Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

skkn sử dụng và khai thác đồ dùng trực quan trong dạy bài 20 xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỷ x XV lịch sử lớp 10 chương trình chuẩn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (825.87 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
Phần
I. MỞ ĐẦU……………………………………………………………..
1. Lí do chọn đề tài…………………………………………………..
2. Mục đích nghiên cứu………………………………………………
3. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………….
4. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM………………………...
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm…………………………
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm……
3. Các giải pháp…………………………………………………….
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường……………………………..
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ………………………………………….
1. Kết luận………………………………………………………….
2. Kiến nghị………………………………………………………..
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………..

Trang
2
2
3
3
3
3
3
4
5
20
20
20


21
22

1


KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN
TRONG DẠY BÀI 20:XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN
HÓA DÂN TỘC TRONG CÁC THẾ KỶ X-XV
LỊCH SỬ LỚP 10 - CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Sở dĩ tôi chọn và nghiên cứu đề tài “Khai thác và sử dụng đồ dùng trực
quan” trong dạy bài 20: Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỷ XXV- lịch sử lớp 10 - chương trình chuẩn là xuất phát từ mục tiêu dạy học nhằm phát
triển óc tư duy trí phát triển của học sinh.
Một trong những vấn đề mà tất cả các bậc học hiện nay đặc biệt là bậc học
THPT đang giải quyết là nâng cao chất lượng dạy học các bộ môn, trong đó vấn đề
đổi phương pháp dạy học đang là một vấn đề được đặc biệt quan tâm. Việc sử dụng
đồ dùng trực quan là một nhân tố góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn
Lịch Sử
Môn Lịch sử ở trường trung học phổ thông nhằm giúp học sinh có được
những kiến thức cơ bản, cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới, góp phần
hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất
nước, truyền thống dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng các năng lực tư duy, hành động
và thái độ ứng xử đúng đắn trong cuộc sống xã hội. Vì vậy, phương pháp và hình
thức dạy học môn lịch sử rất phong phú đa dạng, bao gồm cả các phương pháp hiện
đại và các phương pháp truyền thống, trong đó phương pháp sử dụng đồ dùng trực
quan là một trong những phương pháp cơ bản của lí luận dạy học. Bởi lẽ, việc nhận
thức lịch sử vừa phải tuân thủ theo quy luật nhận thức nói chung, nhưng đồng thời
còn có nét đặc thù riêng. Học sinh không thể trực tiếp nhận thức các sự kiện lịch

sử, vì lịch sử là cái đã qua không lặp lại nguyên xi, không thể dựng lại hoàn toàn
hay thí nghiệm như khoa học tự nhiên. Do đó, dạy học lịch sử trước hết là một quá
trình truyền thông tin, thu nhận và xử lý thông tin giữa giáo viên và học sinh qua
các phương tiện dạy học. Thông tin về sự kiện lịch sử càng chính xác, chân thật,
phong phú qua lời nói, hình ảnh cũng như các loại đồ dùng trực quan (hiện vật,
tranh ảnh, bản đồ, băng đĩa, máy chiếu…) là những phương tiện dạy học, có khả
năng chứa hoặc truyền thông tin rất đa dạng và phong phú. Các phương tiện này
đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm tính trực quan và tạo biểu tượng lịch
sử chân thật cho học sinh nhằm góp phần đạt được mục tiêu dạy học.
Trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước đang có nhiều biến động sâu
sắc, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến dạy học Lịch sử ở trường phổ thông làm
thế nào để giúp học sinh hiểu biết sâu sắc về Lịch sử của quá khứ, đồng thời củng
cố lòng tin và xây dựng tình cảm tư tưởng đúng về các sự kiện, hiện tượng đã học
2


với hiện tại tương lai. Điều này phụ thuộc phần lớn vào việc lựa chọn nội dung,
hình thức và phương pháp dạy học của giáo viên. Do đặc thù của bộ môn Lịch sử
không trực tiếp quan sát các sự kiện, nên phương pháp trực quan có ý nghĩa rất
quan trọng. Việc tái hiện lịch sử một cách sinh động là một trong những yếu tố để
học sinh hiểu biết sâu sắc về Lịch sử và có hứng thú say mê với bộ môn khoa học
Lịch sử.
Kỹ năng sử dụng đồ dùng trực quan ở giáo viên là một yếu tố cần thiết để
giờ học Lịch sử không còn nặng nề đối với học sinh. các em không phải ghi chép
nhiều mà kiến thức lại được khắc hoạ rõ nét qua các hình ảnh cụ thể, bài dạy đạt
kết quả cao.
2. Mục đích của đề tài
Với đề tài “khai thác và sử dụng đồ dùng trực quan” trong dạy bài 20: Xây
dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỷ X-XV- lịch sử lớp 10 - chương
trình chuẩn ,giúp bản thân tôi nghiên cứu sâu sắc phương pháp khai thác, vận dụng

thiết bị trực quan vào giảng dạy, phù hợp với điều kiện thực tế cũng như với từng
đối tượng học sinh...
3. Đối tượng nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu, khai thác sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học
lịch sử ở trường THPT. Kỹ năng sử dụng đồ dùng trực quan trong một bài giảng cụ
thể: Bài 20- Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỷ X-XV (Lịch
sử lớp 10 - Chương trình chuẩn).
4. Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp chính: Nghiên cứu qua chương trình Lịch sử ở sách giáo
khoa, phân tích tình hình thiết bị và việc sử dụng hiện nay.
Khai thác nghiên cứu sáng tạo và đưa vào sử dụng những thiết bị tự kiếm,
tự làm...
+Phương pháp phụ
Qua nghiên cứu tài liệu hướng dẫn giảng dạy môn Lịch sử và trao đổi với
đồng nghiệp về kinh nghiệm, cách thức tiến hành bài giảng để đạt hiệu quả cao
nhất...
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận.
Do đặc điểm của việc học tập lịch sử, không trực tiếp quan sát các sự kiện
nên phương pháp trực quan có ý nghĩa quan trọng. Có nhiều loại đồ dùng trực quan
khác nhau cách sử dụng và hiệu quả cũng khác nhau, song đều có tác dụng nâng
cao chất lượng dạy học Lịch Sử. Việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch
sử hiện nay không chỉ giới hạn ở việc sử dụng bản đồ, tranh ảnh, mô hình mà còn
có các phương tiện kỹ thuật hiện đại càng làm tăng thêm hiệu quả bài học..Bởi vì
do việc thông tin ngày càng tăng, trình độ khoa học phong phú nên cần cải tiến
3


phương pháp dạy học truyền thống với các phương tiện kỹ thuật hiện đại hơn, làm
cho bài học sinh động hơn.

Nguyên tắc trực quan là một trong những nguyên tắc cơ bản của lý luận dạy
học nhằm tạo cho học sinh những biểu tượng và hình thành các khái niệm trên cơ
sở trực tiếp quan sát hiện vật đang học hay đồ dùng trực quan minh họa sự vật.
Trong dạy học lịch sử, phương pháp trực quan góp phần quan trọng tạo biểu
tượng cho học sinh cụ thể hóa các sự kiện và khắc phục tình trạng hiện đại hóa lịch
sử của học sinh.
Đồ dùng trực quan là chỗ dựa để hiểu sâu sắc bản chất của sự kiện lịch sử, là
phương tiện rất có hiệu lực để hình thành các khái niệm lịch sử quan trọng nhất,
giúp cho học sinh nắm vững các quy luật phát triển của xã hội.
Đồ dùng trực quan có vai trò rất lớn trong việc giúp học sinh nhớ kỹ, hiểu
sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững
chắc trong trí nhớ chúng ta là hình ảnh chúng ta thu nhận được bằng trực quan.
Cùng với việc góp phần tạo biểu tượng và hình thành khái niệm lịch sử, đồ
dùng trực quan còn phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn
ngữ của học sinh. Nhìn vào bất cứ loại đồ dùng trực quan nào, học sinh cũng thích
nhận xét, phán đoán, hình dung quá khứ lịch sử được phản ảnh, minh họa như thế
nào? Các em suy nghĩ và tìm cách diễn đạt bằng lời nói chính xác, có hình ảnh rõ
ràng, cụ thể về bức tranh xã hội đã qua.
Ý nghĩa giáo dục tư tưởng, cảm xúc thẩm mỹ của đồ dùng trực quan cũng rất
lớn…Với tất cả ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục và phát triển nêu trên, đồ dùng trực
quan góp phần to lớn nâng cao chất lượng dạy học lịch sử, gây hứng thú học tập
cho học sinh, nó là chiếc “cầu nối” giữa quá khứ với hiện tại.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Chất lượng học tập bộ môn Lịch sử của học sinh THPT hiện nay rất thấp do
nhiều nguyên nhân
Về phía học sinh: Coi việc học Lịch sử là bộ môn phụ không cần thiết. Điều
đó dẫn đến việc đi học nhưng không cần chép bài. Phần lớn học sinh quan niệm
học lịch sử là bộ môn khó học và khó nhớ các sự kiện, các nhân vật, địa danh. Mặt
khác các em coi việc học lịch sử như một công thức, bài nào cũng có các phần:
nguyên nhân, diễn biến, kết quả, ý nghĩa …thiếu sinh động, khô khan gây tâm lý

nhàm chán trong học sinh
Học sinh coi việc học Lịch sử là rất trừu tượng bởi vì đặc trưng của học Lịch
sử khác so với các bộ môn khoa học khác là thiếu trực quan sinh động, mà đòi hỏi
người giáo viên phải xây dựng biểu tượng.
Thực tế khả năng hiểu biết lịch sử của các em còn rất thấp qua các trò chơi
như:
Đường lên đỉnh Ôlimpia
Chiếc nón kỳ diệu
4


Hành trình văn hoá
Âm vang Xứ Thanh….
+ Về phía giáo viên
Trong quá trình giảng dạy, thường lặp lại sách giáo khoa gây tâm lý nhàm
chán đối với học sinh. Đồng thời chưa sử dụng và khai thác đồ dùng trực quan
trong bài học. Phương pháp dạy học còn cứng nhắc, chưa sinh động, cụ thể. hiệu
quả giờ học không cao …
Một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả giờ học là người giáo viên
chưa sử dụng một cách linh hoạt năng động, sáng tạo các phương pháp giảng dạy
trong giờ học..
Về truyền thụ: giáo viên không khắc sâu được những kiến thức cơ bản của
bài cho học sinh, giáo viên thường dạy theo kiểu đọc chép càng làm cho bài học
khô khan khó nhớ …
Từ thực trạng trên, Tôi đưa ra biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học tập
của học sinh, khơi gợi niềm say mê hứng thú khi học tập Lịch sử đó là “Khai thác
và sử dụng đồ dùng trực quan” trong dạy bài 20: Xây dựng và phát triển văn hóa
dân tộc trong các thế kỷ X-XV - Lịch Sử lớp 10 – Chương trình chuẩn.
3. Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
- Lịch sử là một bộ môn khoa học rất khác các bộ môn khoa học khác. Lịch

Sử không lặp lại, không trực tiếp quan sát lại các kiến thức Lịch Sử, sự kiện Lịch
sử không diễn ra trong phòng thí nghiệm... kiến thức Lịch Sử cũng hết sức phức
tạp, học sinh dễ bị hiện đại hoá Lịch sử. Chính vì thế nó tác động đến việc nhận
thức của học sinh. Vì vậy kỹ năng sử dụng đồ dùng trực quan trực quan trong dạy
học Lịch Sử là vô cùng quan trọng.
Đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông rất phong phú
đa dạng, mỗi loại lại có nội dung, ý nghĩa khác nhau nên cách sử dụng cũng khác
nhau. Việc sử dụng tranh ảnh lịch sử không giống như cách sử dụng bản đồ và các
loại đồ dùng trực quan quy ước khác.
Trong phần lịch sử Việt Nam lớp 10 có rất nhiều tranh ảnh lược đồ minh hoạ
ở các thời điểm khác nhau. Trong quá trình giảng dạy ta có thể tiến hành khai thác
và sử dụng các kênh hình làm sao hiệu quả bài học cao nhất.
Để đạt hiệu quả cao trong bài 20: Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc
trong các thế kỷ X-XV, Tôi tiến hành khai thác và sử dụng đồ dùng trực quan giúp
học sinh nắm bắt bài học và nhìn nhận vấn đề một cách tốt hơn.
Để dạy tốt bài này, người giáo viên phải có sự chuẩn bị một cách kỹ càng:
Đó là việc soạn giáo án, xác định kiến thức cơ bản của bài …để cung cấp cho học
sinh. Đồng thời có những câu hỏi sát hợp với vội dung bài học, giúp học sinh nắm
bắt vấn đề một cách nhanh nhất.
Ngoài việc soạn giáo án, đọc các tài liệu tham khảo, người giáo viên phải
chuẩn bị đầy đủ các tranh ảnh trực quan như Chân dung Khổng Tử, Văn Miếu –
5


Quốc Tử Giám, Bia Tiến sĩ…kết hợp với miêu tả, phân tích giúp các em nắm bắt
được vấn đề.
Đối với học sinh, yêu cầu các em phải có sự chuẩn bị trước bằng cách: Đọc
trước từng phần, từng mục tập trả lời câu hỏi trong phần đó. Từ đó sẽ định hình
được kiến thức nào là cơ bản của bài …cho đến khi cô giáo giảng, sẽ nắm bài học
một cách nhanh nhạy.

CỤ THỂ

Khai thác và sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy bài 20: Xây dựng và phát
triển văn hóa dân tộc trong các thế kỷ X-XV (Lịch sử lớp 10- Chương trình
chuẩn)
I . TƯ TƯỞNG ,TÔN GIÁO
- Giáo viên làm rõ các ý cơ bản về các thành tựu Tư tưởng, tôn giáo thời kỳ này
- Ở thời kỳ độc lập Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo có điều kiện phát triển mạnh
- Thời Lý, Trần Nho giáo dần dần trở thành hệ tư tưởng chính thống của giai cấp
thống trị, chi phối nội dung giáo dục thi cử.
* Khi trình bày về Nho giáo, giáo viên đưa Chân dung Khổng Tử - Người
sáng lập ra Nho giáo. Từ đó, giáo viên nêu vài nét chính về Khổng Tử và tư tưởng
cốt lõi của ông.

Khổng Tử
Khổng Tử còn gọi là Khổng Phu Tử, là một nhà tư tưởng, nhà triết học, nhà
giáo dục, nhà chính trị, nhà biên khảo nổi tiếng người Trung Hoa, các bài giảng
và triết lý của ông có ảnh hưởng sâu rộng đối với đời sống và tư tưởng của các dân
tộc Đông Á. Triết học của ông nhấn mạnh trên sự tu dưỡng đức hạnh cá nhân và cai
trị bằng đạo đức: "tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ", sự chính xác của các
6


mối quan hệ xã hội, đạo đức và quy phạm làm người, "Đạo Trung Dung" và các đức
tính "Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín".
Ba cương lĩnh cơ bản của Nho giáo (Tam cương) là:
- Đạo vua tôi (quân thần)
- Đạo cha con (phụ tử)
- Đạo vợ chồng (phu phụ)
Năm phép ứng xử luân lý và đạo đức (Ngũ thường) Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín

Hạt nhân tư tưởng của triết học Nho giáo là Nhân và Lễ.
Nhà Nho đã từ hai chữ nhân và lễ mà suy diễn ra cả một hệ thống triết học chính
trị, triết học đạo đức và triết học lịch sử.
Trên cơ sở những tư tưởng triết học ấy đã hình thành mẫu người của Nho
giáo là người quân tử mà lý tưởng sống được thể hiện tập trung trong một hệ thống
quan niệm về tu thân, tề gia trị quốc, bình thiên hạ…
Từ kiến thức trên học sinh đã hiểu được phần nào về Nho giáo và lý giải
được tại sao Nho giáo dần dần trở thành hệ tư tưởng chính thống của giai cấp thống
trị, chi phối nội dung giáo dục thi cử thời bấy giờ.
*Khi trình bày về đạo Phật, giáo viên giới thiệu bức chân dung Đức Phật và
trình bày những tư tưởng cốt lõi của đạo Phật để học sinh hiểu.

Đức Phật
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là người sáng lập ra đạo Phật, một trong những
tôn giáo có tầm ảnh hưởng lớn nhất trên thế giới trong lịch sử cũng như hiện nay.
“Theo sự xác định niên đại truyền thống, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Shakya thubpa), còn được gọi là Đức Phật Cồ Đàm (Gau-ta-ma), sống trong khoảng thời gian từ
năm 566 đến 485 trước Công Nguyên ở miền Trung Bắc Ấn Độ”. Đức Thích Ca
7


Mâu Ni (Shakya thub-pa) được sinh ra trong một gia đình chiến binh, quý tộc giàu
sang ở nước Thích Ca (Shakya). Phật giáo được Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni)
truyền giảng ở miền bắc Ấn Độ vào thế kỷ 6 TCN.Được truyền bá trong khoảng
thời gian 49 năm khi Phật còn tại thế ra nhiều nơi đến nhiều chủng tộc nên lịch sử
phát triển của đạo Phật khá đa dạng về các bộ phái cũng như các nghi thức hay
phương pháp tu học. Các chuẩn mực này phần chính là việc quy y tam bảo - tức là
chấp nhận theo hướng dẫn của chính Phật, những lời chỉ dạy của Phật (Pháp), và
cộng đồng tăng đoàn. Giáo viên phân tích thêm về giáo lý của Đạo Phật. Với những
nét giới, thiệu trình bày về Đạo Phật, giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh: Vị trí của
Phật giáo ở các thế kỷ X-XV? Em hãy liên hệ với hiện nay.

I . GIÁO DỤC, VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT, KHOA HỌC- KỸ THUẬT
1. Giáo dục:
- 1070 Vua Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu
Đến dây giáo viên sử dụng bức tranh Văn Miếu và giới thiệu về Văn Miếu.

Văn Miếu – Quốc Tử Giám
Văn Miếu – Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu
của thành phố Hà Nội, nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long. Hiện nay, nơi đây
đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích quốc
gia đặc biệt. Quần thể kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám bao gồm: Hồ Văn, khu
Văn Miếu - Quốc Tử Giám và vườn Giám và kiến trúc chủ thể là Văn Miếu - nơi
thờ Khổng Tử và Quốc Tử Giám - trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Khu Văn
Miếu - Quốc Tử Giám có tường gạch vồ bao quanh, phía trong chia thành 5 lớp
không gian với các kiến trúc khác nhau. Mỗi lớp không gian đó được giới hạn bởi
các tường gạch có 3 cửa để thông với nhau. Từ ngoài vào trong có các cổng lần
8


lượt là: cổng Văn Miếu, Đại Trung, Đại Thành và cổng Thái Học. Với hơn 700 năm
hoạt động đã đào tạo hàng nghìn nhân tài cho đất nước. Nay, Văn Miếu-Quốc Tử
Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời cũng là nơi
khen tặng cho học sinh xuất sắc và còn là nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày
rằm tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi các sĩ tử ngày nay đến "cầu may" trước
mỗi kỳ thi.
Văn Miếu được xây dựng từ năm (1070). Như vậy Văn Miếu ngoài chức năng
thờ các bậc Tiên thánh, Tiên sư của đạo Nho, còn mang chức năng của một trường
học Hoàng gia mà học trò đầu tiên là Thái tử Lý Càn Đức, con trai vua Lý Thánh
Tông với Nguyên phi Ỷ Lan, lúc đó mới 5 tuổi. Đến năm 1072 tức là năm 8 tuổi
lên ngôi trở thành vua Lý Nhân Tông
Năm 1076, Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử Giám ở bên cạnh Văn Miếu có

thể coi đây là trường đại học đầu tiên ở Việt Nam. Ban đầu, trường chỉ dành riêng
cho con vua và con các bậc đại quyền quý.
Từ việc trình bày trên, học sinh đã có sự hiểu biết về Văn Miếu và ý nghĩa của
việc xây dựng Văn Miếu. Việc lập Văn Miếu là một bước tiến của đạo Khổng.
Quốc Tử Giám đánh dấu một bước phát triển của nền giáo dục nước ta. Ý nghĩa
của việc lập Văn Miếu năm 1070 và lập Quốc Tử Giám năm 1076 không đóng
khung trong địa hạt văn hóa. Trong nhân dân vừa giành được quyền tự chủ sau hơn
1000 năm đô hộ, đang dâng lên một sức sống phi thường. Ý thức giữ gìn và củng
cố độc lập, khẳng định bản lĩnh, là tư tưởng chỉ đạo của mọi hoạt động tổ chức,
quân sự, văn hóa, đều hướng tới phục vụ sự nghiệp tự cường của dân tộc.
- 1075, khoa thi đầu tiên được tổ chức tại kinh thành.
- Từ TK X- XV, giáo dục Đại Việt từng bước phát triển.
- TK XV (Lê Sơ) giáo dục có bước phát triển nhanh. Lê Thánh Tông (1460 - 1497)
tổ chức 12 khoa thi Hội.
- 1484, Lê Thánh Tông cho dựng Bia Tiến sĩ.
Giáo viên sử dụng bức tranh Bia Tiến sĩ và trình bày vài nét về Bia Tiến sĩ
này.

9


Bia Tiến sĩ
Bia tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long gồm 82 tấm bia đá, được dựng từ năm 1484,
khắc các bài văn bia đề danh Tiến sĩ Nho học Việt Nam của các khoa thi Đình từ
năm 1442 đến năm 1779.
Năm 1484, với chủ chương đề cao Nho học và tôn vinh bậc tri thức Nho học đỗ
đại khoa, vua Lê Thánh Tông đã cho dựng các tấm bia tiến sĩ đầu tiên tại Văn Miếu
- Quốc Tử Giám cho các khoa thi Đình các năm trước đó của nhà Hậu Lê, 7 bia đầu
tiên, trong số 82 bia, được dựng năm này.
Trên cơ sở đó, giáo viên dặt câu hỏi: Việc dựng bia tiến sĩ có tác dụng gì?

Từ việc quan sát hình ảnh trực quan và khai thác hình ảnh của giáo viên, học sinh
đã hiểu được ý nghĩa tác dụng của bia Tiến sĩ: Khuyến khích nhân dân học tập và
đỗ đạt làm quan. Răn đe quan lại phải có trách nhiệm chăm lo cho đời sống nhân
dân, xứng đáng với bảng Vàng.
2. Văn học
- Phát triển mạnh từ thời nhà Trần: Tác phẩm tiêu biểu: Hịch tướng sĩ, Bình Ngô
đại cáo…
Giáo viên giới thiệu sơ lược về các tác phẩm trên giúp học sinh nắm được đặc
điểm của thời kỳ văn học này.

10


Nguyên văn (Hán văn) "Bình Ngô đại cáo"
Giáo viên giới thiệu và khai thác tác phẩm Bình Ngô đại cáo: Đây là nguyên
văn của Bình Ngô đại cáo, là tác phẩm văn học chức năng hành chính quan trọng
không chỉ đối với lịch sử dân tộc Việt Nam mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với
tiến trình phát triển văn học sử Việt Nam. Trong tác phẩm này, tác giả đã kết hợp
một cách uyển chuyển giữa tính chân xác lịch sử với chất sử thi anh hùng ca qua lối
văn biền ngẫu mẫu mực của một ngọn bút tài hoa uyên thâm Hán học. Chính vì thế,
Bình Ngô đại cáo đã trở thành tác phẩm cổ điển sớm đi vào sách Giáo khoa từ Phổ
thông cơ sở đến Phổ thông trung học và được giảng dạy ở tất cả các trường Cao
đẳng, Đại học ngành khoa học xã hội - nhân văn ở Việt Nam.
Qua các tác phẩm văn học thời kỳ này giúp học sinh thấy được “Hào khí Đông
A” một thời kỳ hào hùng của dân tộc, ta càng thêm tự hào về đất nước.
- Từ thế kỷ XV, văn học chữ Hán và chữ Nôm đều phát triển.
* Từ đó, giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh: Đặc diểm của thơ văn các thế kỷ X –
XV. Trên cơ sở giáo viên khai thác trình bày, học sinh rút ra đặc điểm của thời kỳ
văn học này.
- Đặc điểm:

+ Thể hiện tinh thần dân tộc, lòng yêu nước, tự hào dân tộc.
+ Ca gợi những chiến công oai hùng, cảnh đẹp của quê hương đất nước.
3. Nghệ thuật
+ Kiến trúc phát triển chủ yếu ở giai đoạn Lý – Trần – Hồ thế kỷ X – XV theo
hướng Phật giáo gồm: chùa, tháp, đền.
Đến đây Giáo viên giới thiệu và khai thác bức tranh Chùa Một Cột
Chùa Một Cột có tên khác là chùa Diên Hựu hoặc Liên Hoa Đài, nằm trong quần
thể chùa Diên Hựu trên đất thôn Thanh Bảo, huyện Quảng Đức, phía Tây Hoàng
thành Thăng Long thời Lý, nay thuộc phố chùa Một Cột, quận Ba Đình, Hà
Nội.Chùa Một Cột là một trong những biểu tượng của thủ đô Hà Nội. Chùa có kiến
trúc độc đáo, được tạo dáng như một bông sen cách điệu từ dưới nước vươn lên.

11


Chùa Một Cột
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, chùa Một Cột được xây dựng vào năm Kỷ Sửu,
niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo 1 (1049) đời Lý Thái Tông. Vì vậy, trong việc quy
hoạch xây dựng kinh đô, vương triều Lý và các triều đại kế tiếp đều đặc biệt coi
trọng vị thế phong thủy của bông sen ngàn cánh này.
Sự tạo tác chùa Một Cột được khởi nguồn cảm hứng từ giấc mộng của vua Lý
Thái Tông (1028-1054): Thấy Phật Bà Quan - Âm ngồi trên đài hoa sen, mời vua
lên đài. Khi tỉnh dậy, vua nói với triều thần, có người cho là điềm gở nhưng nhà sư
Thiên Tuế thì khuyên vua nên xây chùa. Vua cho dựng cột đá giữa hồ, xây đài hoa
sen có tượng Bồ-Tát Quan-Thế-Âm ở trên, đúng như hình ảnh vua đã thấy trong
mộng. Các nhà sư chạy đàn chung quanh, tụng kinh cầu phúc lành cho vua sống
lâu, nhân đó đặt tên chùa là Diên Hựu.
Sau đó, giáo viên sử dụng và khai thác bức tranh Tháp Báo Thiên

12



Tháp Báo thiên
Tháp Báo Thiên - được xây năm 1057 ở Chùa Báo Thiên nay là khu đất mé đông
hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội. Tháp này cao đến 20 trượng, có tất cả 12 tầng. Tầng trên
cùng bằng đồng, những tầng dưới bằng đá và gạch.
Tháp được xếp vào một trong An Nam tứ đại khí, bốn vật báu của đất nước, mà ba
vật quý giá khác là tượng Phật chùa Quỳnh Lâm, Vạc Phổ Minh và Chuông Quy
Điền.
- Bên cạnh đó có những công trình kiến trúc ảnh hưởng của Nho giáo: Cung điện,
thành quách, thành Thăng Long.
Giáo viên giới thiệu và khai thác bức tranh Hoàng thành Thăng Long.
Hoàng thành Thăng Long / Thăng Long Hoàng thành là quần thể di tích gắn với
lịch sử kinh thànhThăng Long - Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội bắt đầu từ thời kì
tiền Thăng Long. Đây là công trình kiến trúc đồ sộ, được các triều vua xây dựng
trong nhiều giai đoạn lịch sử và trở thành di tích quan trọng bậc nhất trong hệ thống
các di tích Việt Nam.
Ngày 1/8/2010 Ủy ban di sản thế giới đã thông qua nghị quyết công nhận khu
Trung tâm hoàng thành Thăng Long - Hà Nội là di sản văn hóa thế giới. Những giá
trị nổi bật toàn cầu của khu di sản này được ghi nhận bởi 3 đặc điểm nổi bật: chiều
dài lịch sử văn hóa suốt 13 thế kỷ; tính liên tục của di sản với tư cách là một trung
tâm quyền lực, và các tầng di tích di vật đa dạng, phong phú.
Gg

13


Hoàng Thành Thăng Long
Những di tích trên mặt đất và khai quật được trong lòng đất tại Khu Trung tâm
Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội là minh chứng đặc sắc về quá trình giao lưu

văn hóa lâu dài, là nơi tiếp nhận nhiều ảnh hưởng văn hóa từ bên ngoài, nhiều học
thuyết, tư tưởng có giá trị toàn cầu của văn minh nhân loại, đặc biệt Phật giáo, Nho
giáo, thuyết phong thủy, mô hình vương thành phương Đông, mô hình kiến trúc
quân sự phương Tây, để tạo dựng nên những nét độc đáo, sáng tạo của một Trung
tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của một quốc gia vùng châu thổ sông Hồng. Kết quả
giao thoa, tiếp biến văn hóa đó được biểu đạt trong tạo dựng cảnh quan, quy hoạch
các khu cung điện, trong nghệ thuật kiến trúc và nghệ thuật trang trí cung đình với
diễn biến văn hóa đa dạng qua các thời kỳ lịch sử.
Trên thế giới rất hiếm tìm thấy một di sản thể hiện được tính liên tục dài lâu như
vậy của sự phát triển chính trị, văn hoá như tại khu Trung tâm Hoàng thành Thăng
Long - Hà Nội.
+ Điêu khắc: Gồm những công trình chạm khắc, trang trí ảnh hưởng của Phật giáo
và Nho giáo song vẫn mang những nét độc đáo:

14


Rồng mình trơn cuộn trong lá đề
Như Rồng mình trơn cuộn trong lá đề, bông cúc nhiều cánh, Bức phù điêu có
hình các cô tiên với những đường nét mềm mại, độc đáo. Thể hiện tài năng, sáng
tạo của dân tộc ta.

Bức phù điêu có hình các cô tiên
+ Nghệ thuật sân khấu, ca múa nhạc mang đậm tính dân gian như tuồng chèo,
múa rối nước còn lưu lại tới ngày nay.
15


Từ việc trình bày, khai thác kênh hình.Giáo viên đặt câu hỏi: Em hãy nhận xét về
đời sống văn hóa của nhân dân thời Lý, Trần, Lê. Học sinh nhận xét và giáo viên

chốt vấn đề.
- Nhận xét:
+ Văn hoá Đại Việt thế kỷ X – XV phát triển phong phú đa dạng.
+ Chịu ảnh hưởng của yếu tố ngoài song vẫn mang đậm tính dân tộc và dân gian.
4. Khoa học - kỹ thuật.
- Lịch sử: bộ Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu, Đại Việt sử kí toàn thư..
Giáo viên giới thiệu về bộ Đại Việt sử kí toàn thư
Đại Việt sử ký toàn thư đôi khi gọi tắt là Toàn thư, là bộ quốc sử bằng chữ
Hán và chữ Nôm của Việt Nam, viết theo thể biên niên, ghi chép lịch sử Việt
Nam từ thời đại truyền thuyết Kinh Dương Vương năm 2879 TCN đến
năm1675 đời vua Lê Gia Tông nhà Hậu Lê. Bộ sử này được khắc in toàn bộ và phát
hành lần đầu tiên vào năm Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hoà năm thứ 18, triều vua Lê
Hy Tông, tức là năm 1697. Nó là bộ chính sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại nguyên
vẹn đến ngày nay, do nhiều đời sử quan trong Sử quán triều Hậu Lê biên soạn.

Đại Việt sử kí
toàn thư
- Địa lýcó Dư địa chí, Hồng Đức bản
đồ.Đến năm Giáp Dần (1434), Nguyễn
16


Trãi được vua Lê Thái Tông triệu ra làm quan. Sau đó, để giúpVua hiểu biết thêm
về đất nước, ông được giao cho làm cuốn Dư địa chí, và làm trong vòng 10 ngày thì
xong.
Sách ghi: Nước ta mới mở, gồm có sông núi, phía đông giáp biển, phía tây đến
nước Thục, phía đông đến Chiêm Thành, phía bắc đến hồ Động Đình...
Theo một số nhà nghiên cứu, thì cuốn này nằm trong một bộ sách lớn có tên
là Quốc thư bảo huấn đại toàn, cũng do vua Lê Thái Tông sai ông soạn vào
năm 1434. Bởi trên đầu sách có ghi 6 chữ Quốc thư bảo huấn đại toàn, rồi mới đến

tên Dư địa chí.
-Về quân sự có Binh thư yếu lược
Binh thư yếu lược là một tác phẩm của Hưng Đạo Vương Trần Quốc
Tuấn về nghệ thuật quân sự, đến nay
đã thất truyền.. Với việc biên soạn và
phổ biến Binh thư yếu lược, Trần Hưng
Đạo đã để lại cho đời sau bài học vô giá
về kinh nghiệm chống xâm lăng, rằng,
muốn đập tan những đội quân ăn cướp
tàn bạo và thiện chiến, thì bên cạnh tinh
thần chiến đấu, lý tưởng chiến đấu và
trình độ võ nghệ, cũng như thiết bị kĩ
thuật, tướng sĩ còn phải được trang bị
những tri thức về binh pháp. Trần Hưng
Đạo thực sự trở thành nhà lý luận quân
sự xuất sắc đầu tiên của nước ta. Tuy
nhiên, Trần Hưng Đạo không phải chỉ là
nhà lý luận xuất sắc mà còn là nhà chỉ
huy thiên tài. Ông là linh hồn của những
chiến công chống xâm lăng vang dội ở
thế kỷ XIII.
- Toán học: có Đại thành toán pháp Đại thành toán pháp là một cuốn sách toán học cổ của Việt Nam, tác giả là Lương
Thế Vinh.
Hiện nay còn bản in Đại thành toán pháp thời vua Lê Dụ Tông, niên hiệu Vĩnh
Thịnh. Ngoài bảng cửu chương, sách còn nói về các số lớn: ức, triệu, kinh, thê, cai,
nhương, giản, chinh, ti, cực. Cứ vạn vạn bậc dưới ăn một bậc trên.
- Kỹ thuật quân sự: thành Nhà Hồ, súng thần cơ, thuyền chiến có lầu…
Giáo viên giới thiệu và khai thác bức tranh thành Nhà Hồ
17



Thành nhà Hồ (hay còn gọi là thành Tây Đô, thành An Tôn, thành Tây
Kinh hay thành Tây Giai) là kinh đô nước Đại Ngu (quốc hiệu Việt Nam thời nhà
Hồ), nằm trên địa phận nay thuộc tỉnh Thanh Hóa. Đây là tòa thành kiên cố với
kiến trúc độc đáo bằng đá có quy mô lớn hiếm hoi ở Việt Nam, có giá trị và độc
đáo nhất, duy nhất còn lại ở Đông Nam Á và là một trong rất ít những thành lũy
bằng đá còn lại trên thế giới . Thành được xây dựng trong thời gian ngắn, chỉ
khoảng 3 tháng (từ tháng Giêng đến tháng 3 năm 1397) và cho đến nay, dù đã tồn
tại hơn 6 thế kỷ nhưng một số đoạn của tòa thành này còn lại tương đối nguyên
vẹn.
Ngày 27 tháng 6 năm 2011, sau 6 năm đệ trình hồ sơ, Thành nhà Hồ đã được
UNESCO công nhận là di sản văn
hóa thế giới. Hiện nay, nơi đây đã
được thủ tướng chính phủ Việt Nam
đưa vào danh sách xếp hạng 62 di
tích quốc gia đặc biệt
Thành xây trên địa phận hai thôn
Tây Giai, Xuân Giai nay thuộc xã
Vĩnh Tiến và thôn Đông Môn nay
thuộc xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh
Lộc, tỉnh Thanh Hoá. Vị trí thành
nhà hồ so với các trung tâm thành
phố lân cận như sau:
Thành Tây Đô được xây vào
năm 1397 dưới triều Trần do quyền
thần Hồ Quý Ly chỉ huy, người
không lâu sau (1400) lập ra nhà Hồ.
Thành Nhà Hồ
Tháng 3 năm Canh Thân (26-3 đến 24-4-1400), vương triều Hồ thành lập (14001407) và Tây Đô là kinh thành của vương triều mới, thành Thăng Long đổi tên là
Đông Đô vẫn giữ vai trò quan trọng của đất nước. Vì vậy thành Tây Đô được dân

gian quen gọi là Thành nhà Hồ. Thành đá được xây dựng trong một thời gian kỷ
lục, chỉ chừng 3 tháng. Các cấu trúc khác như các cung điện, rồi La Thành phòng
vệ bên ngoài, đàn Nam Giao... còn được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cho đến
năm 1402.

18


GV sử dụng và khai thác hình ảnh súng thần công.

Súng thần công
Nói đến Hồ Nguyên Trừng người ta thường nhắc nhiều nhất đến công sáng chế ra
súng "thần công" của ông.
Hồ Nguyên Trừng đã sáng tạo ra phương pháp làm súng “thần cơ thương pháo”.
Loại súng này được đúc bằng sắt hoặc đồng, có nhiều cỡ, lớn thì kéo xe, nhỏ thì
dùng giá đỡ hay vác vai... Súng có ba loại: súng lớn đặt trên lưng voi, súng nhỏ hai
người khiêng, súng nhỏ vác vai...
Theo các nhà quân sự, súng “thần cơ của Hồ Nguyên Trừng có đầy đủ các bộ phận
của loại súng “thần công” ở những thế kỷ sau này. Súng có nhiều loại, loại nhỏ
dùng cho bộ binh bắn xa khoảng 700 m. Loại lớn là “thần cơ pháo” đặt cố định bảo
vệ thành hoặc dùng xe kéo vận chuyển.
Cấu tạo súng thần công bao gồm: Thân súng dài 44 cm, nòng súng dài 5 cm, trục
quay, thước ngắm, lỗ điểm hỏa, khối hậu. Trong đó khối hậu được đúc kín chứa
thuốc nổ, nòng súng chứa những trái đạn, trục quay để điều chỉnh góc bắn, lỗ điểm
hỏa để châm ngòi và thường được gắn thân bánh xe ở trục quay để cơ động.
*Qua việc sử dụng và khai thác các hình ảnh, giúp học sinh thấy được những
thành tựu to lớn của nền văn hóa dân tộc Đại Việt thế kỷ X-XV.Vai trò, ý nghĩa của
nền văn hóa ấy đối với ngày nay.
Để nắm bắt được bài học, giáo viên hướng dẫn học sinh hoàn thành bảng thống
kê sau:

Thời kỳ
Thành tựu giáo dục, văn học, nghệ thuật
Đinh-Tiền Lê
Lý – Trần
Hồ
Lê Sơ
19


Như vậy, với việc sử dụng và khai thác kênh hình có tác dụng vô cùng to lớn, làm
cho nội dung của bài học thêm sinh động, hấp dẫn, gây hứng thú cho học sinh.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh ngiệm
Bằng việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy bài 20: Xây dựng và phát triển
văn hóa dân tộc trong các thế kỷ X-XV-phần Lịch sử lớp 10-chương trình
chuẩn.Tôi tiến hành trên hai đối tượng : Lớp10A2 không sử dụng đồ dùng trực
quan vào bài giảng và lớp 10A1 sử dụng đồ dùng trực quan vào bài giảng. Kết quả
đạt được như sau:
Lớp
Sĩ số
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
10A1
45
9/20%
17/37,8%
19/42,2
0

0
10A2
43
1/2,3%
9/20,9%
20/46,5% 13/30,3%
0
Qua kết quả trên cho chúng ta thấy được tính khả thi của việc áp dụng đồ dùng
trực quan trong dạy học lịch sử, đã phát huy tính tích cực hoạt động độc lập của học
sinh.
III.Kết luận, kiến nghị
1. Kết luận
Công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đòi hỏi giáo dục phổ thông phải đào tạo
những con người phát triển toàn diện, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Mỗi môn học ở nhà trường phổ thông với đặc trưng của mình đều
phải góp phần đào tạo thế hệ trẻ, trong đó có lịch sử. Bộ môn lịch sử ở trường phổ
thông có chức năng, nhiệm vụ to lớn trong việc đào tạo con người Việt Nam vừa có
trình độ khoa học phong phú vừa thấm nhuần truyền thống bản sắc dân tộc, có năng
lực tư duy sáng tạo để hội nhập với thế giới và khu vực. Để đáp ứng được yêu cầu
trên, cần phải có sự đổi mới về phương pháp dạy học môn Lịch sử mà trong đó
phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan có hiệu quả là một trong nhân tố góp phần
to lớn để đạt được mục tiêu giáo dục trong dạy học lịch sử cả về mặt giáo dưỡng,
giáo dục và phát triển nhân cách cho học sinh.
Trong quá trình dạy học, Tôi nghĩ rằng mỗi thầy cô giáo đều có những biện pháp riêng
để nâng cao chất lượng dạy học lịch sử. Trong phạm vi hạn hẹp của đề tài, tôi chỉ mạn
phép nêu lên “kinh nghiệm về việc khai thác và sử dụng đồ dùng trực quan trong
dạy học lịch sử việt Nam lớp 10” mà bản thân đã thực hiện trong quá trình giảng dạy
và đạt được một số hiệu quả nhất định. Thiết nghĩ rằng, những kinh nghiệm trên ít nhiều
có thể giúp quý thầy cô tham khảo, bổ sung và ứng dụng trong quá trình giảng dạy của
mình nhằm nâng cao chất lượng dạy học lịch sử. Những thiếu sót trong quá trình viết đề

tài là điều không thể tránh khỏi, rất mong được sự góp ý chân thành của quý thầy cô.
2.Kiến nghị
a. Đối với giáo viên
Khi sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử cần chú ý các nguyên
tắc sau:
20


- Phải căn cứ vào nội dung, yêu cầu giáo dục của bài học để lựa chọn đồ dùng
trực quan tương ứng thích hợp. Vì vậy cần xây dựng một hệ thống đồ dùng trực
quan phong phú, phù hợp với từng loại bài lịch sử.
- Có phương pháp thích hợp đối với việc sử dụng mỗi loại đồ dùng trực quan.
- Phải đảm bảo được sự quan sát đầy đủ đồ dùng trực quan của học sinh.
- Phát huy tính tích cực của học sinh khi sử dụng đồ dùng trực quan.
- Đảm bảo kết hợp lời nói và việc trình bày các đồ dùng trực quan, đồng thời rèn
luyện khả năng thực hành của học sinh khi sử dụng đồ dùng trực quan (đắp sa bàn,
vẽ bản đồ, tường thuật trên bản đồ, miêu tả hiện vật... )
- Loại đồ dùng trực quan cỡ nhỏ được sử dụng riêng cho từng học sinh trong giờ
học, trong việc tự học ở nhà, giáo viên phải hướng dẫn học sinh sử dụng tốt loại đồ
dùng trực quan này, quan sát kĩ, tìm hiểu sâu sắc nội dung, hoàn thành các bài tập,
tập vẽ bản đồ.
- Tổ chuyên môn cần tăng cường tổ chức các giờ hoạt động ngoại khóa, các
chuyên đề lịch sử như các cuộc thi đố vui, các trò chơi lịch sử sẽ tăng cường bổ
sung tính hình ảnh thông qua các đồ dùng trực quan phục vụ cho bài học trên lớp.
b.Đối với trường:
- Cần tạo điều kiện về phòng ốc nhất là phòng học Bộ môn, tăng cường hơn nữa
trang thiết bị đồ dùng dạy học trong các tiết dạy lịch sử.
- Cần có nơi để đồ dùng dạy học một cách ngăn nắp khoa học hơn.
- Cần mua các tư liệu lịch sử có liên quan trong chương trình học để giáo viên và
học sinh tham khảo nhằm bồi dưỡng thêm tri thức và tăng tính hiệu quả của bộ

môn.

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trương Hữu Quýnh …Đại cương lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản giáo dục -1998
2. Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi, Phương pháp dạy học lịch
sử, Nhà xuất bản Đại học sư phạm.
3. Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi, Thiết kế bài giảng lịch sử ở
trường THPT, NXB Đại học quốc gia Hà Nội -1999.
4. Nguyễn Xuân Trường, Trần Thái Hà, Tư liệu dạy và học môn lịch sử lớp 10,
NXB Hà Nội -2007.
5.Trịnh Tiến Thuận-Nguyễn Xuân Trường…, Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong
sách giáo khoa lịch sử lớp 10, NXB Hà Nội -2007.
6. Phan Ngọc Liên, Trương Hữu Quýnh, SGK lịch sử 10 (cơ bản) NXB giáo dục
-2006
7. Phan Ngọc Liên, Trương Hữu Quýnh, SGK lịch sử 10 (nc) NXB giáo dục -2006.
8. Phan Ngọc Liên, Trương Hữu Quýnh, SGV lịch sử10 (Cơ bản) NXB giáo dục
-2006.
9. Phan Ngọc Liên, Trương Hữu Quýnh, SGK lịch sử 10 (nc)NXB giáo dục -2006.
10. Nguyễn Xuân Trường, Nguyễn Thị Thu Hương, giáo án lịch sử 10, NXB Hà
Nội-2006

22


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 16 tháng5 năm 2016

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Nguyễn Thị Dung

23



×