Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Một số phương pháp khắc họa biểu tượng nhân vật lịch sử trong giảng dạy bài phong trào yêu nước chống pháp cuối thế kỉ XIX (lịch sử 11, chương trình cơ bản)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.07 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
Trang
I. MỞ ĐẦU

1

1. Lí do chọn đề tài

1

2. Mục đích nghiên cứu

1

3. Đối tượng nghiên cứu

2

4. Phương pháp nghiên cứu

2

II. NỘI DUNG

2

1. Cơ sở lí luận

2

2. Thực trạng vấn đề



3

3. Một số biện pháp tạo biểu tượng nhân vật lịch sử trong giảng dạy bài "
Phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỉ XIX"

4

3.1. Yêu cầu đối với việc khắc họa biểu tượng nhân vật lịch sử trong
giảng dạy Lịch sử

4

3.2. Các kiến thức cơ bản về nhân vật lịch sử tiêu biểu cần tạo biểu tượng
cho học sinh trong bài "Phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỉ XIX"

5

3.3.Một số biện pháp tạo biểu tượng nhân vật lịch sử trong giảng dạy bài "
Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam cuối thể kỉ XIX"

10

3.3.1. Hình thành mối quan hệ giữa nhân vật lịch sử với không gian và
thời gian.

10

3.3.2. Sử dụng nguồn tài liệu có liên quan về nhân vật trong tạo biểu
tượng nhân vật lịch sử

3.3.3. Kết hợp sử dụng tranh ảnh, chân dung nhân vật lịch sử kết hợp với
lời nói sinh động nhằm tạo biểu tượng nhân vật lịch sử

11

4. Hiệu quả

11

III. KẾT LUẬN

13
14

I. MỞ ĐẦU


1. Lí do chọn đề tài:
Trong dạy học lịch sử ở bậc THPT, việc hình thành tri thức, giáo dục tư
tưởng tình cảm và rèn luyện các kĩ năng cho HS qua dạy học các nhân vật lịch
sử đóng vai trò quan trọng. Dạy học nhân vật lịch sử không chỉ là truyền đạt
kiến thức mà còn giúp HS nhận thức một cách sâu sắc vai trò của nhân vật liên
quan đến sự kiện và mối quan hệ của nhân vật với hoàn cảnh lịch sử. Đây là
phương pháp cần thiết giúp cho HS lĩnh hội kiến thức đầy đủ và tích cực.
Trong những năm gần đây, chất lượng dạy và học môn Lịch sử chưa đáp
ứng được yêu cầu của thực tiến xã hội, nhiều học sinh còn rất mơ hồ về các nhân
vật lịch sử, các anh hùng dân tộc dẫn đến chưa nhận thức đúng những cống hiến
của các nhân vật lịch sử đối với sự phát triển của lịch sử dân tộc và lịch sử nhân
loại. Nguyên nhân của tình trạng này là do trong thực tiễn giảng dạy một số GV
khi giảng dạy các nhân vật lịch sử thường hay mắc phải những thiếu sót như

“thần thánh hóa” hoặc sa đà vào các chi tiết vụn vặt, ly kì về đời tư của nhân vật,
không coi trọng việc hiểu đúng và đánh giá khoa học về nhân vật lịch sử là một
yêu cầu quan trọng của việc nắm kiến thức lịch sử của HS. Do vậy, sự nhận thức
lịch sử của HS không sâu sắc, sai lệch và dĩ nhiên ảnh hưởng đến thái độ, tư
tưởng, tình cảm và hành động của các em trong cuộc sống.
Bên cạnh đó, trong sách giáo khoa, sách giáo viên và cả sách tham khảo
hiện nay vẫn chưa thực sự gắn liền sự kiện, hiện tượng lịch sử với các nhân vật
lịch sử. Một trong những nguyên nhân của hạn chế đó là do giới hạn số câu, số
chữ trong một cuốn sách, trong khi đó để khắc họa biểu tượng nhân vật lịch sử
thì cần số câu, số chữ dài kết hợp với hình ảnh và lời nói sinh động, hấp dẫn. Từ
đó dẫn đến Lịch sử trở nên khó hiểu, khó nhớ, khô khan, không hấp dẫn đối với
học sinh hiện nay. Tạo biểu tượng nhân vật lịch sử để tạo nên hứng thú học tập,
khơi dậy những xúc cảm đúng đắn, hình thành nên nhân cách cho học sinh, đồng
thời phát huy năng lực độc lập nhận thức học sinh đặc biệt là trí tưởng tượng,
khả năng quan sát, so sánh và đánh giá nhân vật, sự kiện , hiện tượng lịch sử là
việc làm rất cần thiết trong giảng dạy Lịch sử.
Xuất phát từ những lí do trên, với kinh nghiệm thực tiễn giảng dạy của
bản thân trong những năm qua tôi rút ra một số kinh nghiệm trong việc sử dụng
"Một số phương pháp khắc họa biểu tượng nhân vật lịch sử trong giảng dạy
bài phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỉ XIX (SGK Lịch sử 11Chương trình cơ bản)"
2. Mục đích nghiên cứu:
- Khẳng định lại vai trò, ý nghĩa của việc tạo biểu tượng về nhân vật lịch sử
trong giảng dạy bài Phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỉ XIX.

2


- Đề xuất các biện pháp tạo biểu tượng nhân vật lịch sử nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường THPT.
3. Đối tượng nghiên cứu:

- Vai trò, ý nghĩa của việc tạo biểu tượng nhân vật lịch sử, những phương
pháp để tạo biểu tượng nhân vật lịch sử trong giảng dạy bài Phong trào yêu nước
chống Pháp cuối thế kỉ XIX.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
- Phương pháp điều tra thực tế
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Phương pháp toán học thống kê.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận:
Lịch sử xã hội loài người là lịch sử của quần chúng nhân dân, song vai trò
của cá nhân cũng có ý nghĩa to lớn. Vì vậy, trong nghiên cứu, dạy học lịch sử
không thể không tìm hiểu về các nhân vật lịch sử. Sự hiểu biết về nhân vật lịch
sử là một thành phần quan trọng của kiến thức lịch sử. Do đặc điểm của bộ môn,
tạo biểu tượng về nhân vật là một nội dung quan trọng của dạy học lịch sử ở
trường THPT.
Nhận thức lịch sử là nhận thức những gì đã qua và không lặp lại cho nên
giai đoạn nhận thức cảm tính không thể tri giác trực tiếp mà phải thông qua sự
kiện lịch sử để tạo biểu tượng lịch sử từ đó hình thành khái niệm, rút ra quy luật
và bài học lịch sử rồi vận dụng vào thực tiễn. Muốn tái hiện bức tranh quá khứ
một cách sinh động chúng ta phải dựa trên cơ sở tài liệu tham khảo trong đó có
những câu chuyện, những giai thoại gắn liền với các nhân vật lịch sử.
Về việc đánh giá nhân vật lịch sử, V.I.Lênin đã nêu một nguyên tắc phương
pháp chỉ đạo cho việc nghiên cứu và học tập lịch sử, cũng như đối với các môn
khoa học xã hội và nhân văn khác, đặc biệt đối với hoạt động thực tiễn. Đó là:
Khi xem xét công lao lịch sử của một vĩ nhân, của các vĩ nhân, người ta không
căn cứ vào chỗ họ cống hiến được gì với nhu cầu của thời đại chúng ta mà căn
cứ vào chỗ họ đã cống hiến được gì mới so với các bậc tiền bối của họ. Lời chỉ
dẫn của Lênin giúp cho chúng ta khi xem xét, đánh giá một nhân vật lịch sử, thì
phải đặt nhân vật đó vào hoàn cảnh sinh sống, hoạt động của họ, phải xem xét

những cống hiến của họ đối với xã hội lúc bấy giờ.
Vì vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, khi đánh giá một nhân vật lịch
sử, chúng ta phải xem xét hoàn cảnh lịch sử mà họ sinh sống, hoạt động cụ thể,
3


phải tìm hiểu họ đấu tranh cho quyền lợi của giai cấp nào. Lịch sử xã hội đã chỉ
ra rằng, trong một thời điểm nhất định, cần phải có một cá nhân, một nhân vật
lỗi lạc xuất hiện để lãnh đạo quần chúng nhân dân thực hiện một nhiệm vụ cấp
bách mà thời đại đặt ra. Sự xuất hiện của các nhân vật lịch sử kiệt xuất trong
từng thời điểm lịch sử nhất định là tất yếu, hợp quy luật. Tuy nhiên, nhân vật mà
lịch sử yêu cầu đó là ai thì lại ngẫu nhiên, ngẫu nhiên nhưng lại phù hợp với quy
luật và thời đại nên nó phải là tất yếu.
Tóm lại, nhân vật lịch sử là những cá nhân có vai trò quan trọng đối với
một sự kiện, một thời kì lịch sử nhất định, trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Trong bối cảnh lịch sử đó, hoạt động của họ có tác dụng thúc đẩy hay kìm hãm
sự phát triển của sự kiện, hiện tượng, hay quá trình lịch sử. Hoạt động của nhân
vật lịch sử để lại nhiều dấu ấn trên nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã
hội. Có những nhân vật lịch sử chỉ giới hạn sự hoạt động và ảnh hưởng ở một
lĩnh vực nhất định. Nhưng có những nhân vật lịch sử lại phát huy tác động trên
nhiều lĩnh vực khác nhau. Việc tạo biểu tượng các nhân vật cho học sinh trong
dạy học lịch sử chính là việc khắc hoạ những hình ảnh, chi tiết đặc trưng
nhất, điển hình nhất về các nhân vật đó.
Tạo biểu tượng nhân vật lịch sử có tác dụng to lớn đến việc giáo dục chính
trị, tư tưởng, tình cảm đạo đức cho thế hệ trẻ. Tạo biểu tượng lịch sử, giúp các
em hình dung quá khứ lịch sử phong phú, đa dạng, chính xác, nhận thức đặc
điểm nổi bật của nhân vật, đặc trưng giai cấp mà nhân vật đó đại diện. Từ đó, sẽ
làm nảy sinh cho HS những tình cảm, thái độ trân trọng, yêu ghét rõ ràng. Nó
không chỉ tái tạo lịch sử mà còn có chức năng điều chỉnh mọi hành động. Trên
cơ sở những tuyến nhân vật khác nhau (nhân vật chính diện hay phản diện...)

GV hình thành cho HS lòng tự hào, kính phục các vĩ nhân, lãnh tụ, anh hùng
cách mạng đối với những nhân vật chính diện. Ngược lại, HS sẽ có thái độ căm
ghét những gì tàn bạo, độc ác của các nhân vật đại diện cho giai cấp thống trị, đi
ngược lại quyền lợi của quần chúng nhân dân.
Tóm lại, tạo biểu tượng lịch sử nói chung và tạo biểu tượng về nhân vật nói
riêng trong quá trình dạy học lịch sử ở trường THPT là một việc làm có ý nghĩa
lớn về cả ba mục tiêu giáo dưỡng, giáo dục và phát triển cho HS. Vì vậy, người
GV trong quá trình dạy học của mình, cần có những biện pháp tăng cường tạo
biểu tượng và tạo biểu tượng có hiệu quả, như vậy mới có thể nâng cao hiệu quả
dạy học trên tất cả các lĩnh vực.
2. Thực trạng vấn đề:
Thực tế, việc tạo biểu tượng nhân vật lịch sử ở trường phổ thông nói chung
và tại trường THPT Lang Chánh hiện nay đang diễn ra theo ba hướng:

4


Thứ nhất, với thời lượng 45 phút, hầu hết các giáo viên chỉ chăm chú truyền
đạt những sự kiện, những con số lịch sử với nguồn tài liệu tham khảo chủ yếu là
sách giáo khoa và sách giáo viên, thiếu các tài liệu tham khảo khác. Vì vậy, việc
dạy học rơi vào tình trạng lặp lại sách giáo khoa, chưa đáp ứng được yêu cầu
theo đặc trưng bộ môn. Thêm vào đó, một thực trạng khách quan là trong giảng
dạy, học tập, thi cử ở nhà trường phổ thông môn lịch sử chưa được coi trọng,
thậm chí nhiều lúc còn được coi là môn phụ. Tình trạng này, dẫn tới học sinh
chán học, ngại học môn Lịch sử hoặc các em chỉ học thụ động, đối phó.
Thứ hai, một số giáo viên đã chú ý hơn tới việc tạo biểu tượng các nhân vật
lịch sử ở trường phổ thông. Tuy nhiên, có thể do phương pháp không hợp lý,
chưa phù hợp với nội dung bài học hoặc chưa cân đối với thời lượng tiết học nên
hiệu quả chưa cao. Ở một số trường hợp thực tế, thay vì tạo biểu tượng nhân vật
lịch sử cho học sinh, người thầy lại quá sa đà vào việc kể các câu chuyện về

nhân vật lịch sử nên đã dẫn đến việc “cháy giáo án”, không cung cấp đủ nội
dung kiến thức mà bài học yêu cầu.
Thứ ba, về thái độ của giáo viên đối với vai trò của việc tạo biểu tượng về
nhân vật lịch sử trong đổi mới dạy học lịch sử thì phần nhiều giáo viên đều nhận
thức được vai trò của việc tạo biểu tượng nhân vật trong dạy học lịch sử và cũng
rất tâm huyết với việc tạo biểu tượng nhân vật trong dạy học lịch sử. Tuy nhiên,
do điều kiện cơ sở vật chất, do thời lượng chương trình, do những khó khăn
khác… nên chưa thể tạo biểu tượng nhân vật lịch sử đạt hiệu quả cao.
Đối với việc tìm hiểu về biểu tượng nhân vật lịch sử, nhiều học sinh rất
thích với việc tìm hiểu về các nhân vật trong học tập bộ môn lịch sử. Nhưng số
đông học sinh chỉ nhớ được một số sự kiện lịch sử cụ thể (những sự kiện phổ
biến và cơ bản nhất), một số còn rất mơ hồ hay nhầm lẫn về các nhân vật lịch sử
(tên của nhân vật này nhưng lại kể về nhân vật khác). Mặt khác, tài liệu học tập
ít, các em không có điều kiện tiếp cận với các nguồn tài liệu tham khảo, tài liệu
học tập chủ đạo của các em chỉ là sách giáo khoa.
Thực tế trên cho thấy, việc sử dụng phương pháp dạy học nói chung, tạo
biểu tượng về nhân vật trong dạy học lịch sử nói riêng còn nhiều hạn chế. Để
nâng cao chất lượng dạy học hiện nay, cụ thể là để việc tạo biểu tượng nhân vật
trong dạy học lịch sử đạt hiệu quả cao hơn cần tìm ra những giải pháp khắc phục
hạn chế.
3. Một số biện pháp tạo biểu tượng nhân vật lịch sử trong giảng dạy bài
"Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những
năm cuối thế kỉ XIX":
3.1. Yêu cầu đối với việc khắc họa biểu tượng nhân vật lịch sử trong
giảng dạy Lịch sử:
5


- Tính khách quan: Đây là một yêu cầu rất quan trọng khi tìm hiểu về
nhân vật lịch sử. Khi nhận định, đánh giá về nhân vật lịch sử không nên áp đặt ý

kiến chủ quan của cá nhân cho học sinh. Để đánh giá một nhân vật, phải xem xét
hoàn cảnh lịch sử mà họ sinh sống, hoạt động cụ thể, phải tìm hiểu họ đấu tranh
cho quyền lợi của giai cấp nào. Khi xét công lao lịch sử của một cá nhân, người
ta không căn cứ vào chỗ họ cống hiến được gì so với thời đại mà chúng ta đang
sống mà căn cứ vào những đóng góp của họ cho thời đại mà chính họ đang sống.
- Tính chính xác khoa học của các tài liệu về nhân vật lịch sử: Một trong
những yêu cầu quan trọng cần phải đạt được khi tạo biểu tượng lịch sử cho học
sinh là đảm bảo tính cụ thể, chính xác của những kiến thức về sự kiện, nhân vật,
nhằm giúp các em biết và hiểu lịch sử, phù hợp với quy luật chung của sự nhận
thức, theo yêu cầu và trình độ học tập của mình.
- Những nhân vật cơ bản gắn với sự kiện cơ bản của bài học: lựa chọn
nhân vật để tạo biểu tượng phải được xét trong mối tương quan với nội dung bài
học. Cần lựa chọn những nhân vật điển hình, tiêu biểu về hoạt động và tính cách
để mang lại hiệu quả cao cho một tiết học.
- Tính trực quan, sinh động: Muốn bài học lịch sử nói chung và việc tạo
biểu tượng nhân vật lịch sử nói riêng đáp ứng được tính trực quan, lại sinh động,
lôi cuốn, hấp dẫn đòi hỏi nhiều ở kinh nghiệm và khả năng của người giáo viên.
Giáo viên phải biết kết hợp nhiều phương pháp như trình bày miệng sinh động,
hấp dẫn kết hợp với sử dụng tranh ảnh, phim tư liệu, tài liệu tham khảo,... Lời
nói giàu hình ảnh của giáo viên có thể tạo hình ảnh trực quan trong óc học sinh
song tính trực quan sẽ tăng lên rất nhiều nếu như giáo viên biết kết hợp với các
loại đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử.
- Phù hợp yêu cầu của chương trình và nội dung bộ môn: nhân vật và kiến
thức lịch sử cung cấp cho học sinh trước hết phải giúp các em khôi phục quá
khứ khách quan rồi hiểu sâu sắc, và tìm ra cách vận dụng kiến thức đã học vào
cuộc sống. Việc tạo biểu tượng nhân vật lịch sử trong giảng dạy bài "phong trào
yêu nước chống Pháp cuối thế kỉ XIX" ở trường phổ thông không phải chỉ có ý
nghĩa giáo dưỡng mà còn có ý nghĩa giáo dục và phát triển sâu sắc. Do đó, từ
việc giúp học sinh nắm vững kiến thức lịch sử dân tộc giai đoạn này, việc tạo
biểu tượng nhân vật lịch sử phải giáo dục các em lòng kính trọng, noi gương các

anh hùng và hành động phù hợp với cuộc sống hiện tại; đồng thời rút ra phương
pháp nhìn nhận, đánh giá các sự kiện, nhân vật một cách đúng đắn, chính xác.
3.2. Các kiến thức cơ bản về nhân vật lịch sử tiêu biểu cần tạo biểu
tượng cho học sinh trong bài "Phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỉ
XIX":

6


Để giúp học sinh nhận thức được phong trào yêu nước chống Pháp của
nhân dân ta trong những năm cuối thế kỉ XIX, giáo viên cần làm rõ được hoàn
cảnh lịch sử bùng nổ các phong trào đấu tranh, nắm được diễn biến cơ bản của
một số cuộc khởi nghĩa tiêu biểu như: Ba Đình, Bãi Sậy, Hương Khê, Yên Thế;
khắc họa được biểu tượng các nhân vật lịch sử tiêu biểu gắn liền với các cuộc
khởi nghĩa thời kì này, đó là:
* Tôn Thất Thuyết (1835-1913):
- Tôn Thất Thuyết sinh ra ở thôn Phú Mộng, xã Xuân Long (Huế), là người
trong hoàng tộc, nhưng thuộc một chi xa dòng chính.
- Người cầm đầu phe chủ chiến trong triều đình Huế.
- Ngày 21/12/1873, Tôn Thất Thuyết tham gia trận đánh quan Pháp ở Cầu
Giấy cửa ngõ phía tây Hà Nội, lần thứ nhất cùng một đọi quân Cờ đen của Lưu
Vĩnh Phúc giết Gác-ni-ê tại trận làm cho nhân dân ta phấn khởi, khiến quân
Pháp ở Hà Nội hoảng sợ, tiếng tăm Tôn Thất Thuyết tăng lên.
- Ông giữ nhiều chức vụ quan trọng dưới thời vua Tự Đức, vua Dục Đức,
vua Hiệp Hoà. Dưới thời vua Hàm Nghi, trở thành cái gai mà người Pháp muốn
nhổ.
- Tháng 6/1883 Tôn Thất Thuyết được sung vào Viện Cơ mật. Sau khi Tự
Đức mất, ông là một trong ba Phụ chính đại thần, đồng thời giữ chức Thượng
thư bộ binh nắm trong tay binh quyền. Lúc bấy giờ, triều đình đã đầu hàng thực
dân Pháp, kí các hiệp ước 1883, 1884 thừa nhận quyền đô hộ của chúng. Nhưng

trước sau ông vẫn là người chủ chiến, cầm đầu phái kháng chiến trong triều,
kiên quyết chống lại những hoạt động phản bội của bọn đầu hàng và ra sức
chuẩn bị lực lượng để đánh giặc giành lại chủ quyền. Phái chủ chiến trong triều
đình, do Tôn Thất Thuyết cầm đầu, đã chuẩn bị lực lượng chống Pháp (xây dựng
hệ thống sơn phòng dọc theo sườn Đông Trường Sơn, chuyển súng lớn (Thần
công) kho tàng, lương thực ra Tân Sở). Ngay ở kinh thành ông vẫn tuyển mộ
binh lính, cương quyết phế truất, trừ khử các vua nối ngôi Tự Đức tỏ ý thân
Pháp, Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc và chọn Hàm Nghi lên ngôi. Ông cũng
trừng trị các đại thần muốn đầu hàng Pháp để giành thế chủ động và làm thất bại
âm mưu của thực dân Pháp,
- Tổ chức lực lượng, phản công đánh chiếm các đồn bốt của Pháp tai kinh
thành Huế (đêm ngày 5/7/1885) nhưng không thành công. Đêm ngày 5/7/1885,
ông tấn công các căn cứ đồn trú của Pháp ở Huế. Bị đánh bất ngờ, lúc đầu quân
Pháp hoảng loạn, nhưng sau đó chấn chỉnh lực lượng phản công chiếm lại kinh
thành, tàn sát nhân dân dã man.

7


- Thay mặt vua Hàm Nghi, ông xuống chiếu Cần Vương làm bùng nổ
phong trào Cần Vương chống Pháp(1885-1896).Tôn Thất Thuyết phải đưa Hàm
Nghi ra sơn phòng Tân Sở (Quảng Trị). Ở đây thay mặt Hàm Nghi xuống chiếu
Cần vương, kêu gọi toàn dân kháng chiến. Phong trào gặp nhiều khó khăn Tôn
Thất Thuyết đã giao trách nhiệm lãnh đạo cho các thủ hạ và con trai là Tôn Thất
Đàm và Tôn Thất Thiệp, rồi sang Trung Quốc mưu cầu viện trợ. Về sau triều
đình nhà Thanh cấu kết với thực dân Pháp đã đày Tôn Thất Thuyết đi Thiều
Châu. Ông mất tháng 3/1913, thọ 79 tuổi. Tôn Thất Thuyết là nhân vật tiêu biểu
của phái chủ chiến, thể hiện quyết tâm chống Pháp.
* Hàm Nghi (1870-1943):
- Ông vua yêu nước

- Có thái độ chống Pháp
- Sau vụ biến kinh thành ngày 5/7/1885, chạy ra Tân Sở (Quảng Trị) tổ
chức lực lượng chống Pháp.
- Ra chiếu Cần Vương, kêu gọi quan lại và nhân dân giúp vua chống Pháp
bảo vệ triều đình.
- Không chịu khuất phục khi bị bắt.
* Nguyễn Thiện Thuật (1844-1926):
- Lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy (1883-1892).
- Tháng 8-1883, khi Pháp chiếm Hải Dương, mộ quân mưu đánh chiếm lại
tỉnh lỵ, song thất bại.
- Hưởng ứng chiếu Cần Vương, tháng 7-1885, chiêu mộ quân khởi nghĩa,
hoạt động ở vùng Bãi Sậy, và mở rộng cả vùng đồng bằng Bắc Bộ.
- Đánh địch nhiều trận thắng lợi.
* Phạm Bành (1827-1887) và Đinh Công Tráng (1842-1887):
- Lãnh tụ nghĩa quân cuộc khởi nghĩa Ba Đình (1886-1887).
- Phạm Bành là viên quan chủ chiến, treo ấn từ quan về quê vận động sĩ
phu và nhân dân nổi dậy khởi nghĩa.
- Đinh Công Tráng, một cựu chánh tổng, từng chiến đấu trong quân đội
Hoàng Tá Viêm chống Pháp. Người trực tiếp chỉ huy quân sự trong cuộc khởi
nghĩa Ba Đình.
* Phan Đình Phùng ( 1847-1895):
- Quê làng Đông Thái, xã Tùng Ảnh, Đức Thọ, Hà Tĩnh, trong một gia
đình nho học.
8


- Năm 1883, do bất đồng quan điểm với Tôn Thất Thuyết về việc phế vua
Dục Đức lập vua Hiệp Hoà nên bị cách chức đuổi về quê.
- Năm 1884, Phan Đình Phùng được phục chức rồi bổ làm Tham biện sơn
phòng Hà Tĩnh. Năm 1885, vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở lẩn tránh, Phan Đình

Phùng đã quên nỗi hiềm khích riêng, nhanh chóng sát cánh cùng Tôn Thất
Thuyết chống Pháp. Hưởng ứng dụ Cần Vương của vua, dù đang có tang mẹ,
Phan Đình Phùng vẫn đứng ra chiêu tập lực lượng chống Pháp. Ông được vua
phong làm Tán lí quân vụ lãnh đạo nghĩa quân xây dựng căn cứ tại huyện
Hương Sơn, Hương Khê. Lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896).
Suốt 10 năm (1885 – 1895), cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng lãnh đạo đã
giao chiến với Pháp nhiều trận gây cho đối phương nhiều tổn thất nặng nề, tiêu
biểu nhất là trận Vụ Quang (1894). Ở trận này, ông cho nghĩa quân lên tận
nguồn sông chặt gỗ to làm kè chặn nước và đẵn nhiều khúc gỗ thả sẵn trên
nguồn. Giặc đến, nghĩa quân để cho chúng yên ổn đi qua một khúc sông cạn
nước, chờ lúc giặc đến giữa dòng, ông ra lệnh phá kè trên nguồn. Nước bị dồn ứ
từ lâu, đến lúc được tháo, ào ào chảy xuống, kéo theo những khúc gỗ chặt để
sẵn, vun vút lao xuống. Quân địch phần bị nước cuốn bất ngờ, phần bị gỗ to lao
vào người, phần bị nghĩa quân mai phục hai bên bờ bắn ra nên bị chết rất nhiều.
- Xây dựng một hệ thống căn cứ chống Pháp lớn. Chế tạo được vũ khí hiện
đại chống Pháp.
- Được sự giúp đỡ của nhân dân các tỉnh Bắc Trung Kỳ.
- Giành được nhiều chiến thắng điển hình là trận Vụ Quang.
- Cuối tháng 12/1895, Phan Đình Phùng bị thương và tạ thế tại núi Quạt
(Hương Khê). Thực dân Pháp đã cho người quật mộ ông và đốt xác lấy tro nhồi
thuốc súng bắn xuống sông La. Chỉ điều này thôi cũng đủ minh chứng cho tầm
vóc lớn của cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng tổ chức và lãnh đạo và tinh
thần chiến đấu xả thân vì nước của Phan Đình Phùng. Không chỉ nhân dân tôn
sùng Phan Đình Phùng, mà kẻ thù cũng tỏ lòng khâm phục kiêng nể. Đại úy
Getxơlanh, chỉ huy quân Pháp, đàn áp khởi nghĩa Hương Khuê, phải khâm phục:
Quan Đình - nguyên Phan Đình Phùng có tài điều khiển việc quân binh, biết
luyện tập sĩ tốt theo phong thái Tây, áo mặc một lối, và đeo súng kiểu 1874,
nhưng súng Tây là súng của người quan Đình nguyên đúc ra thật nhiều mà máy
móc cũng hệt như súng Pháp, chỉ vì nòng súng không có xẻ rãnh nên đạn không
đi xa được.

* Cao Thắng(1864 - 1893):
- Trợ thủ đắc lực của Phan Đình Phùng, xuất thân từ quần chúng nhân dân
lao động.
9


- Cao Thắng người xã Tuấn Lễ (nay là Sơn Lễ), huyện Hương Sơn tỉnh Hà
Tĩnh. Ông xuất thân trong một gia đình nghèo, nhưng ham học nên giỏi cả văn
lẫn võ. Năm 20 tuổi, Cao Thắng theo nghĩa quân của Trần Quang Cán chống
giặc tại quê nhà. Khi Phan Đình Phùng dấy binh, Cao Thắng cùng em là Cao
Nữu đem binh lực của mình về với Phan Đình Phùng và nhanh chóng trở thành
cánh tay phải của Phan Đình Phùng.
- Năm 1886 khi Phan Đình Phùng ra Bắc, Cao Thắng được giao nhiệm vụ
chỉ huy nghĩa quân, đặc biệt là tổ chức rèn đúc vũ khí, sản xuất đạn dược. Ông
đã đứng ra tổ chức rèn đúc vũ khí, đặc biệt là đã làm được súng trường kiểu
1874 của Pháp. Hàng trăm thợ rèn ở lại làng Trung Lương và Vân Chàng (Đức
Thọ, Hà Tĩnh) được Cao Thắng huy động lên đồn trại để đúc súng. Những khẩu
súng trường tự chế tạo này đã gây cho Pháp nỗi khiếp đảm và nhiều tướng tá
Pháp phải khâm phục.
- Quân Pháp dựa vào sức mạnh quân sự, tăng cường bao vây, đánh phá
hòng tiêu diệt nhanh chóng nghĩa quân Hương Khê. Để phá vỡ thế bao vây của
địch, Cao Thắng quyết định đánh vào tỉnh lị Nghệ An. Ngày 21/11/1893 trong
trận tấn công đồn Nu (Thanh Chương – Nghệ An) trên đường hành quân về
Vinh, Cao Thắng đã trúng đạn và hi sinh năm 29 tuổi, gây tổn thất lớn cho nghĩa
quân.
- Cao Thắng là biểu tượng cho sức sáng tạo, sự thông minh của nhân dân ta
trong cuộc đấu tranh chống Pháp. Ông được coi là ông tổ của ngành quân giới
nước ta.
* Hoàng Hoa Thám (1858-1913):
- Hoàng Hoa Thám, không phải văn thân cũng không phải là tù trưởng, hào

trưởng mà là người nông dân nghèo. Quê gốc ở Hưng Yên, sau vì nghèo túng
quá nên di chuyển lên Bắc Giang đi ở cho những nhà điền chủ trong vùng. Tên
trước kia là Trương Văn Thám (sau này khởi nghĩa gọi là Hoàng Hoa Thám).
Hoàng Hoa Thám có biệt tài quân sự ngay từ khi còn trẻ, lại là người trung thực
kiên nghị nên được Hoàng Đình Kính yêu mến nhận làm con nuôi. Hoàng Hoa
Thám đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Thế từ 1884 – 1913.
- Lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Thế.
- Tổ chức lực lượng, xây dựng căn cứ, chiến đấu và thương thuyết với địch,
duy trì cuộc đấu tranh trong khoảng 30 năm.
- Ngày 10/2/1913, Đề Thám bị giết hại tại khu rừng cách chợ Gồ khoảng
2km. Việc Hoàng Hoa Thám chết đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của phong trào
nông dân Yên Thế.

10


3.3. Một số biện pháp tạo biểu tượng nhân vật lịch sử trong giảng dạy
bài " Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam cuối thể kỉ
XIX":
3.3.1. Hình thành mối quan hệ giữa nhân vật lịch sử với không gian
và thời gian:
Một sự kiện lịch sử được cấu thành bởi ba yếu tố: thời gian, không gian,
con người. Vì vậy, con người hoạt động luôn ở trong một không gian và thời
gian cụ thể. Hình thành mối quan hệ giữa nhân vật và thời gian, không gian là
đặt nhân vật trong bối cảnh họ sống và hoạt động để tạo biểu tượng cụ thể về
từng nhân vật, tránh hiện tượng nhầm lẫn và “hiện đại hóa” nhân vật lịch sử. Tạo
được biểu tượng về không gian và thời gian nhân vật hoạt động một cách sinh
động cũng là cách để giảng dạy nhân vật đạt hiệu quả. Nhớ và hiểu về con người
không thể tách rời bối cảnh họ sống và hoạt động.
Thứ nhất, là hình thành mối liên hệ giữa nhân vật với thời gian: Nhân vật

liên hệ với thời gian bởi năm sinh, năm mất và khoảng thời gian nhân vật hoạt
động gắn với các sự kiện lịch sử xác định. Điều đó có nghĩa là trong khi tạo biểu
tượng về nhân vật lịch sử thì giáo viên chú ý xác định liên hệ giữa yếu tố con
người với thời gian để hình thành hình ảnh về nhân vật toàn diện và hệ thống về
họ.
Nhân vật lịch sử là con người có vai trò quan trọng đối với một thời kì lịch
sử nhất định, hoạt động của nhân vật thường liên quan đến những sự kiện lịch sử
có ý nghĩa lớn, vì thế GV thông qua việc khắc sâu thời gian diễn ra sự kiện mà
nêu lên mối liên hệ với hoạt động của nhân vật. Quan hệ giữa nhân vật về mặt
thời gian có thể là cùng một thời gian có nhiều nhân vật hoạt động trong cả giai
đoạn lịch sử, hoặc các nhân vật hoạt động với mục đích như nhau, cùng tính chất
với nhau nhưng trong những khoảng thời gian khác nhau.
Thứ hai, là hình thành mối liên hệ giữa nhân vật với không gian. Tạo biểu
tượng về không gian trong dạy học nhân vật cần xác định rõ các đặc điểm cụ thể
về địa hình, truyền thống dân cư, đặc điểm kinh tế xã hội nơi mà nhân vật hoạt
động. Mối quan hệ giữa nhân vật và không gian rất phong phú đa dạng, có thể là
trong một thời gian có nhiều nhân vật hoạt động ở những không gian khác nhau
hoặc một nhân vật nhưng hoạt động ở nhiều không gian và qua một chuỗi các
hoạt động tạo nên biểu tượng hoàn chỉnh về nhân vật. Như cùng trong phong
trào Cần vương diễn ra nhiều cuộc khởi nghĩa khắp nhơi trong nước, lớn nhất là
các cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, Ba Đình, Hương Khê (dùng bản đồ để chỉ rõ điều
này và giải thích về quy mô, tính nhân dân của phong trào).
GV cũng hướng dẫn HS nhận biết về địa bàn hoạt động của các cuộc khởi
nghĩa trong phong trào Cần vương với phong trào nông dân Yên Thế.
11


Mỗi nhân vật hoạt động trong một không gian cụ thể khác nhau với những
nét đặc trưng khác nhau rõ ràng không thể nhầm lẫn được. Cũng là ở vùng rừng
núi nhưng căn cứ của Hoàng Hoa Thám khác với căn cứ Hương Khê của Phan

Đình Phùng, cũng là căn cứ ở cùng đồng bằng nhưng cộng sự mà Phạm Bành –
Đinh Công Tráng xây dựng khác Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật. Như vậy, khi
tạo biểu tượng về không gian có liên quan đến nhân vật thì hình ảnh nhân vật
được hiện lên rõ với trung tâm điểm gắn liền với hoạt động của họ.
3.3.2. Sử dụng nguồn tài liệu có liên quan về nhân vật trong tạo biểu
tượng nhân vật lịch sử:
Sử dụng tài liệu về tiểu sử nhân vật trong dạy học lịch sử cần khai thác
những kiến thức về hoàn cảnh xuất thân, quá trình hoạt động của bản thân.
Những điều này được chọn lựa một cách khoa học, sống động để HS có biểu
tượng hoàn chỉnh về một nhân vật lịch sử.
Muốn sử dụng tài liệu của nhân vật có hiệu quả, điều cốt yếu trước tiên là
phải nắm được cuộc đời và hoạt động của nhân vật, khai thác những điểm nổi
bật đặc sắc nhất, liên quan đến sự kiện lớn của dân tộc, cách mạng. Vì vậy, khi
sử dụng tiểu sử nhân vật trong dạy học cần chú ý yêu cầu cơ bản là phù hợp với
nội dung bài học, không được lan man.
Sử dụng nhận xét, đánh giá về nhân vật trong dạy học lịch sử là một biện
pháp cần thiết để hiểu sâu sắc hơn con người và xã hội đương thời. Khi tạo biểu
tượng về Phan Đình Phùng cần khai thác, minh chứng lời nhận xét Đại úy
Getxơlanh - chỉ huy quân Pháp đàn áp cuộc khởi nghĩa Hương Khê phải khâm
phục:
Quan Đình nguyên Phan Đình Phùng có tài điều khiển việc quân binh, biết
luyện tập sĩ tốt theo phong thái Tây, áo quần mặc một lối, và đeo súng kiểu
1874, nhưng súng tây là súng của người quan Đình nguyên đúc ra thật nhiều
mà máy móc cũng hệt như súng Pháp, chỉ vì nòng súng không xẻ rãnh, cho nên
đạn không đi xa được.
Hay khi tạo biểu tượng về Hoàng Hoa Tham cần khai thác, minh chứng lời
ca tụng Hoàng Hoa Thám, “Con hùm xám Yên Thế” của Hồ Chí Minh:
Giang san độc lập một miền.
Ông Hoàng Hoa Thám đất yên tung hoành
3.3.3. Kết hợp sử dụng tranh ảnh, chân dung nhân vật lịch sử kết hợp với

lời nói sinh động nhằm tạo biểu tượng nhân vật lịch sử:
Lời nói của GV trong tạo biểu tượng nhân vật lịch sử cho HS THPT có thể
được sử dụng trong các trường hợp sau:
12


Thứ nhất: giới thiệu bài mới nhằm tạo cho HS hứng thú ban đầu, chuẩn bị
tâm thế tập trung vào bài học. Với phần mở đầu, GV phải diễn đạt ngắn gọn,
giàu tính khái quát và gợi cảm xúc, khêu gợi hứng thú, hướng tâm trí các em vào
việc tìm sự kiện, nhân vật sắp được học.
Khi dạy học bài 21. “Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt
Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX”, GV có thể mở đầu: Năm 1884 sau hiệp
ước Patơnốt thực dân Pháp đã đặt được ách thống trị trên toàn cõi Việt Nam.
Tuy vậy, trên thực tế chúng mới chỉ khuất phục được bộ phận phong kiến đầu
hàng, còn đông đảo quần chúng nhân dân vẫn nuôi trí chờ thời, sẵn sàng đứng
lên chống xâm lược. Để hiểu được phong trào yêu nước chống Pháp của nhân
dân ta cuối thế kỉ XIX diễn ra như thế nào chúng ta cùng học bài 21.
Thứ hai: GV mô tả, tường thuật, kể chuyện về nhân vật lịch sử, sự kiện
lịch sử. Trong trường hợp này, lời nói của GV cần đạt những yêu cầu sau:
- Rõ ràng, ngắn gọn, mang tính thông báo khi trích dẫn tài liệu từ các văn
bản, hoặc SGK.
- Sinh động giàu hình ảnh khi kể chuyện minh họa làm nổi bật nội dung cơ
bản của bài học, hoặc phục vụ bổ ích, gắn với thực tế chung quanh
- Sử dụng tranh ảnh một cách phù hợp có ý nghĩa. Hiệu quả của tranh ảnh
lịch sử được nâng cao rất nhiều nếu chúng được xuất hiện đúng vào lúc mà nội
dung, phương pháp của bài giảng cần đến tranh ảnh. Cần đưa tranh ảnh theo
trình tự bài giảng, tránh việc trưng bày hàng loạt tranh ảnh khiến cho HS không
biết bức tranh, hình ảnh nào là quan trọng nhất.
Khi dạy bài 21. “Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam
trong những năm cuối thế kỉ XIX”, mục 2 “ Một số cuộc khởi nghĩa tiêu biểu

trong phong trào Cần vương và phong trào đấu tranh tự vệ cuối thế kỉ XIX”, GV
có thể kể đôi nét về Phan Đình Phùng cùng cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo:
“Phan Đình Phùng người làng Đông Thái (này là Đức Phong) huyện Đức Thọ,
tỉnh Hà Tĩnh. Ông đỗ Đình nguyên Tiến sĩ khoa Đinh Sửu (1877) đời Tự Đức.
Lúc đầu ông được bổ làm tri huyện Yên Khánh (Ninh Bình), rồi về kinh sung
vào Viện Đô sát giữ chức Ngự sử. Suốt 10 năm (1885 – 1895), cuộc khởi nghĩa
do Phan Đình Phùng lãnh đạo đã giao chiến với Pháp nhiều trận gây cho đối
phương nhiều tổn thất nặng nề, tiêu biểu nhất là trận Vụ Quang (1894). Mặc dù
nghĩa quân do ông tổ chức, chiến đấu ngoan cường dũng cảm, nhưng cuối cùng
trước sự bao vây của thực dân Pháp với vũ khí hiện đại, lực lượng nghĩa quân
13


đã bị đánh bại. Như vậy, GV có thể giúp HS có những hiểu biết cơ bản về Phan
Đình Phùng cùng cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo.
Thứ ba: GV tổng kết, khái quát nhằm khắc sâu biểu tượng. Lời nói phải cô
đọng, súc tích với ngữ điệu trầm lắng, có sức truyền cảm như lời kết thúc một
câu chuyện lịch sử và mở ra những cảm xúc cho mỗi HS.
Qua lời nói của GV, mỗi nhân vật hiện lên với những hình ảnh khác nhau
làm cho HS dễ dàng phân biệt nhận diện được họ. Ví như, qua đoạn miêu tả
chân dung vua Hàm Nghi, GV làm hiện lên không chỉ hình dáng bên ngoài giản
dị, đời thường mà còn nêu bật khí phách của ông. Ấn tượng đẹp về vua Hàm
Nghi lưu lại trong HS không những là thái độ khâm phục, quý mến mà từ đó
nhận thức được phong trào Cần vương chống Pháp mà vua Hàm Nghi là một
nhân vật tiêu biểu.
khi dạy về Hoàng Hoa Thám, nếu chỉ nêu tên nhân vật gắn với hoạt động
chính là phong trào nông dân Yên Thế thì hình ảnh về nhân vật trong ký ức của
HS rất mờ nhạt, không cụ thể bằng khi GV sử dụng các chi tiết nổi bật về hình
dáng, tính cách để khắc họa về ông: “Với thân hình vạm vỡ, tóc thường cắt
ngắn, mắt một mí, rất giản dị, thuần phác và chẳng bao giờ cởi mở hết lòng với

ai nhưng sự can đảm và tài năng chiến đấu của ông thì thực sự là một chiến binh
xuất sắc. Nhân dân coi ông như một nhân vật thần kỳ, ngay cả kẻ thù cũng ca
ngợi Để Thám rất can đảm, ưa hành động, bản năng chiến trận của ông thật kỳ
diệu”.
4. Hiệu quả:
Từ thực tiễn giảng dạy trong những năm vừa qua, tôi nhận thấy việc khắc
họa biểu tượng nhân vật lịch sử trong giảng dạy các bài học lịch sử đã từng bước
nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Mặc dù thời gian rất hạn chế nhưng tôi đã
vận dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào các tiết dạy và đã đạt được kết quả khả
quan. Trước hết bản thân đã nhận thấy rằng những kinh nghiệm này rất phù hợp
với chương trình sách giáo khoa mới và với những tiết dạy theo hướng đổi mới.
Học sinh có hứng thú học tập hơn, tích cực chủ động sáng tạo để mở rộng vốn
hiểu biết, đồng thời cũng rất linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội
kiến thức và phát triển kĩ năng. Không khí học tập sôi nổi, nhẹ nhàng và học
sinh yêu thích môn học hơn. Tôi cũng hi vọng với việc áp dụng đề tài này học
sinh sẽ đạt được kết quả cao trong các kì thi và đặc biệt học sinh sẽ yêu thích
môn học này hơn.
14


III. KẾT LUẬN
Việc xây dựng nhân vật lịch sử trong bài giảng chỉ là một khía cạnh
trong toàn bộ nội dung bài giảng lịch sử, góp phần kích thích tạo nên sự tích
cực, chủ động sáng tạo trong hoạt động dạy- học thông qua đó hình thành cho
các em thái độ, tư tưởng tình cảm đóng góp phần quan trọng trong việc hoàn
thiện nhân cách.
Việc tạo biểu tượng nhân vật trong chương trình lịch sử ở trường phổ thông
có ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. Nó góp phần giúp các em học
sinh hiểu sâu sắc hơn lịch sử (dân tộc và thế giới), bồi dưỡng những quan điểm
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng và cá

nhân trong lịch sử, về mối quan hệ giữa cá nhân và quần chúng, giáo dục lòng
biết ơn, sự noi gương tổ tiên và phát huy tính tích cực trong tư duy và hành
động.
Muốn nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ thông, một vấn đề
mà giáo viên cần nhận thức đúng là dạy học các nhân vật lịch sử. Bởi vì, những
kiến thức về nhân vật lịch sử là một loại kiến thức cơ bản, quan trọng của khóa
trình lịch sử. Để tạo biểu tượng nhân vật cho HS cần kết hợp sử dụng các biện
pháp sư phạm theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, năng động, chủ động,
sáng tạo của HS.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 25 tháng 05 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không
sao chép nội dung của người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Nguyễn Đình Bảy

Nguyễn Thị Hà

15



×