Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Lồng ghép hình ảnh bom, đạn, nạn nhân của bom, đạn trong dạy học tiết 23 bom, đạn và cách phòng tránh nhằm giáo dục kỹ năng phòng tránh bom, đạn và kỹ năng hòa nhập cộng đồng của học sinh vớ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.59 MB, 21 trang )

1. MỞ ĐẦU
- Lí do chọn đề tài:
Theo báo cáo tại buổi Họp báo về “Khắc phục hậu quả bom, đạn sau
chiến tranh”, ngày 31.03.2016 của Bộ Lao động Thương binh - Xã hội, Ở Việt
Nam, số bom, đạn còn sót lại sau chiến tranh khoảng 800.000 tấn, trên 20% diện
tích đất đai toàn quốc bị ô nhiễm bởi bom, đạn; hơn 100.000 người chết và bị
thương sau chiến tranh… số bom, đạn chưa nổ còn nằm rải rác hầu hết ở các
tỉnh, thành phố trong cả nước, nhưng tập trung nhiều nhất ở các tỉnh Miền Trung
như Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị……
Ở Thanh Hóa, đặc biệt ở huyện Triệu Sơn, khu vực sinh sống đa số học
sinh Trường THPT Triệu Sơn 3, trong quá trình lao động, sản xuất, sinh hoạt tại
các địa phương đã có rất nhiều loại bom, đạn được nhân dân phát hiện và được
các cơ quan chức năng, chính quyền ở địa phương xử lí an toàn như:
Ngày 20.3.2013, tại xã Dân Lực, trong lúc khai thác đất, một nhóm thợ
làm gạch đã phát hiện hai quả bom, mỗi quả nặng chừng 200 kg, dài hơn 2 m,
đường kính 35-40 cm, do Mỹ sản xuất. Chúng nằm cách nhau khoảng 100 m ở
độ sâu 5-7 m so với mặt đất
Ngày 18.5.2015, gia đình anh Lê Thế Khoa, trú tại thôn Diễn Hòa, xã Hợp
Thành tiến hành múc đất san nền trong vườn nhà đã phát hiện một vật lạ, nghi là
một quả bom. Sự việc sau đó đã được gia đình anh báo cáo lên chính quyền xã
và cơ quan chức năng của huyện Triệu Sơn, lực lượng chức năng của Bộ Chỉ
huy quân sự tỉnh xác định, đây là một quả bom thuộc loại xuyên phá, còn sót lại
từ thời chiến tranh với trọng lượng hơn 200 kg và chiều dài hơn 2m.
Ngày 21.11.2015, tại Đội 5, xã Hợp Tiến, trong quá trình đào đất phục vụ
thi công đường cao tốc sân bay Sao Vàng (huyện Thọ Xuân) đi Khu kinh tế
Nghi Sơn (huyện Tĩnh Gia), phát hiện nằm quả bom nằm cách mặt đất khoảng
3m, dài khoảng 1,5m và nặng khoảng 200kg.
Ô nhiễm bom, mìn, tai nạn Bom, đạn gây tổn thất nặng nề tính mạng, tài
sản, đời sống của nhân dân và ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế của đất
nước. Phần lớn nạn nhân đều bị mang thương tật suốt đời, cuộc sống, sinh hoạt
găp rất nhiều khó khăn, thương vong bởi bom, đạn mang lại nhiều nỗi đau


không thể bù đắp và gánh nặng khó giải quyết cho các gia đình nạn nhân đặc
biệt là những nạn nhân chất độc màu da cam đioxin.
Trong thời gian gần đây, trên địa bàn cả nước đã có rất nhiều vụ nổ do
bom, đạn
Ngày 19.03.2016, vụ nổ bom xảy ra ở Khu đô thị Văn Phú (Hà Đông - Hà
Nội), hậu quả của vụ nổ là hết sức kinh hoàng, vụ nỗ đã tạo ra một hố sâu có
diện tích 4m2, sâu khoảng 1m, làm 4 người chết tại chỗ, 8 người đưa đi cấp cứu,
nhiều người bị thuơg, 94 căn nhà bị hư hỏng và gần như cả một dãy phố Văn
Phú phải chịu cảnh tan hoang, đổ nát.
Vụ nổ ngày 15.05.2016 tại xã Đức Bình Tây, Huyện Sông Hinh, Tỉnh Phú
Yên, hậu quả vụ nổ làm 2 người thiệt mạng tại chỗ là Ksor Y Ven (24 tuổi), Ksor

1


Y Thắng (22 tuổi) trong tình trạng thi thể không nguyên vẹn và Kpá Y Long (16
tuổi) bị đa chấn thương và chết trên đường đưa đi cấp cứu.
Vụ nổ ngày 1.6.2016 xuất phát tại nhà anh Nguyễn Văn Bé (sinh năm
1982, Thôn Quý Hải, xã Long Hải, Huyện Phú Quý, Tỉnh Bình Thuận) do nhà bị
chập điện gây cháy, ngọn lửa cháy tác động đến số thước nổ TNT đã gắn kíp nổ
mà anh Bé đã tàng trữ trái phép sau nhà, vụ nổ làm anh Bé bị thương nặng,
nhiều người bị thương nhẹ, sập hoàn toàn nhà của ông Bé và làm ảnh hưởng đến
51 căn nhà khác, ước tính thiệt hại ban đầu sau vụ nổ lên đến 1 tỉ đồng.
=> Các vụ nổ này là một lời cảnh tỉnh, để tất cả chúng ta phải giật mình
nhìn lại thực trạng bom mìn còn sót lại sau chiến tranh.
Với những lí do trên, tôi đã chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm mang tên :
"Lồng ghép hình ảnh bom, đạn, nạn nhân của bom, đạn trong dạy học tiết 23
- Bom, đạn và cách phòng tránh nhằm giáo dục kỹ năng phòng tránh bom,
đạn và kỹ năng hòa nhập cộng đồng của học sinh với các nạn nhân của bom,
đạn qua môn GDQP-AN 10" làm sáng kiến kinh nghiệm trong năm học 20152016.

- Mục đích nghiên cứu:
Tôi nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích:
Đổi mới phương pháp giảng dạy, tạo hứng thứ học tập, tìm kiếm, lĩnh hội
kiến thức mới cho học sinh.
Định hướng, giáo dục kỹ năng phòng tránh bom, đạn, giáo dục kỹ năng hòa
nhập cộng đồng cho học sinh cho học sinh lớp 10 nói riêng và học sinh THPT
nói chung.
Trên cơ sở kiến thức được học giúp học sinh tuyên truyền cho gia đình,
người thân, bạn bè…về Bom, đạn và cách phòng tránh bom, đạn, kỹ năng hòa
nhập cộng đồng của các em học sinh với các nạn nhân của bom, đạn, nạn nhân
chất độc da cam đioxin.
- Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài được viết trên đối tượng nghiên cứu là các hình ảnh bom đạn, hình
ảnh nạn nhân của bom, đạn được lồng ghép vào tiết học 23 - Bom đạn và cách
phòng tránh, môn GDQP-AN 10 thông qua đó nhằm giáo dục kỹ năng phòng
tránh bom, đạn, kỹ năng hòa nhập cộng đồng và giúp cho học sinh có cái nhìn
mới về nạn nhân của bom, đạn đặc biệt những nạn nhân của chất độc da cam
đioxin trên nhóm học sinh khối 10, trong năm học 2015-2016 của Trường THPT
Triệu Sơn 3 gồm:
Lớp đối chứng: 10C1 (44 học sinh), 10C3 (46 học sinh).
Lớp thực nghiệm: 10C2 (47 học sinh), 10C4 ( 43 học sinh).
Các lớp được chọn tham gia nghiên cứu có nhiều điểm tương đồng nhau về
tỉ lệ giới tính, ý thức học tập, năng lực học tập, thái độ học tập với môn học.
- Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình viết SKKN tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
+ Nghiên cứu tài liệu:
Sách giáo khoa GDQP_AN 10.
2



Sách giáo viên GDQP_AN 10.
+ Tổng hợp từ các tài liệu:
Tạp chí, Internet, các báo cáo khoa học, các công trình nghiên cứu khoa
học, nguồn từ Bộ, Sở có liên quan, …
Kỹ năng sống cho tuổi vị thành niên – tác giả Nguyễn Thị Oanh – Nhà xuất
bản Trẻ.
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT – tác giả Nguyễn Thanh Bình –
Tạp chí Khoa học giáo dục.
+ Tổng hợp đánh giá:
- Trên cơ sở phân tích, đánh giá các thông tin và tiến hành giảng dạy qua
tiết học.
- Thu thập thông tin, phân tích kết quả phản hồi từ các đối tượng thông qua
linh hội kiến thức của tiết học.

3


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh có thể quan niệm là việc tổ chức các
hoạt động giáo dục đa dạng, phong phú nhằm kích thích học sinh tham gia một
cách tích cực chủ động vào các quá trình hoạt động, qua đó hình thành hoặc thay
đổi hành vi của trẻ theo hướng tích cực nhằm góp phần phát triển nhân cách toàn
diện; giúp học sinh có thể sông an toàn, khỏe mạnh và tích cực , chủ động trong
cuộc sống hằng ngày. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là giáo dục cho các
em có cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là xây dựng hoặc thay đổi ở các
em các hành vi theo hướng tích cực phù hợp với mục tiêu phát triển toàn diện
nhân cách người học trên cơ sở giúp học sinh có tri thức, giá trị, thái độ và kỹ
năng phù hợp.
Kỹ năng sống là gì?

Có nhiều định nghĩa và quan niệm khác nhau về kỹ năng sống. Mỗi định
nghĩa được thể hiện dưới những cách thức tiếp cận khác nhau. Thông thường, kỹ
năng sống được hiểu là những kỹ năng thực hành mà con người cần để có được
sự an toàn, cuộc sống khỏe mạnh với chất lượng cao.
- Theo tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO), kỹ
năng sống là năng lực cá nhân để họ thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia
vào cuộc sống hàng ngày, những kỹ năng đó gắn vói 4 trụ cột của giáo dục:
Học để biết: gồm các kỹ năng tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết
định vấn đề, nhận thức được hậu quả của việc làm…;
Học để làm: gồm kỹ năng thực hiện công việc và nhiệm vụ như kỹ năng
đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm..;
Học để làm người: gồm các kỹ năng cá nhân như ứng phó với căng thẳng,
kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin…;
Học để chung sống: gồm các kỹ năng như giao tiếp, thương lượng, khẳng
định hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông;
- Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO), kỹ năng sống là kỹ năng thiết thực mà
con người cần để có cuộc sống an toàn và khỏe mạnh, đó là những kỹ năng tâm
lý xã hội và giao tiếp mà mỗi cá nhân có thể có để tương tác với những người
khác một cách hiệu quả hoặc ứng phó với những vấn đề hay thách thức của cuộc
sống hằng ngày.
Tương đồng với quan niệm của WHO, còn có quan niệm kỹ năng sống là
những kỹ năng tâm lý xã hội liên quan đến những tri thức, những giá trị và
những thái độ, cuối cùng được thể hiện ra bằng những hành vi làm cho các cá
nhân có thể thích nghi và giải quyết có hiệu quả các yêu cầu và thách thức của
cuộc sống.
- Theo UNICEF, Kỹ năng sống là tập hợp rất nhiều kỹ năng tâm lý xã hội và
giao tiếp cá nhân giúp cho con người đưa ra những quyết định có cơ sở, giao
tiếp một cách có hiệu quả, phát triển các kỹ năng tự xử lý và quản lý bản thân
nhằm giúp họ có một cuộc sống lành mạnh và có hiệu quả. Kỹ năng sống được
thể hiện ở những hành động cá nhân và những hành động đó sẽ tác động đến

4


những hành động của những người khác cũng như dẫn đến những hành động
nhằm thay đổi môi trường xung quanh, giúp nó trở nên lành mạnh.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Thông báo 242-TB/TW ngày 15/4/2009 của Bộ Chính trị (khóa X) về tiếp
tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và phương hướng phát triển
giáo dục và đào tạo đến năm 2020, đã nêu một trong những hạn chế của giáo
dục phổ thông như sau: “Giáo dục phổ thông mới chỉ quan tâm nhiều đến “dạy
chữ”, chưa quan tâm đúng mức đến “dạy người”, kỹ năng sống và “dạy nghề”
cho thanh thiếu niên”. Thời gian qua, dù giáo dục kỹnăng sống có được quan
tâm nhưng hiệu quả vẫn còn nhiều hạn chế thể hiện qua thực trạng về kỹ năng
sống của học sinh còn nhiều khiếm khuyết.
Thực tế cho thấy, tình trạng học sinh thiếu kỹ năng sống vẫn xảy ra, biểu
hiện qua hành vi ứng xử không phù hợp trong xã hội, sự ứng phó hạn chế với
các tình huống trong cuộc sống như: ứng xử thiếu văn hóa trong giao tiếp nơi
công cộng; thiếu lễ độ với thầy cô giáo, cha mẹ và người lớn tuổi; chưa có ý
thức bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh công cộng, gây phiền hà cho người khác
khi sử dụng điện thoại di động, đặc biệt học sinh còn có cái nhìn chưa thiện cảm
về các nạn nhân của bom, đạn, nạn nhân của chất độc màu da cam đioxin.
Giáo dục kỹ năng phòng tránh bom, đạn, giáo dục hòa nhập cộng đồng là
nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục kỹ năng sống cho thể hệ trẻ, những chủ
nhân tương lai của đất nước. Tuy nhiên, hơn 90% học sinh của Trường THPT
Triệu Sơn 3, xuất phát từ nông thôn, nên việc trang bị về công nghệ thông tin,
truyền thông của khu vực này còn hạn chế. Sự hiểu biết về Bom, đạn và vật liệu
nổ của học sinh trong trường còn hạn chế, chỉ có trong sách vở, đa số các em
biết về máy tính, về internet… nhưng chỉ phục vụ cho nhu cầu cá nhân của bản
thân, hầu như các em không quan tâm đến và các em thực sự chưa có cái nhìn
tốt đối với nạn nhân bom, đạn.

Hiện nay các chương trình ngoài giờ lên lớp của trường được tổ chức có
kế hoạch công phu, chất lượng xong các chương trình này chưa nhiều và hầu
như chưa có nội dung về giáo dục kỹ năng sống, đặc biệt là kỹ năng phòng,
tránh bom, đạn, kỹ năng hòa nhập cộng đồng của học sinh với nạn nhân của
bom, đạn, nạn nhân chất độc màu da cam đioxin, do vậy việc hiểu biết của em
qua hoạt động này còn hạn chế.
Hiểu được vấn đề trên cương vị là giáo viên phụ trách môn Giáo dục quốc
phòng – An ninh, trong năm học 2015-2016, trước tiết học 23, tôi dành thời gian
15 phút cho học sinh điều tra hiểu biết của các em về kỹ năng phòng tránh bom,
đạn và kỹ năng hòa nhập của học sinh với nạn nhân của bom, đạn (mức độ quan
tâm của các em đến nạn nhân của bom đạn) lấy cơ sở từ sự hiểu biết của học
sinh thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp, thông qua báo chí, truyền hình,
internet…, qua đó để đó làm cơ sở để đua ra được các giải pháp cụ thể nhằm
giáo dục kỹ năng phòng tránh bom, đạn, kỹ năng hòa nhập cộng đồng của học
sinh với nạn nhân của bom, đạn.

5


Nội dung của phiếu điều tra được trình bày ở Phụ lục 1 (Lưu ý: Phiếu điều
tra không ghi tên học sinh để đảm bảo tính khách quan).
Kết quả điều tra như sau:
2.2.1. Về kỹ năng phòng tránh bom, đạn của học sinh.
- Lớp thực nghiệm: 10C2 (47 học sinh), 10C4 ( 43 học sinh).
STT

Lớp

1
10C2

2
10C4
Tổng

Sĩ số

47
43
90

Biết và hiểu kĩ năng
thực hiện
SL
%

9
12
21

19.2
27.9
23.3

Mức độ hiểu biết
Biết nhưng chưa hiếu kĩ
năng thực hiện
SL
%

23

15
38

48.9
34.9
42.2

Không biết
SL

%

15
16
31

31.9
37.2
34.5

- Lớp đối chứng: 10C1 (44 học sinh), 10C3 (46 học sinh).
STT

Lớp

Sĩ số

Biết và hiểu kĩ năng
thực hiện
SL

%

Mức độ hiểu biết
Biết nhưng chưa hiếu kĩ
năng thực hiện
SL
%

Không biết
SL

%

1
10C1 44
13
29.5
14
31.8
17
38.7
2
10C3 46
9
19.6
23
50
14
30.4
Tổng

90
22
24.4
37
41.1
31
34.5
Quan sát vào kết quả điều tra được thống kê của 4 lớp gồm 180 học sinh
cả 2 nhóm thực nghiệm và đối chứng chúng ta thấy:
- Có 43/180 học sinh, biết và hiểu về kĩ năng phòng tránh bom, đạn chiếm
24.4%.
- Có 62/180 học sinh không biết về kĩ năng phòng tránh bom, đạn chiếm 34.4%.
2.2.2. Về kỹ năng hòa nhập (mức độ quan tâm) của học sinh với nạn nhân
của bom, đạn.
- Lớp thực nghiệm: 10C2 (47 học sinh), 10C4 ( 43 học sinh).
Mức độ quan tâm
STT
Lớp
Sĩ số
Quan tâm
Chưa quan tâm
SL
%
SL
%
1
10C2
47
17
36.1

30
63.9
2
10C4
43
10
23.3
33
76.7
Tổng
90
27
30
63
70
- Lớp đối chứng: 10C1 (44 học sinh), 10C3 (46 học sinh).
Mức độ quan tâm
STT
Lớp
Sĩ số
Quan tâm
Chưa quan tâm
SL
%
SL
%
1
10C1
44
10

22.7
34
77.3
2
10C3
46
12
26.1
34
73.9
Tổng
90
22
24.5
68
75.5

6


Quan sát vào kết quả điều tra được thống kê của 4 lớp gồm 180 học sinh
cả 2 nhóm thực nghiệm và đối chứng chúng ta thấy:
Mức độ quan tâm của học sinh đến nạn nhân của bom, đạn còn hạn chế có
tổng số 49/180 học sinh đạt 27.2%.
2.3. Giải pháp thực hiện để giải quyết vấn đề:
2.3.1. Xác định vai trò của sử dụng hình ảnh bom, đạn và hình ảnh
nạn nhân của bom đạn trong tiết học: .
Để xác định được vai trò của sử dụng hình ảnh bom, đạn và hình ảnh nạn
nhân của bom đạn trong tiết học, tôi căn cứ vào chuẩn kĩ năng, kiến thức nội
dung chính của tiết học để lựa chọn được các hình ảnh phù hợp nhằm tạo cho

học sinh ấn tượng sâu sắc về tiết học, giúp tạo nên hứng thú trong học tập cho
học sinh.
Khi lựa chọn các hình ảnh tôi chọn các hình ảnh “hot”, thời sự nhất có thể
học sinh mới được nghe trên tivi, tạo cho học sinh sự hứng thú khi xem lại và
phân tích về đoạn phim, hỉnh ảnh đó sẽ làm cho tiết học của tôi sôi động, kiến
thức nắm được của họ sinh sẽ cô đọng, nhớ lâu…
Các hình ảnh mới nhất, phù hợp với đối tượng tôi đang hướng tới đó là
học sinh.
Áp dụng các phương pháp dạy học đặc trưng để khai thác hình ảnh.
Ví dụ:
- Ở phần mở đầu, giới thiệu bài học, giáo viên sử dụng các hình ảnh phù
hợp với nội dung của tiết học, để dẫn học sinh vào bào học mới thay thế cho các
phương pháp truyền thống như thuyết trình, giảng giải, vấn đáp…nhằm tạo cho
học sinh hứng thú và tâm lí thoải mái muốn khám phá bài học của học sinh.
2.3.2. Các bước sử dụng hình ảnh.
Để tạo được hứng thú, kết quả học tập tốt cho học sinh, có kỹ năng phòng
tránh bom, đạn, kỹ năng hòa nhập với nạn nhân của bom, đạn, ngoài việc tìm tòi
các hình ảnh, lên kế hoạch bài dạy…thì tôi cần phải sử dụng hình ảnh hợp lí để
có hiệu quả tối ưu nhất, và tôi đã thực hiện như sau:
2.3.2.1. Sử dụng hình ảnh để giới thiệu nội dung tiết học:
Để học sinh hiểu nội dung tiết học, tôi sử sụng hình ảnh sau:

Bom sử dụng trong chiến tranh

Bom sử dụng trong chiến tranh

7


Bom còn xót lại sau chiến tranh


Bom còn xót lại sau chiến tranh

Khu đô thị Văn Phú

Nạn nhân chất độc da cam

Hỏi: Những hình ảnh trên đề cấp đến vấn đề gì?
(học sinh quan sát hình ảnh, nêu vấn đề).
Giáo viên: Đây là những hình ảnh về bom, đạn và hậu quả của bom đạn sau
chiến tranh ở Việt Nam.
Qua những hình ảnh trên chúng ta thấy, trong các cuộc chiến tranh xâm
lược và chống phá cách mạng Việt Nam, kẻ địch đã dùng nhiều loại bom đạn
khác nhau để đánh phá, hủy diệt sự sống của ta, gây cho nhân dân ta những thiệt
hại vô cùng to lớn về người và của, hơn thế nữa là hủy diệt môi trường sống, để
lại di chứng của chiến tranh cho đến ngày hôm nay. Vậy để hiểu rõ hơn về vấn
đề này, chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu nội dung của bài học hôm nay. Tiết 23: Bom,
đạn và cách phòng tránh.
2.3.2.2. Sử dụng hình ảnh để giới thiệu nội dung từng phần kiến thức của tiết
học:
Nội dung 1: Đặc điểm, tác hại của một số loại bom, đạn.
Giáo viên chiếu các hình ảnh về Bom, đạn cho học sinh quan sát.

8


Tên lửa hành trình TOMAHAWK

BOM ĐIỀU KHIỂN GBU


BOM ĐIỀU KHIÊN CBU-55

GBU-29/30/31/32/15JDAM

BOM HÓA HỌC

BOM TỪ TRƯỜNG
9


Hỏi: Quan sát các hình ảnh trên, em hãy kể tên các loại bom, đạn? đặc điểm của
nó?
Học sinh: Quan sát hình ảnh, trình bày nội dung - học sinh còn lại nghe,
nhận xét và bổ sung.
Giáo viên: Nhận xét, bổ sung và kết luận:
- Các loại bom, đạn: Tên lửa hành trình Tomahawk, Bom có điều khiển (gồm:
CBU-24, CBU-55, GBU-17, GBU-29/30/31/32/15JDAM, bom hóa học, bom
mềm, bom điện từ, bom từ trường)
- Đặc điểm: Độ chính xác cao (có điều khiển từ xa), được điều khiển bằng nhiều
phương pháp, có chương trình định sẵn đến mục tiêu.
Tiếp theo: Để học sinh hiểu rõ tác hại của các loại bom, đạn này, giáo viên
tiếp tực trình chiếu cho học sinh quan sát một số hình ảnh.

BOM NỔ

BOM TỪ TRƯỜNG

CBU-55- Phát quang cây cối

Nạn nhân của Bom hóa học đioxin


10


KHU ĐÔ THỊ VĂN PHÚ- SAU VỤ NỔ BOM

NẠN NHÂN NỔ BOM Ở VĂN PHÚ

Hỏi: Quan sát hình ảnh, trình bày tác hại, liên hệ thực tế?
Học sinh: Quan sát hình ảnh, trình bày nội dung chính - học sinh còn lại
nghe, nhận xét và bổ sung.
Giáo viên: Nhận xét, bổ sung và kết luận:
- Tác hại: Sức công phá của bom lớn, độ chính xác cao, thiệt hại về người
và tài sản, ảnh hưởng đến môi trường sống(bom hóa học), để lại di chứng cho
các thế hệ( chất độc da cam đioxin)…
- Liên hệ: Vụ nổ bom ở Khu đô thị Văn Phú – Hà Đông – Hà Nội.
Nội dung 2: Các biện pháp phòng tránh thông thường.
Sau khi giáo viên nêu và phân tích các biện pháp phòng tránh bom, đạn
thông thường, giáo viên chiếu một số hình ảnh (BÀI BÁO) nhằm làm rõ các
biện pháp phòng tránh bom mìn hiện nay:

11


12


13



Hỏi: Em hãy nêu các biện pháp phòng tránh bom, đạn hiện nay?
(Học sinh đọc, hiểu ->> đưa ra các biện pháp phòng tránh bom, đạn hiện
nay – số học sinh còn lại quan sát, nhận xét, bổ sung).
Giao viên: Nghe, nhận xét và kết luận:
- Đây là 2 khu vực tìm thấy bom mà các em, bạn của các em và gia đình
chúng ta đang sinh sống, sản xuất.
- Các biện pháp cần hiện nay khi chúng ta tìm thấy bom, đạn là:
+ Thông báo cho cơ quan chính quyền địa phương được biết.
+ Đánh dấu khu vực có bom ( cờ, cành cây, gạch đá…).
+ Cắm biển báo KHU VỰC CẤM (CÓ BOM) – KHÔNG PHẬN SỰ
MIỄN VÀO.
+ Giao nhiệm vụ cho lực lượng chuyên trách canh giữ và hướng dẫn nhân
dân không di vào khu vực nguy hiểm,…
2.3.3 Lồng ghép các câu chuyện “có thật” về cuộc sống của các “nạn
nhân” của bom, đạn để củng cố bài học:
Giáo viên chiếu cho học sinh xem một số hình ảnh:
Nhóm hình ảnh 1: Nạn nhân của bom hóa học da cam – đioxin:

Nạn nhân chất độc Da cam đioxin

14


Nhóm hình ảnh 2: Nạn nhân do bom, đạn nổ hiện nay

Vụ tai nổ bom ở Khu đô thị Văn Phú,
khiến 1 người đang lưu thông trên đường
tử vong tại chỗ.

Anh Nguyễn Văn Kim (42 tuổi), Thanh

Sơn, bị mất cả hai cánh tay vì kíp nổ cách
đây 5 năm khi đang phát rẫy trồng ngô.

Hỏi: Em có suy nghĩ gì khi quan sát 2 nhóm hình ảnh trên?
(Học sinh quan sát hình ảnh của cả 2 nhóm – nhận xét; học sinh còn lại nghe,
nhận xét và bổ sung).
Giáo viên: Hiện nay, trên đất nước ta tuy không còn chiến tranh nữa,
nhưng bom, đạn vẫn còn sót lại trong lòng đất ở khắp mọi nơi, và nỗi đau thời
hậu chiến vẫn hàng ngày, hàng giờ diễn ra trên đất nước chúng ta.
Vì vậy:
Khi phát hiện bất cứ loại bom, đạn và vật liệu nổ, học sinh cần:
- Giữ nguyên hiện trường.
- Đánh dấu hiện trường bằng các phương tiện đơn giản như cành lá cây,
làm biển báo hoặc cho người đứng cảnh giới...
- Báo cáo ngay với người có trách nhiệm gần nhất để xử lí: Công an xã,
phường.
- Tuyệt đối không làm thay đổi vị trí, cũng như tự động xử lí.
- Tuyền truyền, hướng dẫn cho nhân dân không đi vào khu vực nguy
hiểm.
Khi tiếp xúc với nạn nhân của bom, đạn chúng ta cần:
- Nhanh chóng cấp cứu nạn nhân bằng mọi biện pháp có thể.
- Quan tâm, giúp đỡ nạn nhân bằng các hành động cụ thể: quyên góp, ủng
hộ nạn nhân chất độc da cam,…
- Tham gia các hoạt động tuyên truyền, thiện nguyện…. ở địa phương .

15


2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:

2.4.1. Phương pháp kiểm nghiệm:
Để có cơ sở đánh giá hiệu quả của đề tài, tôi đã sử dụng phiếu điều tra về kỹ
năng phòng tránh bom, đạn của học sinh và sau khi thực hiện xong tiết 23.
2.4.2. Kết quả kiểm nghiệm:
2.4.2.1. Đối với lớp thực nghiệm: 10C2 (47 học sinh), 10C4 ( 43 học sinh).
- Về kỹ năng phòng, tránh bom, đạn của học sinh.
Bảng 1: Bảng thống kê về kỹ năng phòng tránh bom, đạn của học sinh thông
qua khảo sát trước khi học tiết 23.( khi chưa sử dụng các hình ảnh về bom, đạn
và nạn nhân của bom đạn) kết quả như sau:
STT

1
2
Tổng

Lớp

10C2
10C4

Sĩ số

47
43
90

Biết và hiểu kĩ năng
thực hiện
SL
%

9
19.2
12
27.9
21
23.3

Mức độ hiểu biết
Biết nhưng chưa hiếu kĩ
năng thực hiện
SL
%
23
48.9
15
34.9
38
42.2

Không biết
SL
15
16
31

%
31.9
37.2
34.5


Bảng 2: Bảng thống kê về kỹ năng phòng tránh bom, đạn của học sinh thông
qua khảo sát sau khi học tiết 23.( khi sử dụng các hình ảnh về bom, đạn và nạn
nhân của bom đạn) kết quả như sau:
STT

1
2
Tổng

Lớp

10C2
10C4

Sĩ số

47
43
90

Biết và hiểu kĩ năng
thực hiện
SL
%
37
78.7
34
79.1
71
78.9


Mức độ hiểu biết
Biết nhưng chưa hiếu kĩ
năng thực hiện
SL
%
10
21.3
9
20.9
19
21.1

Không biết
SL
0
0
0

%
0
0
0

- Về kỹ năng hòa nhập (mức độ quan tâm) của học sinh với nạn nhân của
bom, đạn.
Bảng 3: Bảng thống kề về kỹ năng hòa nhập (mức độ quan tâm) của học sinh
với nạn nhân của bom, đạn ( khi chưa sử dụng các hình ảnh về bom, đạn và nạn
nhân của bom đạn) đạt kết quả như sau:
Mức độ quan tâm

STT
Lớp
Sĩ số
Quan tâm
Chưa quan tâm
SL
%
SL
%
1
10C2
47
17
36.1
30
63.9
2
10C4
43
10
23.3
33
76.7
Tổng
90
27
30
63
70


16


Bảng 4: Bảng thống kề về kỹ năng hòa nhập (mức độ quan tâm) của học sinh
với nạn nhân của bom, đạn sau khi học tiết 23 ( khi sử dụng các hình ảnh về
bom, đạn và nạn nhân của bom đạn) đạt kết quả như sau:
Mức độ quan tâm
STT
Lớp
Sĩ số
Quan tâm
Chưa quan tâm
SL
%
SL
%
1
10C2
47
39
82.9
8
17.1
2
10C4
43
37
86.1
6
13.9

Tổng
90
76
84.4
14
15.6
2.4.2.2. Đối với lớp đối chứng: 10C1 (44 học sinh), 10C3 (46 học sinh).
- Về kỹ năng phòng, tránh bom, đạn của học sinh.
Bảng 5: Bảng thống kê về kỹ năng phòng tránh bom, đạn của học sinh thông
qua khảo sát trước khi học tiết 23.( khi chưa sử dụng các hình ảnh về bom, đạn
và nạn nhân của bom đạn) kết quả như sau:
STT

1
2
Tổng

Lớp

10C1
10C3

Sĩ số

44
46
90

Biết và hiểu kĩ năng
thực hiện

SL
%
13
29.5
9
19.6
22
24.4

Mức độ hiểu biết
Biết nhưng chưa hiếu kĩ
năng thực hiện
SL
%
14
31.8
23
50
37
41.1

Không biết
SL
17
14
31

%
38.7
30.4

34.5

Bảng 6: Bảng thống kê về kỹ năng phòng tránh bom, đạn của học sinh thông
qua khảo sát trước sau khi học tiết 23.( khi sử dụng các biện pháp dạy học thông
thường, không có nhiều liên hệ với thực tiễn) kết quả như sau:
STT

1
2
Tổng

Lớp

10C1
10C3

Sĩ số

44
46
90

Biết và hiểu kĩ năng
thực hiện
SL
%
20
45.5
19
41.3

39
43.3

Mức độ hiểu biết
Biết nhưng chưa hiếu kĩ
năng thực hiện
SL
%
14
31.8
16
34.8
30
33.3

Không biết
SL
10
11
21

%
22.7
23.9
23.4

- Về kỹ năng hòa nhập (mức độ quan tâm) của học sinh với nạn nhân của
bom, đạn.
Bảng 7: Bảng thống kề về kỹ năng hòa nhập (mức độ quan tâm) của học sinh
với nạn nhân của bom, đạn ( khi chưa sử dụng các hình ảnh về bom, đạn và nạn

nhân của bom đạn) đạt kết quả như sau:
Mức độ quan tâm
STT
Lớp
Sĩ số
Quan tâm
Chưa quan tâm
SL
%
SL
%
1
10C1
44
10
22.7
34
77.3
2
10C3
46
12
26.1
34
73.9
Tổng
90
22
24.5
68

75.5
17


Bảng 8: Bảng thống kề về kỹ năng hòa nhập (mức độ quan tâm) của học sinh
với nạn nhân của bom, sau khi học tiết 23 .( khi sử dụng các biện pháp dạy học
thông thường, không có nhiều liên hệ với thực tiễn) đạt kết quả như sau:
Mức độ quan tâm
STT
Lớp
Sĩ số
Quan tâm
Chưa quan tâm
SL
%
SL
%
1
10C1
44
23
52.3
21
47.7
2
10C3
46
19
41.4
27

58.6
Tổng
90
42
46.7
48
53.3
2.4.2.3: Kết quả:
So sánh các bảng thống kê, cho thấy:
- Ở bảng 1 và bảng 2: Số lượng học sinh hiểu biết về kỹ năng phòng tránh
bom, đạn tăng lên đáng kể từ 23.3% lên 78.9%, không còn học sinh không biết
và không hiểu về bom, đạn, mức độ nguy hiểm của bom, đạn.
- Ở bảng 3 và bảng 4: Số lượng học sinh hiểu được kỹ năng hòa nhập
cộng đồng (mức độ quan tâm) đến nạn nhân bom, đạn tăng từ 30% lên 84.4%,
số học sinh chưa quan tâm giảm từ 70% còn 15.6%.
- Ở bảng 5 và bảng 6: Số lượng học sinh hiểu biết về kỹ năng phòng tránh
bom, đạn tăng lên 24.4% lên 43.3%, số học sinh không biết và không hiểu về
bom, đạn, mức độ nguy hiểm của bom, đạn còn rất cao 23.4%.
- Ở Bảng 7 và Bảng 8: Số lượng học sinh hiểu được kỹ năng hòa nhập
cộng đồng (mức độ quan tâm) đến nạn nhân bom, đạn tăng từ 24.5% lên 46.7%,
số học sinh chưa quan tâm con rất cao 53.3%.
Vậy, sau khi thực hiện dạy học tiết 23 khi sử dụng các hình ảnh về bom,
đạn và nạn nhân của bom đạn thì kết quả nhận thức của học sinh có những
chuyển biến rõ rệt. cụ thể:
Về kỹ năng phòng, tránh bom, đạn:
Lớp thực nghiệm: Đạt 78.9% (Bảng 2) cao hơn Lớp đối chứng: Đạt
43.3% (Bảng 6) là 35.6%
Về kỹ năng hòa nhập (mức độ quan tâm) của học sinh với nạn nhân của
bom, đạn.
Lớp thực nghiệm: Đạt 76% (Bảng 4) cao hơn Lớp đối chứng: Đạt 46.7%

(Bảng 8) là 29.3%
Như vậy có thể khẳng định rằng việc sử dụng các hình ảnh về bom, đạn
và nạn nhân của bom đạn là một biệp pháp hiệu quả cho học sinh cái nhìn mới,
hiểu biết mới về bom, đạn và nạn nhân của bom đạn.

18


3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
- Kết luận:
Bản thân tôi nhận thấy, Với những hình ảnh về Bom, đạn và nạn nhân của
bom, đạn đã được sử dụng trong tiết 23 – Bom, đạn và cách phòng tránh, môn
GDQP_AN, của mình tại Trường THPT Triệu Sơn 3, đã thực sự mang lại hiệu
quat đáng khích lệ: Đa số học sinh lĩnh hội được kiến thức bài học, các em đã
biết chủ động, vận dụng những kiến thức đã học được vào thực tế cuốc sống và
đã loại bỏ được những cái nhìn không thiện cảm đối với các nạn nhân của bom,
đan; có ý thức tuyên truyền nhân nhân ở địa phương hiểu biết về bom, đạn, nan
nhân của bom đạn…bằng các hành động hữu ích như: tích cực tuyên truyền tích
cực các chương trình thiện nguyện, hướng đến cộng đồng xã hội và tham gia
chương trình nhắn tin từ thiện “Chung tay xoa dịu nỗi đau da cam” cú pháp
“DACAM” gửi 1409….
- Kiến nghị:
Đối với giáo viên:
Giáo viên phải thường xuyên trau dồi kiến thức, phương pháp dạy học để
giảng dạy cho học sinh.
Đối với các cấp lãnh đạo:
Tạo điều kiện tối ưu nhất trong công tác giảng dạy của giáo viên. Tăng
cường các hoạt động tuyên truyền, tổ chức các hoạt động tập thể như triển lãm
tranh lưu động về bom, đạn, nân nhân của bom đạn, tổ chức các cuộc thi tìm
hiểu, thi viết, sáng tác tranh, ảnh tuyên truyền…về bom, đạn, nạn nhân bom,

đan, tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp có hiệu quả, chất lượng. Đầu tư
trang thiết bị dạy học như máy chiếu đa năng, tivi, băng đĩa, Tạo điều kiện hơn
nữa về cơ sở vật chất cho trường học…
Với kết quả của đề tài này, tôi rất mong sự góp ý của các đồng nghiệp, để
tôi và các bạn có thể áp dụng, nhân rộng phương pháp này.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 8 tháng 6 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết:

Khương Thị Yến

TÀI LIỆU THAM KHẢO
19


1. Sách giáo khoa GDQP_AN 10 – Nhà xuất bản Giáo dục
2. Sách giáo viên GDQP_AN 10 – Nhà xuất bản Giáo dục
3. Kỹ năng sống cho tuổi vị thành niên – tác giả Nguyễn Thị Oanh – Nhà xuất
bản Trẻ.
4. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT – tác giả Nguyễn Thanh Bình –
Tạp chí Khoa học giáo dục.

PHỤ LỤC
20



Phụ lục 1:
Phiếu điều tra về kĩ năng phòng tránh bom, đạn và kĩ năng hòa nhập cộng
đồng của học sinh với nạn nhân của bom, đạn.
1. Đánh dấu X vào mức độ hiểu, biết về kĩ năng phòng tránh bom, đạn.
Biết và hiểu kĩ năng thực
hiện

Biết nhưng không hiếu kĩ
năng thực hiện

Không biết

2. Chọn mức độ quan tâm của các em đối với nạn nhân của bom, đạn.
Quan tâm
Chưa quan tâm

21



×