp phần nâng cao chất
lượng học tập bộ môn và nâng cao kết quả trong kỳ thi THPT Quốc gia
2. Kiến nghị
* Đối với nhà trường:
- Thường xuyên tổ chức học tập, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy giữa các giáo
viên với nhau, nhất là phương pháp giảng dạy theo tinh thần đổi mới sách giáo
khoa.
* Đối với tổ chuyên môn:
- Phải thường xuyên trao đổi, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, phát huy
thế mạnh của công nghệ thông tin vào dạy học bằng cách tìm các thông tin mới, hấp
dẫn trên mạng internet, đưa vào giáo án điện tử làm cho các tiết học sinh động,
lượng thông tin học sinh thu được nhiều và chính xác hơn so với phương pháp dạy
học truyền thống.
Trong quá trình xây dựng, thực hiện đề tài, do sự hạn chế về năng lực, tư liệu
và kinh nghiệm, dù tôi đã đầu tư, tìm tòi song không tránh khỏi những thiếu sót,
hạn chế. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô giáo, bạn bè đồng
nghiệp để đề tài có tính thực tiễn, có thể áp dụng có hiệu quả trong quá trình dạy và
học môn Toán.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 08 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Hà Văn Quyền
18