Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tích hợp giáo dục giá trị sống và rèn luyện kỉ năng sống thông qua dạy học môn sinh học ở trường THPT nguyễn thị lợi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.53 KB, 31 trang )

MỤC LỤC

Trang

A - MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Xuất phát từ sự cần thiết giáo dục giá trị sống và rèn luyện kỹ năng sống ở
trường phổ thông ...................................................................................... 2
2. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp giáo dục phổ thông .............. 2
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ............................................................................ 3
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ....................................... 3
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................................................... 3
B – NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận................................................................................................ 4
2. Cơ sở thực tiễn .......................................................................................... 6
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ (THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI SKKN)
1. Đặc điểm và thực trạng sử dụng sách giáo khoa Sinh học trong hoạt động dạy
học ............................................................................................................. 6
2. Vấn đề lồng ghép giáo dục giá trị sống và rèn luyện kĩ năng sống trong dạy
học Sinh học .............................................................................................. 6
3. Nguyên nhân của thực trạng ........................................................................ 7
4. Đưa giáo dục giá trị sống và rèn luyện kỹ năng sống vào giờ học bộ môn.. 7
III. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Các nguyên tắc tích hợp giáo dục giá trị sống và rèn luyện kĩ năng sống ... 8
2. Phương pháp tích hợp giáo dục giá trị sống và rèn luyện kĩ năng sống ...... 9
III. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
1. Nội dung thực nghiệm sư phạm …………………………………………. 18
2. Kết quả thực nghiệm sư phạm .................................................................... 18
C - KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận ...................................................................................................... 21


2. Đề xuất ....................................................................................................... 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................... ............................................... 23
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 24

1


A - MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Xuất phát từ sự cần thiết giáo dục giá trị sống và rèn
luyện kỹ năng sống ở trường phổ thông
Giáo dục giá trị sống và rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh là một trong
năm nội dung được Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai khi thực hiện phong trào
thi đua xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” đối với các trường
trung học phổ thông nói chung và trường THPT Nguyễn Thị Lợi nói riêng.
Trong những năm học qua thầy và trò trường THPT Nguyễn Thị Lợi đã cụ thể
hóa việc rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh một cách toàn diện và đa dạng.
Trong cuộc sống hiện nay, học sinh trung học phổ thông đang phải đối mặt
với biết bao thách thức và nguy cơ: lối sống vô tâm, ích kỷ, khép mình, xu
hướng gia tăng về bạo lực học đường, dễ sa ngã trước những cám dỗ của đồng
tiền, lối sống không lành mạnh, nhiều tệ nạn xã hội... Hơn thế nữa trong nền
kinh tế tri thức, cuộc sống hiện đại (về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, khoa
học kĩ thuật, môi trường khí hậu,... ) vận động hết sức khẩn trương và chứa đựng
nhiều yếu tố khôn lường đòi hỏi thế hệ trẻ là người dân tộc không chỉ làm chủ tri
thức, rút ngắn khoảng cách về tri thức giữa các vùng miền mà còn phải thực sự
tự tin; phải nắm bắt kịp thời các cơ hội cũng như phải có một số kỹ năng: sống
khỏe, sống lành mạnh, cập nhật thông tin nhanh nhạy và hội nhập với thế giới và
góp phần tích cực cho cuộc sống cá nhân và cộng đồng tốt đẹp hơn, nhằm thích
ứng với mọi biến động của hoàn cảnh.
Hiện nay, lãnh đạo ngành giáo dục cũng như lãnh đạo Nhà trường, các tổ,

nhóm bộ môn trường THPT Nguyễn Thị Lợi đã bắt đầu nhìn nhận lại sự thiếu
hụt đó của học sinh. Việc coi trọng giáo dục giá trị sống và rèn luyện kỹ năng
sống biểu hiện cụ thể ở các hoạt động như: Lồng ghép giáo dục giá trị sống và
rèn luyện kỹ năng sống vào tất cả các môn học, coi đây là nhiệm vụ bắt buộc
của các giáo viên đứng lớp ở mọi cấp học, nhằm giúp học sinh hình thành thế
giới quan, nhân sinh quan, giáo dục nhân cách, các em biết vận dụng các kiến
thức đã học vào giải quyết vấn đề cụ thể của cuộc sống. Đồng thời cũng tổ chức
các hoạt động bổ trợ ngoài giờ lên lớp nhằm cung cấp cho học sinh thông tin về
nghề nghiệp, định hướng và tư vấn nghề nghiệp; Tăng cường tổ chức các diễn
đàn trao đổi về một số kỹ năng hay nhóm kĩ năng sống chủ yếu: giao tiếp, ứng
xử văn hoá và quan hệ với mọi người; Kỹ năng tư duy tích cực và có được quyết
định đúng đắn; Kỹ năng ứng phó trong mọi tình huống và biết kiềm chế. Giúp
các em biết xây dựng kế hoạch; bảo vệ và tự bảo vệ tính mạng và sức khoẻ trước
những hiểm hoạ về tai nạn, về ma tuý, về bạo lực, về xâm hại đời sống tinh thần
và thể chất ...
2. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp giáo dục phổ thông
Phát huy tinh thần đổi mới giáo dục của Nghị quyết 4 - khoá VII, Nghị quyết
2 - khoá VIII; hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành trung ương đảng khoá IX (2002)
định hướng: “Phải đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp và các bậc
2


học, kết hợp tốt học với hành, gắn nhà trường với xã hội. Áp dụng những
phương pháp dạy học hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh những năng lực tư
duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề”. Định hướng trên đã được pháp chế
hóa trong luật giáo dục phổ thông tháng 12 năm 1998 và được khẳng định lại ở
quyết định số 16/2006/QĐ- BGD&ĐT ngày 5/5/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo: “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù
hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi
dưỡng cho học sinh phương pháp tự học; khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng

kiến thức; vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng
thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”.
Đổi mới phương pháp giảng dạy lấy học sinh làm trung tâm là một hướng đi
nhằm tăng cường lồng ghép giáo dục giá trị sống và rèn luyện kỹ năng sống
trong trường học: Sử dụng giáo án điện tử, giáo cụ trực quan sinh động, các hình
thức tổ chức thảo luận, chơi trò chơi vận động ngoài trời... các em sẽ tự suy
ngẫm rút ra ý nghĩa bài học. Các em sẽ được học các giá trị cơ bản trước, sau đó
sẽ học các kỹ năng dựa trên các giá trị này. Đổi mới phương pháp giảng dạy
nhằm hình thành cho các em cách tư duy linh hoạt, phong thái tự tin khi hòa
nhập với cộng đồng đồng thời giúp các em sống nhân văn, biết yêu thương và có
trách nhiệm hơn với những người xung quanh và với chính bản thân mình.
Xuất phát từ lí do trên tôi lựa chọn đề tài SKKN: “Tích hợp giáo dục giá trị
sống và rèn luyện kĩ năng sống thông qua dạy học môn Sinh học ở trường
THPT Nguyễn Thị Lợi”
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn làm cơ sở khoa học cho việc
xây dựng các biện pháp và quy trình tích hợp giáo dục giá trị sống và rèn luyện
kĩ năng sống thông qua dạy học môn Sinh học ở trường trung học phổ thông.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu: Hệ thống các phương pháp, biện pháp và quy trình
tích hợp giáo dục giá trị sống và rèn luyện kỹ năng sống cho các bài giảng sinh
học 10, 11 và 12.
2. Phạm vi nghiên cứu: Việc tích hợp giáo dục giá trị sống và rèn luyện kỹ
năng sống cần được tiến hành ở mọi cấp học, tùy theo lứa tuổi, giới tính ...
Phạm vi đề tài này chỉ giới hạn trong lứa THPT (15 – 18 tuổi), vì đây là lứa tuổi
có nhiều biến đổi về tâm sinh lý, và cũng vì đây là đối tượng chủ yếu trong nhà
trường phổ thông, đặc biệt là ở trường THPT Nguyễn Thị Lợi. Trường được đặt
trên đất du lịch sầm uất nhất cả nước – Biển Sầm Sơn, học sinh phải đối mặt với
nhiều thách thức, phức tạp trong cuộc sống.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

- Nghiên cứu lí thuyết: Tổng hợp các tài liệu liên quan, xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.

3


- Điều tra thực tiễn: Thiết kế và sử dụng các phiếu điều tra học sinh, thăm dò ý
kiến giáo viên để tìm hiểu các thực trạng.
- Tìm hiểu đặc điểm tâm lí, thực trạng về giáo dục giá trị sống và rèn luyện kỹ năng
sống của học sinh tại nhà trường.
- Quan sát sư phạm: Dự giờ, nghiên cứu giáo án, sổ điểm, bài kiểm tra và vở ghi
của học sinh.
- Thực nghiệm sư phạm.
- Thống kê toán học.
B – NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận
1.1. Giá trị sống và định hướng giá trị sống
1.1.1. Giá trị sống
Theo nghiên cứu của nhóm tác giả trong tài liệu tập huấn về giáo dục giá trị
sống và rèn luyện kỹ năng sống cho giáo viên trung học phổ thông đã đưa ra các
định nghĩa như sau:
Giá trị sống là những điều chúng ta cho là quý giá, là quan trọng, là có ý
nghĩa đối với cuộc sống của mỗi người. Giá trị sống đã trở thành động lực để
người ta nỗ lực phấn đấu để có được nó. Giá trị sống mang tính cá nhân, không
phải giá trị sống của mọi người đều giống nhau. Có người cho rằng “ tiền bạc là
trên hết”. Có người cho rằng tình yêu thương mới là điều quý giá nhất trên đời. Có
người coi trọng sự trung thực, hay sự bình yên......
Giá trị sống là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống các quan niệm về cái
thiện, cái ác trong mối quan hệ của con người với con người. Giá trị sống về bản
chất là những quy tắc, những chuẩn mực trong quan hệ xã hội, được hình thành

và phát triển trong cuộc sống, được xã hội thừa nhận. Giá trị sống là quy tắc, nó
có vị trí to lớn trong đời sống, và định hướng cuộc sống của mỗi cá nhân, điều
chỉnh hành vi cho phù hợp với chuẩn mực của xã hội. Những giá trị phổ biến
của đạo đức thể hiện trong các khái niệm: thiện ác, lẽ phải, công bằng, văn
minh, lương tâm trách nhiệm...
1.1.2. Định hướng giá trị sống
* Nếu căn cứ vào ý nghĩa xã hội hay cá nhân của những mục đích mà con người
hướng tới, nhóm các tác giả thuộc trường Đại học giáo dục khi nghiên cứu về
giá trị sống đã phân chia ra làm 2 loại:
- Định hướng giá trị xã hội: là thái độ, sự lựa chọn các giá trị của cá nhân trong
quan hệ với xã hội như lòng thương người, chấp hành luật pháp, lịch sự nơi công
cộng, biết ơn các thế hệ trước.
- Định hướng giá trị cá nhân: là thái độ, là sự lựa chọn các giá trị trong mối quan hệ
với bản thân như lòng trung thực, sự khiêm tốn, vị tha, yêu cầu cao, chấp nhận thử thách.
* Nếu căn cứ vào đối tượng của sự định hướng thì chia giá trị sống như sau:

4


- Định hướng giá trị vật chất: là thái độ, sự lựa chọn các giá trị của cá nhân
hướng tới các giá trị vật chất như tiền bạc, của cải, cách làm giàu...
- Định hướng giá trị tinh thần: là thái độ, sự lựa chọn các giá trị của cá nhân
hướng tới các giá trị tinh thần như sự thanh thản, tình yêu nghệ thuật, yêu
thương con người.
Trong phạm vi của đề tài tôi chủ yếu chú trọng vào cách phân chia thứ nhất:
Định hướng giá trị xã hội và định hướng giá trị cá nhân cho các em học sinh ở
bậc trung học phổ thông, với đối tượng cụ thể là học sinh trường THPT Nguyễn
Thị Lợi.
1.2. Kỹ năng sống
- Theo WHO (1993) “ Kỹ năng sống là năng lực tâm lý xã hội, là khả năng

ứng phó một cách có hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống.
Đó là khả năng của một cá nhân để duy trì một trạng thái khỏe mạnh về mặt tinh
thần, biểu hiện qua các hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người
khác, với nền văn hóa và môi trường xung quanh. Năng lực tâm lý xã hội có vai
trò quan trọng trong việc phát huy sức khỏe theo nghĩa rộng nhất về thể chất,
tinh thần và xã hội. Kỹ năng sống là khả năng thể hiện, thực thi năng lực tâm lý
xã hội này. Đó là năng lực tâm lý xã hội để đáp ứng và đối phó với những yêu
cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày.”
- Theo tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO),
kỹ năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục đó là:
+ Học để biết: gồm các kỹ năng tư duy như: tư duy phê phán, tư duy sang
tạo, ra quyết định giải quyết vấn đề, nhận thức được hậu quả…
+ Học để làm: gồm các kỹ năng thực hiện công việc và nhiệm vụ như: kỹ
năng đạt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm…
+ Học để cùng chung sống: gồm các kỹ năng xã hội như giao tiếp, thương
lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông
+ Học làm người: gồm các kỹ năng cá nhân như: ứng phó với căng thẳng,
kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức,tự tin…
Như vậy, kỹ năng sống là tất cả những kỹ năng cần có giúp cá nhân học tập,
làm việc có hiệu quả hơn, sống tốt hơn. Có hàng trăm kỹ năng sống khác nhau.
Tùy theo hoàn cảnh, môi trường sống, điều kiện sống mà người ta cần dạy cho
học sinh những kỹ năng thiết yếu khác nhau. Ví dụ: học sinh ở gần sông nước cần
được dạy kỹ năng bơi lội, đi xuồng, ghe… Hơn là kỹ năng sử dụng các phương
tiện giao thông công cộng. Các em đường phố cần được dạy kỹ năng tự bảo vệ
bản thân, phòng chống xâm hại tình dục, kỹ năng từ chối (khi được mời thử ma
túy, bỏ học…).
1.3. Điểm giống nhau giữa giáo dục giá trị sống và rèn
luyện kỹ năng sống
- Mục đích: Đều nhằm định hướng, giáo dục học sinh về nhân sinh quan
và thế giới quan duy vật biện chứng, có cách nhìn toàn diện hơn về thế giới vô

cơ và hữu cơ, chống mê tín dị đoan, yêu thiên nhiên, biết sử dụng năng lượng
bền vững và chính các em sẽ là những chủ nhân trong chiến dịch chống biến đổi
5


khí hậu toàn cầu. Đồng thời thông qua đó giúp học sinh phát triển nhân cách một
cách hoàn thiện.
- Phương pháp: Sử dụng các phương pháp đổi mới trong giáo dục theo
phương châm của Bộ giáo dục và Đào tạo đối với học sinh THPT “Lấy học sinh
làm trung tâm”, các bài học thiết kế với tính tương tác cao, tập trung vào sự tư
duy tích cực của học sinh, phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh khi thu
nhận kiến thức và lĩnh hội các giá trị sống và hình thành kỹ năng sống cơ bản.
2. Cơ sở thực tiễn
Tôi đã tiến hành khảo sát trên tất cả các lớp khối tôi dạy tại năm học: 2014 –
2015 và năm học 2015 – 2016. Tất cả các thầy cô giáo trong tổ, nhóm bộ môn
đều tham gia dự giờ, góp ý vào đề tài này nên thống nhất cao về giáo án lên lớp
cũng như các phần tích hợp. Kết hợp ý kiến đánh giá của giáo viên chủ nhiệm
các lớp, trao đổi trực tiếp với học sinh, đồng thời sử dụng các phiếu điều tra,
phiếu thăm dò ý kiến học sinh để thu thập các thông tin, số liệu cần thiết làm cơ
sở thực tiễn cho đề tài này.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ (THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI SKKN)
1. Đặc điểm và thực trạng sử dụng sách giáo khoa Sinh
học trong hoạt động dạy học
Sách giáo khoa Sinh học phổ thông ở cả hai ban đều được nhóm tác giả viết
sách nghiên cứu, chắt lọc các khái niệm, quy luật về trao đổi chất, năng lượng,
cảm ứng, sinh trưởng - phát triển và sinh sản ở cấp độ tế bào, cấp độ cơ thể, cấp
độ trên cơ thể…các thành phần cấu trúc phù hợp với chức năng sinh học, các
quy luật di truyền, tiến hóa, sinh thái học… Mặc dù sách giáo khoa được viết
theo hình thức trình bày rất phong phú, nhiều hình ảnh minh họa, có các lệnh
trong sách giáo khoa nhưng do lượng kiến thức quá lớn mà thời lượng cho một

tiết giảng quá ít nên các kiến thức khoa học trong sách giáo khoa được trình bày
cô đọng, không lý giải đầy đủ các thông tin khoa học, thiếu thông tin bổ sung,
rất ít yếu tố hướng dẫn nên gây khó khăn cho học sinh khi độc lập nghiên cứu
sách giáo khoa để lĩnh hội kiến thức mới và ôn tập kiến thức cũ. Chính vì vậy để
phát huy tối đa khối lượng kiến thức có trong sách giáo khoa, vừa có tác dụng
giáo dục giá trị sống và kết hợp rèn luyện kỹ năng sống cơ bản người giáo viên
phải biết vận dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy nhằm giúp học sinh
biến những kiến thức rất cơ bản của sách giáo khoa thành kiến thức triển khai
sâu rộng, áp dụng được vào đời sống thực tế, đồng thời cũng giúp các em từ
những kiến thức cơ bản, khao học đó xây dựng được thế giới quan, nhân sinh
quan đúng đắn qua mỗi tiết học.
2. Vấn đề lồng ghép giáo dục giá trị sống và rèn luyện kĩ
năng sống trong dạy học Sinh học.
Sinh học là bộ môn khoa học thực nghiệm, kết hợp giữa lý thuyết và tư duy
lôgic nghiên cứu một cách có hệ thống về các vật sống và giải thích về sự sống trên
Trái Đất. Theo tác giả Ngô Văn Hưng trong cuốn “ Sinh học phổ thông trình bày

6


theo lối mới” của nhà xuất bản Hà Nội năm 2006 thì việc học môn Sinh học giúp
chúng ta hiểu về bản thân chúng ta và những hoạt động của cơ thể.
Nghiên cứu các quá trình sống của thế giới vi sinh vật, về sự phản ứng với một
số chất hóa học và cách thức hoạt động của vi sinh vật, con người học được cách để
đẩy lùi hệ lụy do vi sinh vật gây ra. Vì vậy giáo viên cần giáo dục cho học sinh
cách thức bảo vệ cơ thể chống bệnh tật theo phương thức khoa học, không mê tín
dị đoan.
Nghiên cứu về thực vật, động vật con người tìm ra giá trị chữa bệnh của rất
nhiều loài. Việc nghiên cứu về sinh sản và sự gia tăng dân số sẽ giúp cho con
người nhận biết được rằng sự ổn định dân số là một sự cần thiết và trách nhiệm

của giáo viên là phải giúp mọi học sinh cùng nhận thức được điều đó.
Nghiên cứu về sự phát triển của sinh vật giúp tạo ra cho học sinh một thế
giwois quan duy vật biện chứng. Sự phát sinh và phát triển của sự sống là do sự
vận động của các vật chất chứ không phải do thượng đế tạo ra và sắp đặt. Từ đó
giúp các em có mọt cách nhìn và đánh giá sự vật một cách khách quan.
Học sinh học cũng giúp con người kiểm soát dịch bệnh, có những kiến thức
nhất định về bảo quản nông sản, thực phẩm, giảm ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm
không khí. Nhờ sinh học con người còn tạo được các giá trị thẩm mĩ như kĩ
thuật bon sai, bể thủy sinh, trồng cây trong công viên, trên đường phố.... Hơn tất
cả sinh học giúp cho chúng ta hiểu về bản thân mình và thế giới mà chúng ta
sống trong đó để thay đổi về sự nhận thức trong hệ tư tưởng và trong hành động
với thực tế thiên nhiên và môi trường, mỗi học sinh sẽ tự tạo ra cho mình những
kỹ năng ứng phó cần thiết với những biến đổi của tự nhiên.
Trong xu thế phát triển chương trình và đổi mới quan niệm về sách giáo khoa
của giáo dục phổ thông trong khu vực và trên thế giới, từ năm 2001 bộ giáo dục và
đào tạo nước ta đã thực hiện triển khai việc đổi mới chương trình sách giáo khoa
cho các bậc học từ tiểu học đến trung học phổ thông. Luật giáo dục sửa đổi tháng
5/2005 quy định về chương trình giáo dục phổ thông với cách hiểu đầy đủ và phù
hợp với xu thế chung của thế giới nên chương trình sách giáo khoa Sinh học trung
học phổ thông cũng có nhiều thay đổi cả về mục tiêu và nội dung tri thức khoa học.
3 Nguyên nhân của thực trạng
Mặc dù việc đổi mới phương pháp dạy học “lấy học sinh làm trung tâm” đã
được quan tâm, nhân rộng trong những năm qua, nhưng việc tích hợp giữa dạy
kiến thức và giáo dục giá trị sống và rèn luyện kỹ năng sống vẫn còn bị xem nhẹ
do sức ép về chương trình, thời gian và không gian của lớp học, thiết bị và
phương tiện dạy học nên giáo viên chỉ lo làm sao truyền tải được hết nội dung
kiến thức của bài dạy, còn các hoạt động khác vẫn mang tính hình thức, đối phó.
4. Đưa giáo dục giá trị sống và rèn luyện kỹ năng sống vào giờ học bộ
môn
Mặc dù đây là vấn đề đang được xã hội và các cấp bộ ngành quan tâm song

trên thực tế mỗi giờ giảng của giáo viên là 45 phút phải đảm bảo chuẩn kiến
thức bộ môn, nhiều bài quá nặng về kiến thức, có bài nhiều nội dung khác nhau.
Số học sinh trên mỗi đơn vị lớp học là quá lớn, vì vậy rất khó cho giáo viên đảm
7


bảo vừa dạy sâu kiến thức bộ môn vừa tích hợp tốt giáo dục giá trị sống. Như
vậy, nhiệm vụ tích hợp giáo dục giá trị sống và rèn kỹ năng sống phụ thuộc rất
nhiều vào sự vững vàng về kiến thức và việc vận dụng linh hoạt các phương
pháp giảng dạy của giáo viên bộ môn.
Ngoài những khó khăn chung như các bộ môn khoa học khác, bộ môn sinh
học có nhiều thuận lợi khi tích hợp giáo dục giá trị sống và rèn luyện kỹ năng
sống trong giảng dạy vì:
Môn sinh học là bộ môn khoa học thực nghiệm gần gũi với thiên nhiên và
môi trường, có nhiều kiến thức thực tế và gắn với tất cả các bộ môn khoa học cơ
bản cũng như các bộ môn khoa học xã hội nên việc gắn môn sinh học với thực
tiễn sẽ tạo thêm hứng thú cho các em học sinh tiếp thu bài học và yêu thích bộ
môn.
Kết luận 1
Để nâng cao chất lượng lĩnh hội tri thức khoa học cho học sinh trong quá trình
dạy học Sinh học ở trường trung học phổ thông đồng thời kết hợp giáo dục giá trị
sống và rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh, kích thích tính độc lập, sự say mê,
sáng tạo trong các em, từ đó bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu của học
sinh đòi hỏi người giáo viên phải có nền tảng kiến thức vững vàng, biết vận dụng
linh hoạt các phương pháp trong quá trình dạy học cho phù hợp với nội dung từng
bài, từng phần để có thể vừa truyền thụ được một cách hệ thống, logic kiến thức
cơ bản nhưng vẫn tích hợp được việc giáo dục giá trị sống và rèn luyện kỹ năng
sống cho học sinh đáp ứng với yêu cầu của bộ giáo dục và đào tạo.
Nhiệm vụ của người giáo viên là định hướng nhiệm vụ học tập, tổ chức các
hoạt động tìm tòi kiến thức thông qua việc rèn luyện các thao tác tư duy, hình thành

và phát triển các giá trị sống cơ bản, rèn luyện các kỹ năng nhất định mà thông qua
hoạt động nhận thức đạt các em sẽ đạt được.
Đối với học sinh trường THPT Nguyễn Thị Lợi nói riêng và học sinh trung
học phổ thông nói chung, để có thể tự lực nhận thức được các giá trị sống cơ bản
thông qua kiến thức sinh học - một bộ môn khoa học thực nghiệm và việc rèn
luyện kĩ năng là rất cần thiết, cùng với kết quả điều tra thực tiễn đã chứng minh
các em hoàn toàn có khả năng phát triển giá trị sống, kĩ năng sống và nâng cao
năng lực nhận thức, đáp ứng với yêu cầu ngày càng khắt khe trong khâu đổi mới
kiểm tra đánh giá để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo.
III. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Các nguyên tắc tích hợp giáo dục giá trị sống và rèn luyện kĩ năng sống
1.1. Đạt được mục tiêu bài học
Mục tiêu các bài học được đặt ra theo hướng tích cực hoá hoạt động của người
học, định hướng giá trị sống, rèn luyện phương pháp tự học dựa trên cơ sở rèn luyện
các kỹ năng tiếp nhận kiến thức trong quá trình dạy học, nên mỗi bài học đều được
thiết kế theo một lôgic xác định, nhằm đạt được các mục tiêu về kiến thức, giá trị sống,
kỹ năng sống độ nhất định.
8


1.2. Đảm bảo tính lôgic, khoa học và chính xác
Trong quá trình tích hợp giáo dục giá trị sống và rèn luyện kỹ năng trình
sống vào bài giảng, các hoạt động cấu thành giá trị sống và kỹ năng sống cần phải
được thực hiện theo một trật tự nhất định, tuy mỗi bài có những giá trị sống nhất
định, có thể là phổ quát cũng có thể là cụ thể, mỗi phương pháp tổ chức thực hiện
bài giảng để rèn kỹ năng sống có những đặc trưng riêng nhưng đều phải bắt đầu từ
việc xác nhận nguồn thông tin về kiến thức cần trình bày sau đó xác định mục đích
nhận thức; bằng các thao tác phân tích - tổng hợp mối quan hệ giữa các thành phần
kiến thức để lựa chọn ngôn ngữ trình bày hiệu quả nhất, cho nên các câu hỏi định
hướng phân tích nội dung của giáo viên phải rất cụ thể, và có tính gợi mở, có định

hướng rõ ràng, xác định ngôn ngữ trình bày khoa học nhất để sau khi học sinh thực
hiện xong các hoạt động lĩnh hội tri thức khoa học đồng thời các em tự rút ra được
những giá trị sống cụ thể qua bài học và cấu thành các kỹ năng cần thiết.
1.3. Phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh
Để cải thiện chất lượng lĩnh hội kiến thức cho học sinh thì đây là nguyên tắc
cơ bản, các giá trị sống giáo viên định hướng cho học sinh phải gần gũi, dễ hiểu,
ngôn ngữ trình bày kiến thức phải rõ ràng, các kỹ năng mà giáo viên đưa vào rèn
luyện không được quá dễ hoặc quá khó mà phải phù hợp với trình độ nhận thức của
các đối tượng học sinh.
1.4. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập
Các giáo án định hướng giá trị sống, rèn luyện kỹ năng phải được thiết kế
từ dễ đến khó, tạo tính hứng thú cho học sinh tiếp tục nghiên cứu kiến thức sách
giáo khoa và hoàn thành các bài tập. Các bài tập phải có nhiều khả năng phát
huy tính tích cực tìm tòi khám phá kiến thức mới, phát huy tính chủ động, sáng
tạo của người học, kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, huy động được tối đa
vốn kiến thức thực tế của học sinh phục vụ cho quá trình học tập, thực hiện
nguyên lí giáo dục “ Học đi đôi với hành”, “ Lý luận gắn với thực tiễn”.
1.5. Ngôn ngữ trình bày: Ngắn gọn, súc tích và chính xác
Ngôn ngữ sử dụng phải hết sức chọn lọc sao cho các từ, cụm từ, câu, đoạn
trình bày phải ngắn gọn, súc tích, chính xác và chuyển tải đầy đủ nội dung trọng
tâm của bài học, thông qua bài học có ý nghĩa giáo dục cao nhưng không gò ép
học sinh tiếp nhận. Ngôn ngữ trình bày phải mang tính trọng tâm để giúp học
sinh có thể chính xác hóa được tri thức sinh học phổ thông.
2. Phương pháp dạy học tích hợp giáo dục giá trị sống và
rèn luyện kĩ năng sống
Tích hợp được hiểu là sự kết hợp, lồng ghép các mục tiêu khác nhau thông
qua một hoạt động nào đó. Phương pháp tích hợp giáo dục giá trị sống và rèn
luyện kĩ năng sống chính là cách thức, con đường để đạt được các mục tiêu
giáo dục giá trị sống và rèn luyện kĩ năng sống thông qua môn học/ hoạt động
giáo dục.

Để tích hợp giáo dục giá trị sống và rèn luyện kĩ năng sống trong dạy học
Sinh học có thể sử dụng kết hợp các phương pháp dạy học thông dụng trong dạy
9


học bộ môn. Đặc biệt, do tính phức hợp của mục tiêu giáo dục giá trị sống và
rèn luyện kĩ năng sống, một số phương pháp dạy học sau đây thường được sử
dụng: công não (động não), thảo luận nhóm, hoạt động nhóm nhỏ, đóng vai,
nghiên cứu tình huống (hay nghiên cứu các trường hợp điển hình), trò chơi…
Do tính đặc tính, quy định của đề tài SKKN, nên tôi chỉ giới thiệu một số
phương pháp cơ bản, chủ yếu được dạy nhiều ở các lớp, khối, tiết dạy thực
nghiệm. Các phương pháp khác, các ví dụ khác ở các tiết dạy Sinh 10, 11 và 12
các bạn có thể truy cập vào diễn đàn trường THPT Nguyễn Thị lợi hoặc vào
gmail:
Sau đây là một số phương pháp dạy học tích hợp giáo dục giá trị sống và rèn
luyện kĩ năng sống:
2.1. Phương pháp động não (công não)
2.1.1. Đặc điểm:
Động não (công não) là một kĩ thuật dạy học tích cực, thông qua thảo luận,
nhằm huy động những ý tưởng mới mẻ, độc đáo về một chủ đề, của mọi thành
viên tham gia thảo luận. Các thành viên được cổ vũ tham gia một cách tích
cực, không hạn chế các ý tưởng, nhằm tạo ra “cơn lốc” các ý tưởng.
2.1.2. Quy trình thực hiện:
- Bước 1. GV chuẩn bị hệ thống câu hỏi hoặc tình huống liên
tiếp về nội dung bài học.
Hệ thống câu hỏi hoặc tình huống phải đảm bảo tính logic và phải mang tính
chất có vấn đề, buộc học sinh phải luôn luôn ở trạng thái có vấn đề tức là thúc
đẩy học sinh mong muốn phải giải quyết các vấn đề nảy sinh đó.
Câu hỏi phải giữ vai trò chủ đạo, bám sát nội dung cần đạt được. Cần tăng
cường các dạng câu hỏi huy động đến khả năng động não của học sinh (như câu

hỏi tại sao). Bằng những câu hỏi liên tiếp, xếp theo logic chặt chẽ dẫn dắt học
sinh từng bước đi tới bản chất của các sự việc hiện tượng.
- Bước 2. Tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh bằng
phương pháp động não.
+ Giáo viên cung cấp liên tiếp cho học sinh hệ thống câu hỏi hoặc tình huống có vấn đề.
+ Cho học sinh tự giác trả lời hoặc chỉ định học sinh trả lời. Mỗi học sinh trả lời
một hoặc một số câu hỏi.
+ Nguồn thông tin cho cả lớp là sự tổng hợp các câu hỏi cùng những câu trả lời
tương ứng kèm theo sự bổ sung, kết luận của giáo viên.
- Bước 3. GV nhận xét và kết luận.
Ví dụ 1: Khi dạy mục VI. Cân bằng nước và tưới nước hợp lí cho cây
trồng, Bài 3. Thoát hơi nước (Trang 19 SGK Sinh học 11 Cơ bản).
(1) Mục tiêu
a. Kiến thức
- Giải thích được cơ sở khoa học của vấn đề tưới nước hợp lí cho cây trồng.
b. Giáo dục giá trị sống
10


- Xây dựng ý thức quan tâm và tìm hiểu những vấn đề thực tiễn nông nghiệp
c. Giáo dục kỹ năng sống
- Chăm sóc cây trồng, tưới nước hợp lí cho cây trồng.
- Áp dụng các biện pháp kĩ thuật để nâng cao năng suất cây trồng.
- Rèn kĩ năng phân tích, so sánh, khái quát
- Kỹ năng hợp tác và chia sẻ
- Kỹ năng đánh giá người khác
- Kỹ năng vận dụng kiến thức đã học để tìm hiểu thực tiễn
(2) Phương pháp
- Vấn đáp, tìm tòi
(3) Phương tiện

- Tranh hình
(4) Hoạt động của Giáo viên và Học sinh
Hoạt động của GV & HS
Hoạt động 1 (2 phút): Cân bằng nước của cây trồng
GV: + Thế nào là cân bằng nước của cây trồng?
+ Khi bị mất cân bằng nước thì ảnh hưởng như thế nào đến cây trồng?
HS: + hút nhiều hơn thoát → cây úng nước
+ thoát nhiều hơn hút → cây thiếu nước
GV:+ Vậy làm thế nào để đảm bảo cân bằng nước trong cây?
Hoạt động 2 (5 phút): Tưới nước hợp lí cho cây trồng
GV: Thế nào là tưới nước hợp lí?
Yêu cầu HS thảo luận
- Khi nào cây cần tưới nước, thời điểm tưới trong ngày.
- Lượng nước tưới hợp lí cần căn cứ vào những yếu tố nào
- Cách tưới như thế nào? (cho học sinh quan sát một số hình ảnh)
- Phân tích câu tục ngữ “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”
* GV định hướng cho học sinh tự ghi nội dung chính.
2.2. Thảo luận nhóm
2.2.1. Đặc điểm:
Thảo luận nhóm được sử dụng rộng rãi nhằm giúp cho mọi học sinh tham gia
một cách chủ động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho các em có thể chia sẽ
kiến thức, kinh nghiệm, để giải quyết một vấn đề có liên quan đến bài học.
Giáo viên chia lớp học thành các nhóm nhỏ có phân công nhiệm vụ cho các
thành viên trong nhóm như nhóm trưởng; thư kí... Tùy theo mục đích, yêu cầu
của vấn đề học tập mà các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc có chủ định.
2.2.2. Quy trình thực hiện gồm các bước sau:
- Bước 1: Giới thiệu cho học sinh cách thức tiến hành thảo luận, các kỹ năng
thảo luận, yêu cầu của các kỹ năng và cách thức thực hiện kỹ năng đó.
- Bước 2: Giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm.
+ Giao nhiệm vụ cho các nhóm: Giáo viên giao nhiệm vụ (chủ đề) chung cho tất

cả các nhóm hoặc đưa ra một hệ thống nhiệm vụ (chủ đề), trong đó mỗi nhóm có

11


trách nhiệm giải quyết một chủ đề khác nhau. Nên sử dụng phiếu học tập với hệ
thống câu hỏi định hướng học sinh thảo luận.
+ Giáo viên quan sát, đôn đốc và hướng dẫn các nhóm thảo luận.
+ Các nhóm thảo luận, hoạt động này do nhóm trưởng chỉ đạo, thư kí ghi
chép các ý kiến của các thành viên trong nhóm. Giáo viên cần lưu ý sao cho tất
cả các thành viên trong nhóm đều được tham gia thảo luận, đưa ra ý kiến. Tránh
hiện tượng cục bộ nghĩa là việc thực hiện nhiệm vụ chỉ do 1 hoặc 2 các nhân
tham gia.
- Bước 3. Giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận giữa các nhóm
- Bước 4. Giáo viên tổng hợp; đánh giá và kết luận.
Ví dụ 2: Khi dạy mục II. Lên men lăctic, Bài 24. Thực hành lên men lăctic
và etilic (Trang 97 – 98 SGK Sinh học 10 cơ bản).
(1) Mục tiêu:
a. Kiến thức
- Đặt được thí nghiệm và quan sát được hiện tượng lên men lăctic
- Giải thích được các hiện tượng xảy ra trong quá trình len men lăctic
b. Giáo dục giá trị sống
- Trong phần thảo luận, học sinh được phát biểu ý kiến của mình, tranh luận
với các nhóm khác, như vậy giáo viên đã tạo nên được một bầu không khí có
tính giáo dục, giúp học sinh cảm thấy bản thân có giá trị. Khi có mâu thuẫn xảy
ra bên cạnh việc tổ chức học sinh giải quyết mâu thuẫn, giáo viên chú trọng việc
giáo dục cho học sinh biết tôn trọng, lắng nghe ý kiến của người khác.
- Từ quá trình lên men lăctic, giáo viên nhấn mạnh trong cơ thể người khi
thiếu hụt O2 cung cấp cho các tế bào cơ, sẽ xảy ra quá trình hô hấp yếm khí, cũng
giải phóng nhiều axit lactic, gây đau cơ. Vì vậy, cần có chế độ lao động hợp lý,

tránh làm nhiều việc nặng trong thời gian ngắn.
c. Giáo dục kỹ năng sống
- Kỹ năng động não, tư duy, logic để trả lời câu hỏi
- Kỹ năng giải quyết tình huống có vấn đề giúp học sinh trả lời câu hỏi bốc thăm
được
- Kỹ năng tự tin khi trình bày câu trả lời trước lớp.
- Kỹ năng tự nhận thức bản thân: nhận thức được những thao tác đúng, cần
phải làm và những điều cần tránh khi làm muối dưa, cà ở gia đình.
- Kỹ năng kiềm chế cảm xúc và giải quyết mâu thuẫn trong quá trình thảo
luận.
(2) Phương pháp:
- Thảo luận nhóm
(3) Phương tiện:
- Dụng cụ và vật liệu thí nghiệm cần thiết
(4) Hoạt động của Giáo viên và Học sinh
Hoạt động của GV và HS
Hoạt động 1: Thảo luận
- GV tổ chức hướng dẫn HS thực hành lên men lăctic
12


GV yêu cầu đại diện nhóm trình bày cách tiến hành thí nghiệm. GV nhận
xét, kết luận, hướng dẫn: cách tiến hành, quan sát thí nghiệm và ghi kết quả.
- GV yêu cầu các nhóm giải thích kết quả nhóm mình thu được.
- Sau khi kết thúc phần thực hành lên men lăctic, trong phần thảo luận, GV
chia lớp thành 6 nhóm, mỗi nhóm bôc thăm nhận được một câu hỏi tư duy. 1.
Vì sao sữa chua chuyển từ trạng thái lỏng sang đông sệt và có vị chua khi làm
sữa chua?
2. Người ta nói sữa chua là một loại thực phẩm rất bổ dưỡng có đúng
không? Tại sao?

3. Khi muối dưa người ta thường cho thêm một ít nước dưa cũ, 1 - 2 thìa
đường để làm gì? Tại sao khi muối dưa, người ta thường phải đổ ngập nước
và nén chặt rau, quả?
4. Khi muối dưa người ta có thể phơi dưa ở chỗ nắng nhẹ hoặc chỗ râm
cho se mặt để làm gì?
5. Rau quả muốn làm dưa chua phải có điều kiện gì? Nếu không đạt được
điều kiện ấy phải làm như thế nào?
6. Nếu dưa để lâu sẽ bị khú. Vì sao?
Sau 4 phút, GV gọi đại diện các nhóm lên bốc thăm câu hỏi và trả lời, các
nhóm khác nhận xét. Trong quá trình trả lời câu hỏi, các nhóm có thể có ý
kiến trái ngược nhau giúp cho buổi thảo luận sôi nổi,chuyển thành mức độ cao
hơn là tranh luận. GV phải khéo léo hướng dẫn HS tìm ra đáp án đúng và kết
luận, cho điểm từng nhóm.
2.3. Phương pháp đóng vai
2.3.1. Đặc điểm:
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành “ Làm thử” một số
cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là phương pháp giảng
dạy nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào
một sự kiện cụ thể mà các em quan sát được.
2.3.2. Quy trình thực hiện
- Bước 1. Giáo viên đưa ra các tình huống hoặc chủ đề của bài học.
- Bước 2. Giáo viên Tổ chức hoạt động học tập cho học sinh
thông qua phương pháp đóng vai
+ Giáo viên phân vai cho học sinh tùy theo ngoại hình, tính cách và khả năng
diễn xuất, hoặc cho học sinh tự phân vai.
+ Giáo viên cung cấp kịch bản liên quan đến nội dung bài học sau đó phổ
biến cho học sinh. Kịch bản có thể là một tình huống cụ thể hoặc là các nhân vật
cụ thể. Thông thường nhiệm vụ chính của các nhân vật phải được giáo viên cung
cấp từ giờ học trước để các em chuẩn bị. Ngoài nội dung chính giáo viên đã
chuẩn bị (thường là hệ thống câu hỏi), giáo viên nên khuyến khích sự sáng tạo ở

học sinh liên quan đến kiến thức bài học cũng như liên quan đến việc rèn luyện
kĩ năng.

13


+ Trong giờ học, học sinh diễn xuất sao cho vừa thể hiện được nội dung trong
kịch bản, vửa sáng tạo.
+ Các thành viên còn lại ở dưới lớp chú ý quan sát, đưa ra phương án giải quyết
và đánh giá.
- Bước 3. Nhận xét; đánh giá và kết luận. Đánh giá về:
+ Về kiến thức: Phương án giải quyết hợp lý (phương án đúng).
+ Về kĩ năng: Kĩ năng diễn xuất như kĩ năng trình bày; kĩ năng thu hút khán
giả, sự tự tin vào chính mình, …
Ví dụ 3: Khi dạy mục II. 2 Ba con đường lây truyền HIV, Bài 30. Sự
nhân lên của virut trong tế bào chủ (Trang 120 SGK Sinh học 10 cơ bản).
(1) Mục tiêu
a. Kiến thức
- Trình bày được các phương thức lây truyền của HIV.
b. Giáo dục giá trị sống
- Tôn trọng giá trị bản thân, biết cách từ chối những hành vi dụ dỗ, chống lại
sự ép buộc, lừa gạt quan hệ tình dục không an toàn. tiêm trích ma túy…
c. Giáo dục kỹ năng sống
- Kỹ năng giải quyết tình huống để đưa ra cách giải quyết hợp lý.
- Kỹ năng tái hiện kiến thức đã học về các phương thức lây truyền HIV để từ
đó quyết định hướng giải quyết.
- Kỹ năng đóng vai
- Kỹ năng tự tin, thể hiện trước lớp.
- Kỹ năng đánh giá kết quả tương lai của các hành động hiện tại cho bản thân và
người khác.

- Kỹ năng hợp tác và làm việc theo nhóm, lắng nghe ý kiến của các thành
viên trong nhóm để đưa ra cách xử lý tình huống.
- Kỹ năng quản lý thời gian: trong thời gian 3 phút, các nhóm vừa phải suy
nghĩ hướng giải quyết,vừa phân vai diễn vì vậy phải có cách quản lý thời gian
hợp lý mới hoàn thành được mục tiêu.
(2) Phương pháp:
- Đóng vai
(3) Phương tiện:
- Chuẩn bị sân khấu, trang phục
(4) Hoạt động của Giáo viên và Học sinh
Hoạt động của GV và HS
- Sau khi tìm hiểu về các phương thức lây truyền HIV, GV đặt ra tình
huống yêu cầu 3 nhóm đưa ra phương án giải quyết tình huống bằng cách
đóng vai.
* Tình huống: Vinh là một học sinh lớp 12. Một ngày nọ, khi đang ôn bài
trong công viên, Vinh phát hiện một tên cướp giật đồ của người đi đường,
Vinh đã dũng cảm lao ra bắt tên cướp và giao cho cơ quan công an. Trong quá
trình bắt cướp, cả hai giằng co và chảy rất nhiều máu. Sau khi bị bắt, tên cướp
được cơ quan công an đưa đi xét nghiệm máu và kết quả dương tính với HIV.
+ Theo em, Vinh phải làm gì trong trường hợp này?
14


Các nhóm có 3 phút chuẩn bị và 3 phút để diễn phương án giải quyết. GV
gọi một số thành viên trong lớp nhận xét, GV tổ chức hướng dẫn HS thảo
luận, nhận xét, chấm điểm từng nhóm theo thang điểm như sau
+ Phương án giải quyết hợp lý: 7 điểm
+ Đóng vai, diễn xuất tốt, thu hút khán giả: 3 điểm.
Tổng điểm tối đa: 10 điểm
Nhóm nào có điểm số cao nhất sẽ giành chiến thắng.

Từ câu chuyện của Vinh, GV yêu cầu HS rút ra nhận xét về hành động của
Vinh là hành động dũng cảm hay liều mạng? Nếu là em, em sẽ xử lý tình
huống đó như thế nào? HS đưa ra nhiều phương án trả lời. GV hướng dẫn để
HS nhận xét và rút ra bài học về cách tự bảo vệ bản thân phòng tránh HIV.
* GV cho học sinh ghi 3 con đường lây truyền HIV/AIDS.
2.4. Phương pháp trò chơi
2.4.1. Đặc điểm:
Trò chơi là phương pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu một vấn đề hay thực
hiện những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một trò chơi
nào đó. Cùng với học tập, giao lưu với bạn bè, vui chơi cũng là một nhu cầu của
thanh thiếu niên học sinh. Lí luận và thực tiễn đã chứng tỏ rằng: nếu biết tổ chức
cho thanh thiếu niên vui chơi một cách hợp lí, lành mạnh thì đều mang lại hiệu
quả giáo dục. Qua trò chơi, lớp trẻ không những được phát triển về các mặt trí
tuệ, thể chất, thẩm mĩ mà còn được hình thành nhiều phẩm chất và hành vi tích
cực. Chính vì vậy, trò chơi được sử dụng như là một phương pháp dạy học quan
trọng
2.4.2. Quy trình thực hiện:
- Bước 1. Giáo viên lựa chọn nội dung bài học và lựa chọn trò chơi.
+ Giáo viên lựa chọn trò chơi tùy theo độ tuổi, trình độ hiểu biết, tâm sinh lý
của học sinh (trò chơi xin chữ kí; trò chơi cướp cờ; trò chơi nhanh tay nhanh
mắt...).
- Bước 2. Giáo viên phổ biến thể lệ trò chơi và lựa chọn các thành
phần tham gia trò chơi.
+ Quản trò: Là người phát hiệu lệnh chơi đồng thời cũng là người giám sát
trong suốt thời gian diễn ra trò chơi, phát hiện những trường hợp vi phạm luật
chơi.
+ Người chơi: Có trách nhiệm chấp hành luật chơi, phối hợp với các thành
viên khác (nếu chơi theo nhóm) và tuân thủ theo các hiệu lệnh của quản trò.
+ Ban giám khảo: Là người chấm điểm, phân thắng bại trong mối trò chơi.
Ban giảm khảo có thể là quản trò hoặc chính là những thành viên còn lại trong

lớp. Ban giám khảo làm việc dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
- Bước 3. Giáo viên tổ chức hoạt động học tập thông qua phương pháp trò
chơi.
+ Giáo viên đưa ra những mục tiêu cần đạt được thông qua phương pháp trò
chơi cả về kiến thức lẫn kĩ năng.
15


+ Để tăng hiệu quả của phương pháp, giáo viên cần tổ chức thi đua giữa các
nhóm tham gia trò chơi, sau đó có xếp loại nhất nhì hoặc thắng thua.
+ Giáo viên tổ chức, hướng dẫn và quản lý chung các hoạt động.
- Bước 4. Đánh giá và kết luận.
+ Cho học sinh tự đánh giá nguyên nhân dẫn đến đội mình thắng (hoặc thua),
qua đó thấy được những kĩ năng cần rèn luyện thêm.
+ Cho học sinh đưa ra bài học về nhận thức và kĩ năng sau mỗi trò chơi.
+ Giáo viên nhận xét, kết luận.
Ví dụ 4: Khi dạy mục II. HIV/AIDS, Bài 30. Sự nhân lên của Virút trong tế
bào chủ (Trang 120 SGK Sinh học 10 cơ bản).
(1) Mục tiêu:
a. Kiến thức:
- Quá trình lây nhiễm và phát triển của VR HIV trong cơ thể người.
b. Giáo dục giá trị sống:
- Tôn trọng, không phân biệt đối xử, trách nhiệm với bản thân và với mọi
người.
c. Giáo dục kỹ năng sống:
- Phòng chống tệ nạn xã hội, tự bảo vệ, biết cách phòng chống, bảo vệ sức
khỏe, chống kỳ thị, phân biệt đối xử, kỹ năng làm quen, giao tiếp, từ chối, kiên
định.
Tiếp tục rèn luyện kĩ năng phân tích, so sánh, khái quát từ sự phát triển của
HIV để giải thích được các triệu chứng của AIDS.

(2) Phương pháp
- Tổ chức trò chơi xin chữ ký, GV mời 10 học sinh tự nguyện tham gia, mỗi
em được phát 1 phiếu (trong 10 phiếu có 8 phiếu màu xanh và 2 phiếu màu tím)
Thời gian 8 phút
- Chia nhóm, tổ chức hoạt động nhóm, thảo luận hoàn thành phiếu học tập. thời
gian 7 phút.
(3) Phương tiện :
- Máy chiếu, phiếu học tập…
(4) Hoạt động của Giáo viên và Học sinh
Hoạt động của GV và HS
Hoạt động 1: GV tổ chức một trò chơi mang tính chất giả định:
+Hai bạn mang phiếu màu tím: một bạn kiên định không cho ai chữ ký và
cũng không cho ai chữ ký, một bạn xin và cho chữ kỹ bình thường rất thoải
mái.
+ 8 bạn có phiếu màu xanh: cho và xin chữ ký .
Quản trò ra hiệu lệnh: Trò chơi xin chữ ký bắt đầu, hãy dùng tất cả khả
năng của mình để xin chữ ký của người cùng chơi ( thời gian 3 phút).
* GV hỏi từng bạn mang phiếu màu xanh, mỗi bạn đã xin được bao nhiêu
chữ ký, trong số các chữ ký đó có chữ ký của bạn mang phiếu màu tím không?
16


- Làm thế nào để em xin được nhiều chữ ký như vậy trong thời gian 3 phút?
( Kỹ năng làm quen, giao tiếp, phối hợp cộng đồng…)
- Gv: Giả định 2 bạn có phiếu màu tím là người đã nhiễm HIV, 8 bạn mang
phiếu màu xanh là người không bị nhiễm HIV.
- Hầu hết các em đều xin được chữ ký của các bạn, chỉ cần một bạn xin
được chữ ký của bạn mang phiếu màu tím tức là đã lây truyền VR HIV. Vậy
em có kết luận gì về tốc độ lây nhiễm của VR HIV?
* Vậy qua các thông tin đại chúng em đã biết HIV lây nhiễm qua những con

đường nào?
* Đối tượng nào bị nhiễm HIV? (bất kì ai nếu không biết cách bảo vệ), tuy
nhiên phần lớn là TN với các đối tượng dễ lây nhiễm: nghiện hút, gái mại
dâm…
* Các bạn bên dưới bổ sung, vậy có những con đường nào lây nhiễm HIV?
* Quá trình xin chữ ký các em có chọn lọc không? Có biết mình đã vô tình
lây nhiễm HIV hoặc lây nhiễm ra cộng đồng không? Vậy với những bệnh nhân
nhiễm HIV có nên phân biệt đối xử, kì thị hay không?
- Không nên phân biệt đối xử, kỳ thị, cần giúp đỡ để các bệnh nhân nhiễm
HIV hòa nhập cộng đồng. Mỗi cá nhân cần có ý thức tự bảo vệ mình bởi sự lây
nhiễm không loại trừ bất kỳ ai.
* Có một bạn mang phiếu màu tím không cho ai chữ ký cả, Vậy có phải bất
cứ người nào bị lấy nhiễm HIV cũng lan truyền ra cộng đồng hay không? (Do
ý thức trách nhiệm và có ý thức bảo vệ cộng đồng. nếu kiên định => không lây
nhiễm, nếu không kiên định => lây nhiễm)
* Từ phương thức lây nhiễm, theo các em có những cách nào để phòng
chống đại dịch HIV- AIDS?
Kết luận 2
Để giáo dục giá trị sống và rèn luyện có hiệu quả các kỹ năng sống cho học
sinh thông qua các bài học sinh học ở cấp trung học thì giáo viên phải có định
hướng nhiệm vụ học tập cho từng bài, mục một cách cụ thể, rõ ràng. Yêu cầu
sinh học tập trung nghiên cứu sách giáo khoa, phải nắm chắc các nguyên tắc
trình bày, thực hiện theo các phương pháp tổ chức lớp học của giáo viên. Các
bước tổ chức lớp học phải đảm bảo được phát huy tính tích cực nhận thức, chủ
động, sáng tạo đồng thời tạo hứng thú cho học sinh. Các bài tập rèn luyện được
thiết kế phải phù hợp với loại kiến thức Sinh học và trình độ sinh học (Bám sát
quy trình rèn luyện). Với các loại ngôn ngữ định hướng phải rõ ràng, logic, phù
hợp với đối tượng học sinh, giúp sinh học có thể tự trình bày các nội dung khác
cùng loại mà không làm thiếu bản chất, lạc hướng vấn đề.
Quá trình tích hợp giáo dục giá trị sống và rèn luyện kỹ năng phải được thực

hiện trong tất cả các tiết học trên lớp, tiết thực hành, ngoại khoá và giao bài tập
về nhà của sinh học thì mới đạt hiệu quả nâng cao chất lượng lĩnh hội tri thức
khoa học đồng thời nâng cao nhận thức về thế giới quan và nhân sinh quan cho
học sinh.
17


18


III. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
1. Nội dung thực nghiệm sư phạm:
Tôi thiết kế thực nghiệm sư phạm với hai nhóm tương đương là thực nghiệm
(TN) và đối chứng (ĐC):
- Các lớp thực nghiệm: Dạy theo phương pháp sử dụng các hình thức tích
hợp giáo dục giá trị sống và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh trong các bài
lên lớp.
- Các lớp đối chứng: Dạy theo phương pháp không sử dụng các hình thức
tích hợp giáo dục giá trị sống và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh trong các
bài lên lớp.
Thực nghiệm có đối chứng nhằm so sánh hiệu quả sư phạm của việc sử dụng
phương pháp tích hợp giáo dục giá trị sống và rèn luyện kĩ năng sống cho học
sinh với việc không sử dụng các hình thức tích hợp giáo dục giá trị sống và rèn
luyện kĩ năng sống cho học sinh.
Trong mỗi bài học, lớp đối chứng và lớp thực nghiệm sử dụng phương pháp
dạy học như nhau, đều dùng phương pháp trực quan kết hợp với hỏi đáp sử dụng
hệ thống câu hỏi nêu vấn đề. Chỉ có một điểm khác biệt là: Ở những lớp đối
chứng, giáo viên không dùng không sử dụng các hình thức tích hợp giáo dục giá
trị sống và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh, còn ở những lớp thực nghiệm,
trong quá trình dạy học giáo viên sử dụng các hình thức tích hợp giáo dục giá trị

sống và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh.
Thu thập số liệu, dùng phần mềm SPSS để phân tích kết quả các bài trắc
nghiệm và đánh giá về lĩnh vực cảm xúc của học sinh (bao gồm thái độ; tình
cảm...). Dùng các phiếu điều tra hoặc đàm thoại trực tiếp với học sinh để thăm dò
mức độ hứng thú học tập và mức độ đáp ứng tích cực của học sinh khi sử dụng
các hình thức tích hợp giáo dục giá trị sống và rèn luyện kĩ năng sống cho học
sinh.
2. Kết quả thực nghiệm sư phạm năm học 2015-2016 – Lớp 10
Việc sử dụng các phương pháp dạy học giúp tích hợp giáo dục giá trị sống và
rèn luyện kĩ năng sống như phương pháp trò chơi, phương pháp thảo luận nhóm
và phương pháp động não khi dạy mục II. HIV và hội chứng AIDS (bài 44. Sự
nhân lên của vi rút trong tế bào chủ, Sinh học 10 nâng cao, trang 148 – 151) đã
kích thích được tính tích cực, chủ động của học sinh trong quá trình học tập. Ban
đầu, khi giáo viên mời 10 học sinh tự nguyện tham gia vào trò chơi xin chữ kí
thì một số học sinh còn nhút nhát không muốn tham gia. Tuy nhiên, khi trò chơi
bắt đầu, với sự hào hứng, tích cực của các bạn tham gia trò chơi thì không khí
lớp học đã thay đổi, hầu hết các học sinh trong lớp đều bị “lôi cuốn” bởi trò
chơi. Để có thể xin được nhiều chữ kí nhất trong một khoảng thời gian rất ngắn
(3 phút), rõ ràng học sinh phải động não, biết làm quen, biết giao tiếp và có khả
năng phối hợp cộng đồng… Ngược lại, đối với học sinh mang phiếu màu tím
19


không cho ai chữ ký và cũng không cho ai ký vào phiếu của mình, để làm được
điều này thì học sinh phải biết kiên định trong việc thực hiện mục tiêu của mình.
Như vậy, thông qua trò chơi này, học sinh đã được rèn luyện các kĩ năng rất cần
thiết trong cuộc sống.
Khi giáo viên đưa ra giả định 2 bạn có phiếu màu tím là người đã nhiễm HIV,
8 bạn mang phiếu màu xanh là người không bị nhiễm HIV, bằng phương pháp
dạy học nêu vấn đề kết hợp với phương pháp đàm thoại, giáo viên không những

giúp học sinh lĩnh hội được những kiến thức của bài học mà còn kích thích ở
học sinh nhu cầu tìm hiểu những kiến thức, những vấn đề liên quan đến thực
tiễn và mang tính thời sự. Trên cơ sở xuất phát từ nhu cầu sẽ có thể hình thành
được ở học sinh thói quen và cuối cùng là hình thành kĩ năng sống. Khi đóng vai
hóa thân là người đã nhiễm HIV, học sinh mang phiếu màu tím sẽ hiểu được
cảm giác, suy nghĩ và mong muốn của những người đã vô tình lây nhiễm HIV,
từ đó các em sẽ là những tuyên truyền viên tích cực về việc tôn trọng, không
phân biệt đối xử đối với những người đã nhiễm HIV, sống có trách nhiệm với
bản thân và với mọi người trong vấn đề phòng tránh HIV, đây cũng chính là
những nét văn hóa đẹp của người Việt Nam.
Bên cạnh những kiến thức thu được qua bài học, thông qua phương pháp trò
chơi và phương pháp thảo luận nhóm, học sinh còn có nhiều cơ hội rèn luyện
các kĩ năng trình bày trước đám đông, góp phần giúp học sinh tự tin, mạnh dạn
hơn.
Ở các lớp đối chứng, khi dạy nội dung này, giáo viên đã sử dụng phương
pháp vấn đáp – tìm tòi bộ phận để giúp học sinh lĩnh hội kiến thức. Sau khi kết
thúc bài học, bên cạnh việc lĩnh hội được các nội dung kiến thức, học sinh cũng
được giáo dục về các giá trị sống và các kĩ năng sống có liên quan đến bài học.
Tuy nhiên, do không được tham gia vào trò chơi, không được hóa thân là người
đã nhiễm HIV , không được trở thành những tuyên truyền viên nên số lượng học
sinh tích cực, chủ động trong quá trình học tập là ít hơn do đó cũng phần nào
làm ảnh hưởng đến kết quả học tập. Mặt khác, ở các lớp đối chứng, học sinh
cũng không có cơ hội được rèn luyện các giá trị sống và kĩ năng sống như tôn
trọng, không kì thị, phân biệt đối xử đối với bệnh nhân HIV/AIDS; kỹ năng làm
quen, giao tiếp, từ chối, kiên định…
Để khảo sát, đánh giá những kiến thức, giá trị sống và kĩ năng sống mà học
sinh có được sau khi kết thúc bài học, tôi đã tiến hành phát phiếu khảo sát “Tìm
hiểu về HIV/ AIDS”. Phiếu khảo sát được sử dụng ở cả 2 lớp thực nghiệm - lớp
10A và lớp 10C, với tổng số 89 học sinh và cả 2 lớp đối chứng - lớp 10B và lớp
10D, với tổng số 84 học sinh. Kết quả thu được như sau:


20


* Với 17 câu hỏi trắc nghiệm:
Kết quả khảo sát: Tìm hiểu về HIV/AIDS
Câu
Câu 1 – 11
Câu 12 – 13
Câu 14 – 17

Lớp TN
Số lượng
%
89
100,0
81
91,0
83
93,0

Lớp ĐC
Số lượng
84
60
58

%
100,0
71,4

69,0

Phân tích số liệu trong bảng trên, tôi nhận thấy như sau:
- Đối với các câu hỏi từ câu 1 → câu 11 là những câu hỏi khảo sát kiến thức
có trong bài học: 100% học sinh ở các lớp thực nghiệm và các lớp đối chứng
đều trả lời đúng. Như vậy, dù dạy theo các phương pháp dạy học có nhiều cơ hội
tích hợp giáo dục giá trị sống và rèn luyện kĩ năng sống hay dạy theo các
phương pháp dạy học khác thì cũng không ảnh hưởng đến việc lĩnh hội kiến
thức của học sinh.
- Đối với câu hỏi 12 và câu 13 là những câu hỏi khảo sát kiến thức pháp luật
liên quan đến nội dung bài học: 91,0% học sinh các lớp thực nghiệm trả lời đúng,
còn ở các lớp đối chứng chỉ có 71,4% học sinh trả lời đúng.
- Đối với các câu hỏi từ câu 14 → câu 17 là những câu hỏi khảo sát hiểu biết
xã hội nói chung: 93,2% học sinh các lớp thực nghiệm trả lời đúng, còn ở các lớp
đối chứng chỉ có 69,0% học sinh trả lời đúng. Như vậy, việc sử dụng các phương
pháp dạy học có nhiều cơ hội tích hợp giáo dục giá trị sống và rèn luyện kĩ năng
sống ở các lớp thực nghiệm đã có tác dụng kích thích ở học sinh nhu cầu tìm hiểu
những kiến thức pháp luật xung quanh bài học nói riêng và những kiến thức,
những vấn đề liên quan đến thực tiễn và mang tính thời sự nói chung, tức là đã
kích thích được tính tích cực, chủ động của học sinh trong quá trình học tập.
* Với các câu hỏi tình huống, từ câu 18 → câu 20:
Sự khác nhau trong nội dung câu trả lời của học sinh các lớp thực nghiệm và
các lớp đối chứng thể hiện rất rõ. Đa số học sinh các lớp đối chứng trả lời câu
hỏi rất đơn giản, nội dung câu hỏi chưa mang tính thuyết phục cao, chưa thể
hiện được vai trò tuyên truyền viên của mình. Tuy nhiên, ở các lớp thực nghiệm,
đa số học sinh đã biết phân tích tình huống rất tốt để từ đó đưa ra câu trả lời với
nội dung rất phong phú, thể hiện các em là những học sinh không chỉ nắm chắc
kiến thức mà còn là những tuyên truyền viên tích cực. Cụ thể, khi trả lời câu hỏi
19. “Một người nói với bạn “Không nên chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS tại
nhà”. Theo bạn quan niệm đó đúng hay sai? Tại sao?”, đã có học sinh trả lời như

sau: Quan niệm đó là sai, vì :
- HIV không lây truyền qua những tiếp xúc thông thường như bắt tay, ôm
hôn, ăn uống chung,.. do đó khi người nhiễm HIV bị ốm vẫn có thể chăm sóc tại

21


nhà mà không sợ lây cho người khác nếu chăm sóc theo đúng hướng dẫn chuyên
môn y tế.
- HIV chỉ lây truyền khi khu vực da, niêm mạc bị tổn thương có tiếp xúc trực
tiếp với máu và dịch sinh dục của người nhiễm HIV.
- Nếu tay, chân người nhiễm bị xây xát, khi chăm sóc bệnh nhân nhiễm
HIV/AIDS nên đi găng tay để phòng lây nhiễm HIV.
- Chăm sóc người bệnh là một trong những nhiệm vụ chức năng của các
thành viên trong gia đình, đặc biệt là gia đình Việt Nam.
Như vậy, các giá trị sống (Tôn trọng, không phân biệt đối xử, trách nhiệm với
bản thân và với mọi người trong vấn đề phòng tránh HIV) và các kĩ năng sống
(Phòng chống tệ nạn xã hội, bảo vệ cộng đồng; Tự bảo vệ bản thân bằng các
biện pháp cụ thể trước sự bùng nổ của đại dịch HIV/AIDS; Chống kỳ thị, phân
biệt đối xử đối với bệnh nhân HIV/AIDS; Rèn luyện kỹ năng làm quen, giao
tiếp, từ chối, kiên định). Tiếp tục rèn luyện kĩ năng phân tích, so sánh, khái quát
từ sự phát triển của HIV để giải thích được các triệu chứng của AIDS mà học
sinh có được sau khi kết thúc bài học ở các lớp thực nghiệm là nhiều hơn và ở
mức độ cao hơn so với lớp đối chứng, điều này chứng tỏ hiệu quả của việc tích
hợp giáo dục giá trị sống và rèn luyện kĩ năng sống qua bài học.
C - KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận
Sau khi được tập huấn tích hợp giáo dục giá trị sống và rèn luyện kĩ năng
sống vào quá trình dạy học môn Sinh học bậc THPT trong năm học 2011 – 2012
, tôi đã áp dụng vào những năm học tiếp theo đối với học sinh khối 10,11 và

khối 12 tại trường THPT Nguyễn Thị lợi, tôi thấy rằng: Tại các lớp thực nghiệm,
việc tích hợp giáo dục giá trị sống và rèn luyện kĩ năng sống trong dạy học đã
tạo được không khí lớp học sôi nổi, hứng thú; học sinh chủ động, tích cực hơn
trong việc lĩnh hội kiến thức mới và ôn tập kiến thức cũ, nhờ đó mà quá trình ghi
nhớ kiến thức được tăng độ sâu và độ bền. Đồng thời cũng thông qua việc tích
hợp giáo dục giá trị sống và rèn luyện kĩ năng sống trong giờ dạy đã giúp học
sinh yêu thích bộ môn hơn, các em không cảm thấy căng thẳng, mệt mỏi trong
mỗi tiết học mà ngược lại còn mong ngóng đến tết học vì sau mỗi tiết học các
em tự thấy mình đã tích lũy được ít nhiều vốn sống cần thiết cho bản thân.
Tuy nhiên để có thể tích hợp giáo dục giá trị sống và rèn luyện kĩ năng sống
trong dạy học, đòi hỏi người giáo viên cần phải:
- Giáo viên phải hiểu thế nào là giá trị sống và kĩ năng sống, phân biệt được
sự giống và khác nhau giữa giá trị sống và kĩ năng sống.
- Giáo viên phải vững vàng về kiến thức và linh hoạt về phương pháp sư
phạm để tùy từng bài học cụ thể mà dùng phương pháp nào, giáo dục giá trị
sống và rèn luyện kĩ năng gì cho học sinh. Đồng thời, có vững vàng về kiến thức
thì người giáo viên mới làm chủ được các tình huống có thể xảy ra trong các tiết
học lấy học sinh làm trung tâm.

22


- Giáo viên phải đầu tư nhiều công sức trong quá trình soạn giảng, dự kiến
được các tình huống có thể xảy ra trong mỗi tiết dạy, có như vậy tiết dạy mới
thực sự lấy học sinh làm trung tâm và người thầy mới thực sự là “trọng tài”
trong mỗi tiết học đó.
2. Đề xuất
Để tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên có thể tích hợp giáo dục giá trị sống
và rèn luyện kĩ năng sống trong các tiết dạy, chúng tôi xin đưa ra những đề nghị
sau:

- Số học sinh trong mỗi lớp học không quá đông, không gian lớp học không
quá chật hẹp.
- Nên có phòng học chức năng tốt.
XÁC NHẬN CỦA

Thanh Hóa, ngày.... tháng ... năm 2016

THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,

HIỆU TRƯỞNG

không sao chép nội dung của người khác.

TRẦN HIẾU MINH

Ngô Hữu Tư

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Quang Báo (chủ biên), Nguyễn Đức Thành (1996), Lý luận dạy
học sinh học – Phần đại cương, NXB Giáo dục.
2. Đinh Đỗ Đoàn (2010), Kỹ năng sống cho lứa tuổi học trò.
3.
Nguyễn Kỳ (1996), “Biến quá trình dạy học thành quá trình tự học”,
Tạp chí nghiên cứu giáo dục, số 3/1996.
4. Nguyễn Kỳ (1996), Mô hình dạy học tích cực lấy người học làm trung

tâm, Trường cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo Hà Nội.
5. Nguyễn Thị Lan, Rèn luyện kỹ năng sống qua phương pháp dạy học và
qua giờ học bộ môn, Trường THPT Lý Thường Kiệt – Thủy Nguyên – Hải
Phòng.
6. Ngô Văn Hưng (2006), Sinh học phổ thông trình bày theo lối mới, Tập
1,2, NXB Hà Nội.
7. Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa, “Hoạt động giáo dục giá trị
sống và kỹ năng sống cho học sinh trung học”, Tài liệu tập huấn giáo viên trung
học cơ sở, trung học phổ thông, NXB giáo dục, Hà nội.
8. Trần Bá Hoành (2008), Phát triển các phương pháp học tập tích cực
trong bộ môn Sinh học, NXB Giáo dục.
9. Lê Quang Long (1998), Một số kết quả thực nghiệm trong việc thiết kế
bài học sinh học để dạy và tự học theo phương pháp tích cực, NXB Giáo dục.

24


PHỤ LỤC
Phiếu khảo sát dưới đây được thiết kế nhằm thu thập dữ liệu cho việc
tích hợp giáo dục giá trị sống và rèn luyện kĩ năng sống thông qua dạy
học môn Sinh học ở trường THPT Nguyễn Thị Lợi. Tất cả dữ liệu thu
được từ bảng hỏi này chỉ nhằm phục vụ cho mục đích nâng cao chất
lượng dạy học bộ môn Sinh học tại Nhà trường.
PHIẾU KHẢO SÁT TÌM HIỂU VỀ HIV/ AIDS
- Họ và tên:.............................................................. - Tuổi:........... Giới tính: Nam /
Nữ
- Lớp:.................
Các em vui lòng cho biết ý kiến của mình về một số vấn đề dưới đây
bằng cách khoanh tròn vào một (hoặc nhiều) lựa chọn thích hợp và hoàn
thành câu hỏi ?

1. Em hãy cho biết, HIV không lây qua con đường nào sau đây?
A. Đường tình dục.
B. Giao tiếp thông thường (ôm hôn, bắt tay…).
C. Lây từ mẹ nhiễm HIV sang con.
D. Cả 3 đáp án trên.
2. Theo em, thời gian dự phòng lây nhiễm HIV tốt nhất là trong thời
gian nào?
A. Ngay sau 2-3 giờ đầu.
B. Sau 1 tuần.
C. Sau 10 ngày.
D. Khi xác định rõ nguồn lây nhiễm HIV của người lây nhiễm.
3. Em hãy cho biết, thời gian điều trị thuốc kháng virút HIV (ARV) cho
bệnh nhân AIDS là bao lâu?
A. 1 năm.
B. 3 năm.
C. 5 năm.
D. Suốt đời.
4. Em hãy cho biết dấu hiệu lâm sàng chính của AIDS?
A. Sút cân trên 10% trọng lượng cơ thể.
B. Sốt kéo dài trên 1 tháng.
C. Ỉa chảy kéo dài trên 1 tháng.
D. Cả 3 đáp án trên.
5. Em hãy cho biết, các giai đoạn lây truyền HIV từ mẹ sang con?
A. Khi mang thai.
B. Khi sinh con.
C. Khi cho con bú.
D Cả 3 đáp án trên.
6. Em hãy cho biết nguyên nhân gây ra HIV/AIDS là gì?
A. Vi khuẩn.
B. Nấm.

C. Vi rút.
D. Ký sinh trùng
7. Theo em, loại dịch nào trong cơ thể sau đây có nhiều vi rút HIV?
A. Nước bọt.
B. Nước mắt.
C. Tinh dịch.
D. Mồ hôi.
8. Theo em những nhóm người nào sau đây có nhiều nguy cơ lây nhiễm
HIV/AIDS?
25


×