Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Xây dựng và sử dụng bản đồ giáo khoa điện tử trong dạy học lịch sử lớp 12 ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 21 trang )

SỞ

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT HOẰNG HÓA 2

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG BẢN ĐỒ GIÁO KHOA
ĐIỆN TỬ TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ LỚP 12
Ở TRƯỜNG THPT

Người thực hiện : Lê Thị Nam
Chức vụ
: Giáo viên
SKKN thuộc môn: Lịch sử

THANH HOÁ NĂM 2017

1


MỤC LỤC
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài..........................................................................
1.2.Tình hình nghiên cứu đề tài...........................................................
1.3.Nhiệm vụ của đề tài.......................................................................
1.4.Phương pháp nghiên cứu................................................................
1.5.Phạm vi và đối tượng nghiên cứu đề tài........................................
PHẦN II. NỘI DUNG
2.1. Những lí luận chung về bản đồ giáo khoa trong dạy học lịch sử


Trang
2
3
3
4
4
5

ở trường phổ thông.............................................................................
2.2. Thực trạng của việc xây dựng và sử dụng BĐGKĐT trong dạy

6

học lịch sử ở trườngTHPT..................................................................
2.3. Xây dựng hệ thống bản đồ giáo khoa điện tử trong dạy học lịch

7

sử ở trường THPT...............................................................................
2.4.Biện pháp thực hiện đề tài............................................................
2.5.Kết quả đạt được...........................................................................
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1.Kết luận.........................................................................................
2.2.Kiến nghị.......................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................

10
14
17
18

20

PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài

2


Việc khai thác, sử dụng các hình ảnh trực quan trong dạy học lịch sử ở nhà
trường phổ thông là một yêu cầu cần thiết trong dạy học bộ môn. Bởi vì kiến thức
lịch sử là những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ, người học không thể trực tiếp
quan sát sự kiện, vì vậy trong giảng dạy để dựng lại bức tranh của lịch sử đòi hỏi
giáo viên phải vận dụng nhiều biện pháp khác nhau như tạo biểu tượng, sơ đồ
hoá, trực quan…. Đặc biệt đối với những sự kiện là một cuộc chiến tranh, một
cuộc khởi nghĩa hay một trận đánh giáo viên phải sử dụng đến phương pháp trực
quan trong dạy học, thông thường là khai thác các bản đồ dạy học.
Thực tế dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay vẫn còn không ít giáo
viên lên lớp “chay”, chỉ cung cấp kiến thức bài học mà không chú trọng đến vấn
đề khai thác các tranh, ảnh, bản đồ, đồ dùng dạy học khác.
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học-công
nghệ, nhiều thành tựu mới đã được ứng dụng rộng rãi trong đời sống xã hội,
trong đó có ngành giáo dục. Đối với bộ môn Lịch sử, việc ứng dụng công nghệ
thông tin (CNTT) với sự hỗ trợ của nhiều phần mềm dạy học (phần mềm

Powerpoint, phần mềm Flash…) đã giúp giáo viên có thể tự xây dựng và giảng
dạy các tiết giáo án điện tử trên lớp, bước đầu tạo sự chuyển biến mới trong đổi
mới phương pháp dạy học(PPDH), điều có ý nghĩa đặc biệt với sự hỗ trợ của
phần mềm Powerpoint, giáo viên cũng có thể thiết kế, xây dựng các loại bản đồ
giáo khoa điện tử (BĐGKĐT) phục vụ việc dạy học, nhằm nâng cao chất lượng

dạy học bộ môn đồng thời có thể khắc phục sự “thiếu thốn” của bản đồ giáo khoa
lịch sử ở các trường phổ thông hiện nay.
Tuy nhiên, việc ứng dụng CNTT trong dạy học lịch sử nói chung và xây
dựng BĐGKĐT nói riêng còn rất hạn chế, giáo viên chỉ mới dừng lại ở việc đưa
kiến thức lên bài giảng, hoặc chèn thêm một vài hình ảnh để minh họa cho bài
học. Đối với những bài học có sử dụng các loại bản đồ để trình bày diễn biến của
một sự kiện, một cuộc chiến tranh, một chiến dịch… thì hầu hết giáo viên chưa
khai thác được những tiện ích của phần mềm Power point để thiết kế, xây dựng
BĐGKĐT phục vụ trong giảng dạy, nếu có sử dụng bản đồ thì giáo viên cũng chỉ
thực hiện thao tác Scan bản đồ giáo khoa rồi chiếu lên màn hình giống như một
3


hình ảnh. Vì vậy hiệu quả của việc sử dụng CNTT trong xây dựng BĐGKĐT
phục vụ dạy học bộ môn chưa cao
Xuất phát từ những lý do trên và từ thực tế giảng dạy ở cấp học, tôi chọn
nghiên cứu vấn đề “Xây dựng và sử dụng Bản đồ giáo khoa điện tử trong dạy học
Lịch sử lớp 12 ở trường THPT”, nhằm góp phần thực hiện việc đổi mới PPDH
lịch sử theo hướng tăng cường hoạt động nhận thức tích cực, chủ động, sáng tạo
của học sinh, nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, hoàn thành mục tiêu môn
học.
1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc ứng dụng CNTT trong dạy học nói chung và sử dụng phần mềm
Powerpoint trong thiết kế bài giảng điện tử nói riêng đã được nhiều nhà khoa học,
nhiều tác giả nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau, như các công trình:
- Công nghệ thông tin với việc dạy và học trong nhà trường Việt Nam, của
tác giả Lưu Lâm.
- Đổi mới phương pháp giảng dạy bằng công nghệ thông tin - xu thế của
thời đại, của tác giả Quách Tuấn Ngọc.
- Sử dụng phần mềm Microsoft Powerpoint trong dạy học lịch sử ở trường

phổ thông của tác giả Nguyễn Thị Côi, Đoàn Văn Hưng.
- Bài giảng điện tử và quy trình thiết kế bài giảng điện tử trong dạy học,
của tác giả Lê Công Triêm.
Tuy nhiên việc ứng dụng CNTT mà cụ thể là sử dụng phầm mềm
Powerpoint để xây dựng BĐGKĐT trong dạy học lịch sử đến nay vẫn chưa được
nghiên cứu. Vì vậy việc nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề xây dựng và sử dụng
BĐGKĐT trong dạy học lịch sử là một vấn đề vừa có ý nghĩa về lý luận dạy học,
vừa có ý nghĩa thực tiễn phục vụ công tác dạy và học của bộ môn ở trường phổ
thông hiện nay.
1.3. Nhiệm vụ của đề tài.
- Xây dựng và sử dụng BĐGKĐT trong dạy học lịch sử ở trường phổ
thông trước hết là nhằm thực hiện chủ trương của Bộ GD-ĐT về việc ứng dụng

4


CNTT trong dạy học nhằm đổi mới PPDH, nâng cao chất lượng dạy học, trong
đó có bộ môn lịch sử.
- Việc nghiên cứu đề tài sẽ góp phần vào việc giải quyết những khó khăn,
thiếu hụt về nguồn bản đồ phục vụ trong dạy học, bổ sung vào nguồn tư liệu
giảng dạy bộ môn lịch sử ở nhà trường phổ thông.
- Mặc khác, việc xây dựng hệ thống BĐGKĐT giúp giáo viên, học sinh rèn
luyện kỹ năng thực hành, tự xây dựng đồ dùng để phục vụ dạy học bộ môn.
- Đề tài còn là một nguồn tài liệu tham khảo để giáo viên giảng dạy lịch sử
tìm hiểu, nghiên cứu và ứng dụng trong dạy học.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Thực hiện đề tài này, tôi sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu
thuộc lĩnh vực khoa học giáo dục: nghiên cứu tài liệu Tâm lý học, giáo dục học,
Lý luận dạy học và Lý luận dạy học lịch sử, phương pháp điều tra xã hội học,
phương pháp thống kê trong toán học.

- Tiến hành sưu tầm, xử lý các tài liệu, các nguồn kiến thức lịch sử có liên
quan đến vấn đề nghiên cứu: bản đồ, tranh ảnh, các thước phim tư liệu, các tài
liệu
sách giáo khoa lịch sử,…
- Nghiên cứu thực tiễn việc ứng dụng phần mềm Powerpoint trong dạy học
ở nhà trường phổ thông.
- Tìm hiểu những tính năng tiện ích của phần mềm Powerpoint để xây
dựng BĐGKĐT và tiến hành giảng dạy trong những năm học gần đây.
1.5 Phạm vi và đối tượng nghiên cứu đề tài
- Phạm vi nghiên cứu đề tài được giới hạn trong chương trình Lịch sử Việt
Nam lớp 12- Chương trình chuẩn.
- Đối tượng nghiên cứu: giáo viên dạy Lịch sử và học sinh lớp 12 trường
THPT Hoằng Hóa 2

5


PHẦN II
NỘI DUNG
2.1. Những lý luận chung về bản đồ giáo khoa trong dạy học lịch sử ở trường
phổ thông.
2.1.1. Bản đồ giáo khoa lịch sử là gì?
Còn theo Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông: Bản đồ lịch sử là loại bản
đồ (thế giới hay Việt Nam) được vẽ với tỷ lệ nhỏ (treo tường, trong sách giáo
khoa, át lát…) phản ánh một giai đoạn, một hiện tượng, sự kiện lịch sử.
Bản đồ giáo khoa lịch sử có thể hiểu là những bản đồ được sử dụng trong
mục đích giảng dạy bộ môn lịch sử, thể hiện kiến thức lịch sử trong sách giáo
khoa, mỗi bản đồ biểu hiện một đơn vị kiến thức sự kiện lịch sử nhất định gắn
với những không gian (địa danh, tên nước, khu vực, lãnh thổ…) và thời gian khác
nhau, tương ứng với trình độ nhận thức nhất định, và không thể dùng một bản đồ

để giảng dạy cho nhiều trình độ.
2.1.2. Các loại bản đồ giáo khoa lịch sử.
Bản đồ giáo khoa lịch sử trong dạy học có rất nhiều loại khác nhau, nhưng
về cơ bản trong dạy học lịch sử ở phổ thông hiện nay có các loại bản đồ giáo
khoa chủ yếu sau:
- Loại bản đồ lịch sử theo phạm vi biểu hiện: bản đồ biểu hiện toàn thế
giới; bản đồ biểu hiện châu lục; bản đồ biểu hiện khu vực; bản đồ biểu hiện quốc
gia;….
- Loại bản đồ lịch sử theo đặc điểm sử dụng: Bản đồ giáo khoa treo tường;
bản đồ giáo khoa để bàn.
- Loại bản đồ lịch sử theo nội dung, bao gồm:
+ Loại bản đồ lịch sử chung: phản ánh lịch sử của một quốc gia hay một số
nước ở một thời điểm nhất định của quá trình phát triển lịch sử.
+ Loại bản đồ tổng hợp: phản ánh những biến cố lịch sử, thường là sự thay
đổi về lãnh thổ trong một thời kì nào đó. Nó cũng phản ánh những thời điểm,
những yếu tố nối tiếp nhau trong sự phát triển của hiện tượng lịch sử đang học.

6


+ Loại bản đồ phân tích (bản đồ chuyên đề): trình bày về một sự kiện, một
vấn đề hay một mặt của quá trình lịch sử.
2.1.3. Ý nghĩa của bản đồ giáo khoa lịch sử.
- Quá trình tiếp thu kiến thức của học sinh bao giờ cũng gắn liền với việc
hình thành những biểu tượng (hình ảnh) cụ thể trong óc học sinh. Do đó, bản đồ
lịch sử khi đem lại cho học sinh những biểu tượng về không gian, hoàn cảnh địa
lý của sự kiện lịch sử sẽ làm chỗ dựa vững chắc cho học sinh dần dần nắm được
những nét khái quát, điển hình từ đó làm cơ sở để hình thành khái niệm lịch sử..
- Bản đồ lịch sử tham gia tích cực vào việc nâng cao chất lượng dạy học
lịch sử ở trường phổ thong.

. - Bản đồ giáo khoa lịch sử thể hiện hoàn cảnh tự nhiên và xã hội xảy ra sự
kiện, giúp học sinh hình thành biểu tượng về không gian và thời gian xảy ra sự
kiện lịch sử một cách dễ dàng.
- Bản đồ lịch sử góp phần quan trọng vào việc phát triển tư duy lịch sử
(phân tích, khái quát, giải thích các hiện tượng lịch sử…)
- Bản đồ giáo khoa lịch sử có khả năng khôi phục quá khứ một cách chân
thực.
Như vậy việc sử dụng bản đồ giáo khoa trong dạy học lịch sử có ý nghĩa
lớn trong việc tái tạo lại sự kiện kiến thức lịch sử cho học sinh, đặc biệt là đối với
những kiến thức về một chiến dịch, một cuộc khởi nghĩa, …
2.2. Thực trạng của việc xây dựng và sử dụng BĐGKĐT trong dạy học lịch
sử ở trường THPT
Thực tế dạy học ở cấp phổ thông nói chung và dạy học lịch sử nói riêng
trong những năm gần đây để đổi mới PPDH theo hướng phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của người học thì có nhiều con đường, biện pháp khác nhau,
trong đó việc ứng dụng CNTT vào trong giảng dạy, cũng được xem là một hình
thức để đổi mới PPDH theo hướng hiện đại. Tuy nhiên vấn đề sử dụng CNTT vào
trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng trong các trường phổ thông
hiện nay vẫn còn nhiều mặt tồn tại. Hầu hết các giáo viên nếu có ứng dụng CNTT
trong dạy học thì cũng chỉ dừng lại ở việc soạn và dạy một vài tiết ở các bài
7


nghiên cứu kiến thức mới, còn hầu như ít quan tâm đến việc ứng dụng CNTT vào
việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh. Điều đó đã làm hạn chế
những tính năng của việc ứng dụng CNTT trong dạy học bộ môn.
Tuy nhiên việc soạn giảng bằng giáo án điện tử của giáo viên chỉ dừng lại
ở mức độ khai thác những hiệu ứng thông thường, những chức năng đơn giản của
phần mềm để truyền tải nội dung bài giảng theo một chiều: giáo viên tự thiết kế,
trình bày bài giảng trên Powerpoint theo kiểu “thầy enter, trò chép”… Còn đối

với một số tiết học có sử dụng đến bản đồ thì hầu như giáo viên chưa khai thác
được những tiện dụng của phần mềm Powerpoint để thiết kế, xây dựng
BĐGKĐT,gây mất hứng thú trong học tập của học sinh đối với bài giảng, … vì
thế cũng khó phát triển được năng lực tư duy, thực hành của người học.
Như vậy, trên thực tế việc ứng dụng CNTT trong dạy học nói chung và dạy
học lịch sử nói riêng đã được giáo viên sử dụng ở những mức độ khác nhau trong
bài học, còn vấn đề sử dụng CNTT để xây dựng các BĐGKĐT phục vụ việc dạy
học bộ môn thì ít được quan tâm, hoặc có xây dựng và sử dụng nhưng còn hạn
chế về mặt kỹ thuật và những tính năng của CNTT.
Qua tìm hiểu thì nguyên nhân của những tồn tại trên là do việc xây dựng,
thiết kế BĐGKĐT trong dạy học bộ môn liên quan đến nhiều thao tác về mặt kỹ
thuật: “xóa cũ, tạo mới”, nguồn bản đồ khó tìm, mất nhiều thời gian, giáo viên
“ngại”…
2.3. Xây dựng hệ thống bản đồ giáo khoa điện tử trong dạy học lịch sử ở
trường THPT
2.3.1. Hệ thống các bản đồ giáo khoa trong chương trình lịch sử 12
Hệ thống lược đồ trong sách giáo khoa (SGK) lịch sử 12 chương trình
chuẩn đã có nhiều cải tiến về chất lượng và số lượng so với SGK cũ. Đây là
phương tiện trực quan quy ước được sử dụng phổ biến và có ý nghĩa rất lớn trong
việc tạo biểu tượng về không gian, hoàn cảnh địa lý - nơi diễn ra sự kiện lịch sử.
Nội dung Lịch sử Việt Nam lớp 12 từ năm 1919 đến năm 2000 trong SGK
chương trình chuẩn có một số lược đồ mà giáo viên có thể xây dựng, thiết kế lại

8


trên phần mềm Powerpoint rồi đổ màu và bổ sung, tạo hiệu ứng động cho những
nội dung cần thiết khi đưa vào bài giảng (tức là xây dựng BĐGKĐT) gồm:
- “Lược đồ phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh” xác định phạm vi diễn ra cuộc
đấu tranh đỉnh cao của nhân dân ta trong phong trào cách mạng 1930-1931 ở hai

tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
- “Lược đồ Khu giải phóng Việt Bắc” xác định phạm vi và địa danh của 6
tỉnh trong khu giải phóng Việt Bắc – hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam độc
lập.
- “Lược đồ Chiến dịch Việt Bắc thu-đông năm 1947” xác định về phạm vi
lãnh thổ của khu giải phóng Việt Bắc, những địa danh TD Pháp tấn công cách
mạng và những địa danh quân ta tấn công và giành thắng lợi.
- “Lược đồ chiến dịch Biên giới thu-đông năm 1950” xác định rõ địa danh
và phạm vi của những tỉnh biên giới giáp với Trung Quốc có trong chiến dịch,
xác định vị trí của “Hành lang Đông – Tây” do Pháp-Mĩ thiết lập và địa danh
diễn ra những trận đánh lớn trong chiến dịch.
- “Lược đồ hình thái chiến trường Đông – Xuân 1953-1954” xác định rõ
vị trí, địa danh của 5 hướng tiến công của quân đội ta trong chiến cuộc Đông –
Xuân 1953-1954, xác định chiến trường Đông Dương trong cuộc kháng chiến
chống TD Pháp.
- “Lược đồ diễn biến chiến dịch Điện Biên Phủ 1954” xác định vị trí, địa
hình của Điện Biên Phủ là một lòng chảo, có sân bay Mường Thanh, cách bố trí
các phân khu và cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ, làm rõ những địa thế hiểm
yếu của Điện Biên Phủ.
- “Lược đồ phong trào “Đồng khởi” ở miền Nam” chủ yếu xác định
những địa danh diễn ra phong trào “Đồng khởi” diễn ra rộng khắp các tỉnh miền
Nam.
- “Lược đồ trận Vạn Tường-Quảng Ngãi (8-1965)” xác định vị trí của thôn
Vạn Tường-Quảng Ngãi, các điểm tấn công của địch ở Vạn Tường.
- “Lược đồ diễn biến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975” phản
ánh phạm vi và quy mô của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 với 3
9


chiến dịch lớn: Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Huế-Đà Nẵng, Chiến dịch

Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, trên cơ sở sưu tầm ở nhiều nguồn khác nhau, giáo viên có thể
khai thác và xây dựng một số BĐGKĐT khác rất cần thiết để phục vụ việc dạy
học bộ môn mà trong chương trình SGK không trình bày, như Lược đồ Hành
trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc; Lược đồ Chương trình khai thác
thuộc địa lần thứ hai của TD Pháp; Lược đồ diễn biến cách mạng Tháng Tám
1945,…
2.3.2. Yêu cầu của việc xây dựng BĐGKĐT
Việc xây dựng BĐGKĐT trong dạy học bộ môn cần phải tuân thủ những
yêu cầu cơ bản về mặt sư phạm sau:
- Phải xác định những kiến thức cơ bản của bài học cần được thể hiện trên
BĐGKĐT nhằm đảm bảo việc xây dựng và sử dụng bản đồ có tác dụng tích cực
trong việc góp phần đổi mới PPDH và nâng cao hiệu quả bài học Lịch sử.
- Các nội dung thể hiện trên bản đồ phải được chọn lọc nhằm đảm bảo tính
chính xác, tính vừa sức, phải đảm bảo tính trực quan, tính thẩm mỹ và phản ánh
được trình tự diễn biến của sự kiện lịch sử (trình tự thời gian và các diễn biến
tương ứng thường được thể hiện sẵn và đồng thời trên các loại bản đồ in hoặc vẽ
trên giấy).
- BĐGKĐT phải được thiết kế khoa học, dễ sử dụng .
Ngoài ra, cần tránh những biểu hiện lạm dụng kỹ thuật hoặc đơn giản hoá
trong khâu thiết kế BĐGKĐT khi sử dụng các ứng dụng CNTT (sao chép bản đồ
của nước ngoài ở trên Internet hay scan lại bản đồ trắng đen trong SGK để sử
dụng trực tiếp dưới dạng ảnh tĩnh mà ít chú ý chất lượng hình ảnh và không xử lý
cho phù hợp với yêu cầu cụ thể của bài học)
2.3.3. Quy trình xây dựng BĐGKĐT trong dạy học lịch sử
Để đảm bảo về mặt khoa học, có tính sư phạm và đảm bảo sự thống nhất
trong việc xây dựng BĐGKĐT thì cần tuân thủ theo quy trình thiết kế sau:
- Nắm vững mục đích, yêu cầu của tiết học về giáo dưỡng, giáo dục và
phát triển học sinh (điều này đã được xác định trong giáo án lên lớp).
10



- Dựa vào chương trình sách giáo khoa để xác định bản đồ cần trình bày
hoặc sưu tầm qua Internet, sách báo đối với những bản đồ không có trong sách
giáo khoa nhưng rất cần thiết đối với tiết học.
- Xác định những kiến thức cơ bản của diễn biến sự kiện cần thể hiện trên
bản đồ; sưu tầm, chọn lọc các nguồn tư liệu liên quan đến diễn biến của sự kiện
được trình bày trên bản đồ: văn bản, số liệu, tranh ảnh, phim tư liệu...
- Tiến hành xử lý bản đồ từ dạng tĩnh sang dạng động tương ứng với diễn
biến của những sự kiện lịch sử được trình bày trên bản đồ sang dạng kỹ thuật số
nhờ vào một số phần mềm hỗ trợ: ACD.See, Photoshop, Hero...
- Dự kiến số slide thích hợp với số lượng đối tượng được lựa chọn để trình
diễn trên bản đồ.
- Tiến hành xây dựng và xem trước (có đối chiếu với giáo án) để điều
chỉnh các slide, kiểu và thời gian trình diễn các hiệu ứng cho hợp lý hơn với kế
hoạch sư phạm của giáo án.
2.4. Biện pháp thực hiện đề tài
Xây dựng và sử dụng BĐGKĐT trong dạy học mục 3: Hoạt động của
Nguyễn Ái Quốc của mục II. Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm
1919 đến năm 1925 trong bài 12 “Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm
1919 đến 1925”, SGK lớp 12– Chương trình chuẩn.
Nội dung bài học thuộc tiết 17 theo phân phối chương trình lịch sử lớp 12 ,
khi dạy mục 3: Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, chúng tôi sử dụng BĐGKĐT để
giảng dạy
Nội dung xây dựng và cách sử dụng BĐGKĐT của mục 3: Hoạt động của
Nguyễn Ái Quốc
Trước hết, cần xác định những kiến thức nào trong bài cần được thể hiện
trên bản đồ:
+ Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1911 đến 1917.
+ Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trên đất Pháp .

+ Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tại Liên Xô.
+ Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tại Trung Quốc .
11


+ Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ 1925 đến 1928.
+ Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc giai đoạn 1928 đến 1930.
+ Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1935 đến 1941.
Từ những kiến thức trên, cần xác định những bản đồ cần được thiết kế và
các thông tin khác có thể kết hợp đưa vào để làm rõ những nội dung sự kiện mà
bản đồ thể hiện:
- Bản đồ thế giới ở dạng bản đồ câm đã được xử lý với sự hỗ trợ của phần
mềm: ACDSee, Hero, công cụ Drawing để trực tiếp vẽ lên Slide về hành trình
cứu nước của Nguyễn Ái Quốc theo kiến thức lịch sử, theo từng giai đoạn gắn
với từng điểm đến của Người.
- Một số hình ảnh, đoạn phim ngắn (khoảng 1 phút) để mở rộng kiến thức,
hỗ trợ cho bài học:
+ Hình ảnh Bến cảng Nhà Rồng; Tàu Đô đốc Latouche Tréville, ảnh
Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại Đại hội đại biểu lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp,
bìa sách Bản án chế độ thực dân Pháp, bìa sách Đường Kách mệnh, tranh vẽ Hội
nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam….
+ Một số đoạn phim ngắn (khoảng 1 phút): Bối cảnh đất nước, quê hương
và buổi đầu ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành, phim hoạt động
của Nguyễn Ái Quốc trên đất Pháp 1919, phim hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở
Trung Quốc,…
- Ý tưởng xây dựng và sử dụng các Slide có thể hiện BĐGKĐT trong bài
học:
+ Slide 1, phản ánh giai đoạn đầu tiên
Nguyễn Ái Quốc rời bến Cảng Nhà Rồng ra
đi tìm đường cứunước. Giáo viên nhấp

chuột vào biểu tượng hoa văn chữ
Sài Gòn để chiếu đoạn phim nói về quê
hương, gia đình và hành trình trong buổi
đầu ra đi tìm đường cứu nước của Người

Slide 1

12


(phim được tạo bởi liên kết Trigger). Đồng thời giáo viên có thể mở rộng kiến
thức bài học cho học sinh bằng cách click chuột vào ô Sài Gòn để giới thiệu cho
học sinh hình ảnh con Tàu Đô đốc Latouche Tréville mà Người đã đi (hình ảnh
được tạo bởi liên kết Trigger). Trên bản đồ thế giới bỏ trống, giáo viên sử dụng
công cụ Drawing để vẽ đường mũi tên thể hiện hướng đi của Người từ Sài Gòn
sang phương Tây, kết hợp với tạo hiệu ứng động (chế độ Wipe), và chế độ Zoom
để thể hiện những điểm đến của Người.
+ Từ slide 1 giáo viên copy để tạo slide 2, và cũng tương tự như thao tác ở
slide 1, giáo viên sử dụng công cụ Drawing để vẽ lên lược đồ những hướng đi
tiếp theo của Người nối tiếp ở slide 1, kết hợp tạo hiệu ứng động ở chế độ Wipe
và chế độ Zoom để thể hiện điểm đến của Người. Để mở rộng thêm kiến thức, hỗ
trợ cho bài giảng, giáo viên nhấp chuột vào biểu tượng hình tròn, màu đỏ ở điểm
Pari để chiếu cho học sinh xem ảnh Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại Đại hội
đại biểu lần thứ 18 của Đảng Xã hội
Pháp, và bìa sách Bản án chế độ thực
dân Pháp kết hợp với việc giới thiệu
những nội dung chính của tác phẩm
Bản án chế độ thực dân Pháp (Hình
ảnh được tạo bằng liên kết Trigger).
Nếu thời gian cho phép, giáo viên

Slide 2

kích chuột một lần nữa vào biểu

tượng hình tròn màu đỏ điểm Pari để trình chiếu cho học sinh xem đoạn phim
ngắn nói về những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tại đất Pháp 1919 (phim được
chèn và tạo liên kết bằng công cụ Trigger). Những hình ảnh này tác động mạnh
mẽ đến nhận thức và cảm xúc học sinh. Sau khi trình bày xong nội dung slide 2,
giáo viên nêu vấn đề: “Công lao to lớn đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc đối với lịch
sử dân tộc là gì?”
+ Ở slide 3, giáo viên cũng thực hiện việc copy slide 2 rồi sử dụng công cụ
Drawing để vẽ mũi tên thể hiện hướng đi của Nguyễn Ái Quốc từ đất Pháp sang

13


Liên Xô, kết hợp với biểu tượng hình tròn, màu đỏ thể hiện điểm đến của Người
(GV cũng sử dụng chế độ Wipe và Zoom để tạo hiệu ứng đường đi và địa điểm
đến của Người). Từ biểu tượng hình tròn,
màu đỏ ở Matxcơva, GV nhấp chuột để
chiếu hình ảnh Nguyễn Ái Quốc phát biểu
tại Đại hội quốc tế nông dân. GV giảng về
nội dung của bài phát biểu của Nguyễn Ái
Quốc tại Đại hội về vị trí, vai trò của
giai cấp nông dân trong cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc ở thuộc địa.

Slide 3

+ Slide 4 thể hiện những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trên đất Trung

Quốc năm 1924, GV copy slide 3, sau đó tạo các biểu tượng hình tròn, màu đỏ
gắn với thời gian,
những điểm đến của Nguyễn Ái Quốc tại
Trung Quốc (sử dụng hiệu ứng ở chế độ
Zoom). Để mở rộng kiến thức bài học, GV
nhấp chuột vào biểu tượng hình tròn, màu
đỏ ở Quảng Châu để giới thiệu cho học
sinh về tác phẩm Đường Kách mệnh. Nếu
có thời gian GV tiếp tục nhấp chuột lần
Slide 4

nữa vào biểu tượng hình tròn, màu đỏ với

chữ Quảng Châu để chiếu cho học sinh xem thước phim về hoạt động của
Nguyễn Ái Quốc trên đất Trung Quốc năm 1925. GV nêu câu hỏi: “Hoạt động
của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1921 đến 1925 đã chuẩn bị những nhân tố gì cho sự
ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam?”
+ Tương tự, GV tạo slide 5 bằng cách copy slide 4, rồi tạo biểu tượng
hình tròn, màu đỏ và ghi thời gian, cho hiệu ứng động với chế độ Zoom thể hiện
những điểm đến của Nguyễn Ái Quốc giai đoạn 1924 đến 1928 (hoạt động ở Liên
Xô, Italia, TháiLan) và sự kiện năm 1930, GV tạo biểu tượng tròn, màu đỏ, kết
hợp với cờ Đảng, địa điểm Cửu Long cho hiệu ứng Zoom lặp lại nhiều lần để
14


Slide 5

thể hiện một nội dung quan trọng của bài học. GV nhấp chuột vào biểu tượng
Cửu Long để chiếu cho học sinh xem ảnh vẽ Hội nghị thành lập Đảng cộng sản
Việt Nam, giúp học sinh mở rộng kiến thức.

+ Slide 6 trình bày những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1935 đến
khi về nước 1941, tương tự, GV copy slide 5, rồi sử dụng công cụ Drawing vẽ
tiếp hướng đi của Người từ Liên Xô qua các nước và trở về Việt Nam vào
năm 1941. GV sử dụng hiệu ứng Wipe để thể
hiện hướng đi và chế độ Zoom để xác định
những địa danh mà Nguyễn Ái Quốc đã đến.
Nếu còn thời gian, GV nhấp chuột vào biểu
tượng hình tròn màu đỏ với địa điểm Quế Lâm 1938 để chiếu đoạn phim
nói về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tại Quế
Lâm – Trung Quốc năm 1938. Nhấp chuột vào

Slide 6

biểu tượng hoa văn với địa điểm Cao Bằng cho học sinh xem ảnh Lán Khuổi
Nậm ở Cao Bằng, nơi ở và làm việc của Người sau khi về Tổ Quốc. Qua đó mở
rộng thêm những kiến thức ngoài sách giáo khoa cho học sinh.
2.5. Kết quả đạt được
2.5.1. Đối với giáo viên
Sau khi thực hiện việc giảng dạy một số tiết học có sử dụng BĐGKĐT và
có sự tham gia dự giờ của những giáo viên trong tổ, tôi đã tiến hành khảo sát về
hiệu quả của tiết học có sử dụng BĐGKĐT so với bài học sử dụng bản đồ giáo

15


khoa truyền thống thông qua việc trao đổi, thăm dò ý kiến giữa các giáo viên
trong tổ bộ môn Lịch sử của nhà trường (04 GV).
Đến nay, toàn bộ giáo viên đang tham gia giảng dạy bộ môn lịch sử đều đã
ứng dụng CNTT vào bài giảng, trong số đó có 3/4 số giáo viên dạy lịch sử của
nhà trường bước đầu đã sử dụng BĐGKĐT trong dạy học. Đặc biệt đối với một

số GV Lịch sử sau khi đã được sử dụng BĐGKĐT trong dạy học thì cho rằng các
ứng dụng của BĐGKĐT có thể thay thế cho việc sử dụng các loại bản đồ treo
tường truyền thống trong dạy học và có hiệu quả lớn trong việc phát huy tính tích
cực của người học qua sự tương thích của yếu tố CNTT trong dạy học. Tất cả đều
có đánh giá cao việc sử dụng BĐGKĐT trong dạy học lịch sử về tính khả thi,
phát huy tính chủ động, tích cực của người học, góp phần trong việc đổi mới
PPDH, nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, đồng thời việc xây dựng và sử dụng
BĐGKĐT trong dạy học còn góp phần khắc phục sự thiếu hụt về đồ dùng dạy
học bộ môn.
2.5.2. Đối với học sinh
Qua khảo sát cho thấy việc thực hiện BĐGKĐT có tác dụng cao trong việc
gây hứng thú học tập lịch sử cho HS, góp phần lớn nâng cao hiểu biết của người
học về sự kiện lịch sử thông qua việc được tiếp cận các nguồn thông tin đa dạng,
phong phú do BĐGKĐT đem lại. Mặt khác, đối với một số kiến thức về địa danh,
các sự kiện thì với bài học có sử dụng BĐGKĐT giúp HS ghi nhớ sự kiện, nắm
tiến trình lịch sử vững chắc và hiểu lịch sử một cách sâu sắc hơn, tránh sự “nhầm
lẫn” về kiến thức nhất là các địa danh, sự kiện của một trận đánh, một cuộc khởi
nghĩa.
Ngoài ra BĐGKĐT còn có tác dụng tốt trong việc tạo điều kiện cho người học
phát huy tính tích cực, chủ động tham gia xây dựng bài, hoạt động nhóm, qua đó
phát triển các năng lực tư duy, thực hành và hình thành thái độ, tư tưởng, tình
cảm đúng đắn đối với Lịch sử.
Nhìn chung, đa số HS đều tỏ ra rất hứng thú và có nguyện vọng được học
thường xuyên hơn với những tiết học có sử dụng BĐGKĐT để các em có cơ hội
tiếp cập nhiều nguồn thông tin phong phú, sinh động ngoài SGK và các tài liệu
16


viết khác, đồng thời có điều kiện thuận lợi để trao đổi, thảo luận, giải quyết các
dạng bài tập nhận thức và còn có thể được trực tiếp trình bày những bài tập nhỏ

mà HS (hoặc nhóm) đã chuẩn bị trước trên máy tính.
Mặt khác, để đánh giá về hiệu quả giờ học có sử dụng BĐGKĐT, sau khi học
xong nội dung bài học, tôi đã tiến hành cho học sinh các lớp làm bài kiểm tra.
Với những câu hỏi mở rộng kiến thức và liên quan đến kỹ năng thực hành thì đa
số học sinh các lớp làm bài tốt hơn trước.
Như vậy, xét cả về mặt định tính và định lượng, việc sử dụng BĐGKĐT trong
dạy học lịch sử nhằm đổi mới PPDH, nâng cao chất lượng bộ môn là khả thi và
hiệu quả.

17


PHẦN III
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Từ thực tiễn của quá trình thực hiện đề tài về việc xây dựng và sử dụng
BĐGKĐT trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, chúng tôi rút ra một số kết
luận chủ yếu sau đây:
Các phương tiện trực quan là một trong những “cầu nối” có giá trị giữa
hiện thực quá khứ khách quan với nhận thức lịch sử của HS; vì vậy, nó có ý nghĩa
lớn trong việc góp phần nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử, nhất là đối với việc
xây dựng và sử dụng BĐGĐT trong dạy học bộ môn.
Với những đặc điểm riêng biệt của BĐGKĐT như tính số hóa, chương
trình hóa, tính đa phương tiện, đa truyền thông và tính tương tác đã tạo sự khác
biệt lớn giữa bài học có sử dụng BĐGKĐT với bài học chỉ sử dụng bản đồ giáo
khoa treo tường thông thường, tạo nên sự chuyển biến mới trong PPDH của giáo
viên trong việc ứng dụng CNTT trong dạy học, đồng thời với bài học có sử dụng
BĐGKĐT giúp học sinh rèn luyện kỹ năng thực hành, mở rộng thông tin, kiến
thức, qua đó phát huy tích cực trong học tập của học sinh, nâng cao chất lượng
hiệu quả giờ học.

Xây dựng và sử dụng BĐGKĐT trong dạy học bộ môn Lịch sử ở nhà
trường phổ thông có tính khả thi cao, có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao
chất lượng dạy học bộ môn theo hướng hiện đại, đồng thời góp phần đẩy mạnh
cuộc vận động ứng dụng CNTT trong dạy học của Bộ GD-ĐT.
Việc xây dựng và sử dụng BĐGKĐT trong dạy học lịch sử sẽ mang lại
nhiều tác dụng đáng kể trong việc:
- Phát huy năng lực ứng dụng CNTT của GV và HS trong việc khắc phục
những khó khăn về thiết bị dạy học và đáp ứng kịp thời, hiệu quả những yêu cầu
dạy học của bộ môn.
- Giúp HS tiếp cận lịch sử một cách cụ thể, trực quan, sinh động từ nhiều
thông tin đa dạng. Điều này giúp HS hiểu biết lịch sử đầy đủ, sâu sắc hơn và tạo
được hứng thú học tập bộ môn.
18


- Giúp GV chủ động trong quá trình tổ chức các hoạt động nhận thức tích
cực của HS trên lớp, thiết thực góp phần đổi mới phương pháp dạy học và nâng
cao chất lượng của bài học lịch sử.
2.2. Kiến nghị
Từ thực tiễn giảng dạy và thăm dò ý kiến của các đồng nghiệp,tôi mạnh
dạn đưa ra một số kiến nghị như sau:
- Các cấp lãnh đạo cần quan tâm đầu tư nhiều hơn về xây dựng cơ sở vật
chất (các phòng học đa chức năng), trang bị các thiết bị phương tiện dạy học hiện
đại: như máy tính, máy chiếu Projector, hoặc màn hình tivi màn hình rộng có bộ
kết nối... để khuyến khích giáo viên trong việc ứng dụng CNTT trong dạy học
nhằm đổi mới PPDH.
- Cần có những lớp tập huấn về kỹ năng soạn và dạy bằng giáo án điện tử
với sự hỗ trợ của các phần mềm trong đó có phần mềm Powerpoint.
- Đối với giáo viên: không ngừng học tập, tự học, tự bồi dưỡng trình độ tin
học để hiểu biết về CNTT, biết khai thác các thông tin trên mạng Internet để phục

vụ dạy học, có kĩ năng sử dụng thành tạo các trang thiết bị dạy học hiện đại.
- Cần nhân rộng, thực hiện thí điểm một số tiết dạy lịch sử có sử dụng
BĐGKĐT nhiều hơn nữa, để GV trong trường hoặc những trường lân cận có thể
học tập, trao đổi kinh nghiệm.
Với những kết quả bước đầu của đề tài, tôi mong được sự quan tâm, chia
sẻ của quý đồng nghiệp, đặc biệt là đối với giáo viên giảng dạy bộ môn lịch sử có
thể ứng dụng đề tài này vào trong giảng dạy bộ môn để tạo sự chuyển biến mới
trong việc ứng dụng CNTT trong dạy học, góp phần đổi mới PPDH, nâng cao
chất lượng dạy học bộ môn ở nhà trường phổ thông
Tôi xin chân thành cảm ơn !

19


XẤC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hoá, ngày 20 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến
kinh nghiệm của mình viết, không sao
chép nội dung của người khác.

Lê Thị Nam

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Sách giáo khoa, Lịch sử 12 (2008), NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội
[2] Sách giáo viên, Lịch sử 12 (2008), NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội
20



[3 Nguyễn Ngọc Bảo (1995), Phát huy tính tích cực, tính tự lực của học sinh
trong quá trình dạy học, Vụ Giáo Viên, Hà Nội
[4] Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi (2002), Phương pháp
dạy học lịch sử, Tập II, NXBĐHSP, Hà Nội
[5] Đoàn Văn Hưng (2002), Ứng dụng phần mềm Microsoft Powerpoint nhằm
góp phần nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường THPT, Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp trường, ĐHQN
[6] Quách Tuấn Ngọc (1999), Đổi mới phương pháp giảng dạy bằng công nghệ
thông tin - xu thế của thời đại, Tạp chí ĐH & GDCN, Tháng 8
[7] Dương Tiến Sỹ, Lê Thanh Oai, Nguyễn Văn Thắng (2002), Sử dụng phần
mềm Powerpoint thiết kế các trình phim dạy học sinh học, TCGD, số 23 - 2
[8] Nguyễn Đình Tê (2000), Đồ họa và Multimendia trong văn phòng với
Microsoft Powerpoint 2000, NXBGD, Hà Nội

21



×