Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT ngọc lặc thông qua các bài đọc hiểu tác phẩm văn học trung đại trong chương trình ngữ văn 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.3 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG ………………………………………………………… TRANG
I. MỞ ĐẦU ………….....………………………………………….........……… 1
1.1. Lí do chọn đề tài …………………………………………....……….. 1
1.2. Mục đích nghiên cứu …………………………......………….……….. 1
1.3. Đối tượng nghiên cứu .………………………........………………….. 2
1.4. Phương pháp nghiên cứu …………………….......…………...………. 2
II. NỘI DUNG ……………..………………….........….....………….…
………. 3
2.1. Cơ sở lí luận ….....……………………………………………………. 3
2.2. Thực trạng vấn đề ..………………………………………...………… 4
2.3. Những giải pháp đã áp dụng để giải quyết vấn đề …………………… 6
2.4. Hiệu quả của đề tài ..…………………………………...………
……… 18
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ …………………………............……..…….. 19
3.1. Kết luận ………………………………………….………....………...19
3.2. Kiến nghị ………………………………………………….………... 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………..….....………………….. 21


I. MỞ ĐẦU:
1.1. Lí do chọn đề tài:
Trong thời kì hội nhập quốc tế hiện nay kĩ năng sống (KNS) là yếu tố cần
thiết đối với mọi cá nhân, mọi thời đại. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ về các
lĩnh vực kinh tế, xã hội, quá trình hội nhập cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quá
trình hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ ngày nay.[9]
Trong nhiều năm qua tình trạng đạo đức của không ít thanh thiếu niên trong
đó có học sinh (HS) đang xuống cấp nghiêm trọng, nhiều vụ bạo lực học đường
xảy ra gây bức xúc trong xã hội, nguyên nhân chủ yếu là do các em thiếu KNS.
Xuất phát từ nhu cầu đó, năm học 2010-2011 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã
đưa giáo dục KNS vào giảng dạy trong chương trình học của HS để có thể trang


bị cho các em những KNS để thích ứng với xã hội hiện đại.
Qua bảy năm thực hiện, ta có thể khẳng định rằng: để nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, để tạo ra một thế hệ người có tri thức, có đạo đức, có bản
lĩnh trung thực, có tư duy sáng tạo…đáp ứng được sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế thì người giáo viên phải có phương pháp hướng
HS đến cách tiếp cận KNS.
Thực chất KNS đúng như UNESCO khi bàn về mục đích học tập đã đề
xướng: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để khẳng định mình”.
Bởi việc dạy học ngày nay không chỉ trang bị cho HS kiến thức mà còn phải
trang bị cho HS kĩ năng, thái độ phù hợp theo định hướng phát huy tính tích cực,
sáng tạo, chủ động của người học. Qua bài học hình thành cho các em những
hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực; loại bỏ những hành vi tiêu cực trong mọi
tình huống.[1]
Thực tế vẫn còn một số giáo viên quan niệm việc giáo dục KNS cho HS
thuộc các môn giáo dục công dân, sử, địa…hay đó là công tác chủ nhiệm, của
các tổ chức Đoàn, Hội…nên chưa thấy hết vai trò, vị trí giáo dục KNS cho HS
thông qua các bài học trên lớp.
Vì thế giáo dục KNS trong nhà trường thông qua dạy học các môn văn hóa,
trong đó có môn Ngữ văn là vô cùng cần thiết. Bởi Ngữ văn là một môn học về
khoa học xã hội và nhân văn, thông qua môn học giúp HS bồi dưỡng năng lực tư
duy, giàu cảm xúc, biết tự chủ trước cuộc sống, sống có bản lĩnh, dần hoàn thiện
nhân cách bản thân…Hơn nữa việc tích hợp KNS trong giảng dạy môn Ngữ văn
cũng giúp người học có kĩ năng làm việc nhóm, vận dụng kiến thức vào thực tế,
đem lại niềm say mê hứng thú cho người học.
Là một giáo viên dạy môn Ngữ văn ở trường THPT Ngọc Lặc hơn mười
năm tôi luôn mong muốn thông qua các bài học để giúp HS có được kĩ năng
thích ứng với cuộc sống mới, có năng lực ngôn ngữ để học tập, giao tiếp…Vì
vậy tôi tập trung tìm hiểu và thực hiện đề tài: Giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh THPT Ngọc Lặc thông qua các bài đọc - hiểu tác phẩm văn học trung
đại trong chương trình Ngữ văn 10.

1.2. Mục đích nghiên cứu:

1


Việc dạy học môn Ngữ văn trong giai đoạn hiện nay cần hướng đến tích
hợp kiến thức cho HS, trong đó giáo dục KNS vừa là mục tiêu vừa là một giải
pháp quan trọng nhằm thu hút tinh thần, thái độ của HS. Vì vậy người giáo viên
phải có phương pháp, kĩ thuật dạy học phù hợp nhằm phát huy tính chủ động,
sáng tạo trong học tập và rèn luyện KNS cho HS. Mục đích nghiên cứu của đề
tài: Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT Ngọc Lặc thông qua các bài
đọc - hiểu tác phẩm văn học trung đại trong chương trình Ngữ văn 10 là để
giúp cho các em học sinh lớp 10 đầu cấp THPT biết:
- Làm chủ bản thân, biết cách ứng phó trước những tình huống khó khăn
trong cuộc sống hàng ngày.
- Sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình và cộng đồng; có ý thức định
hướng nghề nghiệp.
- Qua các bài học có những suy nghĩ tích cực, tự tin, bản lĩnh và hành động
đúng đắn trong cuộc sống.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
* Các tác phẩm văn học trung đại trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 được
trích giảng bao gồm:
- Tỏ lòng (Thuật hoài) - Phạm Ngũ Lão.
- Nhàn - Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Độc Tiểu Thanh kí - Nguyễn Du.
- Phú sông Bạch Đằng - Trương Hán Siêu.
- Đại cáo bình Ngô - Nguyễn Trãi.
- Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn - Ngô Sĩ Liên.
- Các đoạn trích trong “Truyện Kiều” - Nguyễn Du.
Trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THPT Ngọc Lặc, tôi thấy

phần văn học trung đại lớp 10 HS rất khó tiếp cận nhưng nó lại là những bài học
răn dạy quý báu; không những thế nó còn là một kho kinh nghiệm sống nếu
người giáo viên biết cách khai thác hết các vấn đề mà tác giả gửi gắm cho người
đọc. Thông qua các bài đọc - hiểu văn học trung đại, HS không chỉ rút ra được
những bài học sâu sắc cho bản thân mà còn rèn luyện cho mình những KNS tốt
nhất để có thể tự tin, bản lĩnh, có cơ hội thể hiện tài năng, biết xử lí các tình
huống nhanh nhạy…
* Đối tượng là HS trường THPT Ngọc Lặc lớp 10A1, 10A7 năm học 2015-2016
và học sinh lớp 10A3, 10A5 năm học 2016-2017 và từ những kinh nghiệm của
bản thân đúc rút trong quá trình thực hiện đề tài khi giảng dạy môn Ngữ văn 10.
Đó là việc lồng ghép KNS trong bài dạy khiến HS tích cực, chủ động và bài học
vì thế cũng sôi nổi hơn so với cách dạy truyền thống.
* Giáo án thực nghiệm là bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
a. Nghiên cứu lí thuyết: Dựa trên cơ sở phân tích kinh nghiệm quốc tế và thực
trạng giáo dục KNS ở Việt Nam trong những năm qua bao gồm 21 kĩ năng cơ
bản. Theo quan điểm của tôi khi dạy KNS trong quá trình dạy văn cần phải đảm
bảo các bước sau:

2


- Thứ nhất: Giáo viên phải bám sát những mục tiêu giáo dục KNS; đồng thời
đảm bảo mạch kiến thức, kĩ năng trong bài dạy.
- Thứ hai: Tiếp cận giảng dạy KNS theo hai cách: nội dung và phương pháp dạy
học, trong đó chú ý phương pháp nhiều hơn. Nghĩa là thông qua nội dung và
phương pháp dạy học để giáo dục KNS cho HS chứ không phải tích hợp vào nội
dung bài dạy.[8]
- Thứ ba: Giáo dục KNS cho HS theo đặc trưng môn học đặc thù cần cả một quá
trình học tập, rèn luyện không ngừng mới có hiệu quả.

- Thứ tư: Tăng cường đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng các phương tiện
dạy học, đa dạng hóa hình thức hoạt động của HS trong tiết học để bài dạy sôi
nổi, đạt kết quả cao.
Như vậy ta có thể điểm qua những KNS cần thiết có trong giờ dạy môn
Ngữ văn như: Kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng kiểm soát
cảm xúc, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng thể hiện sự cảm thông,…
b. Nghiên cứu thực tiễn:
- Dự một số tiết dạy về văn học trung đại lớp 10 của đồng nghiệp.
- Thực nghiệm qua dạy hai lớp có trình độ ngang nhau, một lớp có lồng ghép
KNS, một lớp dạy kiến thức truyền thống. Sau đó so sánh, đối chiếu để rút ra kết
luận.
II. NỘI DUNG:
2.1. Cơ sở lí luận:
a. Quan niệm về KNS: Có nhiều quan niệm khác nhau khi nó gắn với bối cảnh
cụ thể, với một nền giáo dục nhất định.
- Theo WHO (1993) “Năng lực tâm lí xã hội là khả năng ứng phó một cách có
hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Đó cũng là khả năng
của cá nhân để duy trì một trạng thái khỏe mạnh về mặt tinh thần, biểu hiện qua
hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người khác, với nền văn hóa và
môi trường xung quanh. Năng lực tâm lí xã hội có vai trò quan trọng trong việc
phát huy sức khỏe theo nghĩa rộng nhất về mặt thể chất, tinh thần, xã hội. KNS
là khả năng thể hiện, thực thi năng lực tâm lí xã hội này”.
- Theo UNICEF: giáo dục dựa trên KNS cơ bản là sự thay đổi trong hành vi hay
một sự phát triển hành vi nhằm tạo một sự cân bằng giữa kiến thức, thái độ,
hành vi. Hiểu đơn giản đó là khả năng chuyển đổi kiến thức (phải làm gì) và thái
độ (ta đang nghĩ gì, cảm xúc như thế nào hay tin tưởng vào giá trị nào), thành
hành động (làm gì và làm như thế nào). Như vậy KNS chính là năng lực của mỗi
người giúp giải quyết những nhu cầu và thách thức trong cuộc sống một cách có
hiệu quả. Việc đưa giáo dục KNS trong nhà trường cho thấy mục tiêu giáo dục
trong thời kì mới chú trọng tính hữu dụng, thiết thực, tăng cường cho HS các kĩ

năng để có thể tạo nên một thế hệ con người mới năng động, tự tin, hội nhập
quốc tế thành công.[1], [7]
b. Vai trò quan trọng của việc giáo dục KNS cho học sinh:

3


- Thúc đẩy sự phát triển của cá nhân và xã hội vì không chỉ HS được học kiến
thức mà qua bài học HS còn học được kĩ năng xử lí các mối quan hệ với môi
trường xung quanh.
- Giáo dục KNS là yêu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ ngày nay. Trong nhiều
năm qua giáo dục chúng ta chủ yếu chỉ chú ý về kiến thức, nặng về thành tích
mà ít quan tâm đến sự phát triển và hoàn thiện nhân cách của HS. Thực tế chứng
minh học sinh THPT thiếu kĩ năng giao tiếp, kĩ năng sinh hoạt tập thể, kĩ năng
kiềm chế cảm xúc, kĩ năng cảm thông với người khác…
Việc giáo dục KNS sẽ góp phần giảm thiểu tình trạng bạo lực học đường,
nói tục, chửi bậy...Giáo dục KNS giúp HS vừa có kiến thức, vừa có cách sống
đẹp để thích ứng và hòa nhập với cuộc sống hiện đại, với thế giới. [1], [7]
c. Khi giáo dục kĩ năng sống người giáo viên phải dựa vào đặc điểm tâm
sinh lý lứa tuổi của học sinh.
Học sinh lớp 10 chỉ 15 - 16 tuổi, số ít 17 tuổi - là giai đoạn đầu thanh niên,
giai đoạn đạt sự trưởng thành về mặt cơ thể, tâm sinh lý dần đi vào ổn định. Đây
là lứa tuổi rất nhạy cảm với cái mới, có khả năng tiếp nhận cái mới nhanh nhạy.
Học sinh trường THPT Ngọc Lặc chủ yếu là người dân tộc thiểu số, đến trường
các em còn rất rụt rè, khi gọi lên bảng trả lời các em còn lúng túng, xấu hổ, chưa
có nhiều KNS cần thiết. Là người giáo viên chúng ta phải chú ý đến đặc điểm
tâm sinh lý lứa tuổi giúp HS vừa tích lũy kiến thức giao tiếp vừa hoạt động để
nhận ra mình là ai mà có hành vi, thái độ đúng đắn để bảo vệ mình và biết ứng
xử với mọi người, với môi trường xung quanh.
2.2. Thực trạng của vấn đề:

a. Thuận lợi:
- Trong quá trình giảng dạy nhiều giáo viên trường THPT Ngọc Lặc cũng đã
lồng ghép giáo dục KNS cho HS thông qua bài dạy, qua tiết sinh hoạt, hoạt động
ngoài giờ lên lớp, hoạt động ngoại khóa…
- Trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 10 về phần văn học trung đại các
tác giả biên soạn đã đưa những tác giả, tác phẩm văn học trung đại đặc sắc thể
hiện hai nội dung chủ yếu xuyên suốt là chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân
đạo rất gần gũi với cuộc sống hôm nay .
- Học sinh cơ bản cũng có những hiểu biết nhất định về KNS và đã có vận dụng
nó trong thực tế cuộc sống.
b. Khó khăn:
- Nhà trường, tổ chuyên môn, giáo viên cũng chưa tạo được môi trường thuận
lợi, thân thiện để có thể lồng ghép giáo dục KNS cho HS trong giảng dạy có
hiệu quả.
- Học sinh trường trung học phổ thông Ngọc Lặc - Thanh Hóa 85% là dân tộc
Mường, chủ yếu ở vùng kinh tế khó khăn, có nơi còn chưa có điện nước, đến
trường đi học đầy đủ là cả một vấn đề. Học sinh chưa được tiếp cận công nghệ
thông tin đầy đủ, va chạm với xã hội cũng chưa nhiều nên thiếu KNS. Khi kinh
tế còn thiếu thốn, việc truyền thụ kiến thức cho HS cũng là một thách thức thì
việc lồng ghép KNS vào bài học cũng là một khó khăn. Do là HS miền núi nên

4


khả năng thích ứng với xã hội hiện đại của các em còn chưa nhanh nhạy, một số
em còn chưa đọc và viết thông thạo tiếng Việt...
Hơn nữa nhiều HS không có hứng thú học văn khi môn này không có
nhiều ngành nghề để lựa chọn nên dẫn tới tình trạng HS không đầu tư nhiều vào
môn Văn, đặc biệt là giai đoạn văn học trung đại không thi tốt nghiệp và đại học
trong nhiều năm qua.

- Việc dạy học văn bản văn học trung đại đến nay vẫn là nỗi khốn khổ gây khó
khăn phiền toái cho người dạy lẫn người học. Hiểu được tác phẩm văn học trung
đại không dễ dàng, cái khó của người GV là phải truyền đạt được cái hay, cái
đẹp cho HS. Vì vậy việc lồng ghép dạy KNS cho HS thông qua các bài dạy văn
học trung đại lại càng khó khăn hơn. Vấn đề có nhiều nguyên nhân mà nguyên
nhân chủ yếu vẫn là rào cản ngôn ngữ bởi một số tác phẩm viết bằng ngôn ngữ
Hán hay chữ Nôm có phần xa lạ với ngôn ngữ tiếng Việt hiện đại hôm nay.
- Thêm vào đó là người tiếp nhận văn bản dù muốn hay không cũng phải có kiến
thức chắc chắn, ít nhiều hiểu rõ môi trường văn hóa trung đại, tư tưởng ý thức hệ
chính thống thời trung đại, điển cố, điển tích, thể loại văn học…Thế mà đối
tượng tiếp nhận ở đây là HS lớp 10 với vốn sống ít ỏi, khả năng ngôn ngữ chưa
hoàn thiện, vậy làm sao có thể cảm được cái hay, cái đẹp, hiểu được cách biểu
đạt “ý tại ngôn ngoại”của văn học trung đại mang tính bác học?.
- Hơn nữa, thời lượng diễn ra bài học chỉ có một hoặc hai tiết rất ngắn nên việc
lồng ghép KNS sẽ rất khó đối với giảng dạy nếu giáo viên không khéo léo hiệu
quả giờ dạy không cao.
c. Thống kê số liệu:
Năm học 2015 - 2016 của trường THPT Ngọc Lặc thông qua hai lớp dạy
10A1 và 10A7 có 82 học sinh tôi đã đưa một số câu hỏi điều tra sơ bộ KNS ở
HS và thu được kết quả như sau:
Câu 1: Qua một số giờ dạy hướng nghiệp của thầy cô giáo và qua thông tin đại
chúng em hiểu như thế nào là KNS?
- 40 em: không hiểu gì.
- 30 em: hiểu sơ sài.
- 12 em: hiểu đúng.
Câu 2: Trong thời đại hội nhập hiện nay Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chủ trương
lồng ghép KNS vào chương trình học của HS, trong đó có môn Văn. Điều đó là
vô cùng cần thiết. Ý kiến của em như thế nào?
- đồng ý hoàn toàn: 42 em.
- đồng ý một nửa: 28 em.

- không đồng ý: 6 em
- không có ý kiến gì: 6 em.
Từ số liệu thống kê được tôi nhận thấy các em HS luôn có nhu cầu mong
muốn được giáo viên ngoài giảng dạy còn truyền thụ cho các em có KNS.
Nhưng do nhiều yếu tố chủ quan lẫn khách quan các em chưa hiểu nhiều về khái
niệm này, việc vận dụng nó thì vô cùng ít ỏi [9].

5


Như vậy việc giảng dạy văn học trung đại trước hết nhằm giúp HS cảm thụ
các giá trị văn chương trong quá khứ; qua đó hình thành và củng cố cho HS
những hiểu biết, những cảm xúc về đất nước, con người, lịch sử Việt Nam thời
quá khứ. Qua việc dạy học tác phẩm văn học trung đại HS có cơ sở để so sánh
các văn bản thuộc nền văn học khác được giảng dạy trong chương trình.
2.3. Các giải pháp thực hiện:
a. Giải pháp 1: Nắm vững các KNS cơ bản được giáo dục trong mỗi bài học
Ngữ văn.
Mỗi tác phẩm đều có một KNS cơ bản, giáo viên cần căn cứ vào mục tiêu
cần đạt về kiến thức, kĩ năng, thái độ ở mỗi bài học để xác định, từ đó đưa ra các
KNS mà HS có thể vận dụng ngay trong bài dạy.[9]
Ví dụ: Khi học tác giả Nguyễn Trãi và “Bình Ngô Đại Cáo” yêu cầu cần đạt:
* Về kiến thức:
- Nắm được những nét chính về cuộc đời và sự nghiệp văn học của Nguyễn
Trãi - một nhân vật lịch sử, một danh nhân văn hóa.
- Thấy được vị trí to lớn của ông trong lịch sử văn học dân tộc: nhà văn
chính luận kiệt xuất, nhà thơ khai sáng văn học tiếng Việt...
- Tác phẩm “Bình Ngô Đại Cáo” được coi là “áng thiên cổ hùng văn” của
thời đại.
* Về kĩ năng: Rèn kĩ năng tìm ý, khái quát ý, tìm dẫn chứng phân tích, chứng

minh cho các nhận định.
* Về thái độ: Có lòng trân trọng di sản văn học, tài năng và nhân cách cao
thượng của Nguyễn Trãi.
Trên cơ sở đó giáo viên xác định các KNS cơ bản được giáo dục trong bài
học như sau:
+ suy nghĩ và sáng tạo: biết suy nghĩ, đánh giá, bình luận: niềm tự hào tự
tôn dân tộc, lòng yêu nước, đề cao vai trò vị trí của nhân dân trong đấu tranh giữ
nước và giữ nước.
+ giao tiếp: phải có lòng khoan dung, độ lượng, đoàn kết chiến đấu để bảo
vệ nền độc lập dân tộc.
+ ra quyết định: để có một cuộc sống yên bình, hạnh phúc mỗi người phải
biết đấu tranh, diệt trừ cái tàn bạo, xấu xa, độc ác trong xã hội.
+ tự nhận thức: thấy được sức mạnh đoàn kết dân tộc, lòng căm thù quân
xâm lược, tư tưởng nhân nghĩa, tầm nhìn xa trông rộng của người lãnh đạo…
+ tìm kiếm, lựa chọn: lồng ghép kiến thức lịch sử và tích hợp với bài thơ
“Thần” của Lí Thường Kiệt? hay “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh.
Như vậy việc nắm vững các KNS trong mỗi bài học Ngữ văn có thể sẽ giúp
giáo viên linh hoạt, lựa chọn các phương pháp dạy học phù hợp với từng đối
tượng HS và HS sẽ hứng thú hơn trong mỗi tiết dạy.
b. Giải pháp 2: Thực hiện tốt các hình thức hoạt động dạy học.
* Lồng ghép KNS thông qua cách giới thiệu bài: Mục đích là để bài học lôi
cuốn hơn tạo tâm thế hứng thú cho HS. Từ đó HS có thể rút ra các KNS cho
mình. [9]

6


Ví dụ 1: GV đưa một tình huống: khi đi trên đường hay nhìn thấy ảnh một
cô gái rất đẹp các em thường có cảm xúc gì?. Chắc chắn một số HS nam reo
lên: thích, thích. Sau đó giáo viên đưa một vài tư liệu ảnh nhân vật Thúy Kiều

trong Cảnh ngày xuân, hai chị em Thúy Kiều, Kiều gảy đàn…
+ HS dễ nhận ra: Thúy Kiều là một cô gái xinh đẹp, tài sắc.
+ GV giới thiệu tiếp: Nhưng dường như cuộc đời không ưu ái cho nàng
Kiều. Trong “Truyện Kiều” Thúy Kiều trải qua nhiều giai đoạn bi kịch đau đớn
khiến người người cảm động. Một trong những bi kịch đau khổ nhất của Kiều
đó là tình yêu tan vỡ. Ẩn trong đó ta còn thấy vẻ đẹp nhân cách của Kiều: trong
bi kịch nàng vẫn luôn nghĩ và hi sinh cho người khác. Ta sẽ tìm hiểu điều này
trong đoạn trích “Trao duyên”để thấy vẻ đẹp con người của Thúy Kiều mà
Nguyễn Du hết mực ca ngợi và bênh vực nàng nhé.
Ví dụ 2: Bên cạnh kiệt tác “Truyện Kiều” Nguyễn Du còn để lại cho văn
học dân tộc nhiều bài thơ chữ Hán có giá trị. Thơ của ông chứa chan tình cảm
nhân đạo, đặc biệt là khi viết về những người phụ nữ “tài hoa mà bạc mệnh” đó
là nàng Kiều, là người ca nữ đất Long Thành...Và đến “Độc Tiểu Thanh kí”
Nguyễn Du đã thể hiện niềm đồng cảm sâu sắc đối với tấn bi kịch số phận nàng
Tiểu Thanh - người có tài sắc vẹn toàn mà mệnh yểu. Nhớ đến, thương đến cố
nhân mà cũng chính là thương cho bản thân mình và những người nghệ sĩ. Nó
chính là sự khởi nguồn cho cảm hứng nhân văn cao cả của bài thơ. Hôm nay
chúng ta sẽ tìm hiểu bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” để hiểu những điều mà
Nguyễn Du muốn gửi gắm cho cuộc đời này nhé.
=> Qua các đoạn thơ, HS rút ra được bài học:
+ Con người sống phải biết yêu thương đồng loại, trân trọng những giá trị
tốt đẹp của cuộc sống, hãy đừng vô tình với nỗi đau của con người.
+ Khát vọng của người nghệ sĩ: khát khao được đồng cảm, được sẻ chia,
được thấu hiểu.
+ Liên hệ ngày nay: người nghệ sĩ - những con người đem lời ca tiếng hát
(những giá trị tinh thần) làm đẹp cho đời, xã hội đã có cái nhìn khác: họ được
trọng dụng, yêu thương, ca ngợi.
* Thảo luận nhóm: tổ chức thảo luận nhóm để HS trao đổi và học hỏi lẫn nhau
qua cách đặt câu hỏi. Thông qua hoạt động này không chỉ phát huy tính tích cực,
tính trách nhiệm mà còn phát triển kĩ năng hợp tác làm việc và kĩ năng giao tiếp

với HS.
Vì thế ở hình thức này giáo viên nên chú ý đến đối tượng HS không hay
phát biểu, tính rụt rè, thiếu tự tin...gọi lên trình bày đây cũng là một cách rèn
luyện thêm kỹ năng giao tiếp giúp các em nói năng lưu loát, tự tin hơn trước
đám đông.
Ví dụ: Khi học bài thơ Nhàn - Nguyễn Bỉnh Khiêm, em hiểu như thế nào là
“nơi vắng vẻ, chốn lao xao”?
+ HS trả lời: em hiểu nơi vắng vẻ là nơi ít người, chốn lao xao là chỗ đông
người.

7


Có HS khác trả lời “nơi vắng vẻ” là nơi vắng lặng, “chốn lao xao”là chốn
kinh thành.
+ GV nhận xét, điều chỉnh: Khi em trả lời em phải thưa gửi để thể hiện văn
hóa lễ độ, kính trọng thầy cô. Theo cô “nơi vắng vẻ” là nơi bình yên trong tự
nhiên, nơi thư thái trong tâm hồn; “chốn lao xao” là chốn đô hội cửa quyền, nơi
con người bon chen danh lợi, lắm âm mưu, nhiều sát phạt. Em thấy cách nói nào
hay?
Bằng cách đặt câu hỏi, lắng nghe và uốn nắn HS trong quá trình trả lời, GV
phần nào đã rèn luyện kỹ năng nói, kĩ năng lắng nghe cho HS qua các giờ học
văn.
* Thiết kế câu hỏi đảm bảo tính giáo dục để học sinh được làm và được trải
nghiệm.
Ví dụ 1: Trong “Nỗi thương mình” trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du,
muốn HS hiểu được nỗi đau khổ, tuyệt vọng của Thúy Kiều; từ đó rút ra bài học
bổ ích cho bản thân tôi thường đặt những câu hỏi sau:
Trong đoạn trích “Nỗi thương mình” tại sao trong 8 câu cuối tác giả lại tạo
dựng sự đối lập giữa bề ngoài với thực chất bên trong cuộc sống hiện tại của

Kiều? Từ đó em thấy được những phẩm chất nào của nàng Kiều trong đoạn
trích?
+ HS dễ dàng nhận ra: bề ngoài ở lầu xanh thì tao nhã, sang trọng nhưng
thực chất bên trong thì nhơ nhớp, tủi nhục, đầy đau đớn.
Từ đó HS thấy được: Dù sống trong lầu xanh nhưng Thúy Kiều vẫn luôn ý
thức cao về phẩm giá, tự thương mình cũng tức là nhân vật rất ý thức sâu sắc về
quyền sống cá nhân.
=> Như vậy, thông qua đoạn trích GV có thể lồng ghép giáo dục KNS:
+ Phải có con mắt nhìn đời, nhìn người cho đúng, đừng nhầm lẫn giữa hình
thức bề ngoài với nội dung bên trong.
+ Phải biết bảo vệ phẩm giá của mình, không nên đánh mất mình trong mọi
hoàn cảnh.
+ Ngoài ra các em còn bàn luận vấn đề, rút ra bài học: một số bạn trẻ ngày
nay vì đồng tiền mà bán rẻ nhân phẩm, danh dự của mình. Cần phải lên án, phê
phán, tránh xa.
Ví dụ 2: khi dạy học đoạn trích “Chí khí anh hùng” trích “Truyện Kiều”
của Nguyễn Du muốn HS hiểu được vẻ đẹp của người anh hùng Từ Hải, từ đó
rút ra bài học bổ ích cho bản thân tôi thường đặt câu hỏi: qua ngôn ngữ, hành
động, cử chỉ của Từ Hải khi chia tay Thúy Kiều ra đi vì nghĩa lớn em học tập
được gì từ phẩm chất của người anh hùng Từ Hải? Em phải làm gì để thể hiện
điều đó?
HS có thể rút ra bài học:
+ Sống có ước mơ, khát vọng, hoài bão vươn lên, khẳng định giá trị, năng
lực bản thân.
+ Dũng cảm, lạc quan, giàu ý chí, nghị lực.
+ Dám nghĩ, dám làm.

8



+ Phê phán lối sống ích kỉ, vô trách nhiệm, thiếu ý chí, nghị lực của một bộ
phận người trong xã hội ngày nay. [10]
* Lồng ghép KNS qua các chi tiết, hình ảnh, nội dung bài giảng:
Mỗi chi tiết, hình ảnh, nội dung của mỗi tác phẩm văn học đều chở trên
mình nó những giá trị thẩm mĩ và tư tưởng tác giả muốn gửi gắm tới người đọc
một thông điệp nào đó.
Ví dụ 1: Khi học bài “Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn” (trích Đại
Việt sử kí toàn thư) - Ngô Sĩ Liên thông qua những câu chuyện về Trần Quốc
Tuấn ta thấy được ông là người tài năng, mưu lược, trung quân ái quốc, có đức
độ lớn lao. Thông qua những phẩm chất cao đẹp của vị anh hùng dân tộc Trần
Quốc Tuấn, HS có thể rút ra những bài học đạo lí vô cùng quý báu:
- Làm người điều quan trọng nhất là phải luôn luôn bồi dưỡng cho mình
lòng yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí sẵn sàng xả thân vì độc
lập, tự do của tổ quốc.
- Làm người phải có tình yêu thương đối với nhân dân, trọng dân và lo cho
dân.
- Dù ở cương vị nào mỗi cá nhân cũng phải luôn biết lấy điều khiêm tốn
làm câu răn mình, không mảy may tư lợi.
- Trong gia đình, bậc làm cha mẹ phải là tấm gương, phải nghiêm khắc
nhưng cũng giàu tình thương trong giáo dục con cái.
Ví dụ 2: Trong đoạn trích “Trao duyên” ta thấy Thúy Kiều khi trao duyên
cho Thúy Vân dù đau đớn vì phải chia tay tình yêu với Kim Trọng nhưng nàng
vẫn lo cho chàng Kim, nhờ Vân nối duyên với chàng. Đó là một sự hi sinh cao
quý trong tình yêu.
Như vậy học đoạn trích, ta có thể lồng ghép KNS cho HS: đoạn thơ đã cho
ta một bài học về cho và nhận “sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình” (Tố Hữu).
Học sinh có thể bàn luận, rút ra bài học cho bản thân: nhiều bạn trẻ ngày
nay sống ích kỉ, vụ lợi trong tình yêu…cần phải có cách ứng xử đẹp, cao thượng
trong tình yêu. [10]
* Đóng vai nhân vật để xử lý tình huống:

Ví dụ: Khi học bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” - Nguyễn Du ở hai câu kết
ông đã hỏi hậu thế liệu 300 năm sau có ai sẽ khóc Tố Như, hiểu cho tấm lòng
của ông? “Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa/người đời ai khóc Tố Như chăng?”.
Nếu được trả lời cho câu hỏi của Nguyễn Du, theo các em trong bài học này em
sẽ nói với ông điều gì?
HS suy nghĩ, trả lời:
+ Không cần chờ 300 năm, vào năm 1965 Hội đồng hòa bình thế giới quyết
định kỉ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du và suy tôn ông là danh nhân văn hóa
nhân loại. Đó là một biểu hiện sự xác nhận công lao đóng góp của ông cho dân
tộc và nhân loại.
+ Không cần chờ 300 năm, Tố Hữu trong chuyến viếng thăm quê hương Hà
Tĩnh năm 1965 cũng có bài thơ “Kính gửi cụ Nguyễn Du”:
“Tiếng đàn xưa đứt ngang dây

9


Hai trăm năm lại càng say lòng người
Trải bao sóng dập gió dồi
Tấm lòng thơ vẫn tình đời thiết tha”.
+ Không cần chờ 300 năm, ngay trong bài học này các em cũng đang nhớ
đến ông, trân trọng sự nghiệp và tấm lòng nhân ái của ông.
HS suy nghĩ và trả lời sau khi xâm nhập vào đời sống nội tâm nhân vật, trải
nghiệm nỗi niềm tác giả tức là đã hình thành được kĩ năng thể hiện sự cảm thông
(đồng cảm với nỗi cô đơn của con người mong tìm thấy tri âm tri kỉ trong cuộc
đời). Ngoài ra HS còn rèn thêm cho mình kĩ năng giải quyết vấn đề có thể gặp
trong cuộc sống.
* Kết hợp dạy học trên lớp với các hình thức hoạt động ngoại khóa văn học
như thuyết trình về tác giả, tác phẩm văn học trung đại mà em yêu thích như
Nguyễn Trãi với “Bình ngô đại cáo”, Nguyễn Du với “truyện Kiều”... hay qua

các câu lạc bộ “em yêu văn học”. Hoặc trong giờ học, giờ sinh hoạt giáo viên có
thể tổ chức đố vui văn học bằng hình thức giống câu hỏi trắc nghiệm chọn đáp
án đúng.
Như vậy qua các hình thức hoạt động này, học sinh sẽ được rèn luyện thêm
nhiều KNS như kĩ năng giao tiếp, kĩ năng nhận thức, tư duy sáng tạo, lắng nghe
tích cực, cảm thông ...
b. Giải pháp 3: Lồng ghép kĩ năng sống qua các môn học khác:
- Lồng ghép qua các bài dạy tiếng Việt để giúp học sinh có kĩ năng giao
tiếp, kĩ năng tư duy, làm việc nhóm[9]…Ví dụ như bài Hoạt động giao tiếp
bằng ngôn ngữ, thực hành các phép tu từ…
- Lồng ghép với môn làm văn qua việc ra đề kiểm tra và lời nhận xét của
giáo viên. Qua bài kiểm tra HS không chỉ lĩnh hội kiến thức sách vở học được
mà các em còn trình bày những cảm nhận, suy nghĩ của mình về các vấn đề
trong cuộc sống. Và như vậy các em đã có sự trưởng thành hơn trong nhận thức
và tâm hồn mình qua các bài kiểm tra, đặc biệt là các đề nghị luận xã hội.
- Ngoài ra có thể tích hợp với môn học khác như lịch sử, địa lý, giáo dục
công dân.
Ví dụ: khi dạy bài “Phú Sông Bạch Đằng” - Trương Hán Siêu: thông qua
việc tái hiện lại không khí chiến thắng hào hùng của những trận đánh trên sông
Bạch Đằng tác giả đã thể hiện lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc của mình;
đồng thời thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp qua việc tác giả đề cao vai trò, vị
trí con người. Đọc trong đó ta còn thấy một cái tôi tác giả - có tâm hồn nhạy cảm
và tấm lòng ưu ái đối với đất nước, với lịch sử.
- Sau đó GV có thể lồng ghép KNS: ngày nay rất nhiều học sinh không
thích học môn lịch sử, đặc biệt là ít hiểu biết về truyền thống dựng nước và giữ
nước vẻ vang của dân tộc ta. Một số bạn trẻ còn thờ ơ với mọi người, với môi
trường tự nhiên xung quanh mình.
- Từ đó HS đưa ra cách ứng xử, hành động của bản thân trước thực trạng:
+ Mỗi cá nhân phải nuôi dưỡng không ngừng lòng tự hào, tự tôn dân tộc.


10


+ Phải tích lũy kiến thức lịch sử một cách nghiêm túc hơn, tìm thấy hứng
thú ở những câu chuyện nói về truyền thống hào hùng của cha ông.
+ Sống phải gần gũi, yêu quý cuộc sống tự nhiên xung quanh mình, phải
biết ơn quá khứ…
* Bài tập tổng kết sáng kiến kinh nghiệm.
Thiết kế giáo án thực nghiệm(1):[1], [2], [3], [4], [5]
NHÀN
Nguyễn Bỉnh Khiêm
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC:
1. Về kiến thức: Giúp HS
- Nguyễn Bỉnh Khiêm - một nhân cách thanh cao, chính trực; một nhân sĩ uyên
bác - là một nhà thơ lớn của văn học trung đại
- Triết lí Nhàn trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm (NBK) thể hiện cách sống thanh
cao, hòa hợp với tự nhiên và khinh thường danh lợi thể hiện qua những hình ảnh
thơ mộc mạc, bình dị.
2. Về kĩ năng:
- Rèn kĩ năng đọc hiểu thơ Nôm Đường luật, cách nêu vấn đề, phân tích, liên hệ,
biết bày tỏ quan điểm về lối sống được thể hiện qua bài thơ.
3. Về tư tưởng, thái độ:
- Hiểu được triết lí Nhàn của thời đại NBK sống là một cách ứng xử với xã hội
rối ren, tranh giành quyền lực và danh lợi.
- Thấy được những hạn chế của triết lí Nhàn trong cuộc sống hiện đại và cần
phải biết vận dụng triết lí này phù hợp với hoàn cảnh.
II. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN - HỌC SINH
1. Chuẩn bị của GV
- Về phương pháp: Vấn đáp, thuyết giảng, thảo luận nhóm, lược đồ tư duy,.
- Phương tiện dạy học: giáo án, SGK, SGV, máy chiếu...

2. Chuẩn bị của HS
GV hướng dẫn HS soạn bài ở nhà theo câu hỏi SGK và tìm hiểu thêm hoàn
cảnh xã hội, con người, tư tưởng và thơ văn NBK.
III. NỘI DUNG VÀ TIẾN TRÌNH GIỜ LÊN LỚP
1. Ổn định lớp
2. Kiểm tra bài cũ: Gọi 1-2 HS.
3. Dạy bài mới
GV tạo tâm thế: NBK không chỉ là một nhân vật lịch sử có tầm ảnh hưởng
trong suốt thế kỉ XVI đối với các tập đoàn phong kiến mà ông còn là một nhà
thơ lớn của dân tộc Việt Nam. Những vần thơ của ông mang đậm triết lí giáo
huấn, ngợi ca chí của kẻ sĩ, thú thanh nhàn, đồng thời cũng phê phán những điều
sống trong xã hội. Hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu một bài thơ Nôm của NBK để
hiểu hơn về ông - một nhân cách chính trực thanh cao, coi thường dành lợi
nhưng vẫn nặng lòng với thời cuộc với đất nước. Ta có thể coi bài thơ là một lời
1

Ghi chú:
- Giáo án thực nghiệm: Bài NHÀN - Nguyễn Bỉnh Khiêm, tác giả tham khảo từ TLTK số 1,2,3,4 và 5.

11


tâm sự sâu sắc của tác giả về quan niệm sống, khẳng định lối sống thanh nhàn,
hòa hợp với tự nhiên, giữ cốt cách thanh cao, không màng danh lợi.
Hoạt động của thầy và trò
Hoạt động 1: Tìm hiểu tác giả,
tác phẩm
* Câu hỏi: Qua tìm hiểu tiểu dẫn
cùng với những hiểu biết lịch sử
của mình, em hãy trình bày vài

nét về tác giả NBK?
* Giáo viên giảng (Kết hợp
chiếu slide)
* GV nhấn mạnh thêm: Trong
thời gian làm quan, ông dâng sớ
vạch tội và xin chém đầu 18 tên
lộng thần. Vua không nghe, ông
bèn cáo quan về quê, mở trường
dạy học. Ông có nhiều học trò
nổi tiếng, được suy tôn là Tuyết
Giang Phu Tử (Người thầy sông
Tuyết). Về quê ở ẩn nhưng các
vua chúa vẫn gặp ông để xin kế
sách.
* Câu hỏi: Bài thơ Nhàn ra đời
trong hoàn cảnh nào, bối cảnh xã
hội ra sao? Bài thơ thể hiện quan
điểm sống như thế nào của
NBK?
* HS căn cứ vào tiểu dẫn để trả
lời
- GV yêu cầu HS đọc thơ: Yêu
cầu đọc sáng tạo: thong thả, chú
ý ngắt nhịp.
Câu hỏi: Em hiểu thế nào là
Nhàn?
* GV nói thêm: Quan niệm Nhàn
trong Nho giáo là phép ứng xử
với thời loạn của giới Nho sĩ, bất
hợp tác với chính quyền thời

loạn.

Kiến thức cần đạt
I. Tìm hiểu tiểu dẫn:
1. Tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 1585): hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ, Trạng
Trình, hay Tuyết Giang Phu Tử.
- Xuất thận từ gia đình trí thức phong kiến,
được hưởng một quá trình giáo dục đầy đủ
và bài bản.
- Có cuộc đời từng trải, chứng kiến nhiều
biến cố bão táp của thời đại.
- Ông là người có học vấn uyên thâm,
thanh cao, chính trực, luôn nặng lòng với
thời cuộc, với đất nước.
- Là nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ ông
mang chủ đề triết lí, giáo huấn, thế sự.

2. Tác phẩm
- Viết bằng chữ Nôm, thuộc Bạch Vân
quốc ngữ thi tập, bài số 73 - Nhan đề do
người đời sau đặt.
- Thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật.
- Hoàn cảnh sáng tác: Khi NBK về ở ẩn.
- Chủ đề: triết lí Nhàn
+ Nhàn: Nhàn là có ít hoặc không có việc
gì phải làm, phải lo nghĩ đến.
+ Tư tưởng “nhàn” trong thơ trung đại Việt
Nam được thể hiện qua cách xuất - xử;
hành - tàng của tầng lớp Nho sĩ trước thời
cuộc, họ thường gửi gắm vào thiên nhiên

tâm sự của bản thân về thế sự.
→ Trong thơ NBK, Nhàn là một nội dung
lớn đồng thời là triết lí sống phổ biến của
tầng lớp nho sĩ thế kỉ XVI.

* GV yêu cầu một số HS nêu bố * Bố cục, nội dung:
cục bài thơ theo ý kiến cá nhân
12


Hoạt động của thầy và trò

Kiến thức cần đạt
Vẻ đẹp chân dung NBK
Vẻ đẹp cuộc sống
nơi Bạch Vân am
của NBK (Câu
1,2,5,6)

* Hoạt động 2: Tìm hiểu chi
tiết văn bản (Trao đổi, thảo
luận chung)
Câu hỏi: Cách dùng số từ, danh
từ trong câu thơ thứ nhất và nhịp
điệu trong hai câu thơ đầu có gì
đáng chú ý.
Từ đó em cảm nhận như thế nào
về hoàn cảnh và cuộc sống của
tác giả?
HS trả lời, GV chốt ý:


Vẻ đẹp nhân cách
trí tuệ NBK (Câu
3,4,7,8)

Triết lí sống nhàn của NBK
II. Đọc hiểu:
1. Vẻ đẹp cuộc sống ở Bạch Vân am của
NBK (Đề, thực)
a. Hai câu đề:
- Câu 1: Một mai, một cuốc, một cần câu
gợi liên tưởng tới hình ảnh : Ngư - tiều canh - mục => trở về với cuộc sống thuần
hậu chất phác của một lão nông tri điền đào
giếng lấy nước uống và cày ruộng lấy cơm
ăn..
+ Sử dụng thủ pháp liệt kê: mai, cuốc, cần
câu.
+ Điệp từ: một
+ Nhịp thơ 2/2/3
=> Tác giả sử dụng kết hợp khéo léo thủ
pháp liệt kê các dụng cụ lao động cùng với
điệp từ “một”và nhịp thơ 2/2/3 cho thấy
cuộc sống nơi thôn dã cái gì cũng có, tất cả
đã sẵn sàng. Các vật dụng gắn liền với
công việc lấm láp, vất vả của người nông
dân đi vào thơ NBK một cách tự nhiên, thư
thái như chính tâm hồn của nhà thơ.
- Câu 2:
+ Từ láy: thơ thẩn
+ Cụm từ: Dầu ai vui thú nào

=> Cuộc sống ung dung tự tại. Lối sống vui
thú điền viên, an nhiên tự tại.Tự mình lựa
chọn cho mình một lối sống, một cách sống
kệ ai có những thú riêng, âu đó cũng là bản
lĩnh của kẻ sĩ trước thời cuộc.
=> Triết lí sống nhàn: Nhàn là tận hưởng
niềm vui trong lối sống, trong cách sinh
hoạt, lao động nhẹ nhàng nơi thôn quê tuy
13


Hoạt động của thầy và trò
Câu hỏi: Em hiểu thế nào nơi
vắng vẻ - chốn lao xao? Từ đó
em hiểu thế về cách nói: Ta dại
ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn,
người đến chốn lao xao?
Gợi ý: HS giải nghĩa hai từ Vắng
vẻ và lao xao

Kiến thức cần đạt
bình dị mà thanh cao, hòa hợp giữa tự
nhiên và con người.
b. Hai câu thực:
- Thủ pháp đối lập và cách nói ẩn dụ.
+ Ta dại ↔ Người khôn
+ Nơi vắng vẻ ↔ chốn lao xao → hình ảnh
ẩn dụ: Nơi vắng vẻ là nơi tĩnh tại của thiên
nhiên, nơi tâm hồn tìm thấy sự thảnh thơi;
chốn lao xao là nơi quan trường, nơi bon

chen quyền lực và danh lợi.
=> Phác hoạ hình ảnh về lối sống của hai
kiểu người Dại - Khôn → triết lí về Dại Khôn của cuộc đời cũng là cách hành xử
của tầng lớp nho sĩ thời bấy giờ. Đây là
cách nói ngược, hóm hỉnh, thâm trầm mà ý
vị.
Nhận xét: Trong cuộc sống hàng ngày, với
NBK, lối sống Nhàn là hoà hợp với đời
sống lao động bình dị, an nhiên vui vẻ
tránh xa vòng danh lợi, bon chen chốn vinh
hoa, phú quý.
2. Quan niệm sống và vẻ đẹp nhân cách
của nhà thơ (luận, kết).
a. Hai câu luận:
- Hình ảnh thiên nhiên: bốn mùa tuần hoàn
Xuân - Hạ - Thu - Đông.
- Món ăn dân dã: măng trúc, giá đỗ.
- Sinh hoạt: tắm hồ sen, tắm ao.
=> phép đối + liệt kê tạo âm hưởng thư
thái, tận hưởng cuộc sống tự nhiên.
Lối sống hoà hợp, thuận theo tự nhiên.

Câu hỏi: Em thử cho biết những
hình ảnh về sự vật nào được xuất
hiện, những sự vật và hình ảnh
đó gợi cho em cảm nhận như thế
nào về cách sống của nhà thơ?
Nhàn là “Thu ăn măng trúc đông
ăn giá”, mùa nào thức nấy.
Những sản vật không phải cao

lương mĩ vị mà đậm màu sắc
thôn quê. Ngay cả việc ăn uống,
tắm táp, làm lụng … đã trở thành
nhàn trong cái nhìn của NBK.
Để có được sự an nhiên, tĩnh tại
trong tâm hồn như vậy phải là
một người có nhận thức sâu sắc
của cuộc đời. Bởi vậy mà ông
hướng đến lối sống thanh bạch,
giản dị, thuận theo tự nhiên
* HS đọc chú thích trong sách b. Hai câu kết:
giáo khoa về điển tích và trả lời + Điển tích: Rượu đến cội cây, sẽ uống,
câu hỏi.
Phú quý tựa chiêm bao

14


Hoạt động của thầy và trò
- Tác giả mượn điển tích của
người xưa để nói điều mình suy
nghĩ và đây là thủ pháp quen
thuộc của văn học trung đại.
NBK coi công danh phú quý tựa
như giấc chiêm bao, giống như
phù du vậy. Khi thể hiện quan
điểm của mình, NBK lựa chọn
mình thế đứng bên ngoài của sự
cám dỗ danh lợi, vinh hoa - phú
quý, bộc lộ thái độ xem thường.

Câu hỏi: Cả bài thơ là triết lí,
suy nghĩ của Bạch Vân cư sĩ về
chữ Nhàn. Căn cứ vào những
hiểu biết về thời đại cũng như về
NBK, em hãy cho biết do đâu mà
ông lựa chọn lối sống Nhàn?
GV: Từ Nguyễn Trãi cho đến
NBK đều tìm về cuộc sống thanh
đạm, hoà hợp với tự nhiên, nhàn
thân nhưng không nhàn tâm. Tuy
gắn bó, hoà mình với cuộc sống
nơi thôn dã nhưng xét đến cùng
ông vẫn đầy trăn trở trong lòng
về thời cuộc rối ren, về việc con
người dễ sa ngã vào vòng danh
lợi. Nhàn là lối sống tích cực, là
thái độ của giới trí thức thời
NBK với thời cuộc để cố gắng
giữ mình trong sạch, không bị
cuốn vào vòng đấu giành quyền
lực của các tập đoàn phong kiến.
Triết lý “nhàn dật” của NBK với
hạt nhân “vô sự” chưa phải là
giải pháp tối ưu để định hướng
cho xã hội phát triển và đó cũng
không phải là lối thoát của xã hội
phong kiến Việt Nam thế kỉ XVI.
Tuy nhiên, triết lý ấy đã thể hiện
được nỗ lực cứu vãn xã hội của
tầng lớp trí thức đương thời. Đó

là điều đáng trân trọng.

Kiến thức cần đạt
+ Nhìn xem: biểu hiện thế đứng từ bên
ngoài, coi thường danh lợi.
=> Khẳng định lối sống mà mình đã chủ
động lựa chọn, đứng ngoài vòng cám dỗ
của vinh hoa phú quý.
=> NBK cảm thấy an nhiên, vui vẻ bởi thi
sĩ được hoà hợp với tự nhiên, thuận theo tự
nhiên để di dưỡng tinh thần; đồng thời giữ
được cốt cách thanh cao, không bị cuốn
vào vòng danh lợi tầm thường.
GV bình luận, bổ sung: Từ việc lựa chọn
cho mình một cuộc sống bình dị hàng ngày,
không vướng bận những bon chen, ganh
đua danh lợi, NBK còn thể hiện quan niệm
sống thảnh thơi, an nhiên tự tại qua bốn câu
thơ cuối để từ đó toát lên vẻ đẹp nhân cách
của nhà thơ.
Tuy nhiên, dường như ta vẫn có cảm giác
hình như ẩn sau cái vẻ thư thái sẵn sàng với
mọi việc ruộng đồng của nhà nông ấy, còn
có một chút gì hụt hẫng, mất mát của nhân
vật trữ tình. Soi vào cuộc đời và thời đại
mà NBK sống, ta cảm nhận được việc ông
về ở ẩn là cực chẳng đã, là giới hạn cuối
cùng. NBK đã từng là ẩn sĩ trước khi làm
quan, năm 44 tuổi mới đi thi đỗ trạng
nguyên triều Mạc nhưng chỉ làm quan 8

năm sau khi dâng sớ chém 18 tên lộng thần
không được ông mới một lần nữa về ở ẩn.
Do vậy, NBK ở ẩn nhưng thực không ẩn.
Vì các vua chúa phong kiến vẫn không
ngừng đến gặp ông xin kế sách. Không
phải vô cớ mà ông “khoe” cảnh điền viên
ruộng vườn. Rõ là bề ngoài vui với cuộc
sống nơi thôn dã nhưng trong lòng ông vẫn
lo cho dân, cho nước..
* Về nghệ thuật: Sử dụng điển tích, điệp từ
và đối tài tình; ngôn ngữ hàm súc ý vị,
thâm trầm, giàu chất triết lí.

15


Hoạt động của thầy và trò
* Hoạt động 3: Tổng kết bài
học
Câu hỏi: Em hãy nêu giá trị nội
dung và nghệ thuật bài thơ?
Giáo viên yêu cầu học sinh đọc
ghi nhớ sách giáo khoa và chiếu
slide chốt ý.

Kiến thức cần đạt
III. Tổng kết
- Về nội dung: Khẳng định quan niệm sống
Nhàn hoà hợp với tự nhiên và giữ được cốt
cách thanh cao, thoát khỏi vòng danh lợi.

- Về nghệ thuật: Nhịp thơ chậm, thong thả,
ngắt nhịp linh hoạt. Lời thơ mộc mạc, tự
nhiên, thâm trầm, nhiều ẩn ý. Có sự kết
hợp giữa chất trữ tình và chất triết lí.
Bài học rút ra:
+ Quan niệm sống đề cao vẻ đẹp tâm hồn,
có lối sống trong sạch.
+ Hãy thân thiện, gắn bó với thiên nhiên.
+ Trong mọi lúc, mọi nơi hãy sống và cống
hiến hết mình, không đặt nặng danh lợi hay
vì danh lợi mà đánh mất mình.

- Em hãy rút ra bài học khi đọc hiểu xong bài thơ Nhàn?
- Ngoài ra, GV có thể lồng
ghép giáo dục HS bảo vệ môi
trường. HS dễ dàng nhận thấy
được: Thiên nhiên và con người
vốn luôn gắn bó mật thiết với
nhau. Sống tuân theo lẽ tự nhiên,
tôn trọng quy luật của tự nhiên
tức là trân trọng môi trường sống
và yêu quý sự sống của chính
mình vậy. Bằng những hành
động cụ thể, chúng ta cần phải
giữ gìn môi trường sống xung
quanh.
IV. Hoạt động 4: Củng cố, dặn dò:
1. GV cho bài tập trắc nghiệm để HS củng cố lại bài học: HS nắm được vẻ
đẹp chân dung NBK và phong cách thơ ông.
Chọn câu trả lời đúng:

Câu 1: Số từ "một" trong câu thơ đầu bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm có
ý nghĩa gì?
A. Nhằm kể ra công cụ lao động quá thô sơ, ít ỏi.
B. Cho thấy nhu cầu cuộc sống của tác giả thật khiêm tốn, đồng thời thể hiện
trạng thái ung dung trong lao động di dưỡng tinh thần hàng ngày.
C. Là sự tính đếm rành rọt cho thấy tác giả đã chuẩn bị tất cả, sẵn sàng đón nhận
một cuộc sống lao động thanh bần ở nông thôn.
D. Nhằm thể hiện đời sống nghèo nàn của nhà thơ.
Câu 2: Nội dung của bài thơ “Nhàn” là gì?
A. Ca ngợi cuộc sống thanh nhàn.
B. Thể hiện vẻ đẹp nhân cách và trí tuệ của tác giả.
C. Cả A và B.

16


Câu 3: Bài thơ Nhàn không thể hiện triết lý nhân sinh nào của Nguyễn Bỉnh
Khiêm?
A. Sống gần gũi, hòa với tự nhiên.
B. Sống an nhàn, trong sạch.
C. Sống ẩn dật, không màng danh lợi. D. Sống vô tư, không suy nghĩ việc đời.
Câu 4: Nội dung chữ “ nhàn” trong quan niệm của tác giả là gì?
A. Tránh xa sự vất vả, cực nhọc về thể chất.
B. Xa lánh nơi quyền quý, về với tự nhiên để di dưỡng tinh thần.
C. Quay lưng với xã hội để bản thân được nhàn tản.
D. Cả ba ý trên.
Câu 5: Dòng nào dưới đây nhận xét đúng nhất về ngôn ngữ của bài thơ Nhàn
của Nguyễn Bỉnh Khiêm?
A. Mang tính chân thực.
B. Giàu tính triết lí.

C. Tự nhiên, giản dị, giàu ý vị.
D. Trau chuốt, cầu kì.
Đáp án: 1- B; 2- C; 3- D; 4- D; 5- B.
2. Chuẩn bị bài: Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt.
3. Bài tập về nhà:
Hướng dẫn ôn tập
Câu 1: Câu hỏi nâng cao: Cách hiểu của em về
quan niệm sống của NBK, đó là quan niệm sống
tích cực hay tiêu cực? Quan niệm sống nhàn của em - HS động não, suy
trong hoàn cảnh hiện nay?
nghĩ: Về vẻ đẹp của lối
Câu 2: Triết lí Nhàn của NBK là một phép ứng xử sống nhàn, về cách sống
trước thời thế để giữ tròn thanh danh của tầng lớp phù hợp và cần thiết đối
Nho sĩ thế kỉ XVI-XVII. Em có suy nghĩ như thế với mỗi người trong
nào về triết lí Nhàn đặt trong hoàn cảnh thời đại cuộc sống hôm nay.
ngày nay?
GV định hướng HS:
Câu 1: Quan niệm sống của NBK là sống vui thú với lao động, hòa hợp với
thiên nhiên, giữ cốt cách thanh cao, xa lánh vòng danh lợi, vinh hoa phú quý.
* Lối sống đó có mặt tích cực nhưng cũng có mặt tiêu cực.
- Tích cực: Không ủng hộ những thế lực xấu và thói xấu trong xã hội, luôn giữ
mình trong sạch.
- Tiêu cực: xa lánh, thoát li cuộc sống hiện thực, không dân thân để góp phần
làm cho cuộc sống tốt đẹp, trong lành hơn.
* Quan niệm sống nhàn của em trong hoàn cảnh hiện nay: có thời gian rảnh rỗi
để thư giãn, sống chậm lại, làm điều mình thích sau khoảng thời gian bận rộn
của công việc, học tập. Nhàn là luôn giữ cho mình một tâm hồn thanh cao, trong
sạch, làm việc và cống hiến hết mình, sống không tranh đua.
Câu 2: GV gợi ý: Triết lí sống nhàn trong thời điểm hiện nay, có thể chia thành
hai mặt: Cái nhàn trong thể xác và cái nhàn trong tâm hồn. Mỗi mặt lại tách ra

phần tích cực và tiêu cực để từ đó ta tìm ra cách ứng xử đúng đắn, phù hợp với
thời đại.[10]
V. Rút kinh nghiệm giờ dạy:
17


Bố cục bài thơ khi chia như vậy thực sự cũng chưa hợp lí. Nhưng nếu chia
theo bố cục một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật: đề - thực - luận - kết cũng
không ổn. Nhưng dù chia thế nào ta thấy được quan niệm về lối sống nhàn và
qua đó thấy được bức chân dung tâm hồn, trí tuệ và nhân cách của NBK.
2.4. Hiệu quả của đề tài:
Năm học 2016 - 2017 tôi được nhà trường, tổ phân công dạy môn Ngữ
văn khối 10, tôi đã áp dụng kinh nghiệm này trong quá trình giảng dạy và đạt
được một số thành công nhất định. Kết quả khảo sát trước và sau khi áp dụng
sáng kiến kinh nghiệm tại trường THPT Ngọc Lặc như sau:
* Chất lượng giáo dục KNS:
- Kết quả khi chưa áp dụng SKKN:

Lớp

Tổng
HS

Chưa biết
KNS

Nhận biết được
Vận dụng các
Hiểu các KNS
KNS

KNS

Số
lượng

Tỉ lệ

Số
lượng

Tỉ lệ

Số
lượng

Tỉ lệ

Số
lượng

Tỉ lệ

10A3

40

4

10%


12

30%

16

40%

8

20%

10A5

45

5

11,1%

20

44,5%

13

28,9%

7


15,5%

- Kết quả sau khi áp dụng SKKN:

Lớp

Tổng
HS

Chưa biết Nhận biết được
Vận dụng các
Hiểu các KNS
KNS
KNS
KNS
Số
Số
Tỉ lệ
lượng
lượng

Tỉ lệ

Số
lượng

Tỉ lệ

Số
lượng


Tỉ lệ

10A3

40

0

0%

5

12,5%

8

20%

27

67,5%

10A5

45

0

0%


10

22,2%

7

15,5%

28

62,3%

18


* Kết quả kiểm tra, đánh giá KNS:
- Kết quả khảo sát khi chưa áp dụng SKKN:
Giỏi

Lớp

Tổng
HS

10A3

40

2


5%

10A5

45

1

2,2%

Khá

Số
Số
Tỉ lệ
lượng
lượng

TB

Yếu

Tỉ lệ

Số
lượng

Tỉ lệ


Số
lượng

Tỉ lệ

10

25%

26

65%

2

5%

8

17,8%

33

73,4%

3

6,6%

- Kết quả khảo sát sau khi áp dụng SKKN:

Giỏi

Lớp

Tổng
HS

10A3

40

6

15%

10A5

45

4

8,9%

Khá

Số
Số
Tỉ lệ
lượng
lượng


TB

Yếu

Tỉ lệ

Số
lượng

Tỉ lệ

Số
lượng

Tỉ lệ

19

47,5%

14

35%

1

2,5%

18


40%

22

48,8%

1

2,3%

Như vậy quan sát bảng khảo sát trên của hai lớp 10A3, 10A5 khi chưa áp
dụng SKKN các em mới chỉ dừng ở việc hiểu và nhận biết một số KNS, việc
vận dụng chúng vào thực tế cuộc sống còn rất ít ỏi. Chính vì thế kết quả học tập
của HS chưa cao; chủ yếu đạt điểm trung bình, khá, giỏi ít. Điều đó chứng tỏ HS
chưa nhận thức được ý nghĩa giáo dục KNS thông qua các bài học tác phẩm văn
học trung đại Việt Nam.
So sánh kết quả khảo sát khi áp dụng đề tài này, tôi thấy các em không chỉ
nhận biết được các KNS cơ bản mà còn hiểu và áp dụng các kĩ năng đã học vào
thực tế. Chất lượng học tập của HS với các văn bản Văn học trung đại vì thế có
nhiều tiến bộ rõ rệt. Điểm khá, giỏi tăng lên, các em hứng thú hơn trong bài học.
Điều đó chứng tỏ HS đã nhận thức rõ vai trò quan trọng của việc giáo dục KNS
thông qua các tác phẩm văn học là vô cùng cần thiết.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
3.1. Kết luận:
Việc giáo dục KNS cho HS thông qua các giờ đọc văn là vô cùng cần thiết để
đáp ứng yêu cầu đổi mới của giáo dục phổ thông. Để những bài giảng luân lí,
đạo đức của văn học trung đại lớp 10 đi vào lòng người một cách tự nhiên khiến
bài học không còn khô khan, thiết nghĩ người giáo viên ngoài kiến thức vững
vàng, kinh nghiệm cần có kĩ năng, phương pháp giúp HS thay đổi cách học, có

thái độ đúng đắn với môn Ngữ văn và có thể vận dụng các KNS trong thực tế
một cách hiệu quả.
3.2. Kiến nghị:

19


- Đề nghị các cấp trên cần mở rộng và thường xuyên nhiều hơn nữa các cuộc hội
thảo chuyên đề về việc tích hợp KNS trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn để
giáo viên được học hỏi, trao đổi kinh nghiệm.
- Về phía nhà trường: Cần có nhiều tài liệu về KNS, tăng cường thêm nhiều đầu
sách văn học trung đại để giáo viên và học sinh có nhiều tài liệu nghiên cứu,
tham khảo.
- Về phía tổ chuyên môn: trong sinh hoạt chuyên môn cần thường xuyên đưa
những bài học có tích hợp giáo dục KNS để giáo viên trong tổ thảo luận, góp ý.
Tổ chuyên môn cần tổ chức nhiều sân chơi văn học bổ ích qua các câu lạc bộ
“Em yêu Văn học”, tổ chức các hoạt động ngoại khóa hay lồng ghép các KNS
qua các nội dung, chủ đề, chủ điểm năm học.
- Về phía phụ huynh, HS: Cần quan tâm, giáo dục ý thức học tập của HS khi học
bài và chuẩn bị ở nhà; có thái độ học tập nghiêm túc, tích cực đối với môn Ngữ
văn để có thể vận dụng KNS trong giao tiếp hàng ngày.
Trên đây là đề tài: Giáo dục KNS cho HS tại trường THPT Ngọc Lặc thông
qua các bài đọc - hiểu tác phẩm văn học trung đại Ngữ văn 10 của tôi, tôi đã
đưa ra một vài định hướng, trong phạm vi của đề tài chắc chắn khó tránh khỏi
những sai sót. Tôi rất mong được sự góp ý chân thành của các bạn đồng nghiệp
để hoàn thiện mình hơn khi dạy phần văn học trung đại trong chương trình đạt
hiệu quả.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ


Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác
Người viết

Ngô Thị Thanh

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ Văn ở trường THPT, Nhiều tác
giả, Nxb Giáo dục, 2010.
[2]. Sách giáo khoa Ngữ Văn 10 - tập 1 và 2, Nhiều tác giả, Nxb Giáo dục,
2006.
[3]. Sách giáo viên Ngữ Văn 10 - tập 1 và 2, Nhiều tác giả, Nxb Giáo dục,
2006.
[4]. Thiết kế bài giảng ngữ văn 10 Nâng cao - tập 1 và 2, Nguyễn Văn
Đường (chủ biên), Nxb Hà Nội, 2006.
[5]. Dạy học theo Chuẩn kiến thức kĩ năng môn Ngữ văn 10 - Tác giả: Phan
Trọng Luận (Chủ biên), Nxb ĐHSP, 2010.
[6]. Mô đun THPT 35 “Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trung học phổ
thông” của Bộ giáo dục và Đào tạo.
[7]. SKKN “Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua một số phương pháp
dạy học tích cực trong chương trình Ngữ Văn lớp 10 trung học phổ thông” - Tác
giả: Nguyễn Quỳnh Anh, 2012.
[8]. Một số vấn đề dạy kĩ năng sống trong môn ngữ văn - Tác giả: Lưu Thị
Thu Hương, , 2017
[9]. SKKN “Lồng ghép KNS trong giảng dạy Ngữ văn ở trường THPT” Tác giả: Nguyễn Thị Kim Hoa, 2012.

[10]. Tham khảo một số tài liệu trên mạng Internet.
-
-
-

21



×