Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua dạy học bài tôi yêu em trong chương trình ngữ văn 11 (cơ bản)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.25 KB, 18 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Trong vài năm gần đây, khái niệm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
trong nhà trường phổ thông dần trở nên quen thuộc đối với những người làm
công tác giáo dục, nhất là người giáo viên trực tiếp đứng lớp. Giáo dục kĩ năng
sống đã trở thành một trong những mục tiêu, nhiệm vụ cần thiết, thiết thực nhằm
đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. Bởi chúng ta đều nhận thức được
rằng việc giáo dục học sinh trong nhà trường không chỉ dừng ở việc cung cấp
những tri thức khoa học về các lĩnh vực đời sống mà còn phải hình thành những
năng lực, phẩm chất đạo đức cần thiết cho các em để xây dựng con người hoàn
thiện cả về trí tuệ lẫn tâm hồn. Ngày nay, trong xu thế phát triển và hội nhập của
đất nước, trước những yêu cầu của đời sống xã hội mới, nhiệm vụ của giáo dục
nhà trường còn quan trọng và to lớn hơn nữa khi chúng ta nhận thức được và
đang đề cao hơn nhiệm vụ giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Bởi một thực tế
mà chúng ta đang nhìn thấy đó là một bộ phận không nhỏ thế hệ trẻ ngày nay
đang rất thiếu và yếu những kĩ năng sống cơ bản. Những hành vi lệch chuẩn trái
ngược với thuần phong mĩ tục; những cách ứng xử thiếu văn minh và vô cảm;
những trào lưu sống ảo; những tệ nạn xã hội..vv..trong giới trẻ đều có một phần
nguyên nhân rất lớn từ việc các em thiếu các kĩ năng sống cần thiết. Việc thiếu
đi những kĩ năng ấy khiến các em không thể tự bảo vệ mình trước những tác
động tiêu cực của đời sống, dẫn đến nhiều hệ lụy đáng buồn. Có thể nói, chưa
bao giờ vấn đề giáo dục kĩ năng sống lại được đặt ra thời sự và cần thiết như bây
giờ trong nhà trường của chúng ta. Ngoài những tri thức nền tảng về các bộ môn
khoa học, xã hội đang đòi hỏi nhiều hơn nữa ở mỗi cá nhân những kĩ năng sống
cơ bản, tích cực để có thể tồn tại, chung sống trong một “thế giới phẳng” như
hiện nay. Sự đòi hỏi ấy là một xu thế tất yếu và trách nhiệm giáo dục, đào tạo,
bồi dưỡng những con người của thời đại mới ấy có một phần rất quan trọng
thuộc về nhà trường.
Trong các môn học ở nhà trường phổ thông, Ngữ văn là một môn học có
nhiều ưu thế để lồng ghép nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh bởi đây
là môn học có tính chất xã hội và nhân văn cao. Bản thân mục tiêu và nội dung


của môn Ngữ văn đã chứa đựng những yếu tố của giáo dục kĩ năng sống như :
Trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về tiếng Việt; hình thành và phát
triển các năng lực sử dụng tiếng Việt, năng lực tiếp nhận văn học, năng lực cảm
thụ thẩm mĩ, năng lực tự học…; bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt, tình yêu văn học,
yêu gia đình, đất nước, tinh thần nhân văn, nâng cao ý thức trách nhiệm công
dân, tinh thần hữu nghị quốc tế..vv. Do vậy, việc khai thác, vận dụng và triển
khai nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua môn học này là hoàn toàn
phù hợp và khả thi .
Đối với chương trình Ngữ văn THPT, có thể nói hầu hết các bài học đều
có khả năng lồng ghép nội dung giáo dục kĩ năng sống. Tuy nhiên, vì nhiều lí do
khác nhau chúng ta đã chưa khai thác và chú trọng đúng mức đến khả năng dồi
dào, to lớn ấy. Trong khuôn khổ đề tài này, tôi chọn địa chỉ là tác phẩm thơ “ Tôi
1


yêu em” của nhà thơ A.X. Pu-skin trong chương trình Ngữ 11- tập 2. Đây là một
tác phẩm viết về đề tài tình yêu đôi lứa- một đề tài rất hấp dẫn đối với đối tượng
học sinh THPT và tác phẩm cũng rất gần gũi, phù hợp để giáo Văn dục cho các
em một số kĩ năng sống nhằm giúp các em giải quyết được những tình huống
nảy sinh trong thực tiễn thường gặp ở lứa tuổi các em. Do vậy, tôi mạnh dạn
chọn đề tài: “Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua dạy – học bài Tôi yêu
em trong chương trình Ngữ văn 11 (Cơ bản)”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Chọn đề tài này tôi nhằm đạt được những mục đích sau đây:
- Nâng cao hiệu quả dạy – học văn bản Tôi yêu em.
- Giáo dục cho học sinh những kĩ năng sống cơ bản gồm: Kĩ năng giao tiếp,
tư duy sáng tạo, xác định giá trị, tìm kiếm sự giúp đỡ, tự nhận thức, kiểm
soát cảm xúc, giải quyết vấn đề. Thông qua đó các em có được những ứng
xử phù hợp trong tình bạn, tình yêu ở lứa tuổi học trò.
- Góp phần giáo dục, bồi dưỡng những tình cảm nhân văn, tư tưởng, đạo

đức của học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Văn bản Tôi yêu em trong chương trình ngữ văn 11- cơ bản.
- Học sinh lớp 11- là lứa tuổi đang có những bước phát triển, hoàn thiện về
tâm lí, thể chất.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát, thực nghiệm, phân tích số liệu, thống kê.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1 Những vấn đề cơ bản về Giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ
văn
2.1.1.1. Khái niệm về kĩ năng sống
Hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về kĩ năng sống (KNS):
Theo tổ chức Y tế Thế giới ( WHO) : Kĩ năng sống là “ khả năng thích
nghi và hành vi tích cực giúp cá nhân giải quyết có hiệu quả với những đòi hỏi
và thách thức của cuộc sống hàng ngày”.
Theo người Palestine “Kĩ năng sống là năng lực mà chúng ta cần để giải
quyết những vấn đề tồn tại của chúng ta, vượt qua áp lực, tìm kiếm sự thay đổi
tích cực và khuyến khích những điều tích cực hiện có nhằm mục đích cải thiện
tình huống của chúng ta và đạt được sự an ninh, hoà bình, hài hoà với xã hội và
với môi trường.
Theo từ điển Wikipedia “Kĩ năng sống là tập hợp các kĩ năng của con
người có được qua việc học hoặc trải nghiệm trực tiếp trong cuộc sống dùng để
giải quyết những vấn đề mà con người thường phải đối mặt trong cuộc sống
hàng ngày”.
2


Theo tổ chức văn hoá, khoa học và giáo dục Liên hợp quốc ( UNESCO) :
KNS gắn liền với bốn trụ cột của giáo dục, đó là: Học để biết gồm các kĩ năng tư

duy như: Tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề,
nhận thức được hậu quả...Học để làm người gồm các kĩ năng như: ứng phó với
căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin... Học để sống với người
khác gồm các kĩ năng xã hội như: giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, làm
việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông, Học để làm gồm các kĩ năng thực hiện
công việc và các nhiệm vụ như: Kĩ năng đặt mục tiêu, đảm bảo trách nhiệm..
Từ những quan niệm trên đây, có thể thấy kĩ năng sống bao gồm một loạt
các kĩ năng cụ thể cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất
của KNS là kĩ năng tự quản lý bản thân và kĩ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự
lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác KNS là khả
năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của
cuộc sống.
2.1.1.2. Giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ văn
* Thể hiện qua mục tiêu giáo dục : Mục tiêu giáo dục của môn Ngữ văn
đã chứa đựng những yếu tố của giáo dục kĩ năng sống:
- Trang bị kiến thức phổ thông
- Hình thành năng lực ngữ văn
- Bồi dưỡng tình cảm thái độ
Với đặc trưng của một môn KHXH và nhân văn, bên cạnh nhiệm vụ hình
thành và phát triển ở học sinh năng lực sử dụng tiếng Việt , năng lực tiếp nhận
văn bản văn học và các loại văn bản khác, môn Ngữ văn còn giúp học sinh có
những hiểu biết về xã hội , văn hóa, văn học, lịch sử, đời sống nội tâm của con
người. Với tính chất là một môn học công cụ, môn Ngữ văn giúp học sinh có
năng lực ngôn ngữ để học tập, giao tiếp và nhận thức về xã hội và con người.
Với tính chất giáo dục thẩm mĩ, môn Ngữ văn giúp học sinh bồi dưỡng năng lực
tư duy, làm giàu xúc cảm thẩm mĩ và định hướng thị hiếu để hoàn thiện nhân
cách.
* Thể hiện qua nội dung môn học: Là một môn học công cụ nên môn
Ngữ văn có thể kết hợp nhiều nội dung giáo dục trong quá trình dạy học.
Ngoài các nội dung giáo dục mang tính chất ổn định của môn học là các nội

dung giáo dục mang tính thời sự - xã hội: Giáo dục tình cảm nhân văn, trách
nhiệm của thanh niên, học sinh trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, giáo dục
về truyền thống dân tộc về tình bạn, tình yêu và gia đình; về vấn đề lập nghiệp;
về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; giáo dục bảo vệ môi
3


trường, phòng chống tệ nạn xã hội, giáo dục sức khoẻ, giáo dục giới tính...nhằm
đáp ứng yêu cầu hình thành ở học sinh quan hệ ứng xử đúng đắn với những vấn
đề của cuộc sống đất nước, thời đại; giúp học sinh có đủ bản lĩnh hội nhập trong
xu thế toàn cầu hoá.
* Việc giáo dục KNS trong môn ngữ văn được tiếp cận qua hai phương diện:
- Nội dung các bài học: Nhiều bài học giúp học sinh nhận thức được giá trị trong
cuộc sống, hình thành lối sống, cách ứng xử có văn hóa trong các tình huống
giao tiếp.
- Phương pháp triển khai các nội dung bài học: 6 phương pháp dạy học tích cực
và 19 kỹ thuật dạy kĩ năng sống (tr 27 – 35 tài liệu “Giáo dục KNS trong môn
Ngữ văn).
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trước đây khi dạy bài Tôi yêu em, tôi thường tiến hành như tất cả các bài
học khác một cách truyền thống, nghĩa là dẫn dắt học sinh nắm được những nét
cơ bản về tác giả, hoàn cảnh ra đời tác phẩm, sau đó hướng dẫn học sinh phân
tích nội dung, nghệ thuật của bài. Khi đó tôi chưa chú ý đến việc giáo dục kĩ
năng sống cho các em mà chỉ có ý thức liên hệ thực tế một chút. Ở phần liên hệ
thức tế, tôi thường nêu bài học cho học sinh về việc phải “học tập tinh thần cao
thượng của tác giả, không nên cay cú, hoặc tìm cách trả thù nếu lỡ có thất bại
trong tình yêu”. Quả thực sự liên hệ đó đã được tiến hành nhưng rất lý thuyết và
hình thức. Phản ứng lại bài học đó, học sinh thường cười ồ, và một thực tế mà
tôi nhận thấy là các em không thực sự bị thuyết phục và tin vào bài học lý thuyết
ấy, các em cho rằng đó chỉ là trong sách vở mới có chuyện như vậy, rất ít em

cảm thấy được một bài học thiết thực đối với riêng mình. Và do thế, câu chuyện
tình yêu và nhân cách đẹp của Pu-skin mãi chỉ là câu chuyện trên sách vở. Trong
khi đó, thi thoảng tôi vẫn được biết đến những câu chuyện “tình yêu học trò”
của chính học trò mình và cũng được chứng kiến không ít những hệ quả tiêu cực
từ những tình yêu ấy mà một nguyên nhân quan trọng là các em rất thiếu kĩ năng
xử lí đúng đắn và phù hợp trong những mối quan hệ đó.
Trở lại năm học này, tôi được giao nhiệm vụ dạy một số lớp 11 và bài học
Tôi yêu em trở lại. Song với sự rút kinh nghiệm nghiêm túc và tinh thần cầu thị,
đổi mới, trong năm học này tôi đã mạnh dạn áp dụng một số cải tiến, nhất là chú
trọng nhiều hơn đến mục tiêu giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua một
bài học về đề tài tình yêu- một đề tài rất gần gũi, có sức hấp dẫn đối với các em.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng
2.3.1. Xác định những kĩ năng sống cần giáo dục cho học sinh thông qua
bài học
Việc xác định những KNS cần giáo dục cho học sinh dựa trên cơ sở nắm
vững các nguyên tắc và mục tiêu giáo dục kĩ năng sống trong môn học Ngữ văn
và quá trình phân tích nội dung bài học.

4


2.3.1.1. Mục tiêu và nguyên tắc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh nói
chung, môn Ngữ văn nói riêng
Đối với người giáo viên, trước khi tiến hành hoạt động giáo dục KNS, cần
phải nắm vững mục tiêu, nguyên tắc của GDKNS như là định hướng và cơ sở
khoa học không thể thiếu. Bởi việc nắm vững những mục tiêu và nguyên tắc đó
sẽ giúp người giáo viên hiểu chính xác những gì mình đang làm, từ đó xây dựng
được nội dung, kế hoạch giáo dục phù hợp, hiệu quả. Bên cạnh đó, người giáo
viên trong vai trò là người thiết kế, tổ chức các hoạt động giáo dục sẽ xác định
được chính xác những kĩ năng sống nào cần hình thành, rèn luyện cho học sinh

phù hợp với từng bài học, từng đối tượng từ đó mà lựa chọn phương pháp, kĩ
thuật dạy học tương ứng. Sự nắm vững nguyên tắc và mục tiêu GDKNS, cũng
giúp cho người giáo viên không đi chệch khỏi quỹ đạo khi lên lớp, không biến
giờ học thành giờ tuyên truyền đạo đức, hay lý thuyết suông.
Theo đó, các mục tiêu và nguyên tắc giáo dục KNS bao gồm:
Về mục tiêu: GDKNS nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái
độ và kĩ năng phù hợp. Trên sơ sở đó hình thành cho học sinh những thói quen
lành mạnh, tích cực; loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực trong các mối
quan hệ, các tình huống hàng ngày.
- Tạo cơ hội thuận lợi để học sinh thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình và
phát triển hài hòa cả về thể chất, trí tuệ, tâm hồn.
Về nguyên tắc: - GDKNS trên cơ sở hoạt động tương tác. Nghĩa là học sinh
không thể được hình thành thói quen chỉ qua việc nghe giảng và tự đọc tài liệu
mà phải thông qua hoạt động tương tác với người khác. Trong quá trình hoạt
động tương tác đó, học sinh có cơ hội được thể hiện ý tưởng của mình, xem xét
ý tưởng của người khác, từ đó có thể nhìn nhận lại kinh nghiệm sống của mình
trước đây theo một cách nhìn khác.
- Hoạt động trải nghiệm: KNS chỉ được hình thành khi người học được trải
nghiệm qua các tình huống thực tế, tức là các em tự làm việc đó chứ không chỉ
nói về việc đó.
- Nguyên tắc tiến trình: tức là GDKNS không phải chuyện ngày một ngày hai
mà phải tuân thủ theo trình tự :Nhận thức- hình thành thái độ- thay đổi hành vi.
- Thay đổi hành vi: Đây là mục đích cao nhất của GDKNS cho học sinh.
GDKNS thúc đẩy người học thay đổi hay định hướng lại các giá trị, thái độ,
hành động của mình theo hướng tích cực hơn.
Đối với mục tiêu GDKNS trong môn Ngữ văn:
Về kiến thức: Giúp học sinh nâng cao hiểu biết về các giá trị truyền thống của
dân tộc cũng như những giá trị tốt đẹp của nhân loại; góp phần bổ sung, mở rộng
kiến thức đã học về quyền, trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, xã hội, về
định hướng nghề nghiệp.

- Nhận thức được sự cần thiết của các KNS giúp cho bản thân sống tự tin, lành
mạnh, phòng tránh được các nguy cơ gây ảnh hưởng xấu đen sự phát triển bản
thân và người khác.
Về kĩ năng: Có kĩ năng làm chủ bản thân, có trách nhiệm, biết ứng xử linh hoạt,
hiệu quả và tự tin trong các tình huống giao tiếp.
5


- Có suy nghĩ và hành động tích cực, tự tin, có những quyết định đúng đắn trong
cuộc sống.
- Có kĩ năng quan hệ tích cực và hợp tác, biết bảo vệ mình và người khác trước
những nguy cơ ảnh hưởng đến an toàn và lành mạnh của cuộc sống.
Về thái độ: Hứng thú và có nhu cầu được thể hiện các KNS mà bản thân đã rèn
luyện được….
- Hình thành và thay đổi hành vi để sống lành mạnh, có trách nhiệm với
bản thân, gia đình, xã hội.
- Có ý thức về quyền và trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, xã hội, có
ý thức định hướng nghề nghiệp.
2.3.1.2. Phân tích, đánh giá khả năng tích hợp giáo dục KNS trong bài
học.
Phân tích, đánh giá khả năng tích hợp giáo dục KNS của bài học “Tôi yêu em”
dựa trên các phương diện cụ thể sau đây:
- Mục tiêu bài học: Học bài học này nhằm giúp học sinh :
Về kiến thức: Cảm nhận được tấm lòng yêu chân thành và tâm hồn nhân hậu,
cao thượng của tác giả được thể hiện qua một hình thức ngôn từ giản dị, trong
sáng.
Về kĩ năng: Rèn luyện kĩ năng đọc-hiểu tác phẩm trữ tình.
Về thái độ: Giáo dục thái độ đồng cảm với tâm trạng nhà thơ, đồng thời biết
trân trọng một nhân cách đẹp, từ đó thêm trân trọng tình yêu- thứ tình cảm trong
sáng, cao đẹp của con người.

Những mục tiêu trên đây phù hợp với mục tiêu giáo dục một số KNS như: Tự
nhận thức, giao tiếp, tư duy sáng tạo.
- Nội dung bài học: Tôi yêu em là một tác phẩm trữ tình thuộc văn học nước
ngoài. Dung lượng bài thơ tuy ngắn nhưng lại hàm chứa một nội dung tư tưởng
sâu sắc, giàu giá trị nhân văn. Bài thơ diễn tả một cách giản dị, độc đáo mà chân
thành tình yêu tha thiết, say đắm và nhân cách cao thượng, đáng phục của nhân
vật trữ tình Tôi - cũng là chính tác giả Pu-skin. Bản thân bài học đã mang đến
những giá trị nhân văn đẹp mà mỗi người có thể nhận thức, học tập, làm giàu
thêm cho tâm hồn mình. Do đó, bài học rất phù hợp với mục tiêu giáo dục một
số kĩ năng sống như: Tự nhận thức, xác định giá trị, thể hiện sự cảm thông..vv..
- Điều kiện tiến hành hoạt động dạy-học ( phương pháp, phương tiện, thiết bị
dạy học, đối tượng học sinh):
Về phương pháp: bài học Tôi yêu em có thể sử dụng những phương pháp
truyền thống như thuyết trình, phát vấn, cũng có thể sử dụng các phương pháp
mới như thảo luận nhóm và một số kĩ thuật tích cực khác. Trong quá trình tiến
hành những phương pháp đó, học sinh có thể được rèn luyện những kĩ năng
sống phù hợp như : giao tiếp, tự nhận thức, tư duy sáng tạo....
Về phương tiện, thiết bị dạy học: sử dụng máy chiếu Projector hỗ trợ phần
minh họa hình ảnh, các kết luận quan trọng trong bài học và các bài tập.
Về đối tượng học sinh: Đối với các em học sinh ở bậc trung học phổ thông,
tác phẩm Tôi yêu em càng trở nên gần gũi, hấp dẫn bởi đặc điểm tâm lí lứa tuổi
này rất nhạy cảm với những đề tài như tình yêu đôi lứa. Các em đã là những
thanh niên ở độ tuổi 17, 18, đã có sự trưởng thành nhất định về cả thể chất và
6


tâm lí, nhiều em đã xuất hiện những rung động đầu đời đối với bạn khác giới;
nhiều em rất tò mò tìm hiểu về các vấn đề tình yêu, giới tính…Đó là những nhu
cầu có thực đã và đang tồn tại ở lứa tuổi của các em. Chính vì vậy, tôi nhận thấy
đây là một địa chỉ rất phù hợp để có thể lồng ghép nội dung giáo dục kĩ năng

sống cho học sinh. Thông qua bài học, học sinh được rèn luyện kĩ năng giao
tiếp, tư duy sáng tạo; các em được học kĩ năng tự nhận thức, tự xác định giá trị,
biết cách tìm kiếm sự giúp đỡ, hay giải quyết mâu thuẫn …trong các mối quan
hệ bạn bè khác giới.
Từ việc nắm vững những mục tiêu và nguyên tắc GDKNS trên đây cùng với
việc phân tích khả năng giáo dục KNS của bài học này, tôi xác định có thể giáo
dục những kĩ năng sống cơ bản sau đây cho các em:
- Kĩ năng giao tiếp: Là khả năng các em có thể trình bày ý tưởng, cảm nhận của
mình cũng như biết lắng nghe, thấu hiểu và tôn trọng ý kiến của người khác.
Trong bài học này, kĩ năng lắng nghe thể hiện ở việc các em có thể cảm nhận và
trình bày được chính xác tâm trạng, vẻ đẹp của tình yêu chân thành, say đắm và
nhân cách cao thượng của tác giả Pu-skin. Nghĩa là các em đã có một cuộc “giao
tiếp” với tác giả thông qua tác phẩm. Bên cạnh cuộc giao tiếp này, các em còn
được giao tiếp với giáo viên, với các bạn trong lớp trong quá trình trao đổi, thảo
luận.
- Kĩ năng tự nhận thức và kĩ năng xác định giá trị: Tự nhận thức là tự nhìn
nhận, tự đánh giá về bản thân mình. Đây là một KNS cơ bản, nền tảng giúp con
người có thể đánh giá đúng về mình, từ đó có những ứng xử phù hợp trong các
mối quan hệ. Còn kĩ năng xác định giá trị tức là con người biết lựa chọn những
gì mà họ cho là quan trọng, cần thiết và ý nghĩa đối với bản thân mình. Lựa chọn
được những giá trị phù hợp, chuẩn mực sẽ giúp con người có định hướng hành
động đúng, dám khẳng định bản lĩnh của mình đồng thời biết tôn trọng và chấp
nhận những giá trị của người khác. Kĩ năng tự nhận thức và kĩ năng xác định giá
trị có quan hệ thống nhất với nhau. Tự nhận thức đúng về mình là cơ sở để con
người có kĩ năng xác định giá trị đúng đắn.
Trong bài học về văn bản Tôi yêu em, tôi hướng tới mục tiêu rèn luyện cho học
sinh kĩ năng tự nhận thức một số nội dung như: Tự nhận thức về giá trị của tình
yêu trong đời sống tinh thần của con người; Tự nhận thức về cách ứng xử phù
hợp, có văn hóa trong quan hệ với bạn khác giới.
- Kĩ năng tư duy sáng tạo: là khả năng nhìn nhận và giải quyết vấn đề theo một

cách mới, khám phá và kết nối mối quan hệ giữa các ý tưởng, khái niệm, sự
việc...Trong bài học này học sinh được rèn luyện kĩ năng tư duy sáng tạo trong
quá trình phân tích, bình luận những đặc sắc trong cách thể hiện quan niệm tình
yêu của tác giả.
- Kĩ năng kiểm soát cảm xúc: là khả năng con người nhận thức rõ cảm xúc của
mình trong một tình huống nào đó và hiểu được ảnh hưởng của cảm xúc đối với
bản thân và người khác như thế nào, đồng thời biết cách điều chỉnh và thể hiện
cảm xúc một cách phù hợp. Thông qua bài học “Tôi yêu em”, học sinh được học
cách ứng xử của nhân vật trữ tình trong bài thơ, từ đó biết kiểm soát cảm xúc cá
nhân trong những tình huống tương tự. Các em sẽ hiểu rằng, cần bày tỏ cảm xúc
7


một cách phù hợp và không để những cảm xúc tiêu cực chi phối bản thân cũng
như ảnh hưởng đến người khác.
- Kĩ năng tìm kiếm sự giúp đỡ: trong cuộc sống, có nhiều vấn đề mà bản thân
chúng ta không thể giải quyết được và phải cần đến sự hỗ trợ, giúp đỡ từ người
khác. Do vậy, biết tìm kiếm sự giúp đỡ một cách hiệu quả là một kĩ năng sống
cần thiết đối với mỗi người. Đối với học sinh lứa tuổi THPT các em có rất nhiều
vấn đề trong học tập, sinh hoạt…nhất là các mối quan hệ bạn bè cần đến sự trợ
giúp, định hướng của người lớn, song không phải em nào cũng biết cách và đủ
tự tin bày tỏ những khó khăn, khúc mắc của mình với người khác hoặc biết tìm
đến địa chỉ giúp đỡ tin cậy. Vì thế, trong bài học này, tôi chú ý đến việc rèn
luyện kĩ năng tìm kiếm sự giúp đỡ thông qua một số bài tập tình huống ở phần
Vận dụng. Thông qua các bài tập đó các em sẽ nhận thức được mình cần giúp đỡ
khi nào? ở đâu? để có thể tháo gỡ những khó khăn, rắc rối trong những vấn đề
nhạy cảm của lứa tuổi mình.
- Kĩ năng giải quyết vấn đề: là khả năng biết quyết định, lựa chọn phương án tối
ưu và hành động theo phương án đã chọn để giải quyết vấn đề hoặc tình huống
trong cuộc sống. Đối với học sinh THPT, các em thường xuyên gặp phải những

tình huống khó xử trong mối quan hệ với bạn bè khác giới nên nếu được rèn
luyện về kĩ năng giải quyết vấn đề các em sẽ có những ứng xử phù hợp, tránh
những hậu quả tiêu cực như dùng bạo lực, mất phương hướng, bi quan, tuyệt
vọng..vv.
Các kĩ năng nêu trên tất nhiên không tồn tại riêng biệt mà hỗ trợ, đan xen trong
bài học và một số kĩ năng còn kết hợp với những kĩ năng khác nữa mà đề tài
chưa có điều kiện nêu ở đây. Chắng hạn như kĩ năng giao tiếp là yếu tố quan
trọng cho các kĩ năng bày tỏ sự cảm thông, tìm kiếm sự giúp đỡ hoặc kiểm soát
cảm xúc. Hoặc như kĩ năng kiểm soát cảm xúc lại gắn bó chặt chẽ với kĩ năng tự
nhận thức, tự xác định giá trị và kĩ năng xác định giá trị lại kết hợp chặt chẽ với
kĩ năng tìm kiếm sự giúp đỡ để hỗ trợ cho kĩ năng giải quyết vấn đề..vv.
2.3.2. Sử dụng một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực nhằm đạt
được mục tiêu bài học.
Trên cơ sở xác định mục tiêu bài học, mục tiêu giáo dục kĩ năng sống thông qua
bài học, tôi lựa chọn sử dụng một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tương ứng
như sau:
- Sử dụng phương pháp hoạt động nhóm: Trong dạy học, hoạt động nhóm
được sử dụng trong trường hợp nhiệm vụ học tập đòi hỏi sự hợp tác của nhiều
học sinh, cùng động não, thảo luận để đưa ra ý kiến thống nhất cuối cùng. Đối
với bài học này, tôi sử dụng phương pháp hoạt động nhóm cho phần Luyện tập,
Vận dụng . Đây là phần mà học sinh phải huy động trí tuệ tập thể để giải quyết
các bài tập ứng dụng. Thông qua việc hợp tác nhóm, các em sẽ được rèn luyện
thêm về kĩ năng hợp tác, giao tiếp, lắng nghe…
- Sử dụng phương pháp phát vấn(hỏi- đáp): Đây là phương pháp không thể
thiếu trong mỗi giờ học để dẫn dắt học sinh khám phá tri thức mới. Phương pháp
này được thực hiện thông qua hệ thống câu hỏi trong suốt tiến trình bài học.
Giáo viên đóng vai trò là người biên soạn hệ thống câu hỏi, đặt câu hỏi và dẫn
dắt học sinh trả lời. Không chỉ thế, trong bài học, học sinh cũng có quyền đặt ra
8



những câu hỏi đối với giáo viên. Việc làm này nhằm tăng cường sự kết nối
người dạy- người học, giúp học sinh không chỉ là người lắng nghe, tiếp nhận mà
còn là chủ thể lắng nghe, tiếp nhận thực sự chủ động.
Theo đó, tôi đã xây dựng một hệ thống câu hỏi với nhiều mức độ khác nhau:
có câu hỏi tái hiện, có câu nêu vấn đề, có câu gợi mở, có câu hỏi mang tính tổng
hợp, khái quát..vv. Việc chuẩn bị một hệ thống câu hỏi như vậy sẽ giúp cho học
sinh có thể từng bước tiếp nhận kiến thức từ dễ đến khó, từ thấp đến cao.
Về phía học sinh, tôi cũng khuyến khích các em chuẩn bị và đặt những câu
hỏi xoay quanh nội dung bài học, đặc biệt là những câu hỏi mang tính vận dụng,
liên hệ thực tế.
- Sử dụng kĩ thuật động não: Kĩ thuật này giúp học sinh trong một thời gian
ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng mới mẻ, độc đáo về một chủ đề nào đó. Tôi
sử dụng kĩ thuật này cho phần giới thiệu vào bài nhằm kết nối tri thức cũ và mới,
huy động ý tưởng của các em …..và ở các bài tập vận dụng để tìm các phương
án giải quyết vấn đề.
- Sử dụng kĩ thuật “Trình bày một phút’: Đây là kĩ thuật tạo cơ hội cho học
sinh tổng kết lại kiến thức đã học và đặt câu hỏi về những điều còn băn khoăn,
thắc mắc bằng cách trình bày ngắn gọn, cô đọng ý kiến của mình trước lớp. Kĩ
thuật này còn giúp các em rèn luyện sự tự tin khi nói trước tập thể. Tôi sử dụng
kĩ thuật này vào cuối tiết học để đánh giá mức độ hiểu bài của các em với các
câu hỏi:
? Điều em tâm đắc nhất trong bài học hôm nay là gì ?
Theo em, còn vấn đề gì băn khoăn mà em muốn giải đáp hoặc trao đổi trước
lớp?
- Sử dụng kĩ thuật “viết tích cực”: Kĩ thuật này được dùng cho phần bài tập
về nhà sau tiết học. Mỗi học sinh sẽ viết về những bài học mình nhận thức được
để vận dụng vào thực tiễn sau khi học xong bài học “Tôi yêu em”
Áp dụng những giải pháp trên tôi đã soạn một giáo án chi tiết cho bài học. Sau
đây là giáo án.


TÔI YÊU EM
( 1,5 tiết )

A.X.Pu-skin

A. MỤC TIÊU BÀI HỌC
Giúp Hs:
1. Về kiến thức: Cảm nhận được tình yêu chân thành và tâm hồn nhân hậu, cao
thượng của tác giả được thể hiện qua một hình thức ngôn từ giản dị, trong sáng.
2. Về kĩ năng: Rèn luyện kĩ năng đọc-hiểu tác phẩm trữ tình.
3. Về thái độ: Giáo dục thái độ đồng cảm với tâm trạng nhà thơ, đồng thời biết
trân trọng một nhân cách đẹp, từ đó thêm trân trọng tình yêu- thứ tình cảm trong
sáng, cao đẹp của con người.
9


B. CÁC KĨ NĂNG SỐNG CƠ BẢN
1. Giao tiếp: Trình bày ý tưởng, cảm nhận về tình yêu chân thành, mãnh liệt và
tâm hồn nhân hậu, vị tha của tác giả.
2. Tư duy sáng tạo: Phân tích, bình luận về những đặc sắc trong cách thể hiện
quan niệm về tình yêu của Pu-skin.
3. Tự nhận thức, xác định giá trị.: Tự xác định giá trị, bài học, cách sống cho
bản thân qua bài thơ.
4. Kiểm soát cảm xúc: Biết cách làm chủ cảm xúc cá nhân để ứng xử phù hợp
trong các mối quan hệ tình ban, tình yêu.
5. Tìm kiếm sự hỗ trợ: Biết cách bày tỏ nhu cầu giúp đỡ và tìm đến địa chỉ giúp
đỡ đáng tin cậy để tháo gỡ những khúc mắc trong cuộc sống, trong quan hệ tình
bạn, tình yêu.
6. Kĩ năng giải quyết vấn đề: Có năng lực lựa chọn những phương án tối ưu để

giải quyết những vấn đề gặp phải trong quan hệ tình bạn, tình yêu.
C. CÁC PHƯƠNG PHÁP/ KĨ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC CÓ THỂ SỬ
DỤNG
1. Động não: suy nghĩ, lựa chọn ngôn ngữ trình bày cảm nhận về vẻ đẹp tình
yêu của Pu-skin; tìm kiếm phương án trả lời trong các bài tập tình huống.
2. Phương pháp hoạt động nhóm: Thảo luận, trao đổi để đánh giá, nhìn nhận
đúng về cách ửng xử của nhân vật trữ tình; thảo luận lựa chọn phương án ứng xử
phù hợp trong các bài tập tình huống.
3. Phát vấn, gợi mở, nêu vấn đề: Gv nêu câu hỏi với nhiều mức độ để hướng dẫn
học sinh tìm hiểu , nắm kiến thức.
4. Kĩ thuật “Trình bày một phút”: Hs trình bày ngắn gọn những cảm nhận sâu
sắc của mình về bài học.
5. Kĩ thuật “ Viết sáng tạo” : Hs viết bài cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn của
Pu-skin qua bài thơ và bài học cho bản thân từ bài học Tôi yêu em.
D. PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
1. Sgk, tài liệu tham khảo về nhà thơ, bài thơ.
2. Hình ảnh về chân dung nhà thơ, đất nước Nga, các sáng tác của
Pu-skin, video bài thơ Tôi yêu em được phổ nhạc thành bài hát.
3. Máy chiếu Projector, phiếu học tập để thảo luận
E. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC.
I. Khám phá
- Phương pháp: Phát vấn.
Bước 1: - Gv yêu cầu học sinh kể tên một số tác phẩm đã được học viết về đề
tài tình yêu?
- Hs kể tên tác phẩm: Đoạn trích Tình yêu và thù hận ( Sếch-Xpia) , Bài thơ
Đây thôn Vĩ Dạ ( Hàn Mặc Tử), Tương tư ( Nguyễn Bính).
Bước 2: Gv giới thiệu nội dung, mục tiêu bài học: Hôm nay chúng ta sẽ được
tìm hiểu thêm một tác phẩm nữa viết về tình yêu lứa đôi của tác giả Pu-skin.
10



Qua bài thơ chúng ta sẽ cảm nhận được tình yêu trong sáng, chân thành của một
tâm hồn, nhân cách cao thượng được thể hiện qua ngôn ngữ nghệ thuật tinh tế,
giản dị.
II. Kết nối.
Hoạt động 1. Tìm hiểu chung
- Phương pháp: Phát vấn( Hỏi- đáp), Hs thảo luận chung cả lớp, cá nhân
trình bày trước tập thể.
Bước 1: - Gv yêu cầu học sinh đọc phần Tiểu dẫn SGK sau đó nêu câu hỏi:
? Bằng những nội dung của phần Tiểu dẫn và sự chuẩn bị bài ở nhà, em hãy
giới thiệu những nét cơ bản về tác giả Pu-skin và bài thơ Tôi yêu em?
- 1, 2 Hs suy nghĩ, trả lời dựa trên hai ý chính: Tác giả ( Năm sinh- mất,
quê hương, sự nghiệp sáng tác, vị trí trong nền văn học Nga) và tác phẩm
( Hoàn cảnh ra đời, nhan đề, đề tài, giá trị của bài thơ)
Bước 2: Gv chốt lại các ý chính, nhấn mạnh vào vị trí của Pu-skin trong nền
văn học Nga, đặc biệt cần nhấn mạnh đặc điểm sáng tác của Pu-skin: Thể
hiện tuyệt đẹp tâm hồn Nga khao khát tự do và tình yêu, văn chương Pu-skin
là một tiếng nói Nga thuần khiết, trong sáng.(Kết hợp lời giảng, Gv trình
chiếu trên máy chiếu một số hình ảnh về nhà thơ Pu-skin, các tác phẩm của
ông và nước Nga xinh đẹp.)
Bước 3: Gv dẫn chuyển vào phần Nội dung văn bản( lời dẫn gợi mở đến tình
yêu chân thành, cao thượng)
Hoạt động 2: Tìm hiểu nội dung bài thơ
- Phương pháp: Phát vấn, gợi mở, nêu vấn đề, thảo luận chung cả lớp.
Bước 1: Đọc văn bản
- 1 Hs đọc diễn cảm văn bản , các Hs khác theo dõi, đọc thầm.
- Gv nhận xét, góp ý cách đọc, đọc lại một lần nữa cho cả lớp nghe ( 2 hai
câu đầu đọc bằng giọng ngập ngừng, giãi bày; 2 câu tiếp mạnh mẽ, dứt
khoát; 2 câu tiếp giãi bày ngậm ngùi, tha thiết; 2 câu cuối chân thành,
khẳng định pha chút kiêu hãnh).

- Gv yêu cầu Hs nêu một vài cảm nhận ban đầu về bài thơ ( giọng điệu,
ngôn từ, tâm trạng của nhân vật trữ tình..)
- 1,2 Hs nêu cảm nhận của mình trước lớp ( Gv khuyến khích các em xung
phong trả lời, rèn luyện sự tự tin và ngôn ngữ diễn đạt)
- Sau khi học sinh nêu cảm nhận, giáo viên nhận xét, khen ngợi đối với
những em có cảm nhận và trình bày tốt, có thể cho điểm để khuyến khích.
- Gv trình chiếu video bài hát Tôi yêu em( ca sĩ Cao Minh thể hiện) cho Hs
nghe như một cách cảm nhận thêm về bài thơ.
Bước 2: Tìm bố cục bài thơ.
- Gv hỏi: ? Có thể chia bài thơ thành mấy phần? Nội dung chính của từng
phần là gì?
- Hs chia bố cục, tìm ý chính, trả lời.
- Gv chốt lại các ý( kết hợp trình chiếu trên máy):
(1) Có thể chia bài thơ thành 2 phần : 4 câu đầu là nỗi băn khoăn để
đi đến quyết định từ giã tình yêu của nhân vật trữ tình ; 4 câu sau thể hiện
11


tình yêu tha thiết và lời cầu chúc của nhân vật trữ tình cho người yêu khi từ
giã.
Bước 3: Tìm hiểu chi tiết.
a. Tìm hiểu 4 câu thơ đầu.
- Học sinh đọc thầm lại 4 câu đầu và lần lượt trả lời các câu hỏi:
Câu 1: Câu thơ mở đầu bằng cụm từ “Tôi yêu em”, cách xưng hô “Tôi- em’
như vậy có gì đáng chú ý?
Câu 2: Giọng điệu trữ tình và tâm trạng của nhân vật trữ tình có chuyển
biến như thế nào từ câu 1-2 sang câu 3-4?
- Học sinh suy nghĩ, trình bày trước lớp
- Giáo viên chốt kiến thức:
(1) Cách xưng hô Tôi-em trong cụm từ “Tôi yêu em” thể hiện đúng

tính chất mối quan hệ, tình cảm của hai bên. Nếu xưng Anh- em thì
tình cảm chưa thân mật đến mức ấy, gọi “ cô” thì lại xa cách, cho
nên cách xưng hô Tôi- em là phù hợp, vừa trang trọng vừa lịch sự.
(2) Giọng điệu và tâm trạng của nhân vật trữ tình có sự chuyển đổi qua
các cặp câu: Câu 1-2 giọng điệu tha thiết, tự giãi bày , có phần
ngập ngừng, đến hai câu 3-4 bát đầu bằng từ “Nhưng” mở ra sự
dằn vặt, suy tư để đi đến một quyết định lý trí: không để em phải
“bận lòng” hay “gợn bóng u hoài”. Đó là một quyết định khó khăn
nhưng tỏ ra dứt khoát qua từ “ không để”.
 4 câu đầu là lời từ giã dù tình yêu còn tha thiết.
b. Tìm hiểu 4 câu cuối.
- HS đọc thầm lại 4 câu cuối, lần lượt trả lời các câu hỏi sau:
Câu 1: Phát hiện điệp khúc được lặp lại ở khổ thơ thứ hai? Sự lặp lại đó thể
hiện điều gì?
Câu 2: Tình yêu của nhân vật trữ tình “tôi” được diễn tả như thế nào qua
hai câu 5-6 ?
Câu 3: Câu cuối cùng có gì đặc biệt? Qua đó ta hiểu gì về tâm hồn, nhân
cách của nhân vật trữ tình?
- Học sinh trả lời, nhận xét, bổ sung cho nhau.
- Giáo viên chốt kiến thức:
(1) Điệp khúc lặp lại : Tôi yêu em – tha thiết, say đắm như một giai
điệu ngân vang không dứt. Đó là lời nói giản dị mà chân thành
nhất, súc tích nhất vang lên từ trái tim yêu mãnh liệt như một lời
khẳng định dù có thế nào thì tình yêu tôi dành cho em là sự thật, là
không thay đổi.
(2) Tình yêu của nhân vật trữ tình được diễn tả rất chân thực ở hai câu
5-6. Tình yêu ấy có đủ mọi cung bậc cảm xúc: lúc âm thầm, khi rụt
rè, khi hậm hực lòng ghen. Đó là lời thú nhận thành thực, rất đời,
rất người, cũng là những trạng thái cảm xúc dằn vặt, đau khổ vì
mối tình đơn phương. Ấy thế mà cuối cùng, vượt lên trên những

đau khổ ấy tác giả đã khẳng định tình yêu của mình dành cho em là
một tình yêu “chân thành, đằm thắm”.
12


(3) Câu thơ cuối khá bất ngờ, thú vị và mang một tinh thần nhân văn
cao cả. Ấy là lời cầu chúc của “tôi” dành cho “em”: Cầu em được
người tình như tôi đã yêu em! Ta nghe như trong lời cầu chúc đó ẩn
giấu một nỗi buồn, một sự hi sinh thầm lặng nhưng đầy kiêu hãnh,
tự hào vì tình yêu sâu đậm, duy nhất của nhân vật trữ tình. Yêu là
thế, nhưng cuối cùng lại chủ động từ giã, quyết định ấy khó khăn
nhường nào, đau khổ nhường nào và cũng cao thượng nhường nào!
Qua đây ta cảm nhận và cảm phục một nhân cách cao thượng, một
tấm lòng vị tha, nhân hậu của tác giả.
Hoạt động 3: Đánh giá khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ.
- Phương pháp: thảo luận chung, Hs trình bày cá nhân.
- Gv hỏi: ? Hãy khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ?
- Hs thảo luận chung, trả lời.
- Gv chốt kiến thức, trình chiếu trên máy chiếu:
+ Nội dung: bài thơ là lời giãi bày tình yêu tha thiết, cũng là
lời giã từ tình yêu thấm đượm nỗi buồn mà vẫn toát lên tấm lòng vị tha cao
cả của nhà thơ.
+ Nghệ thuật: bài thơ được viết bằng những ngôn từ giản dị,
tinh tế, trong sáng và chân thành như chính sự chân thành của trái tim nhà
thơ. Đó chính là thành công về mặt nghệ thuật của tác phẩm này.
III. Luyện tập
- Phương pháp: thảo luận nhóm
- Gv nêu vấn đề ( trình chiếu trên máy):
1. Cuộc đấu tranh nội tâm của nhân vật trữ tình trong bài thơ đã diễn ra như
thế nào? Cuối cùng nhân vật trữ tình đó đã chọn lựa, quyết định ra sao?

2. Có ý kiến cho rằng chàng trai trong bài thơ đã thể hiện một cách ứng xử
văn minh, thể hiện sự cao thượng trong tình yêu. Lại có ý kiến khác cho
rằng: Cách ứng xử ấy chứng tỏ sự nhút nhát, yếu đuối, không bản lĩnh của
chàng trai vì tình yêu vốn ích kỉ, không san sẻ nhường nhịn cho ai và cũng
cần phải biết kiên trì theo đuổi, đấu tranh cho tình yêu mới là cách ứng xử
hay nhất.
Em nghĩ như thế nào về những ý kiến ấy?
- Gv chia Hs thành 4 nhóm để thảo luận.
- Hs thảo luận, cử đại diện trình bày, các nhóm cùng tranh luận với nhau để
đưa ra quan điểm thống nhất.
- Gv điều khiển, theo dõi Hs trình bày, tranh luận và tổng hợp ý kiến cuối
cùng. Ở đây cần hướng Hs đến sự đánh giá đúng đắn, thỏa đáng về cách ứng
xử của chàng trai trong bài thơ. Cách ứng xử ấy không phải là biểu hiện của
sự yếu đuối hay hèn nhát mà nó là biểu hiện cho một tâm hồn cao thượng.
Chàng trai đã nhận thức rõ tình yêu của mình đơn phương, vô vọng nhưng rất
mãnh liệt, chân thành, do đó để đi đến quyết định từ giã, chàng cũng đã trăn
trở, đau khổ rất nhiều. Tình yêu đúng là có sự ích kỉ nhưng không thể cố
chấp. Vượt lên trên nỗi buồn của bản thân, chàng trai đã hành động vì người
mình yêu, để cho người mình yêu được vui vẻ, thanh thản. Hành động ấy chỉ
có được khi người ta yêu sâu sắc và có một nhân cách đẹp.
13


IV. Vận dụng
- Phương pháp: trình bày một phút, thảo luận nhóm.
Bước 1: Gv nêu câu hỏi và yêu cầu Hs trình bày một phút :
? Điều em cảm thấy tâm đắc nhất sau bài học hôm nay là gì? Em còn điều gì
băn khoăn muốn chia sẻ sau khi học xong bài học này không?
- Hs phát biểu, nêu suy nghĩ của mình xoay quanh các nội dung liên quan
đến bài học.

- Gv lắng nghe, chia sẻ và giải đáp khúc mắc của Hs ( nếu có)
Bước 2: Gv nêu bài tập ( trình chiếu trên máy): Có 4 bài tập tình huống đánh
số thứ tự từ 1 đến 4, các nhóm bốc thăm chọn tình huống, sau đó thảo luận,
cử đại diện trình bày.
- Tình huống 1: Nga nhận được thư tỏ tình của một bạn nam cùng lớp. Nga
trả lời rằng chỉ xem bạn ấy như những người bạn bình thường khác. Sau đó,
người bạn trai ấy công khai nói với mọi người là thích Nga, rồi liên tục tìm
cách thể hiện tình cảm. Nga cảm thấy phiền nhưng cũng không muốn tình
cảm bạn bè bị ảnh hưởng. Nếu là Nga em sẽ làm như thế nào?
- Tình huống 2: Tuấn rất thích một bạn gái cùng lớp. Tuấn viết thư bày tỏ
tình cảm nhưng bạn gái ấy lại mang thư cho các bạn khác đọc, sau đó tỏ ra
xa lánh Tuấn. Nếu là Tuấn em sẽ làm gì trong tình huống ấy?
- Tình huống 3: Nam thích một bạn trong nhóm chơi nhưng người ấy lại
thích một bạn khác cũng trong nhóm. Nếu là Nam em sẽ làm thế nào?
- Tình huống 4: Lan cảm mến đặc biệt một bạn trai cùng trường. Một ngày
nọ Lan nhận được thư tỏ tình của bạn trai ấy. Nếu là Lan, em sẽ ứng xử như
thế nào?
Gv điều khiển quá trình thảo luận, các nhóm có thể nhận xét, bổ sung cho
nhau cùng với Gv lựa chọn cách ứng xử phù hợp nhất.
Bước 3: Gv ra bài tập về nhà
- Phương pháp: viết sáng tạo
- Đề bài: Từ câu chuyện tình yêu của nhân vật trữ tình trong bài thơ Tôi yêu
em của nhà thơ Pu-skin em nhận thức được bài học gì sâu sắc cho bản
thân? Hãy trình bày bằng một bài văn ngắn ( khoảng 600 chữ).
- Hs hoàn thành bài tập ở nhà, nộp cho Gv vào tiết học sau
- Gv chấm,đánh giá bài làm của Hs.
2.4. Hiệu quả của SKKN.
Sau khi áp dụng một số giải pháp mới để tiến hành dạy học bài Tôi yêu em
theo mục tiêu lồng ghép giáo dục một số kĩ năng sống cho học sinh, tôi nhận
thấy những kết quả tiến bộ, tích cực hơn trước. Cụ thể là:

Đối với học sinh, điều dễ nhận thấy nhất ở các em đó là hứng thú học tập
tăng lên rõ rệt. Các em tỏ ra hào hứng khi được tham gia tranh luận, bày tỏ
suy nghĩ của mình về đề tài tình yêu ( trong đó bao gồm quan niệm và cách
ứng xử trong tình yêu của tác giả Pu-skin, bài học liên hệ cho bản thân, các
cách xử lí tình huống) thay vì chỉ nghe giảng một cách thụ động như trước
đây. Do vậy, không khí giờ học trở nên sôi nổi hơn rất nhiều. Điều thứ hai tôi
nhận thấy đó là mức độ hiểu bài, nắm kiến thức của các em khá tốt. Cuối tiết
học, các em đã có thể tự đánh giá bài học một cách khái quát, chính xác trên
14


hai phương diện nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật; biết cách phân
tích, lí giải quá trình diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ.
Kết quả thứ ba đó là học sinh được rèn luyện, trải nghiệm một số kĩ năng
sống thiết thực như kĩ năng xác định giá trị, tự nhận thức, kĩ năng kiểm soát
cảm xúc, kĩ năng tìm kiếm sự trợ giúp, kĩ năng giải quyết vấn đề…Những sự
trải nghiệm đó sẽ là bài học bổ ích mà các em có thể vận dụng khi gặp phải
những tình huống tương tự trong cuộc sống.
Một kết quả nữa mà tôi thu được qua bài học này đó là học sinh đã tỏ ra tự
tin hơn trong giao tiếp, nhất là các em đã dám bày tỏ, thổ lộ với tôi về những
vấn đề rắc rối mà các em gặp phải trong quan hệ bạn bè khác giới. Các em đã
tin tưởng và cởi mở hơn để tâm sự những điều bí mật của mình và xin tôi lời
khuyên. Có em tâm sự với tôi rằng tình huống trong bài học mà cô đưa ra rất
giống với tình huống của em, em đã rất buồn vì bị bạn từ chối tình cảm
nhưng từ giờ em sẽ cố gắng để giữ quan hệ bình thường với bạn ấy và không
để ảnh hưởng đến học tập. Những tâm sự đó của các em thực sự làm tôi rất
phấn khởi bởi bài học sách vở đã không chỉ là trên sách vở nữa.
Để kiểm tra mức độ hiểu bài và khả năng vận dụng thực tiễn của học sinh,
tôi đã ra bài tập( Bài tập về nhà, phần Ứng dụng), chấm bài và thu được kết
quả như sau:

Lớp
11A8
11A9
11A10

Sĩ số
40
45
48

Điểm
1-2
0(0%)
0(0%)
0(0%)

Điểm
3-4
0(0%)
0(0%)
0(0%)

Điểm
Điểm
5-6
7-8
7(17,5%) 28(70%)
11(24,5%) 28(62,2%)
13(27%) 33(68,8%)


Điểm
9-10
5(12,5%)
6(13,3%)
2(4,2)

Về phía bản thân, sau khi áp dụng sáng kiến này vào thực tiễn giảng dạy, tôi
cũng rút ra cho mình được những bài học kinh nghiệm hữu ích trong việc chuẩn
bị bài dạy, nghiên cứu khả năng tích hợp giáo dục kĩ năng sống, các phương
pháp dạy học tích cực…để nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn của mình.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Giáo dục Kĩ năng sống cho học sinh là một yêu cầu cấp thiết đặt ra trong
giai đoạn hiện nay. Đối với lứa tuổi học sinh THPT vấn đề này lại càng trở nên
quan trọng bởi đây là lứa tuổi sắp bước vào đời, khi rời khỏi cánh cổng trường
THPT là các em đã trở thành những công dân 18 tuổi, đủ tuổi để chịu trách
nhiệm về hành vi của mình và thực hiện nhiều nghĩa vụ với cộng đồng. Do vậy,
các em cần thiết phải được trang bị những kiến thức và kĩ năng sống cơ bản nhất
để có thể thích nghi, hòa nhập, phát triển trong xã hội. Nhiệm vụ ấy đặt ra có
phần rất lớn thuộc về giáo dục nhà trường mà trực tiếp là người giáo viên đứng
lớp chúng ta. Nhận thức rõ điều đó có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giảng
dạy của mỗi giáo viên. Bản thân tôi đã thấm nhuần và thực hiện trong thực tiễn
dạy học ở đơn vị mình. Đề tài “ Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua dạy –
học bài Tôi yêu em trong chương trình Ngữ văn 11( cơ bản)” mà tôi đã trình bày
15


là một kinh nghiệm thực tiễn mà tôi đã áp dụng. Về cơ bản, đề tài đã bám sát
những nguyên tắc và mục tiêu dạy học Ngữ văn nói chung, nguyên tắc và mục
tiêu giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ văn nói riêng; đã vận dụng một số

phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực; đã xác định chính xác, rõ ràng những
kĩ năng sống tương ứng, phù hợp với bài học, với đối tượng học sinh và bước
đầu thu được những kết quả khả quan. Đề tài này là một kinh nghiệm cụ thể
trong một bài học cụ thể, song cũng có thể linh hoạt vận dụng các giải pháp đã
sử dụng để áp dụng cho những bài học khác một cách phù hợp.
Bản thân tôi trong quá trình thực hiện cũng đã rút ra được những bài học
quý về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong một giờ học Ngữ văn. Tôi nhận
thấy rằng, giáo dục kĩ năng sống không phải là việc làm ngày một ngày hai hay
chỉ qua một bài học đã có thể đạt được mục đích. Việc làm đó phải thường
xuyên, có hệ thống, khoa học và kiên trì. Người giáo viên phải nghiên cứu bài
học thật kĩ lưỡng để tìm kiếm phương pháp, cách thức phù hợp; phải thường
xuyên gắn bài học trong sách vở với bài học thực tiễn, cho học sinh được trải
nghiệm, khuyến khích các em được nói lên quan điểm cá nhân của mình…có
như vậy các kĩ năng sống mới được hình thành và rèn luyện dần dần để trở nên
thành thục.
3.2. Kiến nghị
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là yêu cầu cần thiết hiện nay song
thực tế tiến hành hoạt động giáo dục còn nhiều vấn đề chưa thực sự thuận lợi để
hoạt động này đạt hiệu quả tối ưu. Qua thực tiễn tiến hành đề tài này tôi nhận
thấy và mạnh dạn đề xuất, kiến nghị một số nội dung sau đây:
Thứ nhất: Đề nghị Sở GD-ĐT có thêm nhiều tài liệu và các đợt tập huấn cho
giáo viên về nội dung giáo dục kĩ năng sống. Có thể tổ chức các sân chơi, giao
lưu cho học sinh THPT nhằm giáo dục kĩ năng sống cho các em.
Thứ hai: Về phía nhà trường, tổ chuyên môn cũng cần tăng cường các buổi
sinh hoạt chuyên đề về nội dung giáo dục kĩ năng sống để giáo viên được trao
đổi kinh nghiệm nhiều hơn. Bên cạnh đó cũng cần trang bị thêm các cơ sở vật
chất, tạo thêm điều kiện học tập ( tư liệu, thiết bị hiện đại, thời gian, các hoạt
động ngoại khóa, ..vv.) để học sinh được thực hành, trải nghiệm, rèn luyện kĩ
năng sống.
Thứ ba: Với bản thân mỗi giáo viên, cần tự giác, tích cực học tập, nghiên

cứu, nâng cao hiểu biết và năng lực để có thể làm tốt nhiệm vụ giảng dạy kiến
thức và giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Trên đây là toàn bộ nội dung sáng kiến kinh nghiệm mà tôi đã nghiên cứu
và áp dụng tại đơn vị trong năm học vừa qua. Đề tài chắc chắn vẫn còn nhiều
thiếu sót nên rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý đồng nghiệp để đề
tài hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn !

16


XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 19 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Đinh Thị Vân

17


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT
VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Đinh Thị Vân
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường THPT Hậu Lộc 4


TT Tên đề tài SKKN

1.

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá Năm
học
giá xếp loại
xếp loại đánh giá xếp
(Phòng, Sở,
(A,
B, loại
Tỉnh...)
hoặc C)

Sử dụng sơ đồ tư duy góp
phần nâng cao hiệu quả dạy
Sở GD&ĐT C
đọc hiểu văn bản “Hai đứa
trẻ” – Ngữ văn 11 Cơ bản

2012 - 2013

18



×